Chúa nhật XXVI thường niên năm A: Đường lối của Thiên Chúa và của con người

CN 26 TNA linhmucthanhtam

Ba tật xấu phá hủy cộng đòan cần tránh: ghen tị, tìm hư danh, và tìm lợi ích riêng. Muốn xây dựng cộng đòan, mọi người cần có 3 đức tính: liên kết với Đức Kitô, bác ái huynh đệ, và hiệp nhất trong cùng một Thánh Thần. Gương khiêm nhường và vâng lời của Chúa Kitô là mẫu gương cho chúng ta noi theo.

CN 26 TNA linhmucthanhtam

Bài đọcEze 18:25-28; Phil 2:1-11; Mt 21:28-32.

1/ Bài đọc I: Các ngươi lại nói: “Đường lối của Chúa Thượng không ngay thẳng.” Vậy hỡi nhà Ít-ra-en, hãy nghe đây: Phải chăng đường lối của Ta không ngay thẳng hay đường lối của các ngươi mới không ngay thẳng? Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính của mình và làm điều bất chính mà chết, thì chính vì điều bất chính nó đã làm mà nó phải chết. Còn nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó sẽ cứu được mạng sống mình. Nó đã thấy và từ bỏ mọi tội phản nghịch nó phạm, thì chắc chắn nó sẽ sống, nó không phải chết.

2/ Bài đọc II: Nếu quả thật sự liên kết với Đức Ki-tô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, nếu tình bác ái khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần Khí, nếu chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau, thì xin anh em hãy làm cho niềm vui của tôi được trọn vẹn, là hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau. Đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác. Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Ki-tô Giê-su.

Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.

Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giê-su Ki-tô là Chúa.”

3/ Phúc Âm: Các ông nghĩ sao: Một người kia có hai con trai. Ông ta đến nói với người thứ nhất: “Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho.” Nó đáp: “Con không đi đâu!” Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi. Ông đến gặp người thứ hai, và cũng bảo như vậy. Nó đáp: “Thưa ngài, con đi!” nhưng rồi lại không đi. Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?” Họ trả lời: “Người thứ nhất.” Đức Giê-su nói với họ: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông. Vì ông Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy.”


GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đường lối của Thiên Chúa và của con người

 – Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hai điều:

(1) Nhìn vào bản thân để xét mình: Một trong những tật xấu nhất của con người mà Bài đọc I và Phúc Âm lên án hôm nay là thái độ kiêu ngạo, tự cho mình là công chính. Tật xấu này làm cho con người xúc phạm đến Thiên Chúa và khinh thường tha nhân: Xúc phạm đến Thiên Chúa vì chê đường lối của Thiên Chúa không công chính ngay thẳng vì Ngài đối xử với người công chính ngang hàng như những người tội lỗi. Khinh thường tha nhân là những người tội lỗi và không muốn cho họ có cơ hội ăn năn trở lại.

(2) Nhìn vào Thiên Chúa: Tiêu chuẩn và đường lối của Thiên Chúa không phải là tiêu chuẩn và đường lối của con người. Ngài không chỉ xét xử theo công bằng, nhưng còn theo lòng thương xót. Ngài không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn họ ăn năn xám hối và được sống.

– Đường lối nào ích lợi cho con người hơn? Các Bài đọc hôm nay cho chúng ta những cái nhìn chính xác về 2 đường lối này.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Chúa mở lối cho tất cả mọi người

Những người tự cho mình là công chính khó chịu khi thấy Chúa tỏ lòng thương xót cho những người tội lỗi, họ than phiền: “Đường lối của Chúa Thượng không ngay thẳng.” Hay khi thấy Thiên Chúa đối xử tốt với Dân Ngọai, họ ghen tị và phân bì: Tại sao Thiên Chúa lại đối xử với người công chính ngang hàng với những tội nhân?

Thiên Chúa trả lời họ: “Phải chăng đường lối của Ta không ngay thẳng hay đường lối của các ngươi mới không ngay thẳng?” Chương 18 của Tiên tri Êzêkiel liệt kê tất cả 4 trường hợp có thể xảy ra:

(1) Những người công chính luôn luôn thực hành điều chính trực sẽ sống. Có thể nói không ai trong con người thuộc lọai người đầu tiên này, trừ Đức Mẹ.

(2) Những người công chính từ bỏ lẽ công chính để làm điều bất chính sẽ chết.

(3) Những kẻ gian ác từ bỏ điều dữ chúng đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh sẽ sống. Đa số con người ở trong trường hơp này.

(4) Những kẻ gian ác không chịu từ bỏ mọi tội phản nghịch chúng đã phạm sẽ chết.

Điều mà Bài đọc muốn nhấn mạnh đến hôm nay là trường hợp thứ (3). Đây là một trong những chủ đề chính của tiên tri Êzêkiel: “Thiên Chúa không muốn những kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn chúng ăn năn xám hối và được sống.” Nêu lên điều này tiên tri muốn chứng minh: đường lối của Thiên Chúa rất khác với đường lối con người. Theo luật công bằng của con người, hễ đã có tội là phải đền trả: mắt đền mắt, răng đền răng, và mạng đền mạng. Án tử hình cho tội giết người trong quốc gia chúng ta đang sống là một ví dụ điển hình.

2/ Bài đọc II: Duy trì sự hiệp nhất trong tinh thần khiêm nhường.

2.1/ Thánh Phaolô liệt kê 3 nhân đức cần thiết để xây dựng cộng đòan và 3 tật xấu cần tránh vì chúng phá hủy cộng đòan.

– Ba đức tính cần có để xây dựng cộng đòan theo đường lối của Thiên Chúa:

(1) Liên kết với Đức Kitô: Qua BT Rửa Tội, chúng ta đều là những chi thể của một thân thể, và mọi người đều có bổn phận giữ cho chi thể của Chúa Kitô tòan vẹn.

(2) Bác ái huynh đệ: Một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ. Một người anh em bị hư mất thân thể của Chúa Kitô bớt tòan vẹn.

(3) Và hiệp thông trong một Thánh Thần: Các ơn thánh lãnh nhận nơi cùng một Thánh Thần là để xây dựng cộng đòan và bảo trì sự hiệp nhất trong cộng đòan.

Và thánh Phaolô khuyên chúng ta: “Hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau.”

– Ba tật xấu cần tránh vì chúng phá hủy cộng đòan theo đường lối con người:

(1) Ghen tị: Khó chịu khi thấy người khác hơn mình và tìm mọi dịp để hạ bệ người khác.

(2) Tìm hư danh: Làm đủ mọi cách để được tiếng khen, ngay cả việc tự mình khen mình, và khó chịu khi người khác được khen.

(3) Và tìm lợi ích riêng: Luôn lo thu tích cho mình những lợi nhuận và không bao giờ chịu để ý đến nhu cầu của người khác.

Và Thánh Phaolô khuyên các tín hữu Philipphê: “Hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác. Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Ki-tô Giê-su.”

2.2/ Để chống lại thái độ kiêu ngạo của những người tự cho mình là công chính, thánh Phaolô nêu bật cho chúng ta gương khiêm nhường và vâng lời của Đức Kitô: Sự hủy mình ra không (Kenosis) qua sự khiêm nhường và vâng lời tuyệt đối của Con Thiên Chúa: Chỉ trong 6 câu ngắn ngủi, Thánh Phaolô đã lột tả được trọn vẹn kế họach cứu độ của Thiên Chúa qua con đường đau khổ: Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa, nhưng Ngài không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, và sống như người trần thế. Thánh Gioan Kim Khẩu cho đây mới là sự khiêm nhường đích thực vì tuy Ngài ở địa vị cao trọng của Thiên Chúa nhưng đã chấp nhận một địa vị thấp hèn của con người. Hơn thế nữa, Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, và chết trên cây thập tự.

2.3/ Vinh quang tột đỉnh nhờ khiêm nhường và vâng lời tuyệt đối: Vinh quang chiếm được nhờ sự hủy mình ra không: Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Danh được Thiên Chúa ban cho Chúa Kitô là Đức Giêsu, có nghĩa là Đấng Cứu Độ. Khi nào nghe Danh Thánh Giê-su, cả trên trời, dưới đất, và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giê-su Ki-tô là Chúa.”

3/ Phúc Âm: Nghe và làm theo ý Chúa

3.1/ Giống như tư tưởng của Bài đọc I, các Kinh-sư và Biệt-phái là hai hạng người tự cho mình là công chính nên luôn tìm cách phê bình Chúa Giêsu khi Ngài ngồi đồng bàn với những người thu thuế và tỏ lòng thương cảm cho những cô gái điếm. Để các Kinh-sư và Biệt-phái nhận ra con người thật của họ, Chúa đưa ra câu truyện: Một người kia có hai con trai. Ông ta đến nói với người thứ nhất: “Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho.” Nó đáp: “Con không đi đâu!” Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi. Ông đến gặp người thứ hai, và cũng bảo như vậy. Nó đáp: “Thưa ngài, con đi!” nhưng rồi lại không đi. Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?” Họ trả lời: “Người thứ nhất.”

Giống như trong Bài đọc I, chúng ta có thể liệt kê 4 trường hợp có thể xảy ra mặc dù Phúc Âm chỉ liệt kê 2 trường hợp:

(1) Nghe và làm theo lời cha;

(2) Không nghe nhưng sau hối hận làm theo lời cha;

(3) Nghe nhưng không làm theo lời cha;

(4) Không nghe và cũng không làm theo lời cha.

Điều đáng mong ước hơn cả là trường hợp thứ (1); thứ đến là trường hợp thứ (2) mà cả Bài đọc I và Phúc Âm chú ý tới; mặc dù không tòan hảo nhưng vẫn hơn xa hai trường hợp sau. Trường hợp thứ (3) dành cho những người con chỉ yêu cha bằng chóp lưỡi đầu môi nhưng không thể hiện bằng hành động; hứa hẹn rất nhiều nhưng làm chẳng bao nhiêu. Trường hợp cuối cùng dành cho những đứa con hoang đàng.

Đối chiếu với 4 trường hợp có thể xảy ra trên đây, chúng ta thấy ngay dụng ý của Chúa: Những người thu thuế và những cô gái điếm thuộc trường hợp thứ (2) vì tuy họ không nghe theo ý Chúa từ ban đầu, nhưng sau hối hận và làm theo ý Chúa; trong khi các Kinh-sư và Biệt-phái thuộc trường hợp thứ (3), vì tuy họ nghe theo ý Chúa từ đầu, nhưng không chịu làm theo ý Chúa. Không những thế, họ còn chê trách và ngăn cản những người muốn trở về cùng Chúa. Họ quên đi rằng con người có khả năng để thay đổi: từ xấu nên tốt và ngược lại.

Vì thế, Đức Giêsu nói với họ: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông. Vì ông Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy.”

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Chúa mở lối cho tất cả: người công chính cũng như tội nhân. Ngài không muốn tội nhân phải chết, nhưng muốn họ ăn năn xám hối và được sống. Nếu Chúa xét xử như đường lối của những người tự cho mình là công chính thì chẳng ai có thể được cứu, vì mọi người đều là tội nhân trước mặt Chúa. Bắt Chúa phải xét xử công chính là tự khai án tử cho mình. Muốn được cứu độ, con người chỉ còn cách trông nhờ vào lòng thương xót của Thiên Chúa.

– Ba tật xấu phá hủy cộng đòan cần tránh: ghen tị, tìm hư danh, và tìm lợi ích riêng. Muốn xây dựng cộng đòan, mọi người cần có 3 đức tính: liên kết với Đức Kitô, bác ái huynh đệ, và hiệp nhất trong cùng một Thánh Thần. Gương khiêm nhường và vâng lời của Chúa Kitô là mẫu gương cho chúng ta noi theo.

– Vì các Kinh-sư và Biệt-phái chỉ lo vun xới cho danh vọng và những đặc quyền của họ; nên không bao giờ họ hiểu được nỗi đau khổ của Thiên Chúa khi nhìn thấy dù chỉ một người con của mình bị hư mất.

– Điều lý tưởng nhất là lời nói phải đi đôi với hành động. Nước Trời chỉ dành cho những ai nghe và làm theo ý Chúa.

Suy niệm

1. Hối hận nên lại đi

(Trích trong ‘Manna’ – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)

Suy Niệm

“Người thu thuế và gái điếm vào Nước Trời trước các ông.”

Lời nói của Đức Giêsu như một trái bom

nổ trước mặt các thượng tế, kinh sư, pharisêu,

những người đáng kính vì đạo đức và học thức,

những người đáng trọng vì chức vụ.

Làm sao những người hư hỏng và tội lỗi

lại có thể qua mặt các bậc đáng kính như vậy?

Đức Giêsu đã soi sáng trước bằng một dụ ngôn.

Người cha sai hai đứa con đi làm vườn nho.

Đứa con thứ nhận lời, nhưng sau lại không đi làm.

Đứa con cả từ chối, sau hối hận nên lại đi.

Con thứ tượng trưng cho các nhà lãnh đạo Do Thái Giáo.

Họ tuyên bố mình sống nghiêm chỉnh theo Lề Luật.

Tiếc thay chính sự đạo đức của họ

lại làm cho họ tự mãn và khép kín

đến nỗi không thể tin vào Đức Giêsu

và đón lấy Ngài như quà tặng bất ngờ của Thiên Chúa.

Đứa con cả tượng trưng cho những người tội lỗi,

những người bị đặt bên lề xã hội và tôn giáo.

Đời sống của họ là một sự nhơ nhuốc đáng buồn.

Nhưng chính tội lỗi đã làm cho họ khiêm tốn

và dễ dàng hoán cải trước lời mời của Gioan.

Rốt cuộc, họ lại là những người tin vào Đức Giêsu

và gặp được ơn cứu độ trước nhiều người khác.

Đi làm hay không đi làm vườn nho

đồng nghĩa với tin hay không tin vào Đức Giêsu.

Niềm tin có khả năng biến đổi cuộc sống.

Niềm tin thực sự luôn chuyển thành hành động.

“Chúng tôi phải làm gì, dân chúng hỏi Đức Giêsu,

để được gọi là làm việc của Thiên Chúa?”

“Làm việc của Thiên Chúa là tin vào Đấng Ngài sai đến”

Đó là câu trả lời của Đức Giêsu (Ga 6,28-29).

Tin là một việc làm, một dấn thân nghiêm túc.

Niềm tin vào Đức Giêsu đòi hỏi một sự hoán cải và từ bỏ.

Giới lãnh đạo Do Thái Giáo sợ tin vào Đức Giêsu.

Họ sợ mất chỗ đứng và quyền lợi,

sợ phải thay đổi quan niệm của họ về Thiên Chúa.

Kitô giáo là tôn giáo của lòng tin.

Lòng tin bên trong phải được biểu lộ ra bên ngoài:

“Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17).

Lòng tin không phải chỉ là một tuyên xưng ngoài miệng

nhưng là một tuyên xưng bằng cuộc sống:

“Không phải mọi kẻ nói với Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa,

là sẽ được vào Nước Trời,

nhưng là kẻ làm ý Cha Thầy” (Mt 7,21).

Tôi phải tránh lối giữ đạo hình thức: có tiếng là Kitô hữu,

nhưng lại không thuộc về Đức Kitô,

bởi có một khoảng cách rất xa

giữa điều tôi tuyên xưng và điều tôi sống.

Gợi Ý Chia Sẻ

Đọc Lời Chúa, chia sẻ Lời Chúa là điều tốt, nhưng chưa đủ nếu không sống Lời Chúa. Bạn lượng giá thế nào về việc sống Lời Chúa của bạn trong đời thường đầy bon chen?

Bạn nghĩ gì về việc anh Giuse Nguyễn Đức Minh xin hiến thân xác anh cho y học? Bạn có coi đó là một hành vi đức tin cụ thể không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

Sám hối không phải là điều dễ dàng,

bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn để nhận mình lầm lỗi.

Chúng con ngỡ ngàng khi thấy Chúa là Đấng vô tội

mà lại đứng chung với các tội nhân, chờ Gioan ban phép rửa.

Chúa đã muốn nên bạn đồng hành

với phận người mỏng dòn yếu đuối chúng con.

Xin cho chúng con

biết thường xuyên điều chỉnh lối nghĩ và lối sống của mình,

tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng,

thành thật để khỏi tự dối mình.

Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải,

dám đi đến những hành động cụ thể,

và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau.

Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con niềm vui của Giakêu,

hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến.

Nguồn: https://loi-nhap-the.com/ch-nht-26-thng-niena/

2b. HÃY BẮT TAY VÀO VIỆC

(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. DẪN NHẬP

Trong cuộc sống hằng ngày, người ta thường nói nhiều mà làm ít, giữa lý thuyết và thực hành còn một khoảng cách lớn, vì thế mới có câu nói: “Năng thuyết bất năng hành”, đúng là làm láo, báo cáo hay. Lý thuyết có hay mấy mà không được thực hiện thì cũng không có giá trị.

Trong đời sống đạo cũng thế, chúng ta cần biết Chúa, cần thông hiểu giáo lý vì “vô tri bất mộ” mà. Như thế cũng chưa đủ, còn phải đem cái biết ra thực hành trong đời sống hằng ngày nữa. Chúa Giêsu đã nói: “Ai yêu mến Thầy thì hãy giữ lời Thầy” mà “giữ lời Thầy”, thì có nghĩa là hãy thực hành những điều Thầy dạy, là làm theo ý Thầy. Bài dụ ngôn về “Hai người con” trong Tin mừng hôm nay đã chứng tỏ điều đó.

Người ta thường nói: “Trăm voi không được bát nước xáo” (tục ngữ). Câu này mang tính chất mỉa mai, ngụ ý chê những người ba hoa khoác lác, hứa hẹn suông, nói thì to tát, mà rốt cuộc chẳng có gì, họ là người biết nói mà không biết làm. Có những người xưng mình là Kitô hữu, nhưng họ chỉ có cái tên, cái mã bề ngoài, còn cuộc sống của họ chẳng có gì cả, có khi còn ngược lại. Hãy sống trung thực với lòng mình. Hãy sống cho xứng đáng là một Kitô hữu chính danh, để cuộc sống của mình lúc nào cũng phải “ngôn hành đồng nhất”.

  1. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

+ Bài đọc 1: Ez. 18,25-28

Cái nhìn của con người chỉ có một chiều: hoặc tốt hoặc xấu. Đã tốt thì cứ tốt, đã xấu thì cho xấu luôn. Do đó, con người có hai mặc cảm: Tự tôn và tự ti.

– Tự tôn hay tự mãn: có những người cho là mình “công chính” rồi, nên tự mãn không chịu cố gắng sống tốt hơn.

– Tự ti: có những người cảm thấy mình tội lỗi nên thất vọng, cứ ở lỳ trong tội lỗi, không muốn cố gắng nữa.

Cái nhìn của Thiên Chúa có hai chiều hoán đổi: người tốt có thể trở nên xấu và người xấu có thể trở nên tốt. Tiên tri Ezéchiel cảnh cáo những người tự mãn, họ sẽ bị chết nếu bỏ đường công chính và phạm tội ác. Trái lại, những người đang ở trong tình trạng tội lỗi mà biết bỏ đường gian ác, quay về đường lành thì sẽ được cứu sống.

Như vậy, Thiên Chúa mở rộng cho con người con đường tương lai, để người tội lỗi bỏ con đường xấu mà trở nên tốt lành và người công chính sẽ trở nên tốt lành hơn.

+ Bài đọc 2: Pl 2,1-11

Thánh Phaolô vạch ra cho các tín hữu Philipphê một phương hướng để duy trì tình đoàn kết huynh đệ trong cộng đoàn Kitô hữu. Chúng ta có thể chia phương hướng này thành hai phần:

  1. a) Để tránh sự chia rẽ mà duy trì sự đoàn kết huynh đệ, thì đừng ai lấy bản thân mình làm tiêu chuẩn để mà tự mãn. Cũng đừng lấy người khác làm đối tượng để phân bì.

  2. b) Thánh Phaolô đã sử dụng một Thánh thi phụng vụ đã được sử dụng trong cộng đoàn Kitô hữu, để ca tụng sự khiêm nhường thẳm sâu và sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giêsu, khi Ngài chấp nhận từ bỏ mọi vinh quang trên trời, để mặc lấy thân xác hèn mọn của con người. Ngài đã hạ mình xuống phục vụ cho ơn cứu rỗi loài người, nhưng nhờ đó Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài lên đến tột bậc.

+ Bài Tin mừng: Mt 21,28-32

Đường lối của Thiên Chúa khác với đường lối của loài người. Nếu trong bài đọc 1, tiên tri Ezéchiel cho biết Thiên Chúa không nhìn đến quá khứ, mà chỉ nhìn đến tương lai, Ngài mở đường cho những người tội lỗi có thể quay về với đường lành, thì bài Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu hé mở cho chúng ta cái nhìn của Thiên Chúa về cuộc sống con người. Thiên Chúa không quan tâm đến lời nói, mà chỉ chú ý đến việc làm.

Để triển khai tư tưởng này, Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn “Hai người con”: đứa thứ nhất đã từ chối lời người cha để đi làm vườn, nhưng sau hối hận lại đi làm. Đứa con thứ hai: mau miệng thưa vâng để đi làm ngay, nhưng rồi nó chẳng chịu đi làm.

Qua dụ ngôn này Chúa Giêsu cho biết:

– Đứa con thứ nhất tượng trưng cho dân ngoại, tuy ban đầu họ đã từ chối, nhưng sau hối hận lại đi “làm” theo ý Thiên Chúa.

– Đứa con thứ hai đại diện cho dân Do thái, họ mau mắn thưa “vâng”, nhận lời ngay, nhưng trong thực tế thì “không làm” theo ý Thiên Chúa.

Dụ ngôn này áp dụng vào lời Chúa Giêsu đã nói: “Có những kẻ đứng trước hết sẽ nên sau hết, và kẻ sau hết lại trở nên trước nhất”.

  1. THỰC HÀNH LỜI CHÚA: Kitô hữu thật hay giả ?

  2. TÌM HIỂU DỤ NGÔN

  3. Dụ ngôn về hai người con

Các thượng tế, kỳ lão, luật sĩ và biệt phái Do thái thường tự hào mình là con cái Abraham, đã từng giữ luật Maisen một cách cặn kẽ, thế nào cũng được phần thưởng là Nước trời. Theo họ nghĩ, Nước trời được dành riêng cho người Do thái, còn các dân tộc khác, những người ngoại giáo sẽ bị loại ra ngoài, nhất là những người tội lỗi như bọn thu thuế và gái điếm.

Để sửa đổi quan niệm sai lạc đó, Chúa Giêsu đã đưa ra cho người Do thái dụ ngôn về hai đứa con. Người cha có hai đứa con, ông bảo đứa thứ nhất đi làm vườn nho cho ông, lúc đầu nó từ chối, nhưng sau nghĩ lại, hối hận, lại đi làm. Ông cũng bảo đứa con thứ hai như vậy, nó vui vẻ nhận lời, nhưng nó lại không đi làm. Chúa Giêsu hỏi người Do thái, trong hai đứa con, đứa nào đã làm theo ý cha mình ? Họ đều cho là đứa con thứ nhất.

  1. Ý nghĩa dụ ngôn

Chúa Giêsu đã kết luận dụ ngôn này: “Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm, sẽ vào Nước trời trước các ông”. Chưa bao giờ ta thấy Chúa Giêsu đã nói thẳng với người biệt phái như lần này. Chính họ có lẽ cũng không ngờ.

Câu nói đó có nghĩa là: các ông tưởng mình thánh thiện trong sạch, giữ luật không trách được điểm nào, còn người thu thuế các ông coi như cặn bã xã hội, những người mà các ông cấm không cho đi chung đường với họ, coi như là những đàn bà dơ dáy đến nỗi con cái Israel đi vô ý quệt phải áo họ thì phải về tắm rửa đã. Các ngươi lầm. Những người thu thuế và đĩ điếm mà các người miệt thị đến mức đó, sẽ vào Nước trời trước các ông. Nói rõ là họ tốt hơn các ông!

Sự thực đã xảy ra: Lêvi (Mt 9,9) và người đàn bà tội lỗi (Lc 7,37) đã theo sống bên Chúa, và biết bao người thu thuế đã tin lời Gioan (Mt 9,10; 11,19; Lc 3,12) trong khi đó thì Hội đồng Cộng toạ chống đối Chúa và tìm giết Chúa (Lm. Trần Văn Khả, Phúc âm Chúa nhật, năm A, tr 236).

  1. Con người thật và con người giả

  2. a) Thế gian có hai hạng người: thật và giả

Người ta chia con người thành hai loại: tốt và xấu, thật và giả. Nhưng làm sao có thể phân biệt một cách chính xác về hai loại người đó ? Ai là người tốt hay xấu ? Ai là người thật hay giả ? Bởi vì có những người bề ngoài tốt lành thánh thiện mà trong lòng thì xấu xa, như người ta thường mỉa mai:

Bề ngoài thơn thớt nói cười

Mà trong nham hiểm giết người không dao (Truyện Kiều).

Người đời xưa cũng như đời nay hay công kích những bậc tu hành, những vị này sống khắc khổ, chay tịnh, tuân theo kỷ luật của giới mình, là những người đáng kính nể, nhưng trong nơi riêng rẽ kín đáo thì lại phạm luật trai giới, việc làm bị bại lộ, người đời không kiêng nể đã giáng trên đầu những vị phá giới đó những câu không thương tiếc …

Có những người chỉ chú trọng đến cái dáng bên ngoài theo phương châm “tốt đẹp khoe ra, xấu xa che lại”, nhưng chính cái họ khoe ra không phải là cái tốt thật bên trong, mà chỉ là lớp hào nhoáng bên ngoài, làm loè mắt mọi người, nhưng không bịt được ai:

Khác nào quạ mượn lông công

Ngoài hình xinh đẹp trong lòng xấu xa (Ca dao).

Thế giới ngày nay, quá ít người sống chân thật. Quá nhiều người sống mã nước sơn bên ngoài. Họ không còn biết giá trị “tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Lợi dụng nhược điểm này, nghệ thuật tuyên truyền quảng cáo tràn ngập thị trường. Hàng giả, hàng dỏm, đẹp mã, bán chạy như tôm tươi. Hàng thật, hàng tốt thì lại ế ẩm không ai mua. Người tài đức bị liệng bỏ. Kẻ vô tài thất đức, lẻo mồm tâng bốc nịnh hót thì lên như diều, để rồi “làm láo, báo cáo hay”.

Trông anh như thể sao mai,

Biết rằng trong có như ngoài hay không (Ca dao).

  1. b) Kitô hữu thật hay giả ?

Theo bài đọc 1 hôm nay, thì tiên tri Ezéchiel cho biết, tiên tri thật thì ít, tiên tri giả thì quá nhiều. Họ làm nhiều người công chính, bỏ đàng công chính của Thiên Chúa đi theo tà thần đế quốc Babylon để kiếm danh lợi. Tiên tri Ezéchiel đã phải quyết liệt cảnh cáo họ: “Khi người công chính bỏ đàng công chính mà làm điều gian phi… thì nó phải chết”. Đồng thời ông cũng kêu gọi: “Kẻ bất lương bỏ đàng bất lương, mà thi hành đường công chính thì nó sẽ được sống”.

Ngày xưa có nhiều tiên tri giả, ngày nay không còn tiên tri nữa thì lại có Kitô hữu giả. Họ mang danh là Kitô hữu, nhưng cuộc sống thực tế của họ không còn là Kitô hữu nữa. Có nhiều người cố gắng làm ra vẻ bề ngoài là Kitô hữu, nhưng cuộc sống riêng tư của họ không còn là Kitô hữu chính danh nữa, vì họ không còn sống theo luật Chúa nữa. Có thể họ sẽ nói rất hay về đạo đức, nhưng trong thực tế họ không sống đạo chút nào. Họ chỉ có cái vỏ bề ngoài là đạo nghĩa.

Muốn trở thành người Kitô hữu chính danh thì cần có sự “Hối cải”, vì như triết gia Soren Kierkegaard thì “Không hề có tình trạng đã thành 1 Kitô hữu mà chỉ có trong tình trạng đang trở thành 1 Kitô hữu”.

Theo Mark Link thì sự hối cải chỉ là một tiến trình, là một cuộc du hành đang tiếp diễn và chỉ chấm dứt khi nào chúng ta chết. Tiến trình này gồm ba bước:

– Bước thứ nhất trong tiến trình này là sự bất mãn tận căn với nếp sống hiện tại của chúng ta.

– Bước thứ hai là bước tia lửa làm thành ngọn lửa thúc giục chúng ta làm điều gì đó cho cuộc sống mình.

– Bước cuối cùng là thực hiện việc làm đầu tiên cực kỳ quan trọng là hướng về một cuộc sống mới, nhờ sự cầu nguyện kiên trì.

Các bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta khám phá ra cuộc sống của mình. Chúng ta có cảm thấy bất mãn về mối tương giao hiện tại giữa mình và Chúa Giêsu không ? Chúng ta có ao ước thân tình sâu sắc với Chúa không ? Chúng ta có muốn yêu thương gia đình láng giềng của chúng ta nhiều hơn giống như Chúa Giêsu yêu thương họ không ?

Nếu có thì các bài đọc hôm nay có thể ví như tia lửa bật ra để biến thành ngọn lửa mà chúng ta cần thiết phải có, để làm nên một điều gì cụ thể cho các mối tương giao trên (x. Mark Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm A, tr 289).

  1. TRỞ THÀNH KITÔ HỮU THỰC THỤ

  2. Tránh tính phô trương

Chúa Giêsu đã nhiều lần lên án thói phô trương của đám luật sĩ và biệt phái. Ngài không ngại gọi họ là rắn độc, mồ quét vôi trắng. Chúa khuyên họ hãy lo làm đẹp cái bên trong, chứ đừng chỉ lo cái bên ngoài: “Khốn cho các ngươi, hỡi các luật sĩ và biệt phái! Các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các ngươi cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác” (Mt 23,27).

Cái tính phô trương này xuất hiện trong khi người ta không để ý đến, bởi vì nó được ngụy trang bằng nhiều cách. Nhưng giấu đầu hở đuôi, sự phô trương cũng bị lộ ra một cách bất ngờ.

Truyện: Ông Diogène và ông Platon

Platon hồi ấy là người yêu nghệ thuật. Nhà ở của ông được trang trí bằng nhiều bức thảm quí đẹp. Một hôm, Diogène – người chủ trương sống màn trời chiếu đất, đầu đường xó chợ – tới thăm Platon. Tới nơi, mặt đỏ gay, con mắt trợn trừng, ông ta vừa đạp thình thịch lên tấm thảm quí của Platon, vừa nghiến răng nói:

– Ta chà đạp dưới chân tính phô trương của nhà ngươi.

Ông Platon bình tĩnh trả lời:

– Phải, và với một sự phô trương kiêu hãnh sâu rộng hơn nhiều.

Thì ra đời sống bên ngoài đầy quảng cáo của Diogène không đi đôi với đời sống bên trong. Nhà quân tử cũng mắc phải chứng bệnh phô trương như ai (Lm. Vũ Minh Nghiễm, Dừng, 1962, tr 207).

  1. Sống trung thực với lòng mình

Chúa Giêsu đã nói: “Có thì nói có, không thì nói không, thêm thắt là do lòng xấu mà ra”. Biết thế, nhưng con người vẫn phô trương, mà phô trương là phô ra ngoài những cái mình không có, ví dụ các luật sĩ và biệt phái, họ chỉ có cái vỏ bề ngoài, còn bên trong thì trống rỗng.

Phải sống trung thực với lòng mình, phải làm sao cho “ngôn hành đồng nhất”, lời nói và việc làm không được mâu thuẫn nhau. Nhiều người nói thì rất hăng nhưng khi làm thì chẳng thấy đâu, họ giống như đứa con thứ trong dụ ngôn hôm nay. Lời nói không có giá trị, khi không có việc làm kèm theo: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết”. Nói mà không làm thì sẽ bị người ta chê cười:

Nói thì đâm năm chém mười,

Đến khi tối trời chẳng dám ra sân (Tục ngữ).

Người ta đánh giá trị một người không phải ở lời nói nhưng là việc làm. Có một khoảng cách xa giữa lời nói và việc làm, cũng như giữa lý thuyết và thực hành: một lý thuyết dù hay mấy, mà không đem ra thực hành thì cũng vô ích. Vì vậy mà người ta nói: “Năng thuyết bất năng hành”, chỉ nói mà không làm.

Truyện: Anh chàng Aristogiton

Aristogiton hồi ấy lúc thanh bình, là một nhà ái quốc thượng thặng. Thở ra lửa trận, nói ra sấm sét. Chàng lợi dụng mọi hoàn cảnh để cổ võ những đức tính anh hùng kiêu sa của người chiến sĩ yêu nước. Nghe chàng nói, thính giả có ấn tượng như chàng đang tuyên chiến với tất cả các cường quốc trên thế giới. Nhưng đến khi phải thi hành lệnh quân dịch, người ta thấy chàng đột nhiên bước đi khập khiễng, tay chống gậy, chân thì băng bó, trông thảm não vô cùng.

Biết rõ những bí ẩn của chàng, ông Photion trợn mắt nói: “Aristogiton đã làm một người què lại còn hèn nhát”.

III. BÀI HỌC THỰC HÀNH

Theo các bài đọc hôm nay, chúng ta có thể rút ra được hai bài học:

  1. Giá trị của một đời người không nằm ở quá khứ đạo đức hay tội lỗi của người đó, mà hệ ở hiện tại người đó có quyết tâm sống công chính hay không. Theo bài đọc 1: “Khi người công chính bỏ lẽ công chính của mình và làm điều bất chính mà chết, thì chính vì điều bất chính nó đã làm mà nó phải chết. Còn nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó sẽ cứu được mạng sống mình… nó không phải chết”.

  2. Giá trị thực của con người không do những lời nói tốt đẹp người đó nói ra, mà do hành động của người đó: “Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha ? Họ trả lời: ‘Người thứ nhất’”. Vì Thiên Chúa theo đường lối như thế, cho nên Ngài đã ưu ái những người một thời nổi tiếng tội lỗi như Giakêu, Mađalena, tên trộm lành…

Phần chúng ta đã biết đường lối của Thiên Chúa là như thế, chúng ta phải làm sao ?

– Đừng nghĩ rằng mình đang thuộc hàng “công chính”, để rồi ngủ mê trong ảo tưởng đạo đức về mình.

– Cũng đừng cho rằng mình thuộc hàng “thu thuế và đĩ điếm”, để rồi buông xuôi cho dòng đời lôi cuốn.

Hãy sống trung thực với lòng mình. Hãy sám hối và chỉnh sửa lại cuộc sống, sao cho mình xứng đáng là con Chúa, là Kitô hữu để cuộc sống tốt lành của mình toả ra mùi thơm tho nhân đức, vì “hữu xạ tự nhiên hương”. Lúc đó không cần phải phô trương, tự cuộc sống của mình đã minh chứng điều đó:

Trúc xinh trúc mọc bờ ao,

Em xinh em đứng chỗ nào cũng xinh.

Trúc xinh trúc mọc đầu đình,

Em xinh em đứng một mình cũng xinh (Ca dao).

Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta có một tâm hồn và thể xác xinh đẹp, như lời cầu của nhà hiền triết Aristote:

Lạy các thần thánh

Xin cho tôi được xinh đẹp bên trong.

Xin cho mọi sự tôi có ở bên ngoài

đều thuận lợi cho vẻ đẹp của hồn tôi”.

2bbbbbbbb. ,,,

(Lm Giuse Đinh Tất Quý)

Suốt mấy tuần vừa qua, chúng ta đã nói với nhau về những đức tính cần có trong đời sống cộng đoàn. Bắt đầu từ hôm nay chúng ta nói với nhau về một vấn đề khác, cũng liên qua tới địa vị làm con Thiên Chúa, nhưng dưới một khía cạnh tích cực hơn: “Chúng ta phải sống như thế nào để xứng với địa vị làm con Thiên Chúa của chúng ta ?”.

A- Chúng ta hãy nghe bài dụ ngôn hôm nay:

Một người kia có hai người con. Hai người con, con của cùng một người cha. Ở đây chúng ta thấy Chúa cố ý không đề cập đến địa vị hay ngôi thứ của hai người con này. Chúa làm như thế với một chủ ý rõ rệt là cho người ta thấy trong cương vị làm cha thì ông dành cho hai người con một tình yêu y như nhau, và đồng thời cũng cho chúng ta thấy trong cương vị làm con thì cả hai đều có một giá trị như nhau trước mặt cha của mình.

Để anh chị em hiểu rõ được điều này, tôi xin lấy một thí dụ. Đây là thí dụ nằm ở trong kho tàng văn chương của chúng ta. Truyện kể như thế này. Có một ông nhà nho kia có đến hai bà vợ. Thông thường thì chúng ta thấy trong hai bà thì phải có một bà làm “cả” một bà làm “lẽ” hay “thứ”. Nhưng đối với ông nhà nho này thì ông ta muốn coi hai bà vợ như nhau, không bà nào hơn, không bà nào kém. Chính vì thế mà một hôm khi có người hỏi ông bà nào là cả bà nào là thứ thì ông trả lời “Cả hai vợ đều là vợ cả” Một câu trả lời có tính cách chơi chữ nhưng nó cũng nói lên được một cái gì có tích cách “cào bằng” trong ý nghĩa về một thực tế trong cuộc sống của người này.

Vậy thì trong dụ ngôn hai người con, chúng ta cũng thấy một ý nghĩa tương tự như thế. Cả hai người con đều là “con cả” và cùng là con của một người cha. Người cha này yêu thương hai người con y như nhau….đối xử với hai người một cách đồng đều. Và khi đã cư xử như thế thì chắc chắn ông cũng thầm mong là ông sẽ được cả hai người đáp lại tình yêu của mình cũng bằng một tình như nhau.

Mong thì là như thế, nhưng trong thực tế có được như vậy hay không thì lại là một truyện khác.

Lúc đầu khi ông kêu gọi người con thứ nhất. Nó đã đáp lại một cách cộc cằn và cứ bên ngoài mà xét thì nó thật đáng lên án. Nhưng sau đó nó hối hận rồi nó sửa lại lỗi lầm của mình không phải bằng lời nói nhưng bằng việc làm. “Nó hối hận và đi làm”(Mt 21,29).

Sau đó người cha cũng nói những lời y hệt như thế với người con thứ hai. Thái độ lúc đầu của người con thứ hai thật dễ thương “Vâng, thưa cha, con đi”(Mt 21,30). Thật là đẹp tuyệt vời. Và cứ theo cách bên ngoài mà nói thì chắc là chúng ta phải khen người con thứ hai này. Thế nhưng những cái đẹp ban đầu đó lại không đuợc tiếp tục đẹp. Nó đã nhanh chóng đổi chiều. Người con thứ hai đã nuốt lời một cách không hổ thẹn.

Như vậy chúng ta thấy cả hai người con cùng được mời gọi bởi cùng một người cha….để làm cùng một công việc và làm trong cùng một vườn nho.

Thế nhưng, bằng ấy cái cùng chưa đủ để có thêm những cái cùng khác:

Qua hai cách đối xử của hai người con, người ta đã được chứng kiến một sự đảo lộn giá trị đáng cho chúng ta phải suy nghĩ.

Cái mà người ta tưởng là xấu lại biến thành tốt và cái mà người ta tưởng là tốt lại trở thành tồi tệ.

Kết thúc câu truyện Chúa Giêsu đòi những người nghe phải tự lượng giá. Và câu trả lời đã đúng như Chúa mong đợi.

Nếu câu truyện kết thúc ở đây thì có lẽ chúng ta chẳng có gì phải bàn thêm. Đàng này sau khi nhận được câu trả lời của những người nghe, Chúa đưa ra những lời cảnh cáo khá nặng. Chúa nói như thế nào thì tất cả chúng ta đã nghe.

  1. Chúng ta tự hỏi: Chúa nhắm điều gì khi đưa ra những lời cảnh cáo nặng như thế ? Ai là hiện thân cho người con thứ nhất và ai là hiện thân cho người con thứ ai và ai là hiện thân cho người cha trong câu truyện.

Chúa không đưa ra một câu trả lời làm sẵn. Nhưng rõ ràng Chúa muốn vẽ ra một bức tranh gồm hai hạng người mà cả hai đều bất toàn mặc dầu trong đó có một hạng tốt hơn. Rõ ràng trong câu truyện này cả hai người con đều không làm hài lòng người cha vì cả hai đều không làm cho ông có được một niềm vui trọn vẹn. Hạng người thứ nhất là hạng người làm nhiều hơn là nói. Hạng người thứ hai là những người chỉ nói mà không làm. Họ hứa thật nhiều nhưng làm thì chẳng có gì cả.

Vậy người con hoàn hảo đối với Chúa là người con nào ? Thưa là người sẵn sàng chấp nhận mệnh lệnh của cha với thái độ vâng phục và kính trọng, chấp nhận trọn vẹn và không thắc mắc. Chúng ta có thể nói họ là những người mà lời nói và làm luôn đi đôi với nhauĐây mới là những người mà Thiên Chúa mong đợi.

Nhưng ai là những người như thế ?

Chẳng cần phải dài dòng chúng ta cũng có thể tìm ra câu trả lời. Đó là những người hết lòng yêu mến Chúa đồng thời cũng hết lòng yêu mến anh em đồng loại của mình.

+ Bây giờ đến lượt chúng ta:

Tôi phải làm gì trước những đòi hỏi của Chúa ?

– Đối với Chúa

  Một linh mục ở một xứ đạo kia khi làm thống kê trong họ đạo của mình đã hỏi một người chủ gia đình như sau:

 – Ở nhà có bao giờ gia đình cầu nguyện chung với nhau không ?

– Thưa Cha chúng con không có giờ.

– Giả như anh và gia đình biết một người trong gia đình sẽ bị bệnh nếu không ai cầu nguyện cho người đó thì thử hỏi anh và gia đình có cầu nguyện không ?

– Ồ con đoán là lúc đó gia đình chúng con sẽ cầu nguyện.

– Giả như anh biết một ngày nào đó vì gia đình lơ là trong việc cầu nguyện mà một tai họa sẽ xảy đến cho gia đình thì lúc đó anh và gia đình có cầu nguyện không ?

– Tất nhiên là chúng con phải cầu nguyện rồi.

– Giả như mỗi ngày anh quên cầu nguyện, giáo luật sẽ phạt 5 dollars. Lúc đó anh và các con có dám sao lãng việc cầu nguyện không ?

– Chắc là chúng con sẽ cầu nguyện nhưng ý của những câu hỏi cha hỏi chúng con mãi như thế là gì ?

– Như vậy vấn đề ở đây không phải là không có thời giờ. Anh có thể tìm được thời giờ. Vấn đề ở đây là anh đã quá coi thường việc cầu nguyện: Coi thường hơn tiền bạc, hơn sức khỏe vv và vv. Như vậy vấn đề ở đây là anh và gia đình anh có thấy được những hồng ân Chúa ban cho anh cũng như gia đình anh qua việc cầu nguyện hay không. Nếu thấy được thì khỏi cần phải nói, không phải chỉ cầu nguyện mà chắc là anh sẽ còn làm hơn thế nữa. Còn nếu không thì chắc là chẳng bao giờ anh cầu nguyện dù chỉ là một kinh!

– Còn đối với những anh em của tôi thì sao ? Phải Yêu Thương họ.

Thánh Têrêxa HĐGS nói: “Lòng yêu mến không cốt ở những tình cảm, nhưng cốt ở việc làm”

Một vị Giám mục kiểm tra khả năng của một nhóm ứng viên xin lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy. Ngài hỏi:

– Bằng vào dấu chỉ nào các người khác nhận ra các con là người Công giáo ?

Không có tiếng trả lời. Rõ ràng không có ai ngờ một câu hỏi như thế. Vị Giám mục lập lại câu hỏi và ngài lập lại thêm một lần nữa, lần này ngài làm dấu thánh giá có ý mách nước cho các người dự tòng một câu trả lời đúng. Bất. chợt một ứng viên trả lời:

– Đó là “Tình yêu”.

Vị Giám mục rất ngạc nhiên! Khi ngài sắp mở miệng nói “Sai “, ngài bỗng kịp thời ngậm miệng lại.

2bbbbbbbb. HỐI HẬN Mt 21,28-32

(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)

Hối hận là thái độ tiếc nuối vì một việc xấu mình đã làm

hay vì một việc tốt mình lẽ ra phải làm mà đã không làm.

Khi thật sự hối hận, người ta muốn làm điều gì đó để sửa sai.

Giuđa hối hận vì đã nộp Thầy, khiến Thầy bị bắt (Mt 27,3).

Anh ấy đã đem ba mươi đồng bạc trả lại cho các thượng tế

và nói: “Tôi đã phạm tội nộp máu người vô tội” (Mt 27,4).

Tiếc thay Giuđa đã tìm đến cái chết cho mình.

Khác với Phêrô, người đã chối Thầy ba lần,

Giuđa đã để cho hối hận trở thành ân hận và tuyệt vọng.

Dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay cũng nói đến hối hận.

Người con thứ nhất đã hối hận sau khi anh từ chối vâng lệnh cha.

Cha bảo anh đi làm vườn nho cho cha ngay hôm nay.

Anh đã nói thẳng với cha: “Con không muốn!”

Anh dám đặt ý muốn của mình trên ý muốn của cha,

dù chống lại uy quyền của cha là điều không thể chấp nhận được.

May thay “sau đó” anh đã hối hận, nên lại đi (Mt 21,29).

Chúng ta không rõ “sau đó” là bao lâu,

Và đâu là lý do khiến anh đổi ý.

Chắc anh đã nghĩ lại về thái độ của mình đối với cha.

Người con thứ hai cũng được cha anh mời đi làm vườn nho.

Anh này mau mắn đáp lại: “Thưa ngài, con đây!” (Mt 21,30).

Rõ ràng anh sẵn sàng tuân lệnh cha với sự kính trọng.

Anh đồng ý đi làm cho cha không một chút đắn đo.

Tiếc thay, sau đó anh lại không đi.

Chúng ta không rõ tại sao anh không đi sau khi đã nhận lời.

Rốt cuộc, người con chối từ thì lại chấp nhận đi.

Còn người con chấp nhận đi thì lại chối từ.

Điều quan trọng đâu phải là nói tiếng xin vâng hay kêu “Lạy Chúa.”

Điều đáng kể là “thi hành ý muốn của người cha” (Mt 21,31).

Người con nói: “Con không muốn!”

lại là người sau này đã làm ý muốn của cha (x. Mt 7,21; 12,50).

Đức Giêsu đã kể dụ ngôn này cho các nhà lãnh đạo Do-thái giáo.

Họ đã dễ dàng trả lời câu hỏi của Ngài về người con nào ngoan,

nhưng họ không ngờ Ngài kể dụ ngôn này nhắm vào họ.

Chính họ là người con thứ hai, kẻ đã không đi làm vườn nho cho cha.

Các nhà lãnh đạo ở đây là các thượng tế và kỳ mục trong dân.

Họ là những người thông thạo về Luật, dạy dân chúng về Luật,

và được coi là những người giữ Luật nghiêm túc chi li.

Đúng họ là người con đã nói “xin vâng” để đi làm vườn nho cho cha.

Nhưng họ đã không tin ông Gioan là ngôn sứ Thiên Chúa sai đến,

không chấp nhận phép rửa của ông là phép rửa từ trời (Mt 21,25).

Gioan làm chứng về Đức Giêsu, nên họ sợ lời chứng của Gioan.

Chính vì thế họ cũng không chịu hoán cải như Gioan mời gọi (Mt 3,2).

Khép lại trong sự tự mãn cứng cỏi của mình,

họ lạc xa đường công chính mà chẳng biết đến hối hận.

Ngược lại, những người thu thuế và gái điếm có đời sống tội lỗi,

những kẻ đã nói như người con thứ nhất: “Con không muốn!”

nhưng sau đó lại là những người đi làm vườn nho.

Họ đã tin vào Gioan và lời mời gọi của ông,

hối hận và muốn hoán cải để đón lấy Nước Thiên Chúa.

Đức Giêsu đã nói một câu không ngờ với giới lãnh đạo:

“Các người thu thuế và gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông.”

Quá khứ tội lỗi có thể bị xóa sạch bởi thái độ hối hận.

Hối hận hay hoán cải làm người ta đổi quyết định trước đó.

Ngày nào còn sống trên đời, ai cũng có thể quay đi với quá khứ

và quay lại với chính lộ, để tìm ra cửa vào Nước Trời.

Thiên Chúa vẫn chấp nhận câu từ chối: “Con không muốn!” của tôi,

và nhiều câu từ chối khác trải dài suốt đời.

Chỉ mong câu cuối cùng ở cuối đời tôi là: “Con muốn, Chúa ạ!”

LỜI NGUYỆN

Lạy Chúa Giêsu,

con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay.

Chúng con thường xây nhà trên cát

vì chỉ biết thích thú nghe lời Chúa dạy,

nhưng lại không dám đem ra thực hành.

Chính vì thế, Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con.

Xin cho chúng con đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa,

đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.

Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất lòng mình,

để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng trưởng.

Ước gì ngôi nhà đời chúng con

được xây trên nền tảng vững chắc,

đó là Lời Chúa,

Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con.

2. Đứa con nào tốt – ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

Nếu bây giờ Chúa Giêsu hiện đến nói với chúng ta rằng: “Ta bảo thật các ngươi: Những người thu thuế và gái điếm vào nước Thiên Chúa trước các ngươi”, thì chúng ta nghĩ sao? Các thượng tế và niên trưởng của dân Do thái thời xưa cũng giống như Giám mục, Giáo chủ, Linh mục và các ông trùm, ông trưởng bây giờ; thế mà Chúa Giêsu đã dám nói với họ: “Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế, những cô gái điếm vào nước Thiên Chúa trước các ông đấy”.

Thật kinh khủng! còn kinh ngạc hơn nữa: vua A-Duc (Ashoka) cùng toàn thể quần thần, đạo sĩ và dân chúng đã chứng kiến một cô gái điếm có sức mạnh siêu phàm làm cho nước sông Hằng rộng lớn đang chảy mạnh phải chuyển mình chảy ngược dòng, gây nên tiếng ầm ầm long trời lở đất. Thế mà nhà vua cùng quần thần, đạo sĩ là những người có dày công lớn nhất trong việc tu luyện và truyền bá đạo Phật, lại bất lực. Không thể nào làm cho nước sông khỏi tràn bờ!

Vua không thể tin: làm sao cô gái điếm ti tiện tội lỗi lại có sức siêu phàm như thế. Vua hỏi cô: “Nhờ đâu kẻ tội lỗi như ngươi lại có thể làm được việc phi thường đó?”. Cô đáp: “Nhờ đức hạnh “! – “Đức hạnh của ngươi như thế nào?” – “Tâu vua. Đức hạnh của tôi ở lòng chân thành tiếp đãi mọi người. Ai cũng như ai, dù bậc quân vương quý tộc hay tiện dân hèn hạ, tôi cũng hết lòng kính chuộng cư xử trọn nghĩa vẹn tình, không dám khinh thường ai” (Milin dapanha sutra 119-123).

Chính lòng chân thành kính chuộng mọi người của những kẻ tội lỗi đã giúp họ nhận ra đường lối công chính mà ăn năn trở lại tin theo chân lý. Chúa Giêsu đã đưa chứng cứ cụ thể cho các thượng tế và niên trưởng thấy nơi ông Gioan tiền hô: “Ông Gioan đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không chịu tin. Còn những người thu thuế, những cô gái điếm lại tin. Và các ông, khi thấy vậy rồi, các ông cũng vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy”

Đó là hai lối sống trái ngược nhau: Giả hình và chân thật, được Chúa Giêsu ví von qua dụ ngôn hai người con.

Người con chân thật nói: “Con không đi đâu” câu đáp cộc cằn, khô khẳng, nghĩ sao nói vậy. Lúc đầu tự nhiên nó thấy khó khăn thì ái ngại, không muốn gian khổ. Nhưng con người chân thật biết nghĩ lại, biết băn khoăn lo lắng về bổn phận mình, biết nhận ra điều hay lẽ phải. Cũng có thể, nó đã từ lâu không vâng lời cha, đã ăn chơi lười biếng hư thân làm buồn lòng cha. Nó cảm thấy quá tệ bạc, quá bất hiếu. Sức nặng tội lỗi đã làm khổ nó, nó hối hận, mong được giải thoát, được trở nên làm con thảo. Nhờ lương tâm cắn rứt, nó tỉnh thức, nó trở lại, cố gắng sống theo đường công chính. Tâm hồn nó cảm thấy đầy hân hoan vui sướng. Nó thực sự đi vào nước Trời. Nó như đứa con phung phá quay trở về nhà và được cha hết sức vui mừng ra ôm hôn nó: “Con ta đã chết, nay sống lại; đã mất, nay tìm thấy”.

Khác với đứa con chân thật, đứa con giả hình nói: “Thưa cha, vâng”. Lời thưa thật ngọt ngào dễ thương. Nhưng chỉ vâng bằng môi bằng miệng, còn lòng nó tráo trở. Vâng để lừa dối cha cho xong chuyện. Vâng như Giuda đến hôn mặt Thầy, lừa dối Thầy, dùng cái hôn thân yêu bề ngoài làm dấu chỉ cho quân dữ bắt Thầy (Mt. 26,49). Thật ghê sợ! Văn hào Nguyễn Du cũng vạch trần lối sống giả hình độc ác đó bằng câu thơ: “Bên ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao”. Các thượng tế và Pharisiêu đã nhiều lần đến với Đức Giêsu với lòng như vậy: “Họ hỏi Ngài có nên nộp thuế cho hoàng đế không?” (Mt. 22, 15-21)… Nếu ngài nói không, thì họ sẽ tố Ngài chống hoàng đế. Nếu Ngài nói có, thì họ sẽ tố Ngài chống lại quốc dân.

Thế giới ngày nay, quá ít người sống chân thật. Quá nhiều người sống theo mã nước sơn bên ngoài. Họ không còn biết giá trị “tốt lõi hơn tốt nước sơn”. Lợi dụng nhược điểm này, nghệ thuật tuyên truyền quảng cáo tràn ngập thị trường. Hàng giả, dỏm, đẹp mã bán chạy như tôm tươi. Hàng thật, tốt, khô khan thì lại ế ẩm, bị liệng bỏ. Người tài đức bị liệng bỏ. Kẻ vô tài thất đức, lẻo mồm tâng bốc nịnh hót thì lên như diều, để rồi “làm thì láo, báo cáo thì hay”. Hậu quả thật khốc hại!

Thời Tiên tri Êgiêkiel, tiên tri thật thì ít, tiên tri giả thì quá nhiều. Họ làm nhiều người công chính, bỏ đàng công chính của Thiên Chúa đi theo tà thần đế quốc Babilon để kiếm lợi danh. Tiên tri Êgiêkiel đã phải quyết liệt cảnh cáo họ: “Khi người công chính bỏ đường công chính mà làm điều gian phi… thì nó phải chết”. Đồng thời, ông cũng kêu gọi: “ Kẻ bất lương bỏ việc bất lương, mà thi hành điều công chính, thì nó sẽ được sống” (Bài đọc I – Êgiêkiel 18, 25).

Để khuyến khích giáo đoàn Philip tiếp tục sống đức tin mạnh mẽ, Thánh Phaolô kêu gọi họ liên kết chặt chẽ với Đức Kitô, hiệp thông trong Thánh Thần và cảm thương nhau trong tâm tình của Đức Giêsu Kitô.

Tâm tình của Đức Kitô là Thiên Chúa mà đã mặc lấy thân nô lệ làm người, vâng phục Chúa Cha cho đến chết trên Thập giá để làm vinh danh Chúa Cha và cứu độ loài người (Bài đọc II – Phil. 2, 1-11).

Đó là Người Con hoàn toàn công chính, vô cùng cao trọng, thế mà còn phải vâng lời Cha, đi làm vườn nho Israel, phải chịu cùng cực khốn khổ như thế! huống chi ta là thân phận loài người hèn hạ tội lỗi, sao dám coi mình là công chính, khinh bỉ người khác là bọn thuế, gái điếm. Thật quái gỡ!

Lạy Chúa, xin cho con thấy thân phận hèn hạ tội lỗi của con, cho con biết hối hận mà thật lòng sống theo tâm tình của Đức Kitô. Xin tâm tình Người Con chí hiếu biến đổi con có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng và hành động như Người để làm vinh danh Cha và cảm thương mọi người.

3. Thực thi ý Chúa

Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay chúng ta thấy Thiên Chúa đã trao ban cho con người sự tự do. Và với sự tự do này, con người có thể bước theo Chúa nhưng cũng có thể quay lưng chống lại Ngài. Con người có thể vâng theo thánh ý Chúa nhưng cũng có thể từ khước đường nẻo của Ngài. Thế nhưng điều quan trọng hơn đó là Thiên Chúa sẽ xử sự với chúng ta tuỳ theo việc chúng ta có hay không thực thi thánh ý Ngài, chứ không tuỳ thuộc vào lời nói của chúng ta.

Trong hai người con, người được coi là đã thực thi ý định của cha không phải là người đã mau mắn trả lời vâng trước lệnh truyền của cha, nhưng trong hành động thì lại không làm. Mà chính là người tuy đã trả lời không, nhưng trong thực tế lại đi làm điều người cha truyền dạy.

Trong xã hội thời Chúa Giêsu cũng như thời nay, vẫn có những hạng người tỏ ra ngoan đạo, công chính, siêng năng với các việc đạo đức, kinh hạt, nhà thờ nhà thánh. Lời nói thì đầy vẻ thuần phục đối với các giáo huấn của Chúa, nhưng trong hành động lại chẳng có chút vẻ gì là ưng thuận đối với điều Chúa truyền dạy. Những người bề ngoài xem ra dễ bảo, nhưng thực chất lại là người khó dạy. Họ đã có thể đánh lừa được dư luận vì cái mau mắn bên ngoài của họ.

Trong xã hội thời Chúa Giêsu, những người này tượng trưng nơi hàng tư tế, đầu mục, nhóm biệt phái và thông luật. Tuy đánh lừa được dư luận, nhưng thực ra, họ đã đánh mất chỗ của họ trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa. Thế vào chỗ của họ lại là những người thu thuế, những gái điếm, những người mà ai cũng biết là đang vị phạm ý Chúa, được bày tỏ trong lề luật và trong giới răn của Ngài. Họ là những người qua lối sống của mình, đã nói không trước lệnh truyền của Chúa. Nhưng một lúc nào đó, những người này đã nhận ra sự sai trái của mình, đã biết hối cải và đi làm điều Chúa truyền dạy. Họ là những người đã được giáo huấn và những việc làm của Ngài lay động, làm thức tỉnh, thay đổi hẳn cuộc sống. Họ là người đàn bà xứ Samaria, đã gặp Chúa bên giếng nước; là ông Giakêu, được Chúa viếng thăm; là bà Maria, đã xức dầu cho Chúa; là tên trộm cướp bị đóng đinh bên cạnh Chúa; là tất cả những kẻ tội lỗi biết hối cải. Vấn đề chính yếu là làm theo ý Chúa.

Thế nhưng, người ta lại thường hay tự mãn với một nhãn hiệu, một dấu chỉ bên ngoài nào đó. Chẳng hạn vốn tự hào là người công giáo ngoan đạo, chúng ta khó mà nghĩ đến việc trở lại, mở rộng cửa tâm hồn đón nhận cái mới, cái bất ngờ, cái chưa được nghe biết bao giờ.

Dụ ngôn cho chúng ta thấy trở ngại lớn nhất trên đường vào Nước Trời không phải là tội lỗi mà là sự ngủ mê giữa những tiêu chuẩn đạo đức được chúng ta dựng nên, sự sợ hãi phải đặt lại vấn đề những cái đã là chúng ta đã xác tín. Tuy nhiên, có đặt lại vấn đề như thế, chúng ta mới nhận biết được thánh ý Chúa và mới đi đúng con đường Chúa muốn chúng ta đi.

4. Dám nói, dám làm

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Có một bài thơ viết rằng:

Hãy nhớ nhé!

– Nếu không làm được… thì đừng hứa.

– Nếu không chắc… thì đừng nói.

– Nếu không thương, không yêu… thì đừng gieo hi vọng.

Bởi vì:

– Tình yêu là cảm xúc, là lí trí của con tim.

Vậy nên:

– Đừng nhẫn tâm giẫm lên con tim người khác…!

Nhưng đáng tiếc con người lại thích hứa mà lại không đủ ý chí để làm. Thích nói mà không đủ quảng đại để thực thi lời nói. Thế nên, giữa lời hứa và việc thực hiện vẫn còn một khoảng cách rất gần và cũng rất xa, vì nó tùy ở tại lòng người.

Trong cuộc đời dường như ai cũng từng hứa hẹn, và rồi cũng từng thất hứa. Vì cuộc sống vốn nhiều bất trắc khó lường. Rất nhiều giấc mơ dang dở. Rất nhiều mộng ước vỡ tan. Cuộc đời không bình phẳng mà lấm gập ghềnh trái ngang. Thế nên, vẫn còn đó những giấc mộng không thành, và vẫn còn đó những lời hứa chìm vào quên lãng theo dòng thời gian.

Đôi khi những lời hứa của chúng ta chỉ là “lời nói gió bay”, vì nói cho vui, vì cũng chẳng ai quan tâm tới lời hứa của chúng ta. Tuy nhiên, cũng có những lời hứa mang đến cho người khác hy vọng, niềm tin,nghị lực để đứng vững trong cuộc sống. Có những lời hứa là động lực để người ta phấn đấu, hay đơn giản chỉ là niềm vui nho nhỏ khi được quan tâm, yêu thương…

Người ta càng đặt nhiều niềm tin vào những lời hứa thì càng dễ hụt hẫng khi người khác thất hứa. Hy vọng càng nhiều thì nỗi thất vọng sẽ càng lớn…

Tại sao lại phải hứa khi biết rõ mình chẳng bao giờ thực hiện được lời hứa?

Tạo sao phải gieo vào lòng nhau những hy vọng để rồi chính mình lại lấy đi hy vọng đó?

Có biết bao cô gái tin vào lời hứa của chàng trai mà nhẹ dạ trao thân để rồi ôm hận mãi mãi.

Có biết bao chàng trai đã từng thất vọng vì bạn gái bội thề.

Có biết bao người quá tin người mà ôm nợ, ôm hận thiên thu.

Có biết bao người đã từng hứa từ bỏ rượu chè, cờ bạc, ngoại tình… nhưng hứa đó rồi lại quên, vẫn chứng nào tật ấy!

Có biết bao lần chúng ta cũng hứa với Chúa rất nhiều nhưng lại chẳng bao giờ thực hiện. Hứa đó rồi quên. Hứa chừa tội mà tội vẫn cứ phạm. Phạm tội không chỉ một lần mà rất nhiều lần trong cuộc sống.

Chúa Giêsu luôn đề cao người dám thực hiện lời hứa. Có thể là muộn màng nhưng vẫn còn tốt hơn là người nói mà không làm. Nói mà không giữ lấy lời như lâu đài xây trên bờ cát, sóng xô, gió cuốn thì nào ích gì?

Con người luôn có lầm lỡ. Điều quan yếu là biết nhận lỗi và sửa lỗi. Tựa như người con thứ đã từng quay lưng với lời mời gọi của cha mẹ, nhưng anh ta đã hối hận và sửa sai. Nhưng đáng trách là người con cả, chỉ nói mà không làm. Hứa cuội mà không thực hiện. Đó là con người không đáng tin trong cuộc sống.

Năm xưa, Quí Tử đi sứ nước Tấn có mang thanh bảo kiếm, qua thăm vua nước Từ.

Vua nước Từ ngó hoài thanh kiếm ra dáng yêu thích lắm, lòng tuy muốn xin mà miệng chẳng tiện nói ra….

Qúi Tử vì còn phải đi sứ thượng quốc, tuy chưa tặng vua Từ thanh kiếm được, nhưng trong lòng đã thầm hứa cho, khi đi sứ xong!

Sau khi xong việc, về thăm vua nước Từ thì vua Từ đã mất!!! Quí Tử liền tháo thanh kiếm đưa cho sứ quân vua Từ. Các người hầu ngăn lại:

– Bảo kiếm này là Báu Vật của nước nhà, không phải là món quà có thể tặng được!!! Mong tướng quân suy xét kỹ việc này….

– Lần ghé trước đây, vua Từ xem kiếm của ta, tuy chưa nói ra, nhưng lòng dường như rất yêu thích. Ta vì còn phải đi sứ thượng quốc, chưa dâng được. Tuy vậy trong lòng ta đã hứa cho. Vua Từ nay đã mất, ta vẫn giữ lời hứa mình vì nếu không, ta đã tự dối tâm mình. Tiếc kiếm mà thất hứa, dối tâm… người liêm không bao giờ làm!!!

Nói xong, Quí Tử tháo thanh kiếm đưa cho sứ quân của Từ Vương!

Sứ quân nói: “Vua tôi không có dặn việc này, tôi thiệt không dám nhận kiếm.”

Quí Tử bèn treo kiếm vào cành cây ở mộ vua Từ, rồi đi.

Người nước Từ ai cũng khen Quí Tử đã không quên lời hứa, ngay cả với người đã mất!!

Ước gì chúng ta luôn là người đáng tin với anh em khi dám thực thi lời hứa, cho dù có chịu thiệt thòi vẫn không chối bỏ lời hứa. Xin cho chúng ta cũng biết lắng nghe và thực thi lời Chúa, cho dù vì thực thi lời Chúa mà chúng ta có thể thua thiệt đời này nhưng chúng ta sẽ có một gia tài vô cùng to lớn trên quê trời. Amen.

5. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái

Chủ Đề: Ðường lối của Thiên Chúa (Mt 21, 28)

  1. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Chúng ta sống ở trần gian này như những lữ khách đang đi trên một con đường dài đằng đẳng. Nếu không có Chúa dẫn đường, không biết chúng ta sẽ đi về đâu. Nhưng dù có Chúa dẫn đường mà nếu chúng ta không theo Ngài thì chúng ta cũng vẫn lạc hướng.

Bởi vậy trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa chỉ cho chúng ta biết đường lối của Chúa để chúng ta đi theo, ngõ hầu mọi người chúng ta đều đến được cùng đích hạnh phúc vĩnh viễn của đời mình.

  1. Gợi ý sám hối

Chúng ta mãi mê lo cho cuộc sống trần gian hiện tại mà không nghĩ đến cuộc sống đời đời mai sau.

Nhiều lần chúng ta không đi đường công chính mà lại đi theo đường tội lỗi.

Chúng ta thường nói mình mến Chúa nhưng lại không làm theo thánh ý Ngài.

III. Lời Chúa

  1. Bài đọc I (Êd 18, 25-28)

Trong đoạn này, ngôn sứ Êdêkien cố gắng bài bác hai quan niệm sống “tự mãn” và “tự ti”:

– Tự mãn: có những người nghĩ rằng mình đã “công chính” rồi nên tự mãn không cố gắng sống tốt hơn. Êdêkiên cảnh cáo: “Khi người công chính từ bỏ đường công chính và phạm tội ác, nó sẽ phải chết”.

– Tự ti: có những người khác thấy mình lỡ tội lỗi nên nản lòng ở lì mãi trong tội lỗi. Êdêkiên khuyến khích: “Nếu kẻ gian ác bỏ đường gian ác nó đã đi và thực thi công bình chính trực, nó sẽ được sống”.

Như vậy, đường lối của Thiên Chúa là một con đường mở rộng cho tương lai, khuyến khích cả người tốt lẫn kẻ xấu ngày càng hướng về điều tốt hơn.

  1. Ðáp ca (Tv 24)

Ðây là lời cầu nguyện của một kẻ tội lỗi. Người này quyết chí bỏ đường tội lỗi, nài xin Chúa mở lòng thương xót mà tha thứ tội lỗi xưa, và chỉ cho họ con đường mới hướng tới tương lai tốt đẹp hơn.

  1. Tin Mừng (Mt 21, 28-32)

Bài đọc I cho biết một nét của đường lối Chúa là không chấp nhất quá khứ mà khuyến khích người ta hướng tới tương lai tốt đẹp hơn.

Bài Tin Mừng cho biết nét thứ hai của đường lối Chúa: không chú trọng tới lời nói mà chú ý tới việc làm. Ðức Giêsu đưa ra dụ ngôn về hai người con và đề cao người con thứ nhất:

Người con thứ nhất (đại biểu cho lương dân) tuy ban đầu nói “không” nhưng sau đó hối hận và đi “làm” theo ý Thiên Chúa.

Người con thứ hai (đại biểu cho dân do thái) ngoài miệng luôn nói “vâng” nhưng thực tế thì không “làm” theo ý Thiên Chúa.

  1. Bài đọc II (Pl 2, 1-11)

Thánh Phaolô dạy cho tín hữu Philipphê một phương hướng sống:

Ðừng lấy nghĩ bản thân mình làm chuẩn để mà tự mãn

Cũng đừng lấy người khác làm đối tượng so sánh để mà kiêu căng hoặc phân bì.

Hãy nghĩ đến Ðức Giêsu Kitô như một tấm gương để chỉ lo bắt chước Ngài: Ðức Giêsu Kitô chỉ biết vâng lời Thiên Chúa mà hạ mình xuống tới mức tận cùng, nhưng nhờ đó Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài lên đến tột bậc.

  1. Gợi ý giảng

  2. Ðường lối lạ lùng của Thiên Chúa

Những bài đọc hôm nay trình bày đường lối hành xử của Thiên Chúa, rất khác với suy nghĩ của loài người:

Cảnh cáo phạt người công chính và khuyến khích thưởng người gian ác (bài đọc I)

Phê phán những người “đạo đức” như biệt phái, luật sĩ, tư tế, và đề cao những người tội lỗi như bọn thu thuế và gái điếm (bài Tin Mừng).

Không phải vì Thiên Chúa muốn làm ngược với loài người mà vì Ngài quan tâm tới những giá trị thực:

Giá trị thực của một đời người không nằm ở quá khứ đạo đức hay tội lỗi của người đó, mà hệ tại hiện tại người đó có quyết tâm sống công chính hay không.

Giá trị thực của con người không do những lời tốt đẹp người đó nói ra, mà do hành động của người đó.

Vì Thiên Chúa theo một đường lối như thế cho nên Ngài đã ưu ái những người một thời nổi tiếng tội lỗi như Giakêu, Mađalêna, tên trộm lành…

Phần chúng ta, đã biết đường lối của Chúa là như thế thì chúng ta phải làm sao?

Ðừng nghĩ rằng mình đang thuộc hàng “công chính” để rồi ngủ mê trong ảo tưởng đạo đức về mình.

Cũng đừng cho rằng mình thuộc hạng “thu thuế và đĩ điếm” để rồi buông xuôi cho dòng đời lôi cuốn.

  1. Thành kiến

Bài đọc I cho thấy Thiên Chúa hành xử rất sáng suốt và hợp lý khi Ngài không có thành kiến đối với quá khứ của con người: người có quá khứ tội lỗi nhưng biết sửa đổi thì Ngài khen ngợi, kẻ có quá khứ đạo đức nhưng đang hướng theo con đường tội lỗi thì Ngài vẫn trách mắng.

Thực ra, con người không phải là một món đồ một khi đã được đúc khuôn thế nào thì mãi mãi vẫn là thế ấy. Con người là một tác phẩm đang được thực hiện: hôm qua khác hôm nay, và ngày mai sẽ còn khác nữa.

Thiên Chúa cho chúng ta nhiều cơ hội để sửa đổi và hoàn chỉnh. Tại sao chúng ta không cho chính mình những cơ hội ấy? Tại sao chúng ta không cho người khác những cơ hội ấy?

  1. Mảnh suy tư

Có hai tiếng người ta thường nói nhiều nhất, đó là “Vâng” và “Không”. Nhưng giá trị của chúng không tùy vào lúc chúng vừa được nói ra, mà tùy theo sau đó người ta có thực hiện hay không. Nói “vâng” mà không làm đâu có giá trị bằng nói “không” mà lại làm.

Lời hứa không tạo nên uy tín cho con người; lời nói tốt không thể thay thế cho những việc làm tốt.

Con người chúng ta có thể thay đổi từ “vâng” sang “không” và từ “không” sang “vâng”. Vì thế, cả hai người con trong dụ ngôn này đều có thể là bài học cho chúng ta: nếu chúng ta giống người con thứ nhất đã lỡ nói “không” với Chúa bấy lâu nay thì bây giờ chúng ta có thể nói lại “xin vâng”; còn nếu chúng ta giống người con thứ hai đã thưa “xin vâng” thì đừng để cho mình bị thay đổi mà sửa lại thành “không”.

Trong lịch sử Hội Thánh, rất nhiều vị thánh lớn đã từng là những kẻ tội lỗi ban đầu đã nói “không” với Chúa nhưng về sau đã sửa đổi và thưa “xin vâng”. Thánh Augustinô là một thí dụ điển hình.

  1. Chuyện minh họa

a/ Cha sở bảo ông chủ tịch Hội Ðồng Giáo Xứ tìm cho đủ 10 người đến cầu nguyện bên giường một người hấp hối.

Khi mọi người đã tụ họp đông đủ bên giường bệnh. Có người rỉ vào tai Cha Sở:

– Thưa Cha, trong đám này có mấy thằng chuyên môn trộm cắp.

– Càng tốt chứ sao, bởi vì trong trường hợp Thánh Phêrô không chịu mở cửa thiên đường thì mình nhờ họ mở khóa dùm.

b/ Một người suốt đời hết sức tránh tội. Hôm anh chết và lên trình diện với Thánh Phêrô thì trùng hợp cũng có một đám các cô đĩ điếm ở đó.

Thánh Phêrô hỏi các cô một cách ân cần, rồi mời các cô vào thiên đường. Người nầy khó chịu quá, hỏi tại sao, thì thánh nhân đáp:

– Nếu ngươi không chấp nhận lòng thương xót của Chúa đối với người tội lỗi, thì hãy đi đi. Chỗ của ngươi không phải ở đây!

  1. Lời nguyện cho mọi người

CT: Anh chị em thân mến

Sám hối, canh tân đời sống và đón nhận Tin Mừng là những việc làm thường xuyên trong đời sống đức tin của người kitô hữu. Tin tưởng vào ơn trợ giúp của Chúa, chúng ta cùng dâng lời nguyện xin.

1- Ðức Kitô đã thiết lập Hội Thánh để đam lại ơn cứu độ cho muôn dân / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban nhiều ân sủng / cho Hội Thánh trên khắp hoàn cầu / để Hội Thánh được mãi mãi là bạn tinh tuyền của Người.

2- Trong cuộc sống thường ngày / tệ nạn xã hội làm điên đầu những kẻ có trách nhiệm / Không ít người đã bán rẻ nhân phẩm / và danh dự của mình / vì nghèo đói cũng có / mà vì đua đòi ăn chơi cũng có / Chúng ta hiệp lời cầu xin cách riêng cho giới trẻ / biết tránh xa những cạm bẫy tinh vi của những kẻ buôn người / để khỏi phải chôn vùi cuộc đời trong hố sâu tội lỗi.

3- Không ai là người hoàn toàn vô tội trước mặt Thiên Chúa / Vì thế thái độ đúng đắn nhất là ý thức thân phận tội lỗi yếu hèn của mình / và đừng xét đoán cũng như kết án người khác / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các kitô hữu / biết luôn cố gắng sống những gì Chúa Giêsu đã dạy.

4- Ðức Giêsu nói / “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy / Lạy Chúa / lạy Chúa / là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thực hành ý muốn của Cha Thầy Ðấng ngự trên trời / mới được vào mà thôi” / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết nỗ lực thực thi ý Chúa / tức là làm trọn mọi bổn phận trong giây phút hiện tại.

CT: Lạy Chúa Giêsu, chỉ nguyên danh xưng Kitô hữu không đủ để bảo đảm phần rỗi cho chúng con, mà phải sống theo Lời Chúa trong Tin Mừng và thi hành ý Chúa mới giúp chúng con được sống muôn đời. Vậy xin Chúa ban ơn trợ giúp để chúng con có thể sống như Chúa đã dạy. Chúa hằng sống và hiển trị…

  1. Trong Thánh Lễ

– Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta đều là con của Chúa Cha trên trời. Nhưng chúng ta đừng là người con thứ hai, miệng luôn nói “vâng vâng dạ dạ” nhưng lại không làm theo ý Cha. Chúng ta hãy làm người con thứ nhất, biết tìm ý muốn của Cha để làm theo.

Trong tâm tình ấy, chúng ta hãy cùng nhau sốt sắng đọc kinh Lạy Cha.

VII. Giải tán

Trong bài Tin Mừng hôm nay, người cha đã nói với hai đứa con “Các con hãy đi làm vườn nho cho Cha”. Giờ đây Chúa cũng nói với chúng ta như thế. Chúng ta hãy ra đi và làm theo ý của Chúa Cha.

6. Cách hành xử của Thiên Chúa

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)

Có nhiều người coi thường thân xác, coi thân xác như ngục tù giam hãm linh hồn; tuy nhiên, con người là tạo vật tuyệt vời của Thiên Chúa. Theo Kinh Thánh, khi Thiên Chúa sáng tạo con người, Ngài thấy chúng rất tốt lành.

  1. Còn thân xác là còn có thể lựa chọn

Platon và những người chịu ảnh hưởng bởi triết lý của ông cho rằng thân xác là ngục tù giam hãm linh hồn. Linh hồn được giải phóng vào giờ chết. Quan niệm này không chỉnh vì không đánh giá đúng đắn giá trị của thân xác. Theo quan điểm của Giáo Hội Công Giáo về mầu nhiệm Hội Thánh Thông Công, chính con người tại thế có thể lập công cho mình và giúp đỡ những linh hồn trong luyện tội bằng việc hy sinh vượt thắng những cám dỗ. Những linh hồn trong luyện tội có thể cầu nguyện cho những người tại thế, nhưng không thể lập công đền tội cho mình như những người tại thế.

Với thân xác, con người chịu chung số phận của vật chất: có sinh có tử, lớn lên và cằn cỗi, sai lầm và sửa chữa, vui và buồn, hy vọng và thất vọng. Hôm nay một người có thể đã hoặc đang làm điều bất chính, nhưng ngày mai họ có thể hối hận và trở thành con người mới. Hôm nay họ dở nhưng mai có thể họ tốt hơn. Hôm qua họ là kẻ bất nhân bất nghĩa nhưng hôm nay họ có thể là người tuyệt vời. Đã đành không dễ để một người thay đổi từ dở thành tốt, nhưng khi con người còn tại thế, con người có thể biến đổi. Ai có thể giúp một người biến đổi, hoặc làm sao để một người được biến đổi thành tốt hơn, là một điều khác; nhưng điều căn bản được lưu ý đặc biệt: con người có thể biến đổi thành tốt hơn hoặc dở hơn, tùy chọn lựa của mỗi người. Khi con người còn tại thế, còn có thể thay đổi chọn lựa của mình. Khi không còn thân xác, người ta không thay đổi chọn lựa của mình nữa; đó cũng là lý do tại sao những người ở hoả ngục không thể lên thiên đàng nữa, bởi vì họ đã vĩnh viễn cố tình chọn lựa thù hận.

Con người tự do, nghĩa là con người có thể chọn lựa, có thể làm điều này hay làm điều khác, có thể yêu hay ghét, giúp đỡ hay thù hận, đón nhận hay ruồng rẫy từ bỏ. Chính cái hay thay đổi, thuộc tính của vật chất, lại là điều làm con người đang ở trong tình trạng xấu còn có thể trở thành người tuyệt vời. Thời gian lữ hành, là thời gian con người còn có thể biến đổi chính mình, dở hơn hoặc tuyệt vời hơn. Khi còn ở trong thời gian, là con người còn có thể hy vọng.

  1. Thời gian giúp con người trở nên tuyệt vời

Khi một người tốt bỏ đường công chính mà phạm tội ác, nó phải chết vì tội nó phạm; Ngược lại nếu người trước làm điều gian ác mà nay từ bỏ đường gian ác mà làm điều tốt, thì nó được sống. Người ta thường than trách Thiên Chúa đã đối xử bất công, đã quên những điều tốt hoặc xấu một người đã làm trước. Người ta đoán xét người khác bằng quá khứ, qua những điều bên ngoài; còn Thiên Chúa biết con người từ trong sâu thẳm của mỗi người, và Ngài đoán xét con người như họ đang là, theo như “họ là” ở giây phút này.

Trong dụ ngôn hai người con, người con thứ nhất khi được người cha mời đi làm vườn nho, đã từ chối không đi nhưng sau đó lại hối hận đi làm; còn người con thứ hai lúc đầu nói sẵn sàng đi làm nhưng cuối cùng lại không đi. Ai cũng nhận định được rằng chính người con lúc đầu từ chối lời gọi của người cha mà sau đó đi làm, là người đã vâng lời người cha; còn người con lúc đầu trả lời vâng lại là người không vâng lời cha. Quá khứ cũng quan trọng, nhưng hiện tại quan trọng hơn. Hiện tại quan trọng hơn cả quá khứ lẫn tương lai. Cho dù một người đã sống tốt ở quá khứ nhưng hiện tại lại sống dở, thì người đó vẫn dở; còn nếu một người có một quá khứ tội lỗi nhưng bây giờ họ trở lại, họ đã là người tốt trước mắt Thiên Chúa cho dù người đời vẫn đánh giá họ xấu và coi thường họ. Nếu một người cố gắng làm tuyệt vời những gì phải làm ở giây phút hiện tại, người đó là người tuyệt vời. Giây phút hiện tại là giây phút tuyệt vời, là giây phút làm con người trở nên thánh hay thành qủy, làm một người trở nên đáng yêu hay đáng sợ.

Thiên Chúa là Đấng làm điều tuyệt vời. Ngài cho con người thời gian, để rồi với thời gian con người hình thành chính mình. Với ân sủng Thánh Thần, Thiên Chúa vẫn đang giúp con người trở thành người tuyệt vời trong từng giây phút sống, cho dù con người đã từng từ bỏ Ngài. Thiên Chúa tạo dựng con người với thân xác, và qua đó Ngài cho con người thời gian và tự do để trở nên con cái Ngài. Thiên Chúa vẫn đang làm con người trở nên con cái của Ngài.

  1. Cách hành xử của Thiên Chúa

Tự do là món quà rất quý Thiên Chúa ban cho con người. Ngài chấp nhận tất cả khi Ngài ban tự do cho con người. Ngài chấp nhận cả khả thể con người phản bội Ngài; tuy nhiên Ngài yêu con người vô cùng, và Ngài tin rằng tình yêu của Ngài có thể biến đổi lòng người. Ngài luôn mời gọi con người sống trong tình yêu của Ngài.

Với cơ cấu con người tại thế, giây phút hiện tại, là giây phút của tự do, và cũng là giây phút của vĩnh cửu. Sống trọn vẹn giây phút hiện tại, con người sẽ cảm nhận bình an và hạnh phúc. Con người được mời gọi chọn Chân Thiện Mỹ trong từng giây phút sống. Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập thể làm người; Ngài đã sống như một người với những giới hạn của thân xác, và Ngài đã xử dụng tự do một cách tuyệt vời. Chính khi làm người, Thiên Chúa làm cho con người nhận biết Thiên Chúa tuyệt vời đến độ nào; chính khi chấp nhận cái chết thập giá như một người, Ngài mặc khải giá trị tuyệt vời của con người với thân xác. Đức Yêsu trở thành mẫu gương sống của từng Kitô-hữu. Ngài trở thành người mẫu, thành người lý tưởng của các thanh thiếu niên. Con người trở thành tuyệt vời khi âm thầm khiêm tốn sống yêu thương như Ngài. Nếu muốn là người nổi danh, là người trổi trang, là người có cách sống của người hiền triết hiểu biết uyên nguyên sự vật, thì phải là người sống tự hủy khiêm tốn yêu thương như Đức Yêsu.

Thiên Chúa đã và đang cảm hoá con người bằng yêu thương đến độ tự hủy chính mình. Hiện tại của Thiên Chúa là yêu thương. Tự do để trở thành tuyệt vời hay không, đó là hiện tại của con người.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

  1. Tự do luôn liên hệ đến hiện tại. Bạn hiểu sao về câu nói này?

  2. Hiện tại, bạn có bị ràng buộc bởi điều gì không? Điều đó có làm bạn thành nô lệ không? Xin chia sẻ nếu được.

  3. Bạn có kinh nghiệm về yêu thương tự hủy không? Xin bạn chia sẻ.

7. Ngôn hành như nhất – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Vào năm 1992, tại tiểu bang Georgia – Hoa Kỳ. Xảy ra một câu chuyện có thể gọi được là “cười ra nước mắt”.

Một bà mẹ 73 tuổi bị chính đứa con trai của mình kiện vì bà không trả cho anh ta tiền công sửa chiếc xe tải của bà. Sau đó, bà mẹ đã đệ đơn tố cáo ngược lại con mình với lời đề nghị là anh ta phải bị đánh đòn vì lúc anh ta còn nhỏ bà đã không áp dụng câu tục ngữ: “Thương con cho roi cho vọt”.

Vào ngày 6 tháng 7 năm 1992, anh thợ sửa xe ô tô tên là Kê-nêt Ar-gut đã đệ đơn tại tòa sơ thẩm để thưa mẹ anh và đòi tòa ra lệnh cho bà thanh toán hóa đơn 2,613 đô la tiền sửa xe mà bà đã từ chối không chịu trả cho anh.

Trả lời cho đơn người con trai kiện mình, bà An-sen Ar-gut đã viết như sau: “Nguyên cáo đã mắc nợ bị cáo 40 năm phục dịch của một bà mẹ, một người giữ em, một người giúp việc nhà, nấu ăn, giặt giũ, y tá, một nhà tâm lý để cố vấn, khuyên nhủ, an ủi, v.v… Tất cả những dịch vụ trên, nguyên cáo đã không trả tiền công bị cáo”. Bà Ar-gut còn viết tiếp:

“Như một bà mẹ, nếu luật pháp cho phép, tôi sẽ công khai đánh đòn con tôi, những cú roi rất cần thiết cho nó mà tôi đã thất bại không cho nó lúc nó còn bé. Nếu pháp luật không cho phép mẹ đánh con thì xin tòa hãy cử một nhân viên ngành tư pháp đánh đòn để sửa trị con tôi”.

Đó là nỗi đau của một bà mẹ bị con khước từ. Nó đã không còn nhận bà là mẹ. Nó đòi bà phải trả tiền như bao khách hàng khác. Chính trong nỗi đau đó, Bà mẹ Argus hối tiếc vì đã không dạy con từ nhỏ nên mới lãnh lấy hậu quả hôm nay.

Và hôm nay trong số những người trẻ sì ke ma túy, ăn chơi thác loạn, rửa tiền của cha mẹ đều thuộc diện cha mẹ lo làm ăn, thiếu quan tâm giáo dục con cái, và điều tệ hại nhất là nuông chiều con cái quá mức đến hư thân. Sinh con ra ai cũng mong con mình tài đức, hiếu thảo hiền ngoan, nhưng để được vinh dự đó, không thể cho nó lớn lên một cách tự nhiên, cẩu thả lười biếng và vô độ ngay từ nhỏ, mà con cái chỉ có thể lớn lên thành người từ sự giáo dục cẩn trọng của cả cha lẫn mẹ.

Có lẽ, nỗi đau lớn nhất của cha mẹ là con cái không vâng lời cha mẹ. Nỗi bất hạnh tột cùng nhất của cha mẹ là con cái bất hiếu và phản loạn đối với công ơn dưỡng dục sinh thành. Kinh nghiệm của cha ông ta vẫn thường nói: “Uốn cây uốn thuở còn non – Dạy con dạy thuở còn thơ”. Con cái cần được dạy cho biết sống vâng lời ngay từ thuở nhỏ, lớn lên mới có hy vọng biết sống theo lời hay lẽ phải. Có những bậc cha mẹ nuông chiều con cái đến độ thay vì dẫn dắt con cái theo ý mình, họ lại luôn chiều theo ý con. Có những bậc cha mẹ quá dễ dãi, thường hay xí xóa những thói hư tật xấu của con, tưởng rằng lớn lên nó tự biết sửa đổi. Có những bậc cha mẹ giáo dục con cái nhưng “ngôn hành bất nhất”, khiến con cái học đòi tính “nói một đàng làm một lẻo”, thất hứa, thất tín với gia đình và với xã hội.

Nỗi lòng của cha mẹ đau khổ vì con cái thế nào, thì nỗi lòng của Thiên Chúa đối với nhân loại cũng vậy. Thiên Chúa sẽ không vui khi thấy con người chối bỏ tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ rất buồn khi con người sống buông mình trong những đam mê thấp hèn mà đánh mất nhân tính của con người. Thiên Chúa sẽ rất đau khổ khi thấy con người bỏ Chúa để tôn thờ thụ tạo thấp hèn hơn con người.

Hôm nay Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn hai người con. Cả hai đều không phải là người con ngoan thực sự. Người con thứ nhất tuy lúc đầu cãi lời cha mẹ nhưng sau hối hận lại đi làm ngay. Người con thứ hai thuộc diện “ba phải”, dạ vâng rồi lại không làm.

Người con đầu là hình ảnh anh em lương dân. Họ không theo đạo nhưng họ lại sống ăn ngay ở lành. Họ sống theo lề luật của Thượng Đế được ghi khắc trong lương tâm. Họ là người ngoại đạo “nhưng tin có Chúa ở trên cao”. Họ làm điều thiện và tránh điều ác vì tin rằng “Ông Trời có mắt”.

Người con đầu cũng là hình ảnh người tội lỗi được ơn trở về cùng Chúa. Họ sám hối và làm lại cuộc đời của mình bằng việc sống và thực thi giới răn của Chúa.

Người con thứ hai có thể là hình ảnh của chính chúng ta. Tuy môi miệng vẫn xưng mình là con Thiên Chúa nhưng lại không sống theo giáo huấn của Chúa. Vẫn ngoại tình, trộm cắp, cờ bạc, rượu chè. Sống thiếu công bình và bác ái trong lời nói lẫn hành động. Có những người nói rất hay nhưng lại không thực hiện những điều mình nói. Có những người bề ngoài rất đạo đức nhưng trong lòng lại chất chứa đầy tính gian tham, lừa đảo…

Đã có một lần Chúa Giêsu từng nói: “không phải những ai thưa lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời đâu, mà chỉ có những ai biết lắng nghe và thực thi lời Chúa mới xứng đáng hưởng Nước Trời.

Xin Chúa giúp chúng ta biết “ngôn hành như nhất” để lời nói và việc làm của chúng ta luôn đẹp lòng Chúa và đẹp lòng mọi người. Amen.

8. Rất cần cho một lần hoán cải – Anmai

Trang Tin Mừng theo Thánh Matthêu mà chúng ta vừa nghe sao mà nó hay quá! thiết thực quá! và cũng rất đời thường quá. Câu chuyện trong trang Tin Mừng Chúa Giêsu kể hôm nay, thật sinh động, thiết thực và lôi cuốn người nghe. Thiết thực, sinh động, lôi cuốn nhất là với những bậc làm cha làm mẹ. Làm cha làm mẹ thì có cái quyền trên con cái của mình. Khi có quyền thì cha mẹ cũng có cái quyền sai khiến con mình mà đặc biệt là sai đi làm công việc nhà, công việc trong gia đình vì con cái phải đồng trách nhiệm trong gia đình của mình. Và sự thật, kết quả hết sức là buồn cười vì nó ngược lại với cái nghĩ, cái sự vâng lời từ ban đầu giữa hai người con.

Làm cha làm mẹ, ai ai cũng khó chịu với cái cách của người con thứ nhất: ban đầu bảo không đi nhưng rồi lại đi. Còn người con thứ hai thì ngược lại: bảo đi nhưng lại không đi. Chuyện cũng hết sức là thường tình với bậc cha mẹ, đó là cha mẹ thích người con vâng lời hơn là người con không vâng lời. Vấn đề Chúa muốn nói lên trong câu chuyện này đó là thái độ, là tâm tình hoán cải của người con thứ nhất.

Vấn đề hoán cải chúng ta được nghe rất rõ trong sách ngôn sứ Edêkien: “Đây Chúa phán: Các ngươi đã nói rằng: ‘Đường lối của Chúa không chính trực’. Vậy hỡi nhà Israel, hãy nghe đây: Có phải đường lối của Ta không chính trực ư? Hay trái lại đường lối của các ngươi không chính trực? Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính và phạm tội ác, nó phải chết, chính vì tội ác nó phạm mà nó phải chết. Nếu kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó đã đi, và thực thi công bình chính trực, nó sẽ được sống. Nếu nó suy nghĩ và từ bỏ mọi tội ác nó đã phạm, nó sẽ sống chớ không phải chết”.

Vậy thì ai là người cần hoán cải? Những người sống tốt, sống công chính thì chẳng cần phải hoán cải. Chỉ những ai phạm tội, những ai vấp ngã, những ai yếu đuối thì mới cần hoán cải để được sống.

Nhìn lại cuộc đời mỗi người chúng ta. Chắc có lẽ, không ai trong chúng ta dám nhận rằng mình là người hoàn thiện, là người công chính. Trái lại trong chúng ta, ai cũng rất cần được một lần hoán cải để nhận được sự sống, ơn cứu độ từ Thiên Chúa.

Thật buồn cười! Bao nhiêu lần xúc phạm đến Chúa, xúc phạm đến anh chị em đồng loại, chúng ta cảm thấy xấu hổ, chúng ta cảm thấy ăn năn thống hối và quyết chừa cải, nhưng rồi con người yếu đuối chúng ta lại vấp ngã. Như Thánh Phaolô đã trải lòng ra cho chúng ta: “Điều tôi biết là tốt thì tôi lại không làm, điều tôi biết là xấu thì tôi lại cứ làm!”. Trong thâm tâm của chúng ta luôn luôn có sự giằng co giữa điều thiện và điều ác. Chẳng ai trong chúng ta muốn phạm tội, chẳng ai trong chúng ta muốn làm điều ác cả, nhưng sao mà ác quỷ nó cứ thúc đẩy chúng ta.

Chúng ta nhớ, trong đoạn Tin Mừng vắn vỏi mà chúng ta vừa nghe Thánh Matthêu thuật lại đấy, con người phạm nhiều tội lắm nhưng mà Chúa Giêsu nhắc cho chúng ta hai thứ tội căn bản, hai loại người mà xã hội Do Thái thường hay kết án đó là gái điếm và thu thuế!

Chẳng cần phải định nghĩa, ai ai trong chúng ta cũng biết bản chất của gái điếm là gì rồi! Có thể, chẳng ai muốn làm điếm cả nhưng vì hoàn cảnh đưa đẩy, vì yếu đuối nên mới làm cái nghề nhục nhã này. Biết là tội đấy nhưng hình như không còn lối thoát, không còn cách nào khác để rồi phải chấp nhận sống trong cái tội đáng chê đáng ghét này.

Thu thuế! Nói đến chuyện thuế má thì ở thời đại nào cũng không mấy ai thích đóng thuế cả. Thoạt đầu, thuế chính là trách nhiệm và nghĩa vụ của công dân trên đất nước mình sống, nhưng chính trong cái cách thu thuế, nộp thuế không minh bạch sao ấy, đã để lại trong mắt mọi người cái nhìn không thiện cảm về người thu thuế, nào là tham lam, gian dối, và thu vén thật nhiều cho riêng mình v.v…

Chúa Giêsu nói với thượng tế và kỳ lão đấy nhưng thật sự Chúa đang nói với mỗi người chúng ta: “Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông”. Chúa Giêsu muốn nói lên rằng những người gái điếm và thu thuế đó sẽ vào Nước Thiên Chúa trước chúng ta vì sao? Vì họ biết hoán cải.

Trở lại vấn đề, tất cả nó nằm ở chính sự hoán cải. Dù tội lỗi như thế nào, xấu xa kinh khủng như hai hạng người tệ hại nhất mà người Do Thái lên án và ghét bỏ đi chăng nữa nhưng biết hoán cải thì cũng sẽ được cứu. Tệ hại nhất như đứa con ban đầu thoạt nghe là bất hiếu, là không vâng lời đi chăng nữa nhưng sau đó biết hoán cải thì cũng sẽ làm hài lòng người cha của mình hơn.

Hoán cải! Nói thì dễ nhưng thật sự nó không phải là hành vi đơn giản, dễ dàng. Mấy ai trong chúng ta đã hoán cải dù biết rằng mình cần phải hoán cải để được cứu. Lý do: Muốn hoán cải thì điều kiện cương quyết, điều kiện căn cốt nhất đó chính là thái độ phải nhìn ra chính mình, nhìn thẳng vào cái tôi của mình nhưng điều này thật khó làm trong tiến trình hoán cải.

Trước hết, ai ai cũng bảo thủ, ai ai cũng muốn bảo vệ cái danh dự của mình, không muốn cho ai biết cái xấu, cái khuyết điểm của mình thì làm sao mà hoán cải được. Điều này rất khó vì ai ai cũng mang trong mình một cái vỏ bọc bề ngoài rất kiên cố và sợ người khác biết được cái vỏ bọc bên trong của mình, sợ xấu hổ.

Kế đến là mình có nhận ra đó là điều xấu, đó là điều dở cần phải khắc phục hay không? Điều này cần phải được huấn luyện, được giáo dục để có một lương tâm ngay thẳng, một lương tâm trong sáng, một lương tâm đích thực. Một người nào đó sống trong một lương tâm mù quáng thì không thể nào nhận ra những lầm lỗi của mình cả.

Muốn có được được những điều ấy, muốn thực hành một cuộc hoán cải cuộc đời mình thì điều kiện cần thiết nhất mà mỗi người chúng ta phải có đó chính là thái độ khiêm nhường. Càng khiêm nhường bao nhiêu thì càng dễ hoán cải bấy nhiêu. Mà thực tế, chúng ta thấy những người kiêu ngạo thì khó có thể thay đổi con người mà thậm chí càng ngày càng lún sâu trong tội mà người kiêu ngạo đã phạm.

Nói về sự khiêm nhường, Thánh Phaolô đã nhắc cho chúng ta trong đoạn thư gửi giáo đoàn Philipphê mà cộng đoàn chúng ta vừa nghe: “Anh em chớ làm điều gì bởi ý cạnh tranh hay bởi tìm hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi kẻ khác vượt trổi hơn mình, mỗi người đừng chỉ nghĩ đến những sự thuộc về mình, nhưng hãy nghĩ đến những sự thuộc về kẻ khác. Anh em hãy cảm nghĩ trong anh em điều đã có trong Đức Giêsu Kitô”.

Trong Đức Kitô như thế nào? Xin thưa: “Người tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải dành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người với cách thức bề ngoài như một người phàm. Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá”.

Ngài mời gọi mỗi người chúng ta hãy nhìn vào gương Đức Giêsu và sống như Đức Giêsu đã sống. Ngài nói, Ngài dạy chúng ta nhưng chính Ngài đã sống: “Anh em hãy bắt chước tôi như tôi đã bắt chước Đức Kitô”. “Tôi không muốn biết điều gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh trên thập giá” (1 Cr 2,2).

Nếu chúng ta mặc lấy trong mình sự khiêm hạ thì chúng ta sẽ dễ dàng hoán cải đời mình, nếu chúng ta kiêu căng thì không bao giờ sửa mình được.

Phận người chúng ta mang trong mình biết bao nhiêu là yếu đuối, biết bao nhiêu là đổ vỡ nên cần lắm sự hoán cải. Nếu không hoán cải thì những người sống chung quanh chúng ta, trong gia đình chúng ta, trong cộng đoàn chúng ta sẽ rất vất vả vì chúng ta, thế nên chúng ta rất cần đến ơn hoán cải nơi mỗi người chúng ta.

Ít nhiều trong chúng ta vẫn thường cư xử với với Chúa, với anh chị em đồng loại mà gần nhất là với cha, với mẹ, với chồng, với con, với thành viên trong cộng đoàn chúng ta theo kiểu người con thứ hai là bề ngoài thì dạ dạ vâng vâng đấy nhưng thực chất thì chẳng bao giờ thì hành cái lời dạ dạ vâng vâng. Ước gì chúng ta nhìn lại hình ảnh của người con đầu là dù bề ngoài có khó chịu, có không vâng phục nhưng sau đó hồi tâm, hoán cải và thi hành điều Chúa, điều mà cha, mẹ, vợ, chồng, anh chị em đồng loại muốn nơi chúng ta.

Nguyện xin Chúa Giêsu là Đấng đã vâng phục và vâng phục cho đến chết và là cái chết trên thập giá giúp chúng ta sống tâm tình khiêm nhường sâu thẳm để chúng ta hoán cải cuộc đời chúng ta hầu mong sau cõi tạm này, chúng ta được cứu như những cô gái điếm và những người thu thuế biết hoán cải và được Chúa hứa Nước Trời như vậy. Amen.

9. Cải thiện cuộc sống – Lm. Ignatiô Trần Ngà

Đã là người thì không ai tránh khỏi lỗi lầm. Vì mọi người đều mắc phải lầm lỗi nên bất cứ ai cũng cần phải sám hối và sửa mình. Mắc phải lầm lỗi thì không đáng lên án, nhưng thái độ ngoan cố không nhận lỗi, không ăn năn hối hận và chìm đắm trong tội là điều tai hại và rất đáng tiếc. Thế nên, hôm nay Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta bài học rất quan trọng giúp chúng ta ăn năn phục thiện để trở thành người tốt.

Để cụ thể hoá bài học của mình, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn sau đây: Một người cha có hai con. Sáng hôm ấy, ông đếnvới đứa con thứ nhất và bảo nó: “Nầy con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho với cha”. Nó ương ngạnh trả lời: “Không! Con không đi!”. Người cha buồn lòng lặng lẽ quay sang đứa khác, mời nó ra vườn làm việc với ông. Cậu nầy dạ dạ vâng vâng: “Con sẽ đi!”, nhưng rồi không thấy tăm hơi đâu cả. Sau đó, người con thứ nhất hồi tâm lại, thấy được sai trái của mình nên hối hận vác cuốc ra đồng cùng làm với cha.

Thế là người con thứ nhất, dù ban đầu có phần ương bướng, nhưng biết xét lại, biết nhận ra lỗi mình và có quyết tâm sửa chữa nên đáng tuyên dương. Khi nói với các thượng tế và kỳ lão rằng: “Những người thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông”, Chúa Giêsu có ý chê trách những người nầy vì không biết ăn năn sửa lỗi đồng thời ngợi khen những người tội lỗi biết sám hối ăn năn sửa mình.

Chúa Giêsu còn đặc biệt tỏ lòng yêu mến đốivới những người biết hối cải qua câu chuyện người cha nhân lành và đứa con phung phá. Khi người con hoang đã phá sạch cả nửa gia tài với bọn đàng điếm nhưng rồi biết hồi tâm lại, biết thống hối ăn năn và quyết tâm chỗi dậy trở về cùng cha thì người cha quên hết mọi lầm lỗi của nó, chạy ra ôm hôn nó, tiếp đón nó với tất cả tình yêu thương.

* Vào những năm kinh tế còn khó khăn, gia đình ông Tư sắm được một chiếc xe máy Honda đời 67. Ông ra công bảo quản nó rất chu đáo; ngày ngày tỉ mỉ lau chùi từng chân căm, rồi lại dành ra cả tấm mền để trùm cả chiếc xe cho khỏi bụi. Ông cưng xe hơn cưng con, chẳng cho ai đụng đến. Nếu xe bị trầy, ông vô cùng xót xa. Nếu xe có gì trục trặc, dù rất nhẹ, ông phải đưa ra thợ sửa chữa liền. Trong khi đó, bản thân ông mang nhiều tật xấu, thói hư, bị hàng xóm láng giềng chê cười xa lánh, thì ông chẳng quan tâm sửa mình.

Bản thân con người quý hơn xe cộ cả triệu lần, nhưng khi bản thân hư hỏng, xuống cấp… nhiều người không cho là quan trọng! Xe hư, máy hư thì lo sửa liền, còn người hư thì cứ để mặc. Cứ để hư cho đến chết thì thôi! Thật là điều phi lý.

Khi mặt mày chúng ta lem luốc vì lọ nghẹ hay dầu mỡ, chắc chắn ai trong chúng ta cũng vội lau rửa cho sạch sẽ ngay. Khi thấy áo quần dơ bẩn và rách rưới, chúng ta sẽ thay áo khác liền. Khi cơ thể chúng ta dơ dáy và bốc mùi hôi, chắc chắn chúng ta sẽ tắm rửa ngay không trì hoãn.Vậy thì khi tâm hồn chúng ta lem luốc, dơ bẩn vì tội lỗi thói hư, lẽ nào chúng ta lại cứ để mặc như thế hết ngày nầy qua ngày khác sao?

Trong công nghệ thông tin hay sản xuất hàng tiêu dùng, việc cải tiến chất lượng sản phẩm là vấn đề sinh tử của các công ty. Châm ngôn của các nhà phát minh và chế tạo là: “Cải tiến hay là chết.” Thế nên người ta không ngừng rà soát lại những nhược điểm của sản phẩm và phải khắc phục bằng mọi giá trước khi tung ra thị trường.

Giá trị con người vượt xa giá trị hàng hoá cả triệu lần. Ước gì trong lĩnh vực đạo đức, mỗi người cũng rà soát lại những khuyết điểm của mình để cải thiện cho xứng với tầm vóc người con cái Chúa. Nguyện xin Chúa Giêsu ban ơn giúp sức cho chúng ta thực hiện được công cuộc cải thiện tối cần thiết nầy.

10. Nói và làm

(Văn Hào, SDB chuyển ngữ)

“Trong hai người, ai đã làm theo ý của cha mình?” (Mt 21,31).

Khác với các dụ ngôn khác, dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay dường như không đưa ra một vấn đề hóc búa hoặc khó trả lời. Người cha nói với cả hai người con ra vườn nho làm việc. Người con thứ nhất nói không, nhưng sau đó nó thay đổi và đi làm. Người con thứ hai nói vâng nhưng rồi lại không đi. Có vẻ như không khó khăn gì để trả lời câu hỏi của Đức Giêsu “Ai trong hai người đã làm theo ý của cha mình? Chắc chắn, câu trả lời của chúng ta, là đứa con lúc đầu tuy đã từ chối, nhưng sau đó lại thi hành mệnh lệnh của cha. Đối với não trạng văn hóa cổ xưa thì không phải vậy. Theo các bản văn ban đầu, người ta lại đánh giá người con thứ hai cao hơn, bởi vì nó nói có, cho dù sau đó nó không đi. Trong một nền văn hóa mà người ta trọng hình thức bên ngoài, thì có lẽ đứa con thứ hai đã mauchóng đáp trả lời mời gọi của cha,sẽ được trọng thị và tán thưởng hơn, cho dù xét về khía cạnh khác thì nó đáng xấu hổ vì đã không thực hiện lời hứa. Vào thời bấy giở, hình ảnh đứa con thưa vâng vẫn tốt hơn là đứa con công khai bất tuân lời cha, cho dù sau đó, nó hối hận và đi làm.

Theo mạch văn trong Tin mừng Matthêu, Đức Giêsu đã dùng dụ ngôn để trực tiếp công kích thái độ của các lãnh đạo tôn giáo thời Ngài. Họ là những người cố tình công khai chống đối Đức Giêsu, không tin tưởng vào Ngài và thách đố quyền bính của Ngài. Đức Giêsu đã dùng một kỹ thuật giống như ngôn sứ Nathan đã sử dụng khi đến gặp Đavit, để nói cho nhà vua về tội mà ông đã phạm với bà Bát Seva, vợ của tướng quân Urigia. Nathan kể câu truyện về một gã nhà giầu đã tước đoạt con bê duy nhất của người hàng xóm nghèo sống bên cạnh nhà mình (2Sm 12, 1-12). Nathan gợi nhắc Đavit hãy đưa ra một phán quyết đối với tên nhà giàu gian tham ấy, và cuối cùng đó cũng chính là phán quyết dành cho chính nhà vua.

Tương tự như vây, dụ ngôn của Đức Giêsu cũng nhắc nhở những người lãnh đạo tôn giáo thời Ngài hãy hối cải, để làm sao những điều họ nói, họ giảng dạy tương hợp với những gì họ thực hành. Trước đó, Đức Giêsu cũng cảnh báo các môn đệ là không phải chỉ nói suông “Lạy Chúa, lạy Chúa”, nhưng còn phải thực hiện thánh ý của Thiên Chúa (Mt 7,21-27). Trong Mt 23,3Đức Giêsu cũng cảnh báo đám đông cũng như các môn đệ đừng làm theo những gì mà các người biệt phái và ký lục đã nêu gương, bởi vì họ chỉ nói nhưng không thực hành. Bài Tin mừng hôm nay vén mở ra một chân trời hy vọng để chờ đón họ: Vẫn còn thời gian để họ biết quay trở về, và thực hiện những gì tương thích với lời họ giảng dạy.

Chúa Giêsu đã kết thúc dụ ngôn bằng một lời nhắc nhở mạnh mẽ hầu có thể làm lay động trái tim chai lỳ của các vị lãnh đạo tôn giáo lúc bấy giờ “ Tôi nói cho các ông biết, phường tội lỗi và đĩ điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông”. Câu nói này không nhằm chỉnh sửa các môn đệ. Nó cũng không có dụng ý nêu bật sự tương phản giữa cái gì xấu nhất và cái gì tốt nhất mà chúng ta có thể nghĩ tưởng ra. Đích nhắm của Chúa Giêsu bắn thẳng vào các đầu mục Do thái giáo. Họ là những người có nhiệm vụ đưa dẫn kẻ khác vào Nước Trời, nhưng liệu họ có thực hiện được hay không. Chính những kẻ vẫn bị cho là nhỏ bé và thấp kém nhất, lại là những người trước tiên sẽ được vào Nước Trời, khi họ biết hối cải và tin vào Thiên Chúa.

Chúng ta rất dễ nhận ra sự khác biệt giữa lời nói và việc làm, nơi phong cách sống của một ai đó. Chúng ta rất dễ phê phán người Pharisiêu trong Tin Mừng hôm nay, hay những vị lãnh đạo tôn giáo thời Chúa Giêsu, và thấy họ cần phải sửa đổi. Nhưng rất khó để chúng ta can đảm nhìn lại cuộc sống của chính chúng ta xem những điều chúng ta nói, chúng ta giảng dạy có đi đôi với việc chúng ta thực hành cụ thể hay chưa. Nói rằng tôi đang theo Đức Giêsu, thì quả là khá dễ dàng, nhưng để thực hiện những giáo huấn của Ngài không phải là chuyện giản đơn. Khi chúng ta tự nhủ với lòng mình, ví dụ tôi cần phải cầu nguyện, nhưng trong thực tế, liệutôi có dành đủ thời gian và chọn những nơi chốn thích hợp để thực hành việc đó hay không. Chúng ta nói, chúng ta quan tâm đến người nghèo, nhưng trong thực tế, chúng ta đã thực hiện một cách cụ thể ra sao?

Cũng may mắn thay, việc thực hiện một cách tương thích giữa lời nói và việc làm không phải là một gánh nặng chỉ đè nặng trên vai chúng ta mà thôi. Sự vâng phục của Đức Giêsu trên Thập giá vẫn mãi là gương mẫu để soi dẫn cho ta. Trong bài đọc thứ hai, Thánh Phaolô đã nói đến sự vâng phục này. Ngài đã tự biến mình ra không, và diễn tả một tình yêu sâu tận dành trao cho Thiên Chúa. Ngài trở nênkhuôn mẫu nội tâm, bơm thêm sức mạnh, giúp chúng ta không những chỉ nói vâng, nhưng còn biết thực hiện bằng những việc làm cụ thể. Sự vâng phục của Đức Giêsu sẽ soi sáng, giúp chúng ta canh tân đổi mới mỗi ngày, gọi mời chúng ta biết mở lòng để hoán cải, và giúp cho những con người hèn mọn bé nhỏ nhất có thể vào được Vương quốc Nước Trời khi biết thực hiện theo chỉ huấn này.

11. Ngôn hành bất nhất – Thiên Phúc

(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)

Vợ thầy Tăng Tử đi chợ. Con khóc, đòi đi theo. Mẹ bảo:

– Con ở nhà rồi mẹ về làm thịt lợn cho con ăn!

Lúc vợ về, thầy Tăng Tử đi bắt lợn làm thịt. Vợ nói:

– Tôi nói đùa nó đấy mà!

Thầy Tăng Tử bảo:

– Nói đùa thế nào? Đừng khinh trẻ thơ không biết gì. Cha mẹ làm gì nó thường hay bắt chước. Nay mình nói dối nó, chẳng là mình dạy nó nói dối ư?

Tăng Tử nói xong làm thịt lợn cho con ăn.

***

Chỉ vì một lời hứa bông đùa của người vợ, mà thày Tăng Tử phải quyết định làm thịt lợn cho con ăn.

Kẻ sĩ là như vậy đó! Người có nhân cách là thế đó! Một lời nói không đi đôi với việc làm là một lời nói vô giá trị.

Hôm nay Đức Giêsu kể dụ ngôn người cha sai con đi làm vườn nho. Người con thứ hai nhận lời, nhưng sau lại không đi làm. Người con thứ nhất từ chối, về sau hối hận nên lại di. Đức Giêsu muốn ám chỉ các thượng tế và kỳ mục là người con thứ hai. Họ cho mình là chu toàn lề luật, đạo đức hơn người, nhưng thực ra họ chỉ nói mà không làm. Họ bắt kẻ khác tuân giữ luật lệ nhưng chính họ lại tránh né. Họ chất lên vai dân chúng gánh nặng mà chính họ cũng không thể mang nổi. Tệ hơn nữa, họ đã tự mãn đến độ không tin nhận Đức Giêsu là Đấng Thiên Chúa sai đến.

Trái lại, người con thứ nhất được ví như các người thu thế và những cô gái điếm. Họ là những người tội lỗi công khai, bị lọai ra khỏi hội đường và bị gạt ra bên lề xã hội. Nhưng họ đã thành tâm hối cải và tin vào Đức Giêsu là Cứu Chúa của họ. Vì thế, Người đã tuyên bố một câu đầy kinh ngạc cho các nhà lãnh đạo Do thái giáo: “Tôi bảo thật các ông; những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21,31).

Như thế Nước Thiên Chúa là của những kẻ có niềm tin. Tin vào Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, tin vào Người là Con Người được Cha sai đến. Niềm tin ấy chỉ đáng tin khi nó được thể hiện bằng việc làm cụ thể. Thánh Giacobe khẳng định: “Đức Tin không có việc làm là Đức Tin chết” (Gc 2,26). Đức tin không chỉ được tuyên xưng ngoài miệng, nhưng còn phải chứng minh bằng việc làm. Vì hành động cụ thể thuyết phục hơn lời nói suông. Những công trình trước mắt có giá trị hơn những dự án viễn vông.

Đức Giêsu không bao giờ rao giảng những gì mà Người đã không thực hiện trước. Người dạy các môn đệ tránh xa thứ men giả hình của Pharisiêu, là thái độ “ngôn hành bất nhất”, vì “họ nói mà không làm”. Người đã từng tuyên bố: “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc” (Ga 5,17). Người hằng làm theo thánh ý Cha, và mong muốn chúng ta cũng hãy làm như vậy: “Không phải mọi kẻ nói với Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa, là sẽ được vào Nước Trời, nhưng là kẻ làm theo ý Cha Thầy” (Mt 7,21).

***

Lạy Chúa, xin cho những lời chúng con tuyên xưng cũng sẽ là những thực hành của chúng con trong cuộc sống. Xin cho chúng con chỉ biết có một điều, là chúng con đang thi hành thánh ý Chúa. Amen.

12. Người con vâng lời – Lm. Trầm Phúc

Giữa những người Pha-ri-sêu và Chúa Giêsu vẫn tồn tại một sự căng thẳng ngày càng gay gắt hơn. Dân chúng càng ca tụng Chúa Giêsu bao nhiêu, họ càng căm ghét Ngài bấy nhiêu. Chúa Giêsu cũng biết điều đó và đôi khi Ngài về xứ Giu-đê để tránh những cuộc đụng độ không có lợi cho công việc của Ngài. Người Pha-ri-sêu có quan niệm rất sai lầm là hễ người nào làm đúng những điều luật dạy, đúng nghi thức bên ngoài, thì được cho là người công chính, mà không cần biết tâm hồn có thành thật hay không. Chúa Giêsu đã thẳng thừng cảnh báo về lối sống đạo giả hình này.

Dụ ngôn về hai người con trai là một dụ ngôn có tính cách tranh luận, và Chúa Giêsu đã tỏ ra quyết liệt: “Tôi bảo thật các ông: những người tội lỗi và gái điếm vào Nước Trời trước các ông”.

Không có cách nói nào mạnh hơn!

Nhưng lòng cứng tin của nhóm Pha-ri-sêu đã buộc Ngài phải cứng rắn, thế nhưng họ vẫn phớt lờ, và họ đã đi đến mù quáng đến nỗi giết Chúa, là Đấng vô tội.

Chúng ta có cứng tin và chai lì như thế không?

Chắc chúng ta không nghĩ rằng chúng ta có thể chai lì như thế. Chúng ta vẫn tin Chúa, vẫn giữ luật Chúa một cách khá nghiêm túc. Nhưng cần phải xem xét lại.

Lời cảnh báo của Chúa thật rõ ràng.

Chúng ta không thể nhận mình là đứa con “nói mà không làm”, nhưng thực tế thì cũng có thể như thế lắm. Nhiều người trong chúng ta chỉ biết nói “Lạy Chúa, lạy Chúa”, nhưng tuân giữ lời Chúa lại là một chuyện khác.

Chúng ta hãy thử làm một bảng kê khai những gì chúng ta đã làm cho Chúa, và những gì chúng ta đã không làm, chúng ta sẽ thấy ngay chúng ta thuộc về hạng nào trong hai người con trong dụ ngôn.

Với dụ ngôn nầy, Chúa Giêsu muốn cho nhóm Pha-ri-sêu thấy rằng họ không thể tự cấp cho mình một giấy chứng nhận công chính. Chỉ có Thiên Chúa mới có thẩm quyền xét xử.

Sự tự mãn làm chai cứng con tim và làm mù lòa đôi mắt. Nhóm Pha-ri-sêu cứng tin vì tự mãn, và tự khép kín trong sự công chính giả tạo của mình, không thể mở ra để đón nhận ánh sáng và sự mới mẻ tuyệt diệu của Thiên Chúa.

Dụ ngôn cho thấy, lời nói suông không có giá trị, việc làm mới đáng thưởng công.

Chúa Giêsu không phải là một lý thuyết gia. Cả cuộc đời của Ngài là một lời giảng dạy liên tục. Nơi Ngài, lời nói đi đôi với việc làm.

Đứa con trai đã trả lời cách vô lễ với cha mình: “Con không làm!” Có lẽ lúc ấy anh đang nghĩ đến việc đi chơi hay một công việc riêng tư, nhưng anh đã kịp hối hận và làm theo lời của cha mình. Biết hối hận là một điều đáng quí. Nhờ đó, chúng ta mới trở về với con đường chính trực. Ai trong chúng ta dám nhận rằng mình luôn làm theo ý Chúa như Chúa Giêsu?

Chỉ có Chúa Giêsu là Người Con duy nhất luôn “làm đẹp lòng Cha, làm những gì thấy nơi Cha”.

Thánh Mat-thêu, khi ghi lại những lời này, có lẽ đã nghĩ đến thân phận của Ngài khi còn là một nhân viên thu thuế: “Những người đĩ điếm và thu thuế sẽ vào Nước Trời trước các ông”, và “Chúa không chê bỏ những tâm hồn đau thương giập nát”.

Trước mặt Chúa, thái độ nội tâm mới được chấp nhận. Giữ đạo theo kiểu Pha-ri-sêu chẳng ích lợi gì cho ai. Chúa Giêsu đã nhiều lần cảnh báo họ và dân chúng: “Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên tòa ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm”. Đó chính là thái độ của đứa con “thưa vâng” nhưng không làm.

Chúng ta thấy thái độ chối từ của nhóm Pha-ri-sêu, chúng ta không thể chấp nhận, nhưng hãy coi chừng! Chúng ta có thể trở nên như họ, nếu chúng ta không thực tâm nhìn nhận sự mong manh yếu đuối của mình. Chúng ta dễ bị ảnh hưởng của nếp sống thế gian, chúng ta quen thấy những người quanh ta nói mà không làm… Và một ngày nào đó, chúng ta cũng trở nên giống như họ, nếu chúng ta không thực sự gắn bó với Chúa, nếu chúng ta không dám nhận mình thiếu sót và dám quay về với Chúa.

Chúa Giêsu nhắc đến Gioan Tẩy Giả và một lần nữa, nhắc đến sự cứng tin và kiêu căng của nhóm Pha-ri-sêu. Họ đã không nghe lời Gioan khuyến cáo và Chúa nhắc lại một lần nữa: “Những người thu thuế và gái điếm đã tin ngài… các ông không hối hận mà tin ngài…”

Nhắc đến Gioan, Chúa Giêsu muốn chứng minh rằng ông là người của Thiên Chúa. Ông kêu gọi mọi người ăn năn thống hối và trở về với Chúa. Không tin ông thì sẽ ra sao? Giáo Hội hôm nay, tiếp nối sứ mệnh cứu độ của Chúa Giêsu, đang khẩn thiết mời gọi chúng ta trở về, tin vào Chúa mãnh liệt hơn, đi vào con đường khiêm tốn của Chúa, từ bỏ sở thích riêng, những ước mơ tự lập hèn kém, để sống như Ngài, một Thiên Chúa toàn năng, cao cả, nay trở “nên như người phàm…, vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá”.

Chúng ta là gì mà muốn tự mình tìm hạnh phúc cho mình? Con đường tự lập, cố chấp sẽ dẫn chúng ta về đâu? Chúng ta dựa vào cái gì để có thể cầm lấy vận mạng của mình?

 “Hãy theo Ta”.

Chúa Giêsu luôn mời gọi. Theo Chúa trên con đường khiêm tốn, theo Chúa trên con đường bỏ mình, theo Chúa trên con đường vâng phục ý Cha. Đó mới là con đường đưa chúng ta đến vinh quang vĩnh cửu.

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta theo Ngài. Ngài mở cho chúng ta vào khung trời vô biên của Thiên Chúa. Mặc dù con đường của Ngài có thể đưa chúng ta đến đỉnh đồi thống khổ Can-vê, nhưng ở đó có Chúa; và ở đó, chúng ta tìm được ơn cứu độ. Người trộm lành đã tìm được ơn tha thứ trên thập giá. Viên đội trưởng đã đâm cạnh sườn Chúa Giêsu đã tìm được niềm tin: “Quả thật, ông nầy là Con Thiên Chúa!” (Mt 27,54).

Đức tin phát xuất từ đau khổ, từ tâm tình khiêm nhường thống hối. Những người thực sự tin Chúa đều có thể nói như thánh Phao-lô: “Giữa anh em, tôi không muốn biết gì khác ngoài Chúa Giêsu Ki-tô chịu đóng đinh thập giá”.

Tuy chúng ta còn yếu đuối, nhưng Cha trên trời không chỉ nhìn đến sự yếu đuối; Ngài mời gọi chúng ta trở về với Ngài, để nên một đứa con biết vâng lời, mặc dù đôi khi cũng ương ngạnh. Các thánh mà chúng ta thường nhắc đến đều là những người đã lỗi lầm nhưng đã trở về như Phê-rô, Phao-lô, Maria Ma-đa-lê-na… Gương lành của các thánh là một khích lệ cho chúng ta. Dù yếu đuối, lỗi phạm lúc nào đó, chúng ta vẫn có thể vào làm vườn nho cho Cha. Sự dại khờ, ham chơi của chúng ta là một kinh nghiệm để chúng ta, một khi biết suy nghĩ, chúng ta hăng hái hơn, và giúp anh em chúng ta cùng đi vào con đường vâng phục đầy hứa hẹn.

Chúa Giêsu đến với chúng ta hôm nay nơi bàn thờ, chính là đứa con hoàn hảo của Chúa Cha. Ngài đã vâng phục Chúa Cha triệt để. Ngài đã cứu chúng ta bằng sự vâng phục của Ngài.

Hãy học với Ngài bài học quí báu đó. Hãy ăn lấy Ngài để cùng với Ngài làm sáng danh Cha.

13. Suy niệm và chú giải của Lm. Inhaxio Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật 26 Thường Niên Năm A nhấn mạnh trách nhiệm của mỗi người trước tội lỗi và khả năng hoán cải vẫn luôn được chờ đợi.

Ed 18: 25-28

Ngôn sứ Ê-dê-ki-en nói rằng thái độ của con người không bất di bất dịch trong sự công chính cũng như gian ác. Thiên Chúa không muốn kẻ gian ác phải chết nhưng hồi tâm hoán cải để được sống.

Pl 2: 1-11

Trong thư gởi tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng sự đồng tâm nhất trí phải ngự trị giữa các người Ki-tô hữu và việc thực hành đức khiêm nhường theo gương Đức Ki-tô cũng quan trọng không kém.

Mt 21: 28-32

Tin Mừng Mát-thêu kể cho chúng ta dụ ngôn hai người con. Người thứ nhất khước từ lời mời gọi của cha mình, nhưng rồi sau đó hối hận nên thi hành ý muốn của cha mình. Người con thứ hai ngoan ngoãn vâng theo ý muốn của cha, nhưng rồi không làm gì cả. Điều quan trọng không phải là ngày hôm qua bạn đã trả lời với Thiên Chúa như thế nào, nhưng là ngày hôm nay bạn có thực sự thi hành ‎ý muốn của Thiên Chúa hay không.

BÀI ĐỌC I (Ed 18: 25-28)

Sau khi vương quốc Giu-đa bị đế quốc Ba-by-lon xâm chiếm, ngôn sứ Ê-dê-ki-en thuộc nhóm đầu tiên bị lưu đày. Ông gẫm suy ‎ý nghĩa của các biến cố. Vừa tư tế vừa ngôn sứ, ông quan tâm đến người tội lỗi. Việc dân Ít-ra-en đang phải chịu một sự thử thách nặng nề đã khiến ông suy nghĩ về vấn đề án phạt tập thể và trách nhiệm cá nhân.

  1. Án phạt tập thể:

Dân Chúa chọn phải trả lẽ về tội bất trung dài lâu đối với Thiên Chúa của mình. Cũng như ngôn sứ Giê-rê-mi-a, ngôn sứ Ê-dê-ki-en loan báo tai họa. Trong số những người bị lưu đày, không ai không nghĩ đến bản văn của sách Lê-vi: “Các ngươi sẽ bị diệt vong giữa các dân tộc, và đất của kẻ thù các ngươi sẽ nuốt các ngươi. Những kẻ còn lại trong số các ngươi sẽ chết dần chết mòn vì lỗi lầm của chúng, trong đất của kẻ thù chúng; chúng sẽ chết dần chết mòn vì lỗi lầm của cha ông chúng, cộng với lỗi lầm của chúng” (Lv 26: 38-39).

Ngôn sứ Ê-dê-ki-en sắp phá vỡ quan niệm truyền thống nầy, lật đổ thuyết định mệnh bất di bất dịch đang đè nặng trên những người lưu đày biệt xứ trong hoàn cảnh khốn cùng của họ, theo đó con cháu phải còng lưng gánh tội cho cha ông như câu ngạn ngữ phổ biến nầy: “Đời cha ăn nho xanh, đời con phải ê răng”. Để họ lấy lại niềm tin vào tương lai, vị ngôn sứ gởi đến họ sứ điệp với những dấu nhấn mới: Mỗi người chỉ chịu trách nhiệm về chính mình, con người có thể trút bỏ được gánh nặng của quá khứ để khởi sự xây dựng hiện tại và xây đắp tương lai.

  1. Trách nhiệm cá nhân:

Trước đoạn trích dẫn hôm nay, vị ngôn sứ nói: “Sự công chính của người công chính ở với người công chính. Còn điều dữ của kẻ gian ác ở với kẻ gian ác” (Ed 18: 20). Tuy nhiên, không có gì là bất di bất dịch cả. Người công chính có thể sa ngã và kẻ gian ác cũng có thể hoán cải. Những người lưu đày quen với sự liên đới gia đình hay dân tộc, không sẵn lòng lắng nghe sứ điệp nầy khi phát biểu: “Đường lối của Đức Chúa không ngay thẳng!”. Vị ngôn sứ trả lời: “Không một chút nào, chính đường lối của các ngươi đấy chứ! Khi người công chính bỏ đường công chính mà làm điều gian phi, rồi vì thế mà nó phải chết, thì chính là vì điều gian phi nó đã làm, mà nó phải chết. Còn khi kẻ bất lương bỏ việc bất lương nó đã làm, mà thi hành điều công minh chính trực, thì nó sẽ được sống”.

Trước ngôn sứ Ê-dê-ki-en, sách Đệ Nhị Luật, khi duyệt xét lại Luật Mô-sê, đã đưa vào quan niệm về án phạt cá nhân: “Cha sẽ không bị xử tử vì con, và con sẽ không bị xử tử vì cha: mỗi người sẽ bị xử tử vì tội của mình” (Đnl 24: 16). Tuy nhiên, ngôn sứ Ê-dê-ki-en còn đi xa hơn: ông cắt đứt mọi liên đới của toàn thể thế hệ nầy khỏi các thế hệ trước đó, và mỗi cá nhân khỏi quá khứ của mình: cốt là đổi mới và hình thành lại một dân tộc mới. Chủ yếu là lấy lại niềm tin tưởng vào sự công chính của Thiên Chúa, “Đấng không muốn người tội lỗi phải chết, nhưng hối cải để được sống”.

BÀI ĐỌC II (Pl 2: 1-11)

Chúng ta tiếp tục đọc thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-líp-phê mà chúng ta đã bắt đầu vào Chúa Nhật tuần trước. Trong cảnh “gông cùm xiềng xích” có thể ở Ê-phê-xô, thánh nhân viết cho các tín hữu Phi-líp-phê, một bức tâm thư.

  1. Đồng tâm nhất trí:

Những lời khích lệ của thánh Phao-lô để lộ vài bất đồng trong cộng đoàn Phi-líp-phê. Chúng ta không biết họ bất đồng về chuyện gì. Bức thư chỉ kín đáo ám chỉ đến. Trong phần cuối của bức thư nầy, sự bất đồng giữa hai người Ki-tô hữu được gợi lên, nhưng trong đoạn trích nầy, những lời thiết tha gởi đến cộng đoàn để kêu mời mọi người hãy khiêm nhường mà đồng tâm nhất trí với nhau.

Cung giọng thân quen của bức thư không ngăn cản vài tư tưởng đẹp và văn chương bay bổng. Những lời gởi gắm chan chứa ân tình của thánh nhân được trình bày theo thể thức điều kiện đem lại cho lời mời gọi của ngài một sự trang trọng nào đó. Lời mở đầu: “Nếu quả thật, sự liên kết với Đức Ki-tô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, nếu tình bác ái khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần Khí, nếu chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau” gợi nhớ lại lời cầu chúc cuối thư thứ hai gởi các tín hữu Cô-rin-tô: “Nguyện xin Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng anh em”. Rõ ràng, thánh Phao-lô muốn đặt lời mời gọi cộng đoàn đồng tâm nhất trí với nhau dưới dấu hiệu của sự hiệp nhất Thiên Chúa Ba Ngôi.

Thánh Phao-lô không chỉ nói đến lòng mộ đạo của các tín hữu Phi-líp-phê, nhưng ngài còn nói đến tấm lòng của họ, đến tình nghĩa keo sơn bền chặt của họ đối với ngài. Thánh nhân xin họ cho ngài niềm vui lớn lao nầy là biết họ nên một lòng một ý với nhau.

  1. Đức khiêm nhường:

Đối với đức khiêm nhường, thánh nhân khuyên bảo: “Đừng làm vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình”. Phương thuốc tốt nhất để chữa lành thói kêu căng và vị kỷ là quan tâm đến tha nhân. Thánh nhân khuyên họ hãy mặc lấy tâm tình của Đức Ki-tô, Đấng đã tự hạ mặc lấy thân phận con người của chúng ta cho đến bằng lòng chịu chết, chết trên thập giá.

Lúc đó, thánh nhân trích dẫn một bài thánh thi, bằng chứng cổ xưa nhất và rõ ràng nhất về niềm tin Ki-tô giáo rất sớm vào thần tính và cuộc sống tiền hữu của Chúa Ki-tô.

TIN MỪNG (Mt 21:28-32)

Sau khi đã long trọng vào thành thánh Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su thực hiện sứ vụ cuối cùng. Ngài đặt thính giả của Ngài trước một sự chọn lựa dứt khoát: hoặc nhận ra Ngài là Đấng Mê-si-a, Con Thiên Chúa, hay loại bỏ Ngài. Vào lúc nầy, thánh Mát-thêu thuật lại ba dụ ngôn: dụ ngôn hai người con, dụ ngôn những tá điền sát nhân và dụ ngôn tiệc cưới, qua đó Ngài loan báo Nước Trời sẽ bị lấy đi khỏi những kẻ được hứa ban mà trao cho những người khác. Chúng ta sẽ đọc ba dụ ngôn nầy trong suốt ba Chúa Nhật liên tiếp nhau.

  1. Đối tượng mà dụ ngôn nhắm đến:

Đối tượng mà Đức Giê-su ngỏ lời là các thượng tế và kỳ mục. “Các thượng tế” là giai cấp lãnh đạo cao nhất của người Do thái vào thời Đức Giê-su. “Các kỳ mục” là những bậc vị vọng, những thành viên qu‎ý tộc và những điền chủ giàu có. Cả hai giai cấp nầy đều là những đối thủ không đội trời chung với Đức Giê-su. Ở đây, thánh Mát-thêu không nêu tên các kinh sư, chung chung họ thuộc về giai cấp trung lưu. Thánh Mát-thêu quy trách nhiệm nhiều hơn trên những giai cấp lãnh đạo có quyền thế nhất trong dân Ít-ra-en về cái chết của Đức Giê-su.

  1. Lời lời mời gọi tối hậu của Đức Giê-su.

Ngay từ đầu Tin Mừng, Đức Giê-su đề nghị các vị lãnh đạo Do thái suy nghĩ một điều khó hiểu theo hình thức dụ ngôn: “Các ông nghĩ sao về chuyện sau đây?”. Quả thật, đây là một lời cảnh báo tối hậu, một lời kêu gọi sau cùng thực thi ý muốn của cha, sau khi đã khước từ lời mời gọi của cha.

Nét đáng chú ý của dụ ngôn là việc chọn lựa “hai người con”, nghĩa là người cha đều dành cho cả hai đứa con mình tình thương yêu như nhau. Đứa con thứ nhất từ chối lời mời gọi của người cha: “Không, con không đi đâu”, nhưng rồi lại thi hành ‎ý muốn của cha, trong khi đưa con thứ hai đã ngoan ngoãn đáp lại lời mời gọi của cha: “Thưa cha, vâng!”, nhưng rồi lại không thi hành ý muốn của cha.

Bản văn Ê-dê-ki-en nhắc lại rằng Thiên Chúa không muốn người tội lỗi phải chết, và vì sự tự do của con người mà không có gì bất di bất dịch: người công chính có thể sa ngã và kẻ tội lỗi có thể hoán cải. Đây là ý nghĩa phi thời gian của dụ ngôn về hai người con. Dụ ngôn giải thích sự thay đổi thái độ của người con thứ nhất: “Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi”, nhưng lại không nêu ra l‎ý do nào người con thứ hai sau đó lại thay đổi triệt để như thế. Tuy nhiên, chúng ta có thể nghĩ đến một lời khác của Đức Ki-tô: “Không phải những ai nói: “Lạy Chúa, Lạy Chúa!” là được vào Nước Trời đâu, nhưng chính là thi ‎hành ý muốn của Cha tôi”.

  1. Ý nghĩa của dụ ngôn.

Phần sau cùng của dụ ngôn nầy gây nên những tranh cãi. Những lời nầy của Đức Giê-su có thật sự được đặt vào ở đây chứ? Phải chăng chúng đã được đưa vào ở đây vào lúc biên soạn sau cùng của Tin Mừng chứ? Trước hết, thánh Mát-thêu hiếm khi nói “Nước Thiên Chúa” thay vì “Nước Trời”. Hơn nữa, tại sao tin vào lời của ông Gioan được dùng làm điểm mốc, trong khi đó chính trên thái độ đối với sứ điệp của Ngài mà Đức Giê-su ngầm đặt câu hỏi?

Đức Giê-su không ngần ngại nói thẳng ra: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế, những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông đấy”. Đức Giê-su chủ đích đưa ra cho giai cấp lãnh đạo Do thái hai mẫu người tội lỗi công khai bị khinh bỉ đặc biệt nhằm tác động thật mạnh vào tính tự cao tự đại cố hữu của họ. Quả thật, các thượng tế và kỳ mục đều đã biết sứ điệp của Gioan Tẩy Giả, nhưng không chịu tin, họ vẫn một mực từ chối lời mời gọi của Thiên Chúa qua ông Gioan. Trái lại, phường thu thuế và bọn gái điếm đã lắng nghe ông Gioan và hoán cải.

Thiên Chúa chỉ xét đoán con người dựa trên thái độ hiện tại của họ, cho dù quá khứ như thế nào đi nữa. Chính những giây phút hiện tại mới là quan trọng. Đối với Thiên Chúa, cái ngày hôm nay mới là quan trọng. Vì thế, sứ điệp của sách Đệ Nhị luật luôn luôn bắt đầu với “ngày hôm nay”: “Phải chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người, đừng cứng lòng nữa”.

14. Tuân hành Thánh Ý Chúa

MINH HỌA LỜI CHÚA

  1. Cây đinh rỉ sét và cong quẹo

“Người cha đến nói với đứa con thứ nhất: Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho. Nó đáp: Con không muốn đâu. Nhưng sau đó nó hối hận, nên đi” (Mt. 21, 28-29).

Một người nghiện rượu. Ông cũng xa rời Thiên Chúa và gia đình.

Một hôm trong khi đi đường, ông hối hận vì cuộc sống hiện tại của mình, khi ông thấy một cây đinh rỉ sét và cong quẹo. Cây đinh đó nhắc nhở ông về bản thân và cuộc đời ông. Vì vậy, ông nhặt nó đem về nhà. Ông đặt nó lên đe, gò cho thẳng lại và lau sạch rỉ sét. Một giờ sau, cây đinh mới lại.

Cũng thế, ông cũng có thể uốn nắn và thanh tẩy cuộc đời ông. Suy nghĩ đó đã đem lại cho ông một sự biến đổi: ông bỏ rượu, trở về với Thiên Chúa và gia đình. Hiện nay ông vẫn giữ cây đinh đã được gò thẳng và lau sạch đó trong ví của mình.

Đã có bao giờ tôi hầu như giống cây đinh cong quẹo và rỉ sét đó không? Điều gì đã làm tôi thay đổi?

“Ai sám hối thì đã được sạch tội rồi” (Seneca) (Trích “Viễn tượng 2000”).

  1. Trong căn phòng khách sạn

Tomas Merton mồ côi cha mẹ năm lên 16 tuổi. Năm lên 23, cậu gặp được Chúa Kitô. Năm 24 tuổi, chàng làm phóng viên tờ Nữu Ước thời báo. Năm 26 tuổi, chàng thu gom tài sản vào cái túi vải, đến sống ở Kentucky và trở thành một thầy dòng chiêm niệm.

Trong cuốn “tự thuật”, Tomas Merton thuật lại tiến trình hối cải của mình: Sau khi tốt nghiệp trung học, cậu đi du lịch qua Âu Châu và ở trọ trong khách sạn, cuộc đời buông thả. Nhưng cũng chính ở đây, một đêm nọ cậu ý thức tội lỗi của mình và ước muốn thoát khỏi thảm cảnh đó. Cậu cầu nguyện và đây là lần đầu cậu thực sự cầu nguyện và xin Chúa giúp cậu thoát khỏi quyền lực xấu xa cầm giữ tâm hồn cậu.

Câu chuyện Tomas Merton hôm nay minh họa sự hối lỗi của người con trong Tin Mừng hôm nay: “Nó hối hận nên lại đi làm vườn nho” (Mt. 21, 29)

Điều gì giúp con người hối cải?

Thần học gia Soren Kierkegaard nói: “Không có tình trạng đã thành Kitô hữu mà chỉ có tình trạng đang trở thành Kitô hữu”. Như thế việc hoán cải là một tiến trình kéo dài cho đến lúc lìa đời, chứ không bao giờ chấm dứt. Và việc hối cải phải qua 3 giai đoạn:

Trước hết là sự bất mãn về kiếp sống sai trái hiện tại của mình.

Kế đến là quyết tâm làm một điều gì đó cho cuộc đời mình.

Sau cùng là thực hiện cho mình cuộc sống mới tốt đẹp đúng đắn.

Do đó, Lời Chúa trong các bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta khám phá cuộc sống của mình, để thấy những gì sai trái, những gì chưa thích hợp với Ý Chúa thì lo tu chỉnh lại. (Theo “Sunday homilies”).

  1. Con người bất lực

Thánh Phaolô đã xưng thú sự bất lực của ngài: “Tôi không hiểu nổi chính tôi, điều tôi muốn làm thì tôi không làm nổi; còn điều tôi ghét thì tôi lại làm. Ý muốn làm điều tốt thì thực sự có trong tôi, nhưng việc thực hiện thì không” (Rm. 7,15).

Thánh Phao lô là một trong số các tông đồ nhiệt thành năng nổ nhất của Chúa. Thế mà Thánh Nhân cũng phải nhìn nhận sự bất lực của bản thân mình. Sự bất lực của Thánh Nhân minh họa cho trường hợp hai người con trong Tin Mưng hôm nay. Khi người cha kêu gọi đi làm vườn nho, một người trả lời: “Con không muốn đâu! Nhưng sau đó nó hối hận nên đi”. Còn người kia thì đáp: “Thưa ngài, con đây! Nhưng rồi lại không đi”. (Mt. 21, 29-30)

Sau những kinh nghiêm sống đạo, chắc chắn chúng ta cũng ý thức về những bất lực của chúng ta. Chúng ta muốn vượt qua những yếu đuối để thực hiện các điều Chúa dạy, thực hành theo ý Chúa muốn, nhưng rồi chúng ta lại không làm nổi. Chúng ta hãy nhìn lại Thánh Phaolô. Ngài thú nhận không làm được điều tốt ngài muốn, nhưng cứ làm điều xấu ngài không muốn.

Nhưng chính trong những bất lực này, ngài cảm nhận được ơn Chúa nâng đỡ, như Lời Chúa hứa: “Ơn Ta đủ cho con”. Và Ngài đã tin tưởng phó thác vào tình thương nâng đỡ của Chúa.

Còn chúng ta thì sao?

Trong lúc cảm nhận những bất lực của bản thân, chúng ta tin tưởng vào ơn nâng đỡ, sự trợ giúp quyền năng của Chúa, hay cậy dựa vào khả năng bất lực của chúng ta hoặc một thế lực nào, một người nào khác.

Chúng ta hãy nhớ: chính nhờ chúng ta ý thức được sự bất lực của chúng ta mà Chúa Giêsu có thể bước vào cuộc sống chúng ta, như một Thiên Chúa có sức nâng đỡ phù trợ chúng ta, vì Người đã hứa: “Ơn Ta đủ cho con…”

  1. Ngôn hành bất nhất

Tại một tu viện cổ kính, sau khi tiếng chuông nhà nguyện vang lên, các tu sĩ tập hợp nơi hành lang nguyện đường, chào đón một tập sinh mới trải qua giai đoạn thử thách, để trở nên thành viên chính thức của tu viện. Thầy giáo tập Laisasi trình bề trên:

– Thưa bề trên, con xin trình lên bề trên tập sinh Laicoasi. Trước đây tập sinh này là một con người hống hách ươn ngạnh, nhưng nay đã trở thành người mới, đáng được vào hàng ngũ tu sĩ chúng ta.

Thế là tập sinh Laicoasi được lệnh lên đứng trước các tu sĩ. Thầy giáo tập bắt đầu chữi bới và nặng lời phỉ báng tập sinh. Thầy còn tát vào mặt anh, đánh anh té xuống đất. Tập sinh Laicoasi vẫn im lặng, khiêm nhường, kiên nhẫn chịu thử thách.

Vị tu viện trưởng hết sức xúc động trước sự biến đổi lớn lao của tập sinh và tuyên bố:

– Tập sinh Laicoasi đã trải qua khảo hạch về kiên nhẫn, nên kể từ nay anh được trở nên thành viên chính thức của tu viện chúng ta. Xin chúc mừng và chào Laicoasi.

Bỗng đột ngột Laicoasi quay lại đánh thầy giáo tập tới tấp. Rồi anh cười nhìn thầy giáo tập đang nằm sóng sượt trên đất. Vị tu viện trưởng hoảng hốt hỏi:

– Sao anh đánh thầy giáo tập?

– Thưa bề trên, con muốn thử thầy giáo tập của con, xem thầy có thực hành những gì thầy đã dạy con không?

Câu chuyện vui trên đây minh họa thái độ của hai người con trong Tin Mừng hôm nay. Khi người cha bảo đứa con thứ nhất: “Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho. Nó đáp: Con không muốn đâu! Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi. Ông đến gặp người thứ hai, và cũng bảo như vậy. Nó đáp: Thưa Ngài, con đây! Nhưng rồi lại không đi” (Mt. 21, 28-30)

Người con thứ nhất là người “ngôn hành hiệp nhất”. Con người “ngôn hành hiệp nhất” chẳng những làm tròn bổn phận đối với mọi người mà còn được mọi người tôn trọng, vì lời họ nói luôn đi đôi với việc họ làm. Họ cũng là người khiêm nhường và can đảm. Một khi đã hứa là sẽ nỗ lực hết sức lực thực hành lời hứa. Họ biết rằng lời hứa của họ có liên quan đến vận mệnh người khác.

Còn người con thứ hai mà không làm, tức là “ngôn hành bất nhất”. Họ hứa cách cẩu thả, không suy nghĩ xem mình có khả năng thực hiện điều mình hứa không. Những con người như thế, thoạt nhìn người ta tưởng họ là những người tốt, nhưng đó lại là những con người thiếu trách nhiệm, dối trá, sẽ gây đau khổ thất vọng cho người mong chờ lời hứa của họ được thực hiện.

Đó chỉ là bình diện nhân bản. Còn trong bình diện thiêng liêng, chúng ta cố gắng “ngôn hành hiệp nhất” trong suốt cuộc đời chúng ta đối với Thiên Chúa, vì Ngài là Đấng trung tín, luôn giữ đúng lời hứa với chúng ta. Ngài đã lên án gắt gao các biệt phái và kinh sư về thái độ “ngôn hành bất nhất” của họ. (Theo “Ánh sáng thế gian”).

  1. Khiêm tốn

Trên chiếc xe lửa tiến về Paris (Pháp) một sinh viên trẻ ngồi bên một cụ già. Chỉ ít phút sau khi xe chuyển bánh, cụ rút trong túi áo ra chuỗi tràng hạt và cầu kinh.

Cậu sinh viên nhìn cụ lần chuỗi có vẻ bực bội nên lên tiếng:

– Cụ còn tin nhảm nhí à?

– Tôi tin. Còn cậu, cậu không tin sao?

Người sinh viên cười ngạo nghễ:

– Lúc nhỏ tôi tin. Nhưng bây giờ làm sao tin được. Khoa học đã giải thoát tôi khỏi những chuyện phù phiếm đó. Cụ hãy ném bỏ tràng chuỗi đó đi. Hãy học những khám phá mới của khoa học. Cụ sẽ thấy những gì cụ tin từ trước đến giờ toàn là mê tín dị đoan.

Cụ già điềm nhiên hỏi lại:

– Cậu vừa nói những khám phá mới của khoa học. Cậu có thể giúp tôi biết được không?

Cậu sinh viên khoái chí đề nghị:

– Cụ cứ cho tôi địa chỉ. Tôi sẽ gởi sách cho cụ học. Cụ sẽ say mê khoa học ngày nay thôi.

Cụ già từ từ lấy ra tấm danh thiếp trao cho cậu sinh viên. Đọc qua danh thiếp, người sinh viên xấu hổ tái mặt, lặng lẽ sang toa khác. Vì tấm danh thiếp ghi rõ: “Louis Pasteur, viện nghiên cứu khoa học Paris”.

Louis Pasteur, nhà bác học thời danh nước Pháp đã không vì sự học cao hiểu rộng của mình mà vênh vang tự đắc như người sinh viên trẻ tuổi kiêu căng, mới lem nhem hiểu biết khoa học. Cụ vẫn khiêm tốn tin tưởng và cầu nguyện với tinh thần đơn sơ, phó thác. Cụ đã thực hành bài học của Chúa Giêsu:”Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng thật trong lòng” (Mt. 11, 29).

Thánh Phaolô đã xác quyết trong bức thư của bài đọc hai hôm nay:

“Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn rút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl. 2, 6-7).

Là Kitô hữu, muốn theo gót Chúa Giêsu, chúng ta không thể chọn con đường nào khác hơn sống khiêm tốn, hạ mình xuống như Thầy chúng ta, để được Thiên Chúa nâng lên cõi sống muôn đời, và “tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl. 2, 9)

(Theo “Maria Mẹ tuyệt mỹ).

15. Tin vào cha – Lm. Vũ Đình Tường

Phúc âm Thánh Luca 15 và Mathêu 21 bắt đầu ngụ ngôn tình yêu người cha dành cho con vả cách người con đáp trả tình yêu đó nhưng kết quả cuối cùng chính là nhấn mạnh đến sự tha thứ. Người con trai trẻ tin vào lòng từ ái của cha mình nhưng không chung niềm tin về cuộc sống như cha anh mong đợi. Anh tin cha anh rộng lượng đến độ khi anh đòi chia nửa gia tài cha anh sẽ chiều theo. Đúng thế, cha anh chia cho phân nửa gia tài. Có tiền trong tay anh tung cánh bay cao, lìa xa cha và người anh. Khi đòi chia gia tài anh chỉ nghĩ đến mình mà không quan tâm đến nỗi thương tâm của cha anh và người khác bởi anh chiều theo tính ích kỉ. Ích kỉ là chỉ nghĩ đến mình, lo cho mình, thoả mãn í muốn mình, không quan tâm đến cảm xúc của người khác. Ích kỉ là nguyên nhân gây chia rẽ, gây thương tích cho tình cảm con người. Nó ảnh hưởng đến cách ứng xử của ta trong cuộc sống, thiếu cảm thông với thân nhân, thiếu tình thương đồng loại và vắng bóng nhân ái trong hoàn cảnh thương tâm. Kiềm chế tính vị kỉ, ích kỉ, là điều rất khó. Kẻ ít, người nhiều khó ai tránh khỏi bệnh chung của nhân loại. Bản chất sanh ra đã ít nhiều mang tích ích kỉ. Ích kỉ không phải là tham lam mà là coi mình trọng hơn mọi người. Cả hai người con trong dụ ngôn này đều ích kỉ, quan tâm đến cá nhân mình nhiều hơn là quan tâm đến tình thương cha họ dành cho.

Có tiền trong tay là cơ hội giúp người con bỏ nhà ra đi, chạy theo những giấc mơ thầm kín anh từ lâu ước mong thực hiện. Quả thực tiền bạc giúp anh sống vương giả một thời gian cho đến khi hết tiền, cuộc sống vương giả cũng bay theo. Không còn tiền anh mất tất cả. Đầu tiên là những lời tâng bốc, ngon ngọt của bè lũ bu theo nịnh bợ, kiếm ăn. Sau đó anh mất luôn tư cách con người. Thực ra tư cách này mất từ khi anh lao vào chốn ăn chơi, coi thường đạo đức nhưng nó chưa thể hiện rõ ràng cho anh thấy, anh phải chờ cho đến khi khánh kiệt, không còn gì lúc đó anh mới nhận ra mình sai lầm. Tư cách con người bị xuống bùn đen khi anh xin đi chăn heo thuê và đói, thiếu cả cám heo để ăn. Anh sống trong cô đơn, tủi nhục. Giờ đây anh rõ mộng khác thực. Mộng đưa ra nhiều hứa hẹn có điều kiện. Không tiền mộng suốt đời chỉ là mộng. Ngay cả khi có tiền nó cũng chỉ là những hào quang chớp nhoáng, vinh quan bề ngoài và sớm tàn lụi. Trái lại, tình thương cha anh dành cho cũg có điều kiện. iều kiện không phải là tiền để thực hiện nhưng cần tình thương, vâng lời thực hiện theo í cha sống yêu thương.

Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu con (Ga 13,34)

Thiên tai, đói khổ, cô đơn mở mắt người thanh niên trẻ giúp anh phân biệt khác biệt giữa tình yêu cha anh dành cho và hứa hẹn hão huyền trong cuộc sống. Tình yêu cha anh không những chăm sóc, lo lắng và còn tha thứ khi anh lầm lỗi trong khi cuộc sống xã hội đã không tha mà còn tìm cách, nếu anh có tiền thì lừa gạt, nếu anh không tiền thì gạt ra ngoài, vứt bỏ. Nhận biết này giúp anh can đảm, mạnh dạn đứng dậy đi về cùng cha xin tha thứ. Một lần nữa anh lại đánh giá sai lầm tình yêu cha anh dành cho. Anh hy vọng về tạ tội và xin được làm công cho cha nhưng người kha khoan dung hơn những gì anh ước mơ. Trông thấy con trở về ông ông choàng đón nhận người con hoang trở về. Cho anh mặc áo mới, giầy mới là dấu chỉ tước vị người con trong gia đình. Ông lại mở tiệc mừng con về nhà bằng an.

Chúng ta là con cái Thiên Chúa. Dùng ngôn gnữ thánh Phaolô diễn tả chúng ta là kẻ thừa tự trong nước trời. Thiên Chúa là người cha nhân từ rộng lượng hơn chúng ta tưởng tượng, tha thứ nhiều hơn là bắt lỗi và luôn mong chờ, sẵn sàng đón nhận chúng ta trở về. Hãy mạnh dạn tiến về nhà cha để đón nhận lại tình nghĩa tử, cha con.

Đặt trọn niềm tin vào Đức Kitô là con đường duy nhất dẫn đến cuộc sống trường sinh.

16. Công chính hoá – Lm Vũ Đình Tường

Bản tính con người thích chọn con đường bất chính, gian tà bởi con đường bất chính là con đường dễ bước vào. Con đường bất chính dễ bước vào khó ra. Nó là con đường khó khăn, gian khổ, khó nhai, khó nuốt nhưng nhiều người ham muốn, tự nguyện bước vào. Vì sao? Vì con đường đó thuộc về trần gian, phần thưởng của nó là vật chất, thấy được, sờ được, thưởng thức được ngay tại thế. Chính vì những cảm xúc mãnh liệt đó mà nó có nhiều đệ tử ngày đêm mong tìm cảm giác lung linh. Hút thuốc vào cảm thấy tê tái tức thì. Uống rượu vào tức khắc nhận ra chất say tê tê mạch máu, kích thích làn da, thớ thịt. Thắng bài bạc thấy tiền ngay, mắt sáng rỡ trông thấy. Rình rập biết rõ đường đi nước bước nhà người tạo cảm xúc lo sợ, hy vọng lẫn lộn, lòng tự nhủ, của ngươi trong tủ sắp là của ta trong túi. Cảm xúc mãnh liệt đó làm xáo trộn luân lí, làm lú lẫn tâm hồn, làm lờ mờ lí trí nên dễ buông thả cuộc đời, lăn xả vào cuộc chơi. Chính vì lăn xả vào nên không gì kiềm chế, ngăn cản, thắng cho chậm lại. Bất kể lời ca thán, khuyên bảo, van lơn của thân nhân và coi thường an toàn cho bản thân cũng vì lí đo đang lăn xả vào.

Đường ăn chơi dễ vào khó ra bởi bước chân vào cuộc là đánh ván bài xả láng. Ván bài xả láng cướp mất cuộc đời, làm nhụt ý chí tiến thân, phá tan quyết tâm và lấp lối tương lai. Thứ đến xã hội loài người rất khắt khe với người đánh ván bài xả láng. Họ không chấp nhận và thiếu thứ tha nên người muốn bước chân ra khỏi dòng thác lôi cuốn luôn có những mắt xích trói chặt đời họ, ngăn cản đường tiến trong tương lai. Hơn nữa người lăn xả vào cuộc chơi thí mạng, bán sức khoẻ và tuổi xuân cho cuộc chơi nên tinh thần mất minh mẫn, nhụt chí, cơ hội trẻ trung không còn để tiến thân. Vì những lí do đó mà một khi đã bước vào, khó giật lùi, khó bước ngược lại. Muốn thoát ra đời kéo lùi, giật ngược lại vì nó đâu muốn mất thành viên trung thành của chúng. Nó chỉ sa thải khi thành phế thải, khi không còn gì cống hiến cho cuộc chơi. Thành phần phế thải, chỗ chứa sẽ là đầu đường xó chợ, nơi ẩn thân, sống dật dờ, lây lất, chờ ngày về lòng đất mẹ.

Nói đến công chính hoá là nói đến điều gì đó chưa công chính nhưng đang trên đường tiến đến công chính. Như vậy công chính là bước cuối cùng của con đường giúp ta nên thánh. Ngoài Chúa ra không còn con đường công chính nào bởi vì Ngài là đường, là sự thật và là sự sống. Vì Chúa là Đấng công chính nên phải bước đi trên con đường công chính để đến với Chúa. Ngoài con đường đó ra không còn lối tắt, ngã rẽ nào khác. Chỉ có một lối đi duy nhất mà Đức Kitô vạch ra cho những ai ước ao bước đi trên con đường đó. Vì thông cảm yếu đuối của thân phận làm người. Vì tình yêu Chúa cao vời. Vì Ngài là Đấng giầu từ bi nhân hậu, Ngài không loại bỏ, không kết án ai nhưng tạo cho con người cơ hội trở về.

Tiên tri Êdêkiel nói rõ con đường đó là từ bỏ đường gian tà, lối xảo trá,

Nếu kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó đã đi, và thực thi công bình chính trực, nó sẽ được sống. Nếu nó suy nghĩ và từ bỏ mọi tội ác nó đã phạm, nó sẽ sống chớ không phải chết Ed18,28

Giáo huấn của tiên tri Êdêkiel được thánh Mathêu 21,28-32 nhắc lại trong dụ ngôn hai người con. Người thứ nhất từ chối lời cha kêu gọi sau đó hối hận đi làm. Người thứ hai vâng dạ nhưng không làm. Dụ ngôn kết luận người con thứ nhất đã làm theo ý cha mình. Anh hối hận vì đã cãi lại lời cha, hối hận vì đặt ý riêng mình trên ý cha.

Con đường giúp trở nên công chính hoá là con đường thống hối, ăn năn. Thống hối, ăn năn trên lí thuyết chỉ là thống hối bằng môi mép. Thống hối thực sự phải đến từ tấm lòng, chính tấm lòng giúp con người thành tâm trở về với Chúa.

Để từ bỏ con đường bá đạo, lối sống bất chính. Người ta cần phải có gì để lấp vào khoảng trống vừa từ bỏ trong đời. Nếu không có gì lấp vào sẽ không thể từ bỏ được vì con đường cũ sẽ tìm cách trở lại. Chỉ có cách duy nhất tránh ngựa tìm đường cũ là tìm cho nó một con đường mới. Con đường mới phải khác con đường cũ, ngược với lối sống, cách sinh hoạt cũ. Con đường khác, trái nghịch với bá đạo là chính đạo. Nghịch với con đường bất chính là công chính. Đường chính đạo, lối công chính ngoài Chúa ra còn ai có. Cách duy nhất trở về đường lành là sống thực thi đường lối Chúa. Con đường công chính giúp con người sống thánh thiện, trở nên tốt lành hơn, trọn hảo hơn.

17. Chúa Nhật 26 TN A

Con cha thì giống Cha. Là Kitô hữu chúng ta phải nghe và làm theo Lời Chúa. Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta, qua câu chuyện người cha và hai đứa con này. Đó là: Muốn vào Nước Trời, vấn đề không phải chỉ nói “có” ngoài môi miệng mà phải làm theo ý của Chúa Cha. Hai người con, không có người nào đem lại niềm vui trọn vẹn cho cha. Cả hai đều không làm cha mình hài lòng. Nhưng người con thứ nhất rõ ràng là tốt hơn người con thứ hai. Bởi vì, tuy lúc đầu anh đã nói “không”, rồi sau đó anh đã đi làm theo ý Cha. Phải chi có người con thứ ba nói đi làm ngay là đi làm ngay, thì thật là tốt biết mấy! Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta thường gặp hai hạng người này: Thứ nhất là hạng hạng người nói nhiều hơn làm, họ hứa hẹn đủ điều, nhưng rồi không làm gì cả. Thứ hai là hạng người làm nhiều hơn nói, họ không hứa hẹn, ba hoa, khoác lác, nhưng người ta thấy họ làm những việc đạo đức, nhân hậu, tốt lành, có khi làm một cách kín đáo. Chúng ta ta thích hạng người này hơn, vì họ chân thành, lấy việc làm chứng minh lời nói.

Lời hứa không bao giờ thay thế được việc làm, và lời nói hoa mỹ không bao giờ thay thế được những nghĩa cử. Người con thứ hai tỏ ra lịch sự bên ngoài, khi lễ phép trả lời: “Thưa cha, vâng ạ”. Nhưng rồi anh không làm. Lễ phép suông là một việc giả dối, hảo huyền. Lễ phép thật là vâng lời, thực hiện một cách sẵn lòng, vui vẻ. Các tín hữu của Chúa Kitô thực hành chứ không phải hứa hẹn. Người Kitô hữu đích thực là đón nhận mệnh lệnh của Cha với thái độ vâng phục và kính trọng, là người chấp hành mệnh lệnh trọn vẹn: nói là làm ngay.

Ngày nay, người ta thường nói: “Con đường dài nhất là con đường từ đầu đến tay”. Chúng ta cần để cho Lời Chúa “đi từ lỗ tai đến tim óc và cuối cùng đến đôi tay”. Nhiều khi chỉ nghe Lời Chúa bằng đôi tai thôi – tai này lọt qua tai kia là hết hay nhiều khi người khác để cho Lời Chúa đánh động quả tim và trí tuệ, nhưng rồi họ ngừng lại tại đó, không dám đi xa hơn, vì sợ phải hy sinh, từ bỏ,… Rốt cuộc Lời Chúa vẫn là cái gì mông lung, không thực tế, không liên quan gì đến đời thường: đời sống làm ăn, đời sống gia đình, đời sống tình cảm,… Lời Chúa vẫn bị nhốt trong nhà thờ, trong các cuộc tĩnh tâm, các buổi chiều cấu nguyện chia sẻ. Làm sao để Lời Chúa được đến “đôi tay”, nghĩa là được người Kitô hữu đem ra thực hành xung quanh tha nhân. Chỉ như thế, men Lời Chúa mới có thể được trộn đều vào khối bột loài người và làm bột dậy men Tin Mừng.

Quả thực, con đường đi từ quả tim đến đôi tay là một con đường dài và gian khổ. Để đi trên con đường này, người Kitô hữu phải được giải phóng khỏi cái tôi nặng nề, với những lo toan và sợ hãi, những tính toán và vun vén cho mình. Rung động trước nỗi khổ của người khác là một chuyện, cho người khác cái áo còn tốt của mình lại là chuyện khác. Thánh Gioan đã cảnh giác chúng ta: “Hỡi anh em, ta đừng yêu mến bằng lời nói suông, nhưng bằng việc làm thực sự” (1Ga 3,18).

Chúa Giêsu không thích những người sống giả hình, Luật Sĩ và Biệt Phái Pharisêu bị lên án dữ dội vì họ giả hình, nói mà không làm, đặt gánh nặng lên vai người khác nhưng tránh né cho chính mình. Thế giới hôm nay cần thấy việc tốt của chúng ta trước khi họ tin nhận giáo lý của Chúa Kitô. Họ tin vào Đạo vì thấy những người dám sống đạo, dù phải chịu thiệt thòi và nguy hiểm. “Ánh sáng của anh em cũng phải chiếu giải trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16). Bài Tin Mừng nhắc nhở chúng ta hãy xét lại, hãy nhìn lại: lời nói và việc làm của chúng ta có đi đôi với nhau không? Chúng ta yêu cầu người khác phải sửa sai, nhưng chính chúng ta có biết tự sửa sai không? Trong phạm vi gia đình, thật không gì tai hại cho bằng nói mà không làm: chúng ta bảo con cái phải biết nhường nhịn, tha thứ cho nhau, nhưng chúng ta thì lại cứ ăn thua đủ, không ai nhường ai. Chúng ta bảo con cái phải sống thành thật, nhưng chúng ta lại gian dối với người khác. Trong đời sống đạo đức cũng vậy, liệu tâm hồn chúng ta có phải là tâm hồn Kitô đích thực không? Liệu đời sống của chúng ta có phải là một thể hiện những gì chúng ta tuyên xưng không Hay chúng ta chỉ có cái vỏ Kitô bên ngoài? Nếu chúng ta sống như vậy, chúng ta hãy coi chừng, chúng ta sẽ bị Chúa cảnh cáo: những người khác sẽ vào nước trời, còn chúng ta thì sao?Đức tin bên trong của chúng ta phải được thể hiện ra việc làm bên ngoài: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17).

Chúa Giêsu là Người Con lý tưởng, Người Con đã thưa VÂNG ngay từ đầu và thưa VÂNG mãi mãi suốt cả đời. Nơi Ngài luôn là Có chứ không phải là Có khi Không. Ngài đã thưa với Chúa Cha: “Này con xin đến để thi hành Thánh Ý Cha” (Dt 10,9), và Ngài đã thi hành cho đến lúc hoàn tất trên Thập Giá. Như thế, Chúa Giêsu đã thi hành Thánh Ý Chúa Cha một cách hoàn hảo và nêu gương cho chúng ta. Chúng ta hãy noi gương Ngài để trở nên những người con đích thực của Cha chúng ta trên trời.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết làm theo thánh ý Chúa. Amen.

18. Dụ ngôn hai người con Chúa

Trích: http://www.tgpsaigon.net

Suy niệm:

Hình ảnh Chúa Giêsu dùng để trình bày giáo lý của Ngài trong Chúa Nhật hôm nay vẫn là vườn nho. Tư tưởng của Chúa Giêsu trong trích đoạn Tin Mừng Mt 21,28-32 tiếp nối hình ảnh vườn nho, nghĩa là nước trời, Chúa Giêsu muốn giới thiệu cho nhân loại. Câu chuyện thánh Matthêô tường thuật có tính cách dí dỏm, thú vị, giúp mọi người hiểu được ý Chúa muốn nói. Người Cha trong trích đoạn Mt 21,28-32 là Thiên Chúa nhân từ, giàu lòng thương xót, luôn chạnh lòng xót thương đối với con người, nhất là những con người tội lỗi, yếu đuối. Người cha một hôm nói với đứa con cả: “Con ơi, nay ra làm vườn nho giúp cha nhé”. Đây không phải là một lệnh truyền,một lời bắt buộc, nhưng chỉ là một lời mời gọi.

Câu chuyện ngắn gọn,nhưng nói lên tất cả ý nghĩa của sứ điệp Tin Mừng muốn đề cập tới. Thái độ của hai người con quả thực trái ngược nhau. Cái nghịch lý ở đây là người con cả nói “không”, nhưng sau đó nghĩ lại và đi làm vườn nho theo lợi ích chung của gia đình. Người con cả đã biết hy sinh lợi ích riêng để sống quảng đại, cởi mở và đặt ích lợi chung của gia đình lên trên. Còn người con thứ nhanh nhảu đáp lại lời mời của cha “vâng, con sẽ đi”. Lời đáp trả hết sức mạnh mẽ và quả quyết ấy chỉ là một lời lừa dối cha. Người con thứ thưa “vâng” để nhằm mập mờ đánh lận con đen. Vâng, nhưng không làm, sẽ đi, nhưng không đi. Thái độ của người con thứ thật ích kỷ, anh ta không hề thương yêu cha chứ đừng nói đến yêu thương anh em trong gia đình và người ở ngoài xã hội. Người con cả xác định lập trường của mình, nói lên sự tự do của con người mình, nhưng cuối cùng người con cả đã biết vượt lên tất cả để chọn lựa điều có ích nhất. Hành động của người con cả là cả một sự chọn lựa giằng co, đòi hỏi sự quả cảm và tình thương. Chính vì có lòng tốt, con tim nhậy cảm, ánh mắt biết nói, nên người con cả đã làm theo ý cha của mình. Còn người con thứ chỉ sống trên đầu môi chóp lưỡi, giả bộ nói vâng,nhưng trong tận đáy lòng của anh đã hàm chứa lời từ khước rất quyết liệt: không. Người con cả đã biểu lộ thái độ của mình ra bằng hành động. Người con thứ nói nhưng không làm. Điều này rất phù hợp với lời Chúa Giêsu: “Không phải tất cả những ai kêu lạy Chúa!, lạy Chúa! mà được vào nước trời, nhưng chỉ những ai làm theo thánh ý Chúa”. Thánh ý Chúa phải được thể hiện qua thái độ vâng phục, tuân theo đường lối Chúa. Nói cách khác là chấp nhận Chúa Giêsu là cùng đích, là gia nghiệp của mình.

Chúa Giêsu không phân biệt bất cứ người nào dù họ là Do Thái, Hy Lạp, La Mã, dù họ là ở trong hay ngoại giáo. Chúa Giêsu khẳng định: Những người đĩ điếm và thu thuế sẽ vào nước trời trước các ngươi. Chúa Giêsu đã nói: “Không phải những người lành mạnh cần thầy thuốc, nhưng là những kẻ ốm đau”. Thiên Chúa của Đức Kitô là một Thiên Chúa nhân hậu hay thương xót, thứ tha, cảm thông, chia sẻ khác với quan niệm của những người biệt phái, luật sĩ, kỳ mục, thượng tế đã quan niệm Thiên Chúa như một vị quan tòa ác nghiệt, thích trừng phạt và áp đặt những mệnh lệnh độc đoán. Thái độ của bọn biệt phái, Pharisiêu, tư tế, thông luật là thái độ ích kỷ, giả hình, làm bộ. Họ thích khoe khoang, tự mãn về một thứ đạo bề ngoài mà họ nghĩ ra. Cái đạo được họ áp đặt bởi trăm ngàn lề luật, nhưng lề luật do họ nặn ra, bày đặt để bắt buộc người khác làm, thực hiện chứ họ thì hoàn toàn không làm gì hết như Chúa Giêsu đã từng nói: một ngón tay họ cũng không muốn lay thử. Thái độ của họ là thái độ tự kiêu, tự mãn, phô trương: ra đường ưa thích người khác tung hô, chào hỏi. Áo thênh thang, tua áo dài, thẻ kinh rổn rẻn… Đạo như thế là đạo bề ngoài, đạo nông cạn, hời hợt. Chúa Giêsu đã không dựa trên công đức của con người, dựa trên địa vị, chức vụ của con người để thưởng phạt, tất cả đều do tình thương nhưng không của Chúa. Chìa khóa dẫn vào nước trời là sự vâng phục Thiên Chúa và hoán cải, thống hối, ăn năn.

– Có hai tiếng người ta thường nói nhiều nhất, đó là “Vâng” và “Không”. Nhưng giá trị của chúng không tùy vào lúc chúng vừa được nói ra, mà tùy theo sau đó người ta có thực hiện hay không. Nói “vâng” mà không làm đâu có giá trị bằng nói “không” mà lại làm.

– Lời hứa không tạo nên uy tín cho con người; lời nói tốt không thể thay thế cho những việc làm tốt.

– Con người chúng ta có thể thay đổi từ “vâng” sang “không” và từ “không” sang “vâng”. Vì thế, cả hai người con trong dụ ngôn này đều có thể là bài học cho chúng ta: nếu chúng ta giống người con thứ nhất đã lỡ nói “không” với Chúa bấy lâu nay thì bây giờ chúng ta có thể nói lại “xin vâng”; còn nếu chúng ta giống người con thứ hai đã thưa “xin vâng” thì đừng để cho mình bị thay đổi mà sửa lại thành “không”.

– Trong lịch sử Giáo Hội, rất nhiều vị thánh lớn đã từng là những kẻ tội lỗi ban đầu đã nói “không” với Chúa nhưng về sau đã sửa đổi và thưa “xin vâng”. Thánh Augustinô là một thí dụ điển hình.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu, Chúa luôn mời gọi chúng con làm vườn nho cho Chúa. Chúa muốn chúng con bước vào mối thân tình với Chúa trong những chia sẻ bổn phận của Cha như của con. Nhưng chúng con hoặc vì chưa cảm nghiệm được sự cao quý, hoặc chưa thể hiện được tinh thần trách nhiệm. Đã nhiều lần chúng con từ chối. Chúng con ngại nói lời xin vâng vì sợ thiệt thân. Xin cho chúng con luôn hiểu rằng lắng nghe lời của Chúa không chưa đủ, mà còn phải làm theo ý của Chúa. Amen.

19. Vâng lời – Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

“Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho!”

Nghe câu chuyện dụ ngôn này, tôi vẫn hay thắc mắc về ý nghĩa của việc ‘đi làm vườn nho’ vì đôi khi nó không rõ ràng lắm. Từ lâu tôi đã nghĩ thật đơn giản: sống lành thánh, làm các việc lành phước đức, thi hành các việc tồng đồ, truyền giáo… tức là ‘làm trong vườn nho’ của Chúa rồi còn gì! Sau này tôi mới phát hiện ra khái niệm này xem ra không ổn khi áp dụng vào trường hợp cụ thể của hai người con trong dụ ngôn: đứa vâng ngoan trước lời kêu mời của người cha nhưng đã không đi, còn đứa ngang bướng rốt cuộc rồi lại ‘đi làm vườn nho’. Qua câu chuyện này tôi thấy hình như Đức Giêsu đã suy nghĩ rất khác: Người không phân thính giả thành hai loại ‘người vâng’ hay ‘người không vâng’, nhưng ngay trong mỗi thính giả vốn đã sẵn biện chứng ‘vâng và không vâng’, rốt cuộc họ vẫn được đánh giá qua việc ‘đi làm vườn nho’ mà thôi. Nhưng làm vườn nho hệ tại ở điều gì, theo tâm tưởng của Đức Giêsu?

Thói thường thì ai cũng hiểu là lời nói không trọng hơn việc làm. Khi sử dụng cùng một khái niệm này Đức Giêsu đã cho thấy: đối với Nước Thiên Chúa, sống tội lỗi như ‘những người thu thuế và những cô gái điếm…’, hoặc sống lương thiện công chính như các thượng tế và kỳ mục trong dân (đối tượng chính của dụ ngôn) vẫn chỉ là những lời nói ngang bướng hay vâng ngoan. Người còn cho thấy rõ, điều quan trọng hơn chính là ‘thi hành ý muốn của người cha‘, đó là ‘đi làm vườn nho’, tức là tin và tiếp nhận sứ điệp kêu gọi sám hối mà Gio-an Tiền Hô đã khởi sự và Đức Giêsu tiếp tục kêu mời. Như thế Người chỉ cho thấy một điều làm đảo lộn tất cả: ‘đường công chính’ hệ tại ở việc thi hành sám hối hơn là ở việc có sống ngay lành hay không; “Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy”. Sám hối đây chưa hẳn là đã sửa đổi được mình, cho dầu nỗ lực vươn tới là dấu chỉ cần thiết của chân thành sám hối, nhưng chính yếu hệ tại ở việc đón nhận ơn cứu độ Thiên Chúa ban cho. Sứ điệp của Gio-an “Hãy sám hối!”, tức là hãy cải tà qui chính trong nội dung luân lý, đã được chính Đức Giêsu cập nhật: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng cứu độ!” tức là tin vào Đức Ki-tô Giêsu mạc khải tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Sứ điệp này quả chất chứa một nội dung rất Tin Mừng! Trong số những người thu thuế và gái điếm tin vào Gio-an không phải tất cả đều đã đổi đời hoàn lương, nhưng tất cả họ đều đã khám phá ra và đón nhận lòng thương xót cứu độ của Thiên Chúa và tin vào Tin Mừng. Chính ở điểm này mà họ trở nên hơn hẳn các thượng tế và kỳ mục, tức các đấng bậc được coi là vị vọng trong dân, vì họ đã trở nên ‘công chính’ theo Tin Mừng; “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông”. Như thế rõ ràng là để vào được Nước Trời, điều kiện quan trọng hơn cả là, thông qua sám hối những lỗi lầm đã phạm, mỗi người nhận ra tình yêu cứu độ Thiên Chúa đang tuôn đổ trên mình, và khiêm tốn mở lòng đón nhận. Các Pha-ri-sêu đã không thể đạt tới được sự công chính ấy; “Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy.”

Nếu quả là như thế thì cuộc sống mỗi Ki-tô hữu chúng ta đều chất chứa cả hai phần: nói và làm. Riêng phần ‘nói’ nhiều lúc có thể là vâng ngoan, vì đã giữ đạo tử tế, đã làm các việc lành phước đức, đã có không ít các nỗ lực tu thân tích đức, sống bác ái, tông đồ phục vụ v.v…, nhưng đồng thời cũng có những hồi ngang ngược vì các yếu đuối lỗi lầm đã phạm. Nhưng cho dầu đã ‘nói’ thế nào đi nữa, thì lúc này đây, điều quan trọng hơn hết đối với mọi người vẫn phải là ‘đi làm vườn nho’, tức là khiêm tốn nghe lời kêu gọi sám hối của Gio-an để thật lòng tin vào Tin Mừng cứu độ mà Đức Ki-tô Giêsu đã mang lại. Có thể tôi ‘đi làm vườn nho’ vì tôi vốn ngoan hiền, và như thế là tuyệt vời vì tôi nói và tôi đi làm, nhưng cũng có lúc (và có lẽ trường hợp này còn nhiều hơn!) tôi đã từng nói ‘không đi’ nhưng rồi trong tác động của ân sủng tôi đã ‘… hối hận, nên lại đi’.

Đối với Tin Mừng trường hợp sau này có vẻ lại càng ý nghĩa hơn, vì sự ngang bướng rõ ràng dẫn tới hối hận, và trở thành động lực thúc đẩy ‘đi làm vườn nho’. Chính các yếu đuối lầm lỡ đã phạm có thể giúp ta dễ dàng hơn khám phá ra lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa, để rồi… ‘sám hối và tin vào Tin Mừng’. Và như thế vô hình chung đã biến ‘Con không đi!’ ngang bướng trở thành cho ta ‘tội hồng phúc’, như thánh Âu-tinh đã từng diễn đạt cảm nghiệm của riêng ngài. Đáng lý ra toàn bộ cuộc sống Ki-tô hữu ngay từ đầu đã phải trọn vẹn là ‘vâng con đi’ và ‘đi làm vườn nho’, bởi vì qua Bí Tích Thánh Tẩy lãnh nhận họ đã công khai nói lên điều đó. Tuy nhiên thực tế cuộc sống cho thấy ngay cả nơi các Ki-tô hữu vẫn luôn tồn tại một ‘biện chứng’ giữa ‘vâng và không’, đúng như nội dung của dụ ngôn ‘hai người con’. Và vì không một ai nằm ngoài qui luật biện chứng này nên sám hối và lãnh nhận Bí Tích Cáo Giải vẫn luôn phải chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống của tất cả mọi Ki-tô hữu trải qua các thời đại. Phải chăng thái độ ‘sám hối và tin vào Tin Mừng cứu độ’ mà cao điểm được diễn đạt nơi tòa giải tội, mới chính là việc ‘đi làm vườn nho’ của mỗi người chúng ta, và qua đó chúng ta được trở nên công chính?

Hơn ai hết, vì là Linh Mục nên tôi đã phải luôn nói ‘vâng’ với lời kêu mời sám hối và đón nhận lòng Chúa xót thương, thế nhưng hơn bất cứ ai khác, tôi phải biến lời ‘vâng’ này thành hành động: mau mắn lên đường ‘đi làm vườn nho’ Tin Mừng của Chúa. Chính tôi cũng cần sám hối không ngừng!

Lạy Cha từ nhân, cha không ngừng mời gọi con, cũng như mời gọi hết thảy mọi người, ‘đi làm vườn nho’ của Cha, vườn nho của đón nhận lòng từ ái và xót thương bao la. Rất có thể con đã tự cho mình là đứa con vâng ngoan vì ơn gọi tu sĩ và linh mục mà Cha đã ban cho con suốt trong những năm tháng dài đời con, nên đôi lúc con thấy không cần phải đi thêm nữa. Con đã từng đáp lại tiếng Cha mời gọi bằng câu thưa: “lạy Chúa, con đây”, thế nhưng vẫn luôn có nguy cơ ‘nhưng rồi lại không đi’. Xin cho con ít quan tâm hơn tới ‘nói’ và tập trung hơn vào ‘đi làm’ trong vườn nho của sám hối và đón nhận trọn vẹn lòng thương xót cứu độ của Cha. Amen.

20. Nói và làm – Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng

Vào cuối thập niên 80 của thế kỷ trước, có một chính khách đã viết nhiều bài báo nói về “đổi mới tư duy”, Ông thường ký tên NVL. Nhiều người nghĩ đơn giãn đó là 3 chữ viết tắt tên của ông, (tên của ông nếu viết tắt thì đúng là 3 mẫu tự đó), như nhiều tác giả thường làm như vậy, nhưng khi được hỏi vì sao ông không ký tên trọn vẹn mà lại chỉ viết tắt, ông nói bút hiệu NVL của ông nó có nghĩa là “nói và làm”.

Đọc những bài báo đó, không biết chúng có thay đổi được gì thực tế xã hội không, nhưng chúng phản ánh một xã hội mà nhiều người đang có trách nhiệm trực tiếp trong guồng máy xây dựng xã hội thời điểm đó đang lâm cơn bệnh “nói nhiều làm ít”, thậm chí “nói mà không làm”, và còn hơn thế nữa, “nói một đàng làm một nẻo”.

“Nói nhiều làm ít” là thứ bệnh phóng đại, phô trương.

“Nói mà không làm” là thứ bệnh nói dốc, nói láo.

“Nói một đàng làm một nẻo” là thứ bệnh lường gạt, thủ đoạn, thâm độc.

Cách sống “nói và làm” kiểu đó sẽ đưa đến một xã hội phi đạo đức, vì đạo đức không thể cùng tồn tại với giả hình và bịp bợm.

Một con người chân chính bao giờ cũng coi trọng Việc làm hơn Lời nói. Bởi chỉ bằng những hành động thực tế mới chứng tỏ được mình suy nghĩ có đúng không, có ý chí thể hiện những suy nghĩ tâm huyết thành hành động thực tế hay không. Và chính điều đó cho biết anh là ai, là người có đáng tin cậy hay không. (…)

Vậy mà cho đến nay, căn bệnh khoa trương thích Nói nhiều Làm ít vẫn còn tồn tại trong xã hội chúng ta. Có lẽ căn bệnh này cũng là anh em chí cốt của căn bệnh thành tích và háo danh ở không ít các cấp, các ngành trong xã hội chúng ta. Điều này làm hạn chế tầm nhìn, không dám nhìn thẳng vào sự thật và nói đúng sự thật. Chỉ muốn đề cao thành tích mà không dám nhìn tới cội nguồn của khuyết điểm, càng không dám nhận trách nhiệm đúng mức về khuyết điểm, nhất là trách nhiệm cá nhân. Chính điều đó làm cho xã hội trì trệ, không bứt phá lên được trước những cơ hội mới cũng như thách thức mới. (Dân Trí).

Đối với xã hội trần gian còn như thế, huống cho là đối với Tôn Giáo. Không ai có thể là bậc chân tu tháng ngày miệt mài kinh kệ nhưng lại lạnh lùng trước những nỗi thống khổ của bá tánh.

Để “nói đúng” và ‘làm đúng”.

Để “Nói và làm” cho đúng, điều trước tiên, là cần phải nhận biết đâu là “đường công chính”. Không nhận biết đâu là “đường công chính”, thì không thể suy nghĩ và hành động đúng được.

Trong Tin Mừng hôm nay, những thượng tế và kỳ mục Do Thái chính là những người “sai lầm” từ cơ bản, họ không nhận ra đâu là “đường công chính”. Không có nền tảng sự thật thì dựa vào đâu để nói và làm hợp với lẽ phải được?

“Gioan đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy” (Mt.21,32).

Những thượng tế và kỳ mục không tin vào Gio-an, và từ đó, cũng không tin vào Chúa Giêsu, vì Gio-an làm chứng về Chúa Giêsu.

“Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”. (Ga.1,29).

Và như vậy, tiếng kêu gọi sám hối của Gio-an không được những thượng tế và kỳ mục đón nhận, đơn giãn, vì họ không thấy họ sai lầm. Họ đang lầm đường lạc lối mà họ vẫn nhất quyết mình đang đi trên đường công chính.

“Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy.”(Ga.21,32).

Họ là những người mù mà vẫn tự cho mình là sáng mắt.

“Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: ‘chúng tôi thấy’, nên tôi các ông vẫn còn!”. (Ga.9,41).

“Sáng mắt”, đối với Tin Mừng, là “nhận biết” Chúa Giêsu, nhận ra “đường công chính”, và nhận ra Thiên Chúa đích thật.

“Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” (Ga 14,6)

Chính nhờ Chúa Giêsu, con người mới nhận ra trọn vẹn Tình Yêu Thiên Chúa. Nhận ra ý muốn Thiên Chúa.

Nhưng các thượng tế và kỳ mục đã “mù” đến mức loại trừ Chúa Giêsu. Họ giảng dạy cho dân về Giới Luật Thiên Chúa, nhưng lại loại trừ Thiên Chúa, vì đường lối Thiên Chúa không như lòng họ mong muốn!

Những kẻ đạo đức giả kia, ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông rằng:

Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta.

Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật của phàm nhân. (Mt.15,7-9).

Đúng theo “Thánh ý Chúa”.

Người Ki-tô chân chính luôn luôn tự hỏi: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?”. – “Ý muốn Thiên Chúa” chính là lời giảng dạy của Chúa Giêsu.

“Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các nghe hãy vâng nghe lời Người!” (Mt.17,5).

Vâng nghe Lời Chúa, là thực hành theo thánh ý Chúa, làm theo Lời Chúa dạy. Là thực thi Giới Luật Yêu Thương của Chúa Giêsu – Thiên Chúa làm người và ở cùng chúng ta.

Khi ấy, mẹ Chúa Giêsu và anh em Người đến và đứng ở ngoài sai người vào mời Chúa ra.

Bấy giờ có đám đông ngồi chung quanh Người và họ trình với Người rằng: “Kìa mẹ và anh em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy”.

Người trả lời rằng: “Ai là mẹ Ta? Ai là anh em Ta?”

Rồi đưa mắt nhìn những người ngồi vòng quanh, Người nói: “Đây là mẹ Ta và anh em Ta. Vì ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta”. (Mc.3,31-35).

“Bản án” dành cho những người chỉ biết “nói mà không làm”.

Đại diện điển hình cho những người “nói mà không làm” trong Tin Mừng, đó là những người Pha-ri-sêu và cả những nhà thông luật. Điệp ngữ “khốn cho các ngươi… Khốn cho các ngươi…” được lập đi lập lại nhiều lần cho thấy mức độ quan trọng của lời khiển trách của Chúa Giêsu đối với những hạng người này.

Thật, nhóm Pha-ri-sêu các người, bên ngoài chén đĩa thì các ngươi rửa sạch, nhưng bên trong các người thì đầy những chuyện cướp bóc, gian tà…

Khốn cho các người, hỡi các người Pha-ri-sêu! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, vân hương, và đủ thứ rau cỏ, mà xao lãng lẽ công bình và lòng yêu mến Thiên Chúa…

Khốn cho cả các ngươi nữa, hỡi các nhà thông luật! Các người chất trên vai kẻ khác những gánh nặng không thể gánh nổi, còn chính các người, thì dù một ngón tay cũng không động vào…

Khốn cho các người, hỡi những nhà thông luật! Các người đã cất dấu chìa khóa của sự hiểu biết: các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người lại ngăn cản… (Lc.11,37-52).

Đừng noi theo những hành vi của họ!

Trong cuộc sống, Xưa và Nay, Đạo và Đời, ta luôn gặp những người “Nói mà không làm”, nổi bật nhứt, là những người có chức việc cao, có quyền lực lớn!

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng và các môn đệ rằng: “Các Luật sĩ và các người biệt phái ngồi trên toà Môsê: vậy những gì họ nói với các ngươi, hãy làm và tuân giữ, nhưng đừng noi theo hành vi của họ, vì họ nói mà không làm. (Mt.23,1-12).

Năm 2000, có mùa lũ lớn, một thầy tu cấp cao đã lớn tiếng hô hào tín đồ của mình hãy chia sẻ cơm áo cho những người đang gặp bất hạnh. Khi mùa lũ qua đi, trong một bữa tiệc, có người hỏi: – “Thưa ngài, ngài có đi đến nơi nào trong vùng lũ lụt vừa qua không?”. Vị thầy tu khả kính cười đáp: – “Tôi không biết lội!”. Có thể đây chỉ là một câu nói đùa, nhưng cũng… rất có ý nghĩa!

Thật ra, trong cuộc đời có biết bao người “thành đạt” mà không cần làm những gì mình nói, nhờ biết ứng xử “khôn ngoan”, thí dụ mấy quan nịnh thần, khéo uốn ba tấc lưỡi thôi, thì được thăng quan tiến chức, ngồi không hưởng bát vàng, xoa tay nhìn đời lòng ung dung tự tại: – “Âu cũng là số phận!”.

Thế nên, núp ẩn đằng sau những ngôn ngữ từ thiện, bác ái, yêu thương, rất nhiều khi có những việc làm hoàn toàn có mục đích ngược lại!

Trong Cổ Học Tinh Hoa, có câu chuyện “Lấy của ban ngày” như sau:

Nước Tấn có kẻ hiếu lợi, một hôm ra chợ gặp cái gì cũng lấy. Anh ta nói rằng: “Cái này tôi ăn được, cái này tôi mặc được, cái này tôi tiêu được, cái này tôi dùng được “. Lấy rồi đem đi. Người ta theo đòi tiền. Anh ta nói:

“Lửa tham nó bốc lên mờ cả hai con mắt. Bao nhiêu hàng hóa trong chợ tôi cứ tưởng của tôi cả, không còn trông thấy gì nữa. Thôi, các ngươi cứ cho tôi, sau này tôi có giàu, tôi sẽ đem tiền trả lại”.

Người coi chợ thấy càn dở, đánh cho mấy roi, bắt của ai phải trả lại cho người ấy. Cả chợ cười ồ. Anh ta mắng:

“Thế gian còn nhiều kẻ hiếu lợi hơn ta, thường dụng thiên phương, bách kế ngấm ngầm lấy của người. Ta đây tuy thế, song lấy giữa ban ngày so với những kẻ ấy thì lại chẳng hơn ư? Các ngươi cười ta là các ngươi chưa nghĩ kỹ!” (Long Môn Tử).

Ngày 15 tháng 9 năm 2011, nhà xuất bản Vatican, Giuseppe Costa đã tổ chức triển lãm 600 tác phẩm của Đức Hồng Y Joseph Ratzinger, nay là Đức Thánh Cha Bê-nê-đic-tô XVI.

Cuộc triển lãm được trình bầy cho Đức Thánh Cha tại Castel Gandolfo, nhưng cũng đã được mở ra cho các du khách tại Vatican và ngày 24 tháng 9 tại trụ sở của nhà xuất bản Herder tại Freiburg.

Trong dịp này, Đức Thánh Cha đã nói: “Tôi rất cảm động và khá ngạc nhiên được thấy số lượng các sách vở tôi đã viết. Hy vọng của tôi là những lời tôi viết trong đó không chỉ đến và đi, nhưng giúp cho các độc giả nam và nữ tìm được hướng đi của họ.”

“Nói và làm” vì Đạo Hiếu.

Đạo hiếu dạy ta phải biết vâng lời cha mẹ. Một đứa con hiếu thảo luôn là đứa con biết vâng lời cha mẹ, luôn muốn làm cha mẹ vui lòng.

Thiên Chúa là Cha, và mọi người là con cái Thiên Chúa và là anh em với nhau. Đức Tin của chúng ta gói trọn trong Giới Luật Yêu Thương “Kính Chúa yêu người”. Tất cả những gì chúng ta nói và tất cả những gì chúng ta làm đều nhắm đến mục đích làm “sáng danh Chúa và phục vụ anh em”.

Đạt được điều đó, chúng ta sẽ là những đứa con ngoan trong Gia Đình Thiên Chúa.

Một đứa con ngoan luôn tuân theo “Giới Luật Thiên Chúa”, “Nói và Làm” những gì Thiên Chúa đã dạy.

“Không phải những ai nói rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng là những kẻ làm theo ý Cha Ta trên trời” (Mt 7,21).

Lạy Chúa,

Lời Chúa dạy quá cao siêu,

Con nói thì nhiều, làm được bao nhiêu!

Xin tha thứ những điều con thiếu,

Đỡ nâng con, lạy Chúa Tình Yêu. Amen.

21. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

SÁM HỐI LÀ KHỞI ĐIỂM

Nói và làm đó là hai thái độ khác nhau. Có người nói mà không làm. Có người không nói nhưng lại làm. Đó chính là hai thái độ mà Chúa đề cập đến trong bài dụ ngôn hôm nay. Hạng người nói mà không làm đó là những người biệt phái và luật sĩ. Họ tự cho là mình đạo đức, nhưng khi Chúa Giêsu rao giảng, họ không những không tin mà còn phê phán chỉ trích những người tin Chúa, chỉ trích chính Chúa đã đón tiếp người tội lỗi. Hạng người không nói mà làm đó là những người thu thuế và những người tội lỗi. Tuy sống tội lỗi, nhưng khi nghe Chúa rao giảng, họ đã ăn năn sám hối và tin vào Chúa. Qua dụ ngôn này Chúa muốn dạy ta những bài học sau.

Bài học thứ nhất: Việc làm trọng hơn lời nói. Trong đời sống, chúng ta gặp không ít những người nói hay, nói nhiều, nhưng làm chẳng bao nhiêu. Tục ngữ Việt Nam có câu “Mười voi không được bát nước sáo” là thế. Nhưng trái lại có những người không nói giỏi, có khi không nói gì cả, nhưng lại làm rất nhiều. Nhất thời ta có thể thích những người nói hay. Nhưng sống càng lâu, ta càng mến những người nói ít làm nhiều. Trong đời sống thiêng liêng cũng thế. Chúa yêu chuộng những người làm việc hơn là những người chỉ biết nói suông. Có lần Chúa đã vạch rõ những giả dối này: “Không phải những ai nói rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng là những kẻ làm theo ý Cha Ta trên trời” (Mt 7,21). Đức tin phải biểu lộ bằng việc làm mới là đức tin sống động. Như thánh Giacôbê dạy: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Tình yêu cũng phải có việc làm. Việc làm minh chứng tình yêu đích thực. Tin yêu Chúa phải được biểu lộ bằng việc làm.

Bài học thứ hai: Con người có thể thay đổi. Con người còn sống ở trần gian là còn thay đổi. Đó là một điều ta phải cảnh giác. Biết đâu ta đang tốt bỗng trở nên xấu. Cũng như các biệt phái và luật sĩ tự hào mình tốt, nhưng khi Chúa Giêsu đến, họ đã trở nên xấu vì không tin vào Chúa, không hoán cải đời sống. Con người có thể thay đổi. Đó là điều làm cho chúng ta hy vọng. Vì nếu ta tội lỗi yếu hèn, ta vẫn có cơ hội ăn năn trở lại. Ta không bị kết án trong tội lỗi của ta. Chúa còn cho ta có thời giờ trở lại với Chúa. Miễn là ta nhận biết mình và quyết tâm đổi mới cuộc đời.

Bài học thứ ba: Sám hối là việc cần thiết của mọi người. Đã là người ai cũng có sai lầm. Vì con người yếu đuối bất toàn. Chúa không đòi ta phải hoàn hảo không bao giờ sai lỗi. Nhưng Chúa đòi ta mỗi khi sai lỗi phải biết sám hối ăn năn. Sám hối thật cần thiết vì có sám hối ta mới được Chúa thứ tha. Chúa yêu thương và sẵn sàng tha thứ cho những tâm hồn sám hối như lời Thánh Vịnh: “Một tấm lòng tan nát dày vò, Chúa sẽ chẳng khinh chê” (Tv 50). Ta hãy xem Chúa đã tha thứ cho bà Mađalena. Nhất là Chúa đã tha thứ cho người trộm lành, để thấy Chúa nhân từ thương xót biết bao. Nhưng Chúa lại chê ghét những tâm hồn kiêu căng cứng cỏi không chịu ăn năn sám hối. Trong Phúc Âm ta thấy Chúa chỉ mắng nhiếc những người tự xưng mình đạo đức nên kiêu căng khinh miệt người khác và không nghe lời Chúa. Nhưng Chúa luôn nhân từ, khoan dung, tha thứ cho những tội lỗi thật lòng ăn năn. Sám hối thật cần thiết vì tất cả chúng ta ai cũng có lầm lỗi trước mặt Chúa, cần được Chúa khoan hồng thứ tha. Sám hối thật cần thiết vì đó là khởi điểm để nên tốt, nên thánh thiện. Có sám hối ta mới biết từ bỏ nếp sống cũ. Có sám hối ta mới bắt đầu một nếp sống mới đẹp lòng Chúa.

Như thế, ta đừng chỉ nói suông mà không làm, nhưng hãy biết thực hành điều Chúa dạy. Ta đừng tự hào vì mình tốt lành mà phê bình chỉ trích người khác. Hãy tự xét mình để thấy mình tội lỗi. Và khi biết mình tội lỗi, hãy ăn năn sám hối ngay. Có sám hối ta sẽ được Chúa tha thứ. Có sám hối sẽ được anh chị em yêu thương. Nhất là có sám hối ta mới khởi sự tiến lên trên con đường thánh thiện.

Lạy Chúa xin tha thứ tội con đã phạm đến Chúa và đến anh em. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Nói và làm, việc nào cần hơn và tốt hơn?

2) Có nhiều chương trình tốt đẹp nhưng không thực hiện, có ích gì không?

3) Biết nhận lỗi, xin lỗi và sửa lỗi. Điều này đáng trọng hay đáng chê trách?

22. Người vâng lời Thiên Chúa

Anh chị em thân mến,

Thánh Augustinô, sinh năm 534, tại Targas, xứ Algêrie, Phi Châu, trong một gia đình giàu có, nhưng thiếu đạo đức. Mẹ là bà thánh Mônica, một gương mẫu các bà mẹ công giáo về việc sống đạo và việc giáo dục con cái bằng đời sống và bằng cầu nguyện nữa… Từ nhỏ, Augustinô có tư chất thông minh khác người, đã được theo học khoa hùng biện tại Carthage; nhưng tại đây ngài đã lây nhiễm các thói hư tật xấu ở đời. Lời dạy dổ của Mẹ, giáo lý đã học đuợc từ nhỏ, Augustinô đã bỏ ngoài tai. Augustinô hầu như đã mất đức tin, ngài còn theo lạc thuyết Manê nữa. Ngài hầu như đã trả lời không khi được Chúa gọi vào làm vuờn nho cho Chúa. Vì sống trong tội lỗi, tâm hồn của ngài luôn bị dày vò, không hề được sự bình an… Sau đó ngài được mời sang Rôma để làm giáo sư khoa hùng biện. Đây cũng là ý Chúa, nhờ đó ngài đuợc giao tiếp thường xuyên với thánh Giám mục Ambrosiô, và cũng từ đây ngài đã trở lại với niềm tin và đã chấp nhận đi vào làm trong vườn nho của Chúa, mặc dù một khoảng thời gian dài ngài đã từ chối lời mời gọi của Chúa. Kính mời anh chị em cùng suy niệm…

a/. Ta thử nhìn tới ba hạng người đã đáp lại lời Chúa gọi vào làm vườn cho Thiên Chúa:

* Trả lời không với Thiên Chúa, nhưng sau đó lại đã đi làm: Thánh Phaolô chính là hình ảnh và là một tấm gương sáng về điễm này. Khi chưa biết Chúa và chưa tin vào Chúa, bằng mọi cách, Phaolô đã chống lại Chúa và những ai tin nơi Chúa; nhưng trên đuờng đi Damas, Phaolô đã gặp Chúa… Phaolô đã ăn năn và được biến đổi tận gốc rễ. Từ nay cho đến chết, Phaolô luôn luôn thưa vâng với Thiên Chúa… Câu chuyện của thánh Augustinô mà ta vừa nghe ở trên, cũng là tấm gương về hạng người này…

* “Thưa vâng” với Thiên Chúa, nhưng sau đó lại không đi:

Các luật sĩ, pharisêu và các kỳ lão Do thái, họ có thái độ giống như người con thứ hai. Họ tôn trọng danh giá bề ngoài. Họ nghe lời Gioan Tẩy giả kêu gọi ăn năn sám hối. Họ thấy người thu thuế, gái điếm, tội lỗi ăn năn hối cải; nhưng họ lại tự phụ vì cho mình công chính hơn mấy hạng nguời trên, nên không cần ăn năn sám hối; dù bề ngoài họ rất tôn trọng lời giảng của Gioan, tôn kính Thiên Chúa…

* Chúa Giêsu luôn lúc nào cũng “thưa vâng” với Thiên Chúa: Chúa Giêsu trong cuộc sống trần thế, từ khi sinh ra cho đến cuối đời, trong lời nói cũng như trong hành động, lúc nào cũng thưa vâng với Chúa Cha. Người chính là khuôn mẫu hoàn hảo của nhân loại,vì đã luôn lúc nào cũng dâng hiến tất cả vinh quang và hạnh phúc cho Thiên Chúa. Vì vậy thánh Phaolô đã nói: (Phil 2, 6-8): “Đức Giêsu vốn là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, và chết trên cây thập giá…”

b/. Qua câu chuyện này Chúa muốn dạy chúng ta điều gì?

Bài Tin mừng hôm nay, Chúa xem ra chỉ trích gay gắt, trước hết là nhóm các thượng tế, kỳ lão, pharisêu; họ tuởng mình là công chính “bằng việc nói mà không làm”. Ngày hôm nay, Chúa cũng muốn nói thẳng với những ai, nói một đàng mà làm một nẻo, nếu không muốn nói là trái ngược… Còn trong đạo thì sao? Thực ra con số người thực hiện Lời Chúa còn khá khiêm tốn. Nhiều lần Chúa muốn nói thẳng với ta: “không phải cứ thưa lạy Chúa, lạy Chúa là được cứu rổi, mà chỉ những ai thi hành Ý Chúa Cha mà thôi…” Vậy người tuân phục Thiên Chúa chính là người thi hành chứ không nói suông. Ở đây Chúa nhấn mạnh việc làm, không phải là lời nói…

Câu chuyện: Anh Rmah Nguc, là người làng Plei-ia-ba, huyện Đức Cơ, bộ tộc Jrai, sinh năm 1966, được rửa tội từ nhỏ. Cha anh cũng là công giáo gốc, từng là người đi giúp đồng đạo thời Đức Cha Kim Paul Seizt… Sau năm 1975, tôn giáo và ngay cả những nét văn hóa như tiếng coòng chiêng, cũng bị kết tội là mê tín. Cha anh vì quá sợ hải nên… bỏ chuyện đạo qua một bên. Rmah Nguc lớn lên và hòa nhập nhanh vào đời sống xã hội. Các người lãnh đạo chú ý đến vì sự thông minh và hoạt bát của anh. Học xong lớp 9, R. Nguc được đưa đi học sơ cấp sư phạm để về làm hiệu truởng trường tiểu học của cả huyện. Chỉ mới 20 tuổi, anh đã được kết nạp đảng. Một vị lãnh đạo cho biết: “Thằng R. Nguc đã được đưa vào kế hoạch đào tạo để làm bí thư đảng ủy xã”. Là hiệu trưởng, anh đã sống hết mình cho học sinh. Năm 1990, cha anh mất, anh quyết tâm trở lại với Chúa. Dần dần cấp lãnh đạo biết anh là người công giáo, họ gọi anh lên cảnh cáo, đe dọa đủ cách, nhưng anh trả lời: “tôi theo đạo từ nhỏ, nên tôi phải giữ.” Thế là tự nhiên anh bị cho nghỉ việc, mất cả lương bổng, kể cả thâm niên…Anh bị người ta đuổi việc. Lúc đầu dĩ nhiên anh phải buồn…nhưng nhờ vậy, anh có nhiều giờ học giáo lý, đọc Thánh kinh… Ngày hôm nay (2002), nhà anh là là nơi giáo dân Jrai lui tới cầu nguyện. Có những buổi học giáo lý dành cho các ami (các bà mẹ), các ama (ông bố) và Lắc-ai (ca đoàn)…Rõ ràng anh Rmah Nguc, không vâng giữ lời Chúa chỉ bằng môi miệng; anh còn đem nó ra thực hành nữa…

c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Thiên Chúa yêu thương và kêu gọi tất cả mọi người tham gia vào công việc của Chúa muốn thực hiện nơi trần gian (gọi là làm việc trong vườn nho của Chúa), là đem ơn cứu độ, đem lại hạnh phúc và sự sống đến cho mọi người. Ai đón nhận và tích cực thi hành chứ không chỉ nói suông mới là người tuân phục Thiên Chúa và thuộc về Chúa, là con cái Chúa. Ta là hạng người nào đây? Ta có tích cực cộng tác với Chúa, với Hội thánh để lo làm việc trong vườn nho Chúa, hay chỉ nói suông mà thôi?

23. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

NGƯỜI BIẾT HOÁN CẢI CÓ CHỖ TRONG NƯỚC THIÊN CHÚA

Chủ đề nổi bật hơn cả của Chúa nhật XXVI thường niên A là sự thống hối ăn năn của con người tội lỗi gặp được lòng nhân lành của Thiên Chúa tình thương. Quả thật, lịch sử cứu độ của Thiên Chúa đối với con người là một chuỗi dài lịch sử tình thương, tội thì Chúa phạt, hoán cải thì Chúa cứu. Đó là lý do tại sao Thiên Chúa phán: “Ta muốn lòng nhân từ chứ không cần hy lễ” (Os 6, 6; Mt 9, 13). “Ta không muốn kẻ vô đạo chết, mà (muốn) kẻ vô đạo bỏ đường nó theo mà trở lại và được sống” (Ez 33,11). Cánh cửa trái tim nhân từ của Thiên Chúa luôn luôn rộng mở cho hết những ai chân thành hướng về Thiên Chúa với cả tấm lòng thành, và Ngài sẽ đón nhận họ với niềm vui khôn tả là cả thiên đàng sẽ vui mừng (x. Lc 15,10).

Chỉ có Thiên Chúa không qui kết tội lỗi mà còn thứ tha. Ngài là “Cha đầy tình thương xót” (2 Cr 1,3), là Thiên Chúa nhân lành, đầy lòng từ bi, và là Thiên Chúa mọi nguồn an ủi, luôn kiên nhẫn chờ đợi kẻ có tội thống hối ăn năn, luôn muốn điều tốt cho con cái. Hoán cải thực sự là dứt khoát từ bỏ tội lỗi, thống hối vì những tội đã qua và xin Chúa thứ tha. Thiên Chúa thương xót sẵn sàng tha thứ và tuôn đổ Thánh Thần tẩy xóa mọi tội lỗi quá khứ của hối nhân.

Trách nhiệm của con người

Thiên Chúa muốn chúng ta phải chịu trách nhiệm về những việc chúng ta làm, trả lời về những kết quả hành động của chúng ta. Nên chúng ta không được hành động nửa vời: vì nếu nửa vời chúng ta sẽ chết. Tiên tri Ezekiel cảnh báo: “Nếu kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó đã đi, và thực thi công bình chính trực, nó sẽ được sống. Nếu nó suy nghĩ và từ bỏ mọi tội ác nó đã phạm, nó sẽ sống chớ không phải chết” (Ed 18, 28).

Chúa Giêsu cảnh báo chúng ta rằng, nói “vâng”, “tôi biết”, “tôi thực hành giáo lý” mà thôi, chưa đủ, phải hành động, phải lên đường. Chính người con trai đã nói “không” với cha mình, nhưng nó hối cải và đi làm vườn nho, anh ta đã làm theo ý người cha, như thế, anh bước vào giao ước tình thương của cha anh, anh đã yêu mến cha trong hành động và chân lý.

Chúa Giêsu lên án các thượng tế và kỳ lão là những người biết rõ Kinh Torah, Lời Thiên Chúa, nhưng chỉ biết thôi không làm cho họ nên công chính. Chúa long trọng tuyên bố: “Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21, 31). Các thượng tế và kỳ lão hiểu rất rõ sứ điệp trên, nên họ sẽ không dung tha cho Chúa Giêsu: ít ngày sau, chính họ là những kẻ sẽ lên án tử cho Người. Đúng, sự đồi bại của kẻ công chính sẽ dẫn đến cái chết, thậm chí dẫn đến cái chết của những người vô tội, như Hêrôđê dẫn đến cái chết của các thánh Anh Hài!

Những cô gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước

Lời tuyên bố trên của Chúa Giêsu như một ánh hào quang của Tin Mừng được xây dựng chung quanh hạng nguời đĩ điếm, lý tưởng hoá họ và đối nghịch họ với những kẻ được gọi là công chính là các thượng tế và các kỳ lão, đã gây sốc cho nhiều người. Không có lời nói nào của Chúa Giêsu bị lạm dụng cho bằng lời nói: “Những cô gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước” (Mt 21, 31).. Khi lý tưởng hoá hạng đĩ điếm, người ta cũng lý tưởng hóa luôn cả hạng người thu thuế, luôn đi kèm hạng đi điếm, là những kẻ cho vay nặng lãi, một loại luôn đồng hành loại gái điếm trong Tin Mừng đã gây lên một sự hiểu lầm đáng sợ, khi người ta không nhận thức đủ.

Những người thu thuế, là những nhân viên các cơ quan thâu thuế Roma, tham dự trong những hành xử bất công của những cơ quan này. Nếu Chúa Giêsu liên kết những gái điếm và những người thu thuế với nhau, Người làm vậy không phải là không có lý do; vì cả hai đều coi tiền bạc là sự quan trọng nhất trong cuộc sống.

Nếu Chúa Giêsu tôn trọng các cô gái điếm và người thu thuế hay kẻ tội lỗi, không phải do kiểu sống của họ, nhưng vì khả năng thay đổi và phục thiện… như Maria Madalêna, kẻ đã trở lại và đã theo Chúa Giêsu trên tất cả con đường thánh giá, là một gương mẫu cho sự này (đặt giả thiết bà là một cô gái điếm), Giakêu (x. Lc 9, 1-10), người phụ nữ Samaria (Ga 4, 1-42), người phụ nữ ngoại tình (x. Ga 8, 1-11) và người con trai hoang đàng (x. Lc 15, 11 và 32).

Chúa Giêsu nói rõ lý do sẽ vào nước Thiên Chúa trước: “Vì Gioan đã đến với các ông trong đường công chính, và các ông không tin ngài; nhưng những người thu thuế và gái điếm đã tin ngài. Còn các ông, sau khi xem thấy điều đó, các ông cũng không hối hận mà tin ngài” (Mt 21, 32).

Hoán cải không bao giờ là muộn.

Chúng ta được yêu cầu từ bỏ thái độ để ý đến mình hơn là tha nhân, thậm trí hơn cả Thiên Chúa nữa. Vì Không phải mọi kẻ nói với Ta: “Lạy Chúa, lạy Chúa”, là sẽ vào được Nước Trời, nhưng là kẻ thi hành ý Cha Ta, Đấng ngự trên trời” (Mt 7, 21).

Những lời tuyên bố trên của Chúa Giêsu giúp chúng ta hiểu rõ hơn về dụ ngôn hai người con trai được cha sai đi làm vườn nho (x.Mt 21, 32). Qua đó, Chúa mở mắt những người Do Thái để họ hiểu rằng khi khép kín lòng mình trong sự bất chính và sai lầm của chính họ là một sự từ chối Nước Trời.

Họ nói “vâng” với Thiên Chúa. Nhưng trong thực tế, họ lại ngoan cố khước từ lời Thiên Chúa, gạt bỏ Nước Trời. Rõ ràng là nói “vâng” nhưng lại không thi hành. Và như một mẫu gưỡng về sự hoán cải, Chúa Giêsu đặt ra những tình huống trái nghịch: những người thu thuế và gái điếm. Ban đầu, họ nói “không” với Nước Trời và Giao Ước vì họ chưa nhận ra các yêu cầu phải thi hành để được vào Nước Trời, nhưng họ có đủ khả năng để thích ứng với dấu hiệu Nước Thiên Chúa. Sau đó, trên hành trình tìm kiếm Nước Trời. Dần dần, họ học cách nói “có”, nên Chúa Giêsu tuyên bố: “Bởi đó, tôi nói cho các ông hay: Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi” (Mt 21, 43).

Phần chúng ta, chúng ta cũng phải học cách nói “có”… “Con không đi’. Nhưng sau hối hận và đi làm” (Mt 21, 29).

24. Tôi khám phá ra 3 điều khác lạ

(Suy niệm của Lm. Trần Nguyên)

  1. Bài Tin mừng hôm nay không khởi đầu như thường lệ bằng câu: “Khi ấy Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng”, nhưng: “Khi ấy Đức Giêsu nói với các Thượng tế và các trưởng lão trong dân rằng”.

Vào thời Đức Giêsu, các Thượng tế và trưởng lão đại diện cho toàn thể giới lãnh đạo tôn giáo và xã hội Do Thái. Họ cho mình là rường cột của niềm tin chính thống và nền tảng của xã hội. Đức Giêsu đồng hoá họ với người con trưởng: Nói mà không làm.

  1. Đức Giêsu đảo lộn trật tự tôn giáo và xã hội. Ngài đồng hoá những người thâu thuế và các cô gái điếm với người con thứ hai: Ban đầu từ chối, nhưng sau đó hối hận và làm theo ý cha mình.

Bài Tin mừng không thuật lại phản ứng của những người đối thoại với Đức Giêsu. Nhưng sự so sánh của Ngài phải nói là rất táo bạo, phải được gọi là một cuộc cách mạng, một sự đảo lộn bậc thang giá trị: Hạ giới lãnh đạo, hạ những người chốp bu xuống và nâng những người tội lỗi, nâng hạng người bị xã hội khinh thường lên.

  1. Người Cha là chủ vườn nho. Ông không sai những đầy tớ, những người làm công lao động trong vườn nho của mình, nhưng sai chính những người con.

Ba điều khác lạ trong bài Tin mừng hôm nay giúp chúng ta, những kitô hữu của ngàn năm thứ ba, sống Lời Chúa thế nào?

  1. Đức Giêsu muốn trực diện và nói thẳng với mỗi người chúng ta: Không phải mang nhãn hiệu kitô hữu với giấy chứng Rửa tội, không phải mỗi ngày đọc kinh, mỗi Chúa Nhật tham dự Thánh Lễ là đương nhiên sẽ được giấy vào Nước Trời. Nhưng phải chấp nhận và hành động theo Tin Mừng, phải tuyên xưng và sống niềm tin, phải nối đạo với đời.

  2. Mỗi thánh nhân đều có một dĩ vãng. Mỗi tội nhân đều có một tương lai. Không vì một dĩ vãng đen tối mà nằm lì trong vũng tội. Hãy noi gương những người thâu thuế và các cô gái điếm để biết lắng nghe Lời Chúa, chấp nhận Tin mừng và thống hối, canh tân đời sống. Không bao giờ quá trễ và phải khởi sự ngay trong ngày hôm nay.

  3. Chúng ta, giáo sĩ và giáo dân, là những người con được Chúa trao trách nhiệm làm việc trong vườn nho của Ngài. Mỗi người chúng ta phải rao truyền và sống Tin mừng: Trong mỗi hành động, chúng ta phải là chứng nhân của niềm tin kitô; qua mỗi lời nói, bằng mỗi câu chuyện, chúng ta phải an ủi, nâng đỡ tinh thần và chia sẻ kinh nghiệm của đức tin, cậy, mến cho nhau.

25. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành

Trong xã hội chúng ta sống luôn tồn tại hai hạng người: tốt và xấu. Thông thường người ta đánh giá kẻ tốt người xấu bằng cái nhìn từ bên ngoài. Nhưng thực tế, cái nhìn từ bên ngoài thì hay sai lầm.

Bởi vì, rất nhiều người bề ngoài có vẻ tốt lành, thánh thiện nhưng bên trong lại có tâm địa xấu xa: “Bề ngoài thớt thớt nói cười, trong lòng nham hiểm giết người không dao” (Truyện kiều) hoặc “Khẩu phật, tâm xà” (Tục ngữ). Ngược lại, có những người bề ngoài xem ra xấu xa nhưng cái tâm bên trong lại hết sức trong sáng, tốt lành. Vì thế, người ta mới nói “con người nhìn mặt, Thiên Chúa nhìn lòng”(x. 1Sm 16,7). Hay nói cách khác, chỉ có Thiên Chúa mới biết chắc chắn ai là người tốt và ai là kẻ xấu.

Đoạn Tin Mừng hôm, Đức Giêsu cho chúng ta thấy thế nào là người con tốt, thế nào là người con xấu?

Người con tốt là người con làm theo ý của cha mình chứ không phải bằng lời nói suông. Chúng ta thấy hình ảnh này nơi người con thứ nhất. Lúc đầu nó chống lại lệnh của Cha mình: “Thưa Cha, con không đi”, nhưng sau đó nó hối hận, nên nó thay đổi thái độ và nó đi làm. Nó là người con tốt. Người con này tượng trưng cho dân ngoại: Tuy ban đầu họ từ chối ơn cứu độ, nhưng nhờ lời rao giảng của Đức Giêsu họ đã tin theo. Người con này cũng tượng trưng cho những người thu thuế, các cô gái điếm và những kẻ tội lỗi khác: Đây là hạng người bị dân Do thái khinh miệt, bị loại ra khỏi cộng đồng xã hội, nhưng khi Đức Giêsu rao giảng, họ đã lắng nghe, thành tâm sám hối và tin nhận đi theo phục vụ Đức Giêsu. Họ chính là những người làm theo ý muốn của Thiên Chúa.

Người con xấu là người con không làm theo ý cha mình mà chỉ bằng lời nói suông. Chúng ta thấy hình ảnh này nơi người con thứ hai. Lúc đầu nó đã mau mắn vâng nghe lời cha: “Thưa Cha, con đi,” nhưng sau đó nó lại không đi làm. Nó là người con xấu. Người con này tượng trưng cho các Kỳ mục và Thượng Tế: Họ thường tự hào mình là dân riêng Chúa chọn, là con cái Abraham, là những người tuân giữ luật Môisê một cách tỉ mỉ; họ mau mắn thưa “xin vâng” nhưng trong thực tế họ nói mà không làm; họ bắt kẻ khác tuân giữ luật nhưng chính họ lại không tuân giữ; họ chất lên vai dân chúng những gánh nặng mà chính họ lại không thể mang nổi; họ “giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế “(x. Mt 23,27). Đặc biệt, khi Đức Giêsu đến, họ không tin nhận và thực hành giáo huấn của Ngài. Họ đúng là những người nói một đàng làm một nẻo. Họ là những người con xấu.

Như vậy, để đánh giá một người tốt hay xấu, người ta không dựa vào lời nói suông mà dựa vào hành động. Khi Đức Giêsu hỏi những người Do thái: “Ai trong hai người con đã làm theo ý cha mình?” và chính họ đã trả lời: “Người con thứ nhất”. Vì thế, Đức Giêsu đã khẳng định rằng những cô gái điếm và những người thu thuế sẽ được vào nước Thiên Chúa trước các Kỳ mục và Thượng tế. Vì sao? “Vì Gioan đã đến với các ông trong đường công chính, và các ông không tin ngài; nhưng những người thu thuế và gái điếm đã tin ngài. Còn các ông, sau khi xem thấy điều đó, các ông cũng không hối hận mà tin ngài”(x. Mt 28, 31-32).

Tóm lại, lời nói không quan trọng bằng việc làm, người tốt hay xấu là ở tại việc làm chứ không phải ở lời nói suông. Nhưng thời gian có thể giúp con người thay đổi: Từ lời nói tới việc làm, từ người xấu trở thành người tốt, người tốt trở thành người tốt hơn và ngược lại người tốt cũng có thể trở thành người xấu. Bài đọc I, tiên tri Êdêkiel chứng minh cho chúng ta thấy điều đó: Thứ nhất, kẻ tốt có thể trở thành người xấu, đó là “khi người công chính từ bỏ lẽ công chính và phạm tội ác, nó phải chết, chính vì tội ác nó phạm mà nó phải chết” (x. Ed 18,26). Thứ hai, kẻ xấu có thể trở thành người tốt: đó là “khi kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó đã đi, và thực thi công bình chính trực, nó sẽ được sống. Nếu nó suy nghĩ và từ bỏ mọi tội ác nó đã phạm, nó sẽ sống chớ không phải chết” (x. Ed 18,27-28).

Nhưng khi thời gian chấp dứt, thì tốt – xấu không thể thay đổi nữa. Đó là thời gian chung thẩm, khi Con Người ngự đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Ngài sẽ phân biệt kẻ dữ người lành, tách biệt chiên với dê. Lúc đó, người lành sẽ được vào Thiên đàng hưởng hạnh phúc muôn thuở, còn kẻ dữ phải sa Hỏa ngục đời đời, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng (x. Mt 25,31-46).

Chính vì thế, chúng ta hãy quyết tâm thực hành những điều sau đây:

Thứ nhất, nếu nhận thấy mình đang ở trong tình trạng tốt: Hãy cảm tạ Chúa. Hãy giữ vững tình trạng đó bằng cách gắn bó với Chúa trong đời sống cầu nguyện, lãnh nhận các Bí tích, làm việc bác ái. Hãy cẩn thận với các chước cám dỗ: Ma quỷ, thế gian, xác thịt. Hãy nhớ lời khuyên của Thánh Phaolô rằng: “Ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã” (1Cr 10,12).

Thứ hai, nếu nhận thấy mình đang ở trong tình trạng tội lỗi, xấu xa: Hãy khiêm tốn nhận ra tội lỗi của mình, thống hối ăn năn, xưng tội và quyết tâm thay đổi đời sống để trở nên tốt hơn. Tin mừng để lại cho chúng ta nhiều mẫu gương đã biết thay đổi đời sống từ xấu sang tốt, từ tội lỗi trở thành thánh thiện: Mathêu; Giakêu, Maria Mađalêna, người phụ nữ ngoại tình, đứa con hoang đàng và nhiều kẻ tội lỗi khác.

Thứ ba, nếu nhận thấy mình không tốt cũng không xấu, nghĩa là có thái độ sống đạo lưng chừng: Hãy có gắng thay đổi thái độ sống, vì thái độ sống đạo lưng chừng này đã bị Lời Chúa lên án: “Ta biết các việc ngươi làm: ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng. Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi! Nhưng vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta” (x. Kh 3,15). Tại sao Chúa lại ghét thái độ sống đạo lưng chừng như vậy? Vì sống đạo lưng chừng là đi ngược lại với Tin mừng. Chúa không chỉ muốn chúng ta tránh xa tội lỗi, nhất là tội trọng mà Ngài còn muốn chúng ta phải có lòng kính mến Chúa hết lòng hết sức trên hết mọi sự và yêu tha nhân như chính mình.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con biết khiêm tốn nhận ra những sai lỗi nơi mình để ăn năn thống hối để trở nên người hoàn thiện một ngày một hơn. Amen.

26. Trở lại

Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay đặt chúng ta trước một người cha hiền lành và nhân hậu truyền bảo hai người con của mình đi làm vườn nho. Thực vậy, hình ảnh người cha này chính là hình ảnh Thiên Chúa của Đức Kitô, hoàn toàn trái ngược với hình ảnh Thiên Chúa mà các thượng tế đã giới thiệu cho người Do Thái.

Đúng thế, người ta thường hay vẽ ra một Thiên Chúa thích trừng phạt và áp đặt những mệnh lệnh độc đoán, khác hẳn với hình ảnh Thiên Chúa do Đức Kitô mạc khải, là một người cha nhân từ và tha thứ. Ngay cả lệnh truyền của Ngài cũng chỉ là một lời mời gọi: Hôm nay con hãy đi làm vườn nho cho cha.

Thái độ của hai người con cũng trái ngược nhau một cách đặc biệt. Hình ảnh hai người con có lẽ đã diễn tả được tính chất mâu thuẫn của hai quan niệm biết Chúa và sống đạo.

Người con thứ nhất khẳng định tự do của mình bằng tiếng không với cha anh. Nhưng sau đó, anh đã suy nghĩ lại và đã quy thuận, đặt tự do của mình phục vụ lợi ích chung của gia đình qua việc thi hành ý muốn của cha. Có một sự giằng co trong chọn lựa của anh. Để thực thi ý muốn của cha, anh đã phải can đảm từ bỏ cách sử dụng tự do theo tính tự phát của cái tôi ích kỷ, của những sở thích, những dục vọng đi ngược lại với hạnh phúc chung của gia đình xã hội.

Trái lại người con thứ hai từ đầu đến cuối đã tỏ ra bất nhất, vô trách nhiệm đối với ích lợi chung và chỉ biết có mình. Câu trả lời của anh ta: Thưa cha vâng, thật ra chỉ là một câu nói hình thức, dửng dưng, máy móc nhằm mục đích đánh lừa người cha. Anh ta không yêu mến cha mình và do đó cũng tỏ rõ mình là người ích kỷ, không thể yêu thương bất cứ một ai khác. Vì tình yêu không ở trong những điệu bộ khách sáo, đầu môi chót lưỡi mà phải đi vào hành động đi vào việc làm.

Trong thực tế, phần đông chúng ta đều cảm thấy khó mà thực thi ý Chúa bởi vì nó ngược với sở thích vị kỷ cá nhân của mình. Thái độ tránh né vốn là thái độ thường tình, nhất là khi gặp phải khổ đau và thử tháchy. Phải chấp nhận sự trăn trở, giằng co, chiến đấu với bản thân rồi mới nhìn ra thánh ý Chúa và can đảm thực hành. Giá trị cuộc đời chúng ta chủ yếu là nhờ sự phản tỉnh và quay trở lại cùng Chúa.

Nhìn vào xã hội, chúng ta thấy còn đầy dẫy những chuyện bê bối, tiêu cực, chẳng hạn, vấn đề tham nhũng, trộm cắp và những tội phạm hình sự. Có lúc ở rất gần chúng ta, ngay bên trong giáo xứ và biết đâu, ngay bên trong bản thân chúng ta. Thử hỏi chúng ta phải làm gì? khoanh tay lên án theo kiểu Pharisêu hay kiên trì hành động, làm cho tình trạng nói không với Chúa, trở thành tình trạng nói có với Chúa, bằng một lòng xác tín vào tình thương tha thứ của Ngài. Bởi vì Ngài luôn luôn sẵn sàng tha thứ cho chúng ta, nếu chúng ta biết sám hối quay trở về với Ngài.

27. Một đường cái quan – Achille Degeest.

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

Dụ ngôn hai người con trai là một truyện kể mà các phần tương ứng với ý tưởng Thiên Chúa muốn diễn ta. Chúa cố thử cho người ta hiểu điều sau đây: những người Biệt phái ưng thuận thi hành lề luật, nhưng đến cuối họ không đón nhận Đấng Messia được lề luật loan báo, thái độ ấy khiến họ thụt lùi sau những người tội lỗi. Những người này tuy không tuân giữ lề luật, nhưng cuối cùng đã biết đặt lòng tin vào Đấng được xức dầu của Thiên Chúa. Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa. Hai người con trai là người thu thuế và người Biệt phái, người thì tuân giữ lề luật của Môisê, kẻ thì không. Những người thu thuế tuân giữ được ý định tối hậu của lề luật là tin vào Đấng Kitô cùng hoán cải vào đời sống; người biệt phái vì từ chối không chịu tin vào Chúa Giêsu cũng từ chối không hoán cải theo Phúc Âm. Kết cục người thu thế thi hành thánh ý Thiên Chúa, còn người Biệt phái thì không. Thông thường trong Phúc Âm khi một dụ ngôn nói thẳng cho người Do thái cũng kèm theo ý định giảng dạy cộng đoàn Kitô hữu. Do đó dụ ngôn hai người con trai cũng nói cho những ai trong Giáo Hội ngày nay buông mình mang lấy não trạng “chính nhân” giống như người Biệt phái. Chính cho chúng ta ngày nay mà lời khuyến cáo cần phải thi hành thánh ý Thiên Chúa, chứ không được dựa cậy vào những việc tuân giữ bề ngoài được thốt ra. Câu ngắn ngủi trung tâm của truyện kể được Chúa Giêsu tạo ra là: Ai là kẻ đã làm theo ý muốn của Cha? Ý muốn của Thiên Chúa ở đây là gì?

1) Ý muốn của Thiên Chúa là chúng ta tin vào Con Thiên Chúa, Đấng cứu chuộc loài người. Nhưng cần nhấn mạnh điểm này: dụ ngôn đòi chúng ta hãy dấn bước lên đường vì đức tin chứ không buộc chúng ta phải đến nơi rồi. Khi nghe dạy ra vườn nho, một trong hai đứa con cuối cùng đã đi. Câu ấy có nghĩa là dấn bước, đi tới một mục tiêu. Trong đời sống đức tin luôn luôn phải lên đường. Chúng ta chưa bao giờ đến đích cả. Vào lúc Chúa Giêsu phán dạy ngụ ngôn, các người nghe Ngài nói ngay cả các môn đệ, không thể nào đạt tới một đức tin trọn vẹn, họ chưa có đủ các yếu tố. Chúa Giêsu chưa đưa các môn đệ vượt qua mọi giai đoạn dẫn đến lời tuyên xưng đức tin mà họ sẽ công bố sau ngày Hiện xuống. Nhưng điều quan trọng ở chỗ nào? Ở chỗ khởi sự tin với những ánh sáng ta có và với tất cả thiện chí ta có.

2) Làm cách nào để luôn tiến bước trong cuộc sống đức tin? Bằng cách tự hoán cải không ngừng. Tự hoán cải là không làm theo ý của mình, nhưng làm theo ý của Thiên Chúa. Thực thi thánh ý Thiên Chúa có nghĩa là sống thực sự là Kitô hữu không ở trong lời nói nhưng trong việc làm, không những ở các việc đạo đức, nhưng trong cụ thể đời sống. Đức tin tuyên xưng trong tâm trí cần phải thấm nhập cụ thể cách sống và xử sự của chúng ta. Nếu tính ích kỷ của chúng ta phản ứng lại đòi hỏi ấy, đó cũng là việc thường tình và cũng thường tình nếu thoạt tiên đôi khi chúng ta cảm thấy cám dỗ khước từ lời Thiên Chúa dạy. Thiên Chúa không xét đoán chúng ta căn cứ vào cơn cám dỗ hay phản ứng thoạt tiên ấy. Ngài xét đoán chúng ta “tại chỗ”, nghĩa là những gì cuối cùng chúng ta làm khi tuân theo ý Ngài. Phúc cho Kitô hữu nào đi theo con đường trực tiếp ấy mà đến Nước Trời!

28. Vâng lời và hành động

Chúng ta luôn thấy trong cuộc sống có sự mâu thuẫn giữa hành động và lời nói, có sự xung khắc giữa quyền bính và sự vâng phục trong nhiều lãnh vực của đời sống: trong gia đình, trong lớp học, trong nhà máy, trong chính quyền quốc gia và địa phương. Sự đấu tranh đó có quá nhiều khía cạnh mà chúng ta không thể nhắc đến được tất cả cũng như tìm cách giải quyết. Tuy nhiên chúng ta có thể đề ra một vài gợi ý.

Phần nhiều tùy thuộc ở cách thế, thời gian và nơi chốn mà lệnh truyền được ban ra. Cung giọng, vẻ mặt, cách xử sự góp một phần đáng kể có lẽ người cha trong câu chuyện Chúa Giêsu kể đã ra lệnh với cung giọng cộc cằn độc tài. Có lẽ không bao giờ ông tâm sự và chia sẻ với các con ông trong khi có những quyết định. Điều thực tế này rất thường có ngay trong đời sống giáo xứ, trong đời sống Giáo hội nói chung. Quyền bính và trách nhiệm được chia sẻ nhiều hơn thì sự đấu tranh phải giảm đi.

Dĩ nhiên, trên hết chúng ta coi như người ra lệnh hay những chỉ dẫn, thì có trí thông minh, khả năng hiểu biết và kinh nghiệm hơn.Trong câu truyện Chúa Giêsu kể, người con thứ nhất nói là anh ta đi làm, nhưng không đi làm. Người con thứ hai nói không đi làm và rồi lại đi làm.

Lúc đó Đức Giêsu quay lại phía các người chất vấn và hỏi họ: “Ai trong hai đứa con đã thi hành ý của Cha?”. Họ chỉ có thể đồng loạt trả lời: “đứa thứ nhất”. Đâu còn gì rõ ràng hơn, con người xứng danh được phán xét theo hành động họ làm, không theo ý hướng hay thay đổi của họ.

Khi thuật lại dụ ngôn này cho cộng đoàn, thánh sử Mt muốn biện hộ cho một Giáo Hội mở rộng vòng tay đón tiếp những người thu thuế, gái điếm đã hoán cải Ngài cảnh giác các Kitô hữu, xưa cũng như nay, chống lại một thứ tôn giáo bề mặt chỉ biết lải nhãi: “Lạy Chúa, lạy Chúa” nhưng không bao giờ “thi hành ý Cha”.Ngược lại, những người mà Do Thái giáo chính thức coi là đáng khinh bỉ và vô phương cứu chữa, những “người thu thuế” và “đĩ điếm”, những người tội lỗi công khai xem ra rất xa đường “công chính”, lại đón nhận lời rao giảng của Đức Giêsu cũng như họ đã đón nhận lời rao giảng của Gioan Tẩy giả: họ đã “hối cải và tin vào lời Ngài”.

Thật là tuyệt vời nếu chúng ta nói rằng: “Con sẽ làm hay con cố gắng làm” và rồi thực tế là đã cố gắng làm việc đó.Có một người con như thế thật đẹp lòng Chúa biết bao. Thiên Chúa không chỉ cần ta hành động trong cuộc sống, mà Ngài con muốn mỗi người chúng ta vừa biết vâng lời như đứa con thứ hai, vừa biết thực hành như đứa con thứ nhất.

Lạy Chúa, mẫu gương vâng lời và thực hành tuyệt vời là chính Con Thiên Chúa, Đấng đã vâng lời Cha trên trời cho tới chết, xin cho chúng con cũng vâng theo và thực thi ý Chúa mỗi ngày trong đời sống chúng con. Amen.

29. Suy niệm của Charles E. Miller.

TRONG DỰ ĐỊNH CỦA THIÊN CHÚA, SỰ CHẾT DẪN ĐẾN SỰ SỐNG

(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)

Một học sinh đã thức khuya và dậy thật sớm để chuẩn bị cho kỳ thi tuyển vào trường trung học. Một nhạc công violon tập dợt nhiều tháng để trình diễn bản concerto đầu tiên dành cho violin của nhạc sĩ tài danh Mendelssohn. Một vận động viên đã chạy một đoạn đường khá dài mỗi ngày, ông thực hiện đó mỗi ngày để tham dự vào một giải chạy marathon.

Có phải Thiên Chúa giống như thế không? Có phải Người đã thực tập trước khi Người sáng tạo thực ư? Có phải bây giờ Người phải chịu đựng để mang vũ trụ đến một chung cục hoà điệu không? Có phải Thiên Chúa đang lớn dần lên và phát triển thành một điều gì quyền lực hơn bây giờ không? Dĩ nhiên là không rồi. Thiên Chúa hoàn hảo. Người không thể lớn lên và không thể thay đổi gì nơi thần tính của Người. Nhưng sự nhập thể lại là một chuyện khác.

Người Con Thiên Chúa, có tự đời đời và ngang bằng với Cha Người trong mọi sự, đã không do dự để trở thành một con người nhân loại. Trong lúc vẫn còn là thần linh, Người trở thành giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi. Những lời mà thánh Phaolô đã can đảm dùng để miêu tả sự Nhập Thể thì đáng chú ý như chính sự kiện: “Chúa Giêsu đã tự làm trống rỗng chính mình và mặc lấy hình hài của một nô lệ, được sinh ra trong nòi giống con người”. Chúa Giêsu trở thành con người để tuân theo Thánh Ý Cha của Người, để hoàn tất chương trình của Cha Người là cứu độ chúng ta. Chúa Giêsu giống như người con trong dụ ngôn, nói “vâng” khi Thiên Chúa Cha sai Người đi vào vườn nho của thế gian để làm việc hầu cứu độ chúng ta và Người giống như đứa con thứ, Chúa Giêsu đã đi thật sự. Chính vì điều này mà “Người đã trở nên sự vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá”. Chúa Cha đã đáp lại hành động phi thường này bằng việc đưa Người Con tới sự sống Phục sinh. Chúa Cha không muốn Con của Người phải trải qua cái chết trong một cách như vậy, để rồi rơi vào quên lãng ngay cả trong bản tính nhận loại của Người nữa. Không. Chúa Cha muốn tán tụng Chúa Con và “ban cho Người một danh hiệu vượt trên hết mọi danh hiệu”. Nhưng điều kiện cho sự tán tụng này là, hay nói chính xác hơn, nguyên nhân của sự tán tụng này là Người đã vâng lời cho đến chết. Thánh Phaolô đã tuyên bố cách rõ ràng: “Chúa Giêsu đã chấp nhận cái chết” và bởi vì điều này mà Thiên Chúa đã tôn vinh Người. Chúng ta sẽ thấy từ: “Bởi vì” đã được viết hoa.

Không phải việc Chúa Giêsu chết và sống lại là một điều gì giống như anh chàng điên tự đập đầu mình rồi sau đó cảm thấy tốt hơn nếu không làm như thế nữa. Chân lý này mầu nhiệm Vượt Qua, dự định của Thiên Chúa Cha là biến những nơi đau buồn nên con đường để đến với niềm vui, sự khiêm tốn biến thành lời ca tôn vinh và cái chết biến đổi thành sự sống đời đời.

Mầu nhiệm Vượt Qua là con đường của Chúa, không chỉ vì một mình Chúa Giêsu mà cả chúng ta nữa. Chúng ta bước vào trong cuộc đụng chạm với Mầu Nhiệm Vượt Qua trong phép rửa tội, nơi mà chúng ta đã chết cho tội và sống lại với một sự sống mới thánh thiện trong Đức Kitô. Chúng ta cử hành mầu nhiệm Vượt Qua trong mỗi thánh lễ: chúng ta tuyên xưng “Chúa Kitô đã chết đi, đã sống lại và sẽ đến một lần nữa”. Từ hy tế Thánh Thể chúng ta kéo sức mạnh xuống để sống theo ý nghĩa của bí tích rửa tội. Giống như Đức Kitô, chúng ta phải vâng theo ý muốn của Thiên Chúa trong mọi sự, ngay cả cái chết nữa. Trong cung cách chúng ta đang sửa soạn cho cuộc kiểm tra cuối cùng, chúng ta thực hiện việc thông dự vào sự hoà hợp phong phú của thiên đàng và chúng ta cố gắng chiến đấu để ngày càng trở nên giống Đức Kitô hơn. Cung cách của Thiên Chúa là mầu nhiệm Vượt Qua, có vẻ lạ lùng đối với một số người, hoặc có vẻ thiên vị, nhưng Thiên Chúa đã dẫn Con của người qua Mầu nhiệm Vượt Qua. Chúng ta sẽ thấy sự khôn ngoan và niềm vui khi thông dự vào Mầu Nhiệm Vượt Qua với Đức Kitô.

30. Lời nói đi đôi với việc làm

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Hôm nay, Thánh sử Matthêu kể cho chúng ta nghe một câu chuyện khá thú vị:

Một người cha có hai người con. Một hôm ông nói với hai con: “Hôm nay, hai con đi làm vườn nho cho cha nghe!”Hai người con đã đáp lại bằng hai thái độ khác nhau: Người con thứ nhất đã dùng tiếng “không”để đáp lại lời mời gọi của cha. “không, con không đi”. Nhưng sau đó, anh ta nghĩ lại, rồi quyết định đi làm vườn nho như ý cha muốn.

Ngược lại, người con thứ hai, ngay từ đầu đã tỏ ra lễ phép và vâng phục. Anh ta đáp lại: “Thưa cha, vâng ạ!”, nhưng đó chỉ là câu nói lừa bịp đối với cha, vì anh ta không đi làm vườn nho như ý cha muốn. Anh chỉ nói mà không làm.

Thưa anh chị em,

Ai cũng hiểu Chúa Giêsu muốn nói gì qua câu chuyện người cha và hai đứa con này. Chúa muốn nói với chúng ta: Muốn vào Nước Trời, vấn đề không phải chỉ nói “có”ngoài môi miệng mà phải làm theo ý của Chúa Cha. Hai người con, không có người nào đem lại niềm vui trọn vẹn cho cha. Cả hai đều không làm cha mình hài lòng. Nhưng người con thứ nhất rõ ràng là tốt hơn người con thứ hai. Bởi vì, tuy lúc đầu anh đã nói “không”, rồi sau đó anh đã đi làm ngay, thì thật là tốt biết mấy!

Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta thường gặp hai hạng người này: Thứ nhất là hàng người nói nhiều hơn làm, họ hứa hẹn đủ điều, nhưng rồi không làm gì cả. Thứ hai là hạng người làm nhiều hơn nói, họ không hứa hẹn, ba hoa khoác lác, nhưng người ta thấy họ làm những việc đạo đức, nhân hậu, tốt lành, có khi làm một cách kín đáo. Chúng ta thích hạng người này hơn, vì họ chân thành, lấy việc làm chứng minh lời nói.

Lời hứa không bao giờ có thể thay thế được việc làm, và lời nói hoa mỹ không bao giờ thay thế được nghĩa cử. Người con thứ hai tỏ ra lịch sự bên ngoài, khi lễ phép trả lời; “Thưa cha, vâng ạ”. Nhưng rồi lại không đi làm. Lễ phép suông là một việc giả dối, hảo huyền. Lễ phép thật là vâng lời, thực hiện một cách sẵn lòng, vui vẻ. Đạo Kitô dạy các tín hữu thực hành chứ không phải hứa hẹn. Người Kitô hữu đích thực là người đón nhận mệnh lệnh của Cha với thái độ vâng phục và kính trọng, là người chấp hành mệnh lệnh trọn vẹn: nói làm là làm ngay.

Thưa anh chị em,

Ngày nay, người ta thường nói: “Con đường dài nhất là con đường từ đầu đến tay”. Người Kitô hữu chúng ta vẫn có nguy cơ rơi vào một thứ “duy tâm”nào đó. Chúng ta cần để cho Lời Chúa “đi từ lỗ tai đến tim óc và cuối cùng đến đôi tay”. Nhiều người chỉ nghe Lời Chúa bằng tai thôi- tai này lọt qua tai kia là hết- Nhiều người khác đã để cho Lời Chúa đánh động quả tim và trí tuệ, nhưng rồi họ ngừng lại tại đó, không dám đi xa hơn, vì sợ phải hy sinh, từ bỏ… Rốt cuộc Lời Chúa vẫn là cái gì mông lung, không thực tế, không liên hệ gì đến đời thường: đời sống làm ăn, đời sống gia đình, đời sống tình cảm… Lời Chúa vẫn bị nhốt trong nhà thờ, trong các cuộc tĩnh tâm, các buổi cầu nguyện chia sẻ. Làm sao để Lời Chúa được “đến đôi tay”, nghĩa là được người kitô hữu đem ra thực hành ở giữa chợ, ở trường học, ở cơ quan, và cả ở những nơi giải trí… Chỉ như thế, men Lời Chúa mới có thể được trộn đều vào khối bột loài người và làm bột dậy men Tin Mừng.

Quả thực, con đường đi từ quả tim đến đôi tay là một con đường dài và gian khổ. Để đi trên con đường này, người kitô hữu phải được giải phóng khỏi cái tôi nặng nề, với những lo toan và sợ hãi, những tính toán và vun quén cho mình. Rung động trước nỗi khổ của người khác là một chuyện, chia sẻ cho người khác cái áo còn tốt của mình lại là chuyện khác. Thánh Gioan đã cảnh giác chúng ta: “Hỡi anh em, đừng yêu mến bằng lời nói suông, nhưng bằng việc làm thực sự” (1Ga 3,18).

Thời Chúa Giêsu, những người Luật Sĩ và Biệt Phái Pharisêu bị lên án dữ dội vì họ giả hình- nói mà không làm, đặt gánh nặng lên vai người khác nhưng tránh né cho chính mình. Ngày nay cũng vậy: có Pharisiêu thời xưa thì cũng có Pharisiêu ngày nay: dạy con cái phải giữ đạo, phải cầu nguyện, dự lễ, nhưng chính mình lại biếng nhác, tự chước chuẩn cho mình.

Kitô giáo là một tôn giáo của lòng tin. Nhưng lòng tin bên trong của chúng ta phải được thể hiện ra việc làm bên ngoài: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Chúa Giêsu đã định nghĩa Kitô hữu là “ánh sáng cho thế giới”. Thế giới hôm nay cần thấy việc tốt của chúng ta trước khi họ tin nhận giáo lý của Chúa Kitô. Họ tin vào Đạo vì thấy những người dám sống đạo, dù phải chịu thiệt thòi và nguy hiểm. “Ánh sáng của anh em cũng phải chiếu giải trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).

Chỉ có Chúa Giêsu là Người Con lý tưởng, Người Con đã thưa VÂNG ngay từ đầu và thưa VÂNG mãi mãi suốt cả đời. Nơi Ngài luôn là CÓ chứ không phải khi CÓ khi KHÔNG. Ngài đã thưa với Chúa Cha: “Này con xin đến để thi hành ý Cha” (Dt 10,9), và Ngài đã thi hành cho đến lúc hoàn tất trên Thập Giá. Như thế, Chúa Giêsu đã thi hành ý Chúa Cha một cách hoàn hảo để nêu gương cho chúng ta. Chúng ta hãy noi gương Ngài để trở nên những người con đích thực của Cha chúng ta trên trời.

31. Quan trọng là phần cuối

(Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm)

(Dụ ngôn hai người con đi làm vườn nho)

Trong kho tàng khôn ngoan La tinh, có một câu ngạn ngữ như sau: Nọc độc ở phía đuôi (Venenum in cauda). Câu này nếu hiểu sát nghĩa đen, thì chỉ trúng cho một số con vật, như bọ cạp, như con ong: nọc ở phía đuôi. Con rắn nọc độc không ở đuôi. Thằn lằn cụt đuôi vẫn sống và mọc đuôi khác. Vì thế nọc ở phía đuôi, không thể chỉ hiểu theo nghĩa đen mà phải hiểu theo nghĩa bóng mới đúng. Nọc: phần chính yếu, sự sống … mạch máu – nằm ở đuôi: phần cuối, phần kết.

Trong nghệ thuật kể chuyện đặc biệt chuyện vui – câu kết luôn là câu quan trọng. Nhờ nó mà ta nắm bắt được những tình tiết trong lúc kể chuyện.

Nhiều khi xem một vở kịch, một cuốn phim… ta nóng lòng muốn xem: để xem coi kết thúc ra sao. Chính cái kết thúc = phần cuối, cái đuôi: giúp ta hiểu được tại sao lại có cảnh này, người kia xuất hiện…Ta xem kịch, xem phim, không biết tại sao ông khách lạ kia lại quí mến người con gái của bà góa nọ như thế. Cuối phim, thì ra ông là bố ruột của cô.

Bài Phúc âm hôm nay nói về dụ ngôn người cha có 2 người con. Xét về mặt tâm lý, cả hai người con đều là người hay thay đổi. Trước lời mời gọi của người cha, “hôm nay, con hãy đi làm vườn nho cho cha”

– Người thứ nhất nói: con không đi – sau đó đổi ý – đi

– Người thứ hai nói: con đi – sau đó đổi ý – không đi.

Cả hai người đều thay đổi, nhưng quan trọng là phần cuối của đổi thay.

Người thứ nhất được khen vì kết bằng đi. từ không đi–đến đi

Người thứ hai bị chê vì kết bằng không đi. Từ đi – đến không đi.

Vậy chủ điểm mà chúng ta đang tìm hiểu đó là: quan trọng là phần cuối. Đặc biệt là cuối cuộc đời. Nọc nằm ở phía đuôi. (cuối ngày, cuối giờ, cuối năm, cuối đời…)

Cách đây khoảng ba chục năm, khi việc phong thánh cho 117 vị tử đạo tại Việt Nam đang hồi gay go căng thẳng. Lúc đó ở Hà Nội, Nhà Nước đã chuẩn bị sẵn một hồ sơ về một số vị tử đạo có tì vết. Tì vết về đời sống luân lý, hoặc tì vết về đời sống chính trị: như tham gia vào loạn quân, như đi với Pháp… Hay như thánh Gẫm có hai bà vợ… Có một vị chức sắc cao cấp trong Giáo hội Việt Nam đọc được những tài liệu đó, cảm thấy e ngại, nên muốn đề nghị HĐGM hoãn ngày phong thánh để duyệt xét lại …

ĐGM Nha trang (ĐGM Hòa) lúc đó đang ở Hà Nội cũng được thông báo cho biết có những hồ sơ như vậy, với một thách thức ngầm: coi chừng, lộn xộn, chúng tôi cho công bố hồ sơ bê bối đó. (Ở đây chúng ta không xét mức độ thật hư của các hồ sơ đó như thế nào, nó đúng hay sai, đúng bao nhiêu, sai bao lăm). Cái hay mà chúng ta muốn nhắc lại đây là câu trả lời của ĐGM Nguyễn văn Hòa. Các ông cứ cho công bố: Càng công bố càng làm nổi hơn cái chết vì đạo của vị thánh. Họ như vậy đó mà họ vẫn chọn cái chết như thế đó. Chúng tôi căn cứ vào cái chết để phong thánh cho họ. Ngày chết là ngày sinh trên trời của của mỗi vị thánh.

Một quá khứ đen tối không luôn luôn làm giảm giá cuộc đời của một vĩ nhân. Abraham Lincohn tổng thống 16 của Hoa Kỳ có một quá khứ thật ảm đạm, cùng cực, nghèo túng, nhưng đã vươn lên thành người có công thống nhất Nam Bắc nước Mỹ. Có người từng đi chăn bò, chăn trâu, ở đợ, nhưng sau làm giám đốc, chủ tịch… Nhưng, ngược lại thì không được: đã từng làm giám đốc, chủ tịch, nay đi chăn bò, chăn trâu…! Cái quan yếu là ở phần cuối, ở về sau. “Nọc ở phía đuôi”.

Cũng cách đây trên ba chục năm, khi đi ra chợ Nha Trang, một linh mục được một người bán hàng ở chợ Đầm mách bảo: ở Nha trang đang cho chiếu một bộ phim bài bác đạo ghê lắm! Chúng tôi đi xem, coi nó bài bác đến mức nào. Thật ra, nếu ai hiểu cốt truyện thì bộ phim không bài bác Đạo đâu, mà có khi trái lại nữa. Vì đạo diễn là Risac Be, người Ba Lan, công giáo. Bộ phim dựa trên tiểu thuyết của Anatole France. Tiểu thuyết lại dựa trên một câu chuyện có lẽ có thực, xảy ra vào thế kỷ 4-5. Bộ phim mang tựa đề: Thais.

Thais là một vũ nữ sống ở Ai Cập, nổi tiếng phóng đãng, xa hoa. Và vì là phim ảnh, nên cảnh ăn chơi sa đọa trụy lạc của lớp quí tộc thời Ai Cập cổ được phóng đại và trình diễn lên màn hình trong những căn phòng có bóng cây thánh giá. Đó là điều mà người bình dân nói là bôi bác đạo. Thật ra không phải thế. Nhà ẩn tu Papnuc (Pathnutius) khi nghe tin về người vũ nữ thì đã cầu xin Chúa soi sáng, giúp sức, quyết định đến tìm Thais để đưa nàng ra khỏi nơi ăn chơi sa đoạ và trở về với Chúa. Sau khi cải trang, vị ẩn tu đến nhà nàng và xin được gặp riêng nàng ở nơi kín đáo. Nhưng bởi vị ẩn tu luôn nói rằng nơi này chưa kín đáo đủ, nên bực mình, Thais nói: Chắc chắn không ai có thể nhìn thấy chúng ta nơi đây, nhưng nếu ông muốn tránh cái nhìn của Thiên Chúa, thì dù ông trốn bất cứ nơi nào kín đáo nhất, ông cũng không tránh được.

 Khi nghe vậy, vị ẩn tu vội nói: “Cô cũng biết có vị Chúa ư?”

– Có lẽ thế, và tôi cũng biết có một thiên đàng dành cho người tốt và một địa ngục cho ác nhân.

– Vậy sao cô có thể sống cuộc đời tội lỗi như thế trước một vị Chúa luôn trông thấy cô?

Những lời này xoáy vào lòng Thais – nàng sấp mình xuống chân người của Thiên Chúa. Sau đó nàng đi theo ẩn sĩ Papnuc để tìm nơi tu trì nhiệm nhặt và rồi cuối cùng chết như một vị thánh.

Còn ẩn tu Papnuc, một tu sĩ khổ hạnh, qua việc đi cảm hoá người, hiểu được phần nào hương vị cay đắng ngọt ngào của tình yêu và cuối cùng, kết thúc của bộ phim: ẩn sĩ Papnuc trở thành kẻ phản đạo, không còn tin Chúa.

Qua bộ phim và qua tiểu thuyết, ta thấy thật dịu ngọt và cay đắng. Dịu ngọt vì khúc cuối, cái đuôi của một vũ nữ trước kia xa hoa phóng đãng nay được chết lành khi miệng luôn kêu tên Chúa lúc lìa đời. Còn cay đắng, vì vị ẩn tu suốt đời khổ hạnh, tìm cách cứu người – thì lại có phần cuối được bộ phim diễn tả bằng cảnh hoá thành con quỉ dơi đi xơi máu người.

Câu nói của Chúa Giêsu hôm nay với các trưởng lão Biệt phái thật thấm thía: “Thật, tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước Trời trước các ông” vì họ đã tin, vì phần đuôi, phần cuối của họ: họ hối cải. Còn vị ẩn tu kia khởi đầu và phần thân là đẹp nhưng kết thúc là bi thương, trở thành con quỉ dơi hút máu. Vị tông đồ Dân ngoại Phaolô đã có lần thốt lên: “Tôi bắt thân thể phải chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại” (1Cr 9:27).

Vậy thì ta có thể cùng với đức cha Bùi Tuần thưa lên với Chúa lời nguyện này:

Lạy Chúa, vì con không biết – và thực ra Chúa cũng không muốn cho con biết – đâu là phần cuối của cuộc sống con. Nó có thể tới bất cứ lúc nào, nên con phải ở trong tư thế luôn nói tiếng “Có” với Chúa, luôn đi làm vườn nho của Ngài. Lạy Chúa, xin cho con, xin cho chúng con, đừng xét đoán ai trước thời buổi, vì nào ai biết được phần cuối trước khi Chúa đến. Xin cho con, xin cho chúng con khi Chúa đến, con vẫn còn tình trạng nói tiếng “Có”. Có đây tức là tin. Con tin Chúa. Amen.

32. Làm theo ý Chúa

Thiên Chúa luôn muốn cho chúng ta những điều tốt đẹp nhất. Khi Chúa muốn ai đi làm một công việc gì thì chắc rằng điều đó có lợi cho loài người nói chung và bản thân người đó nói riêng. Do đó, chúng ta phải vâng lệnh và thi hành theo chương trình của Thiên Chúa nơi mỗi người chúng ta. Dụ ngôn hai người con cho chúng ta hiểu về đời sống đạo đức đích thực được thể hiện qua việc làm chứ không phải bằng lời nói suông.

Cả hai người này đều là con của Chúa. Ở đây không chú trọng đến tình trạng đạo đức của mỗi người con đó, cũng không để ý đến lời nói, nhưng quan tâm đến việc họ không làm hay sẽ làm. Thật ra, Chúa thường sai tôi đi làm công việc cho Chúa dưới hình thức nào, có bao giờ hiện ra gọi đích danh tôi không? Nếu Chúa hiện ra bảo tôi đi làm “vườn nho” chắc chắn tôi đã nói vâng và đi làm ngay, không dám chậm trễ. Tuy nhiên, Chúa không sai tôi trực tiếp mà sai tôi gián tiếp qua các vị bề trên, qua lời Kinh thánh, qua lương tâm, qua bổn phận trong cuộc sống. Ý Chúa thể hiện trong Mười Điều Răn, trong Tám mối phúc, trong lời giảng dạy của linh mục, bề trên, những câu giáo lý, hay qua những biến cố trong cuộc sống… Qua những gì đã hoặc sẽ xảy đến, tôi có thể đoán biết được mình là người thế nào, có những tính tốt hay tật xấu nào, cần phải làm gì… để xứng đáng là người con của Chúa.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, cả hai người con đều được mời gọi đi làm cho Chúa, một người xem ra không vâng lời nhưng biết hối lỗi và làm theo ý Chúa, một người xem ra công chính nhưng lại không thi hành giáo huấn của Chúa. Có thể nói, cả hai đứa con này là tiêu biểu cho hai hạng người được Chúa mời làm vườn nho của Chúa. Có người nói “vâng” nhưng lại lười cố gắng, bỏ thi hành lời Chúa; có người nói “không” nhưng biết suy nghĩ và hối hận về sự vô lối của mình nên đã thay đổi cuộc sống và tin theo Chúa. Chúa không xét bề ngoài nhưng xét từ trong lòng mỗi người, vì thế Chúa có thể chọn những tội nhân làm môn đệ và ban cho ơn cứu độ, trong khi một số người biệt phái cứng lòng không nhận ra Chúa. Do đó, mỗi người chúng ta phải xét mình hằng ngày để hiểu rõ tấm lòng của mình đối với Chúa. Chúa mời gọi mọi người, không phân biệt thứ hạng nào trong xã hội, vấn đề là mỗi người có làm, có sống theo lời Chúa dạy hay không.

Trong dụ ngôn này, người con thứ nhất nói: “con không đi”, cho thấy sự từ chối, bất tuân của kẻ tội lỗi, nhưng sau đó biết suy nghĩ lại, quyết tâm thay đổi và tuân phục thiên Chúa. Ngược lại, có những kẻ ngôn hành bất nhất, tỏ ra đạo đức nhưng chỉ là mồ mả tô vôi, không thi hành luật Chúa như lời họ nói. Khi Gioan Tẩy Giả đến làm phép rửa, nhiều tội nhân đến sám hối và chịu phép rửa, trong khi các kỳ lão, Biệt Phái lại từ chối lời mời gọi của Chúa, họ đã cứng lòng, bỏ qua mọi lời khuyên của Chúa. Những người mệnh danh là công chính này đã không nhận thấy thân phận yếu đuối nhiều lầm lỗi của mình. Phần chúng ta, chúng ta có hoán cải và lắng nghe tiếng Chúa luôn luôn không? Rất nhiều lần tôi chứng kiến ơn trở lại của người khác mà tôi có động lòng, từ bỏ lối sống cũ, mặc lấy Chúa kitô cách trọn hảo hơn trước không?

Chúng ta phải mau mắn thưa vâng và thi hành mọi lời Chúa dạy theo bậc sống, theo bổn phận của mình. Chúng con sẽ nổ lực thực hiện những gì mình hứa làm, nếu chúng con lỡ vấp phạm thì sớm ăn năn để được ơn tha thứ. Chúng ta có thể cầu nguyện, giúp đỡ những người khô khan, tội lỗi để họ trở về với Chúa và đến lượt họ khi trở nên sốt sắng sẽ là lời nhắc nhở chúng ta sống đạo tốt hơn.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con vốn là những kẻ tội lỗi, bất xứng trước mặt Chúa, nhưng Chúa không chấp tội chúng con, Ngài chỉ muốn con nhận ra được tình thương của Ngài và làm theo ý Ngài. Xin Chúa cho chúng con biết sống cho Chúa một cuộc đời mới để xứng đáng với tình thương của Chúa hơn và mai sau được Chúa thưởng trên Thiên Đàng vinh phúc.

33. Lời mời gọi cứu rỗi

(Suy niệm của Đức Ông Trần Văn Khả)

Bài Phúc âm theo thánh Matthêô 21,28-32 cần được đọc trong bối cảnh của những cuộc tranh luận cuối cùng giữa Chúa Giêsu và các người Pharisiêu và nhóm thù địch khác chống lại Chúa, và các cuộc này đưa tới sự căm thù và việc Chúa Giêsu bị lên án tử trên thập giá.

Ngoài ra đoạn Phúc Âm này cũng cần được đọc chung với bài sách Ngôn sứ Êdêkien (Ed 18,25-28, bài đọc thứ I Chúa nhật 26 Thường niên) về việc Thiên Chúa kêu mời người tội lỗi trở lại. Và đây là chủ đề của Chúa nhật thứ 26 hôm nay.

Trong mạch văn của Phúc âm thánh Matthêô, dụ ngôn Hai người con (Mt 21,28-32), cùng với Dụ ngôn những người tá điền vườn nho (Mt 21,33-41), và lời giáo huấn về viên đá góc tường bị loại bỏ (Mt 21,42-46), là những dụ ngôn và giáo huấn nhắm vào các tư tế và những người biệt phái và thái độ cứng cỏi của họ không chấp nhận lời mời gọi cứu rỗi của Thiên Chúa, qua con người và các phép lạ của Chúa Giêsu Kitô. Những người biệt phái đã hiểu rõ Chúa Giêsu nói những dụ ngôn này ám chỉ về mình, nên đã tìm cách bắt Chúa và loại trừ Chúa (xc Mt 21,45-46). Trước đó, họ chất vấn Chúa lấy quyền nào mà đánh đuổi những người buôn bán ra khỏi khuông viên đền thờ (xc. Mt 21,23-27). Để trả lời họ, không những Chúa làm cho họ cứng họng im lặng, mà còn cho họ thấy sự cứng cỏi trong thái độ đối với Chúa, cũng như với lời kêu gọi thống hối ăn năn. Như vậy, không những Chúa Giêsu cho cho họ biết Ngài là ai, mà còn đòi buộc chấp nhận Ngài là vị cứu rỗi duy nhất.

Trở lại với bản văn của dụ ngôn Hai người con, chúng ta có đưa ra mấy nhận xét sau đây để có thể hiểu được ý nghĩa của dụ ngôn và từ đó có những áp dụng cụ thể cho đời sống đức tin của mình.

Trước tin, Chúa Giêsu đặt câu hỏi với chính những người hỏi Chúa. Chúa bắt họ tự vấn về thái độ phải có đối với lời mời gọdi thống hối và trở về, tức là đối với chính Chúa Kitô: “Các ông nghĩ sao?”

Tiếp theo, Chúa dùng hình ảnh vườn nho, rất quen thuộc với người biệt phái và các tư tế, để nói lên thái độ của người môn đệ đối với Nước Trời, tức là với Chúa Kitô. Họ thuộc về vườn nho đó, hay không thuộc về vườn nho đó; thế nào là thuộc về vườn nho đó hay không thuộc về vườn nho đó, là ở trong vườn nho đó hay ở ngoài vườn nho đó? Có người mang tiếng thuộc về vườn nho, ở trong đó, nhưng lại thực sự không thuộc về, không ở trong đó.

Sau cùng là hình ảnh trái ngược giữa nhóm người biệt phái và những người tội lỗi. Hình ảnh này thường thấy trong Phúc âm thánh Matthêô. Những người biệt phái tưởng là thuộc về, là ở trong vườn nho Thiên Chúa, vì là thành phần nồng cốt; nhưng thực ra họ bị phán quyết là đã bị loại ra ngoài (Mt 6,2.5.16; 7,21). Còn những người thu thuế, đĩ điếm, tội lỗi, thì lại được tuyên bố là thuộc về, là ở trong vườn nho (xc. 9,10-13), Lý do chỉ là vì một bên không có, một bên có điều kiện cần của việc thuộc về này: đó là tâm tình thống hối trở về (xc. Mt 5,20; 7,21)

Đó là tóm lược giáo huấn của Gioan Tẩy Giả gửi tới mọi người và dọn đường cho Chúa Kitô tới (Mt 3,1tt;11,12). Đó là sự công chính do Gioan rao giảng: thống hối trở về để tin nhận Chúa Kitô.

Hôm nay khi đọc và Suy niệm bài Phúc Âm này, chúng ta cũng đang được Chúa Giêsu Kitô hỏi chúng ta: con nghĩ sao về Ta? Về lối sống đạo của con trong liên hệ với Ta? Về sự công chính mà con tưởng con đang có và từ đó tự nhủ thầm về phần phúc thiên đàng mai sau? Và chúng ta hãy tự kiểm thảo cách thành thực đức tin của chúng ta trước mặt Chúa trong lương tâm của ta.

34. Thực hành đường lối Chúa

(Suy niệm của John W. Martens – Văn Hào, SDB chuyển ngữ)

“Vậy mà các anh lại nói, đường lối của Thiên Chúa không ngay thẳng” (Ez 18,25).

Nữ ca sỹ Frank Sinatra đã cất lên bài hát “Tôi đã làm theo đường lối của tôi, và cứ thế, tôi sẽ tiếp tục thực hiện, nhiều hơn, nhiều hơn nữa”. Đây là một quan niệm khá phổ biến. Con người có tự do. Vì thế, chúng ta dễ xác tín vào cuộc sống của chúng ta và cứ thực hiện, cứ sống theo cách thế của mình, theo lương tâm, theo tài năng của mình và cũng chẳng cần màng đến giá trị của chúng ta ra sao nữa. Nhưng đến một lúc nào đó, Chúa mời gọi chúng ta đi theo đường lối Chúa, thì cách tốt nhất, là chúng ta hãy sống theo con đường mà Chúa đã vạch dẫn, giống như Đức Giêsu đã thực hiện, khi Ngài dấn bước vào cuộc hành trình Thập giá.

Tiên tri Ezêkiel nói cho dân Israel về đường lối của Thiên Chúa, một cách rất rõ nét. Đó là một lối đường ngay thẳng và tốt lành. Đồng thời trong đường lối đó, Thiên Chúa cũng trao phó cho con người trách nhiệm để họ ý thức về những tội lỗi của chính mình. Dường như hơi kỳ lạ, là dân chúng phản kháng, chống lại tuyên bố trên. Họ cho rằng họ chẳng có trách nhiệm gì hết. Chính vì thế Ezêkiel đã khơi lại lời ca thán của dân khi họ nói “Đường lối của Thiên Chúa quả thật, không ngay thẳng chút nào”. Với sự ngạc nhiên, Thiên Chúa đáp trả khi vặn hỏi lại dân “Có phải đường lối của Ta không ngay thẳng, hay chính đường lối của các ngươi không ngay thẳng?”.

Lời phàn nàn của dân chúng dường như phát nguồn từ một não trạng cứng ngắc nơi những con người hay tự mãn, luôn cho mình là ngay lành và chân chính. Nhưng khi kẻ ngay chính từ bỏ sự ngay chính của họ, hay những con người tốt lành bỏ xa con đường tốt lành mà họ đang dấn bước, thì hậu quả sẽ ra sao? Thiên Chúa phán quyết một cách nghiêm khắc “Khi người ngay chính bỏ con đường ngay thẳng của họ và phạm những tội bất chính, nó sẽ chết. Cũng thế, khi một người gian ác từ bỏ tội lỗi họ đã gây nên mà tuân giữ các lệnh truyền của ta, và thi hành điều chính trực công minh, chắc chắn nó sẽ sống và không phải chết. Sự hoán cải và trở nên công chính là tâm điểm nơi phán quyết của Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ cân nhắc sự hối lỗi của chúng ta và Ngài sẽ đổi ý định giáng phạt. Kiên trung đi theo đường ngay nẻo chính là điều trọng yếu, chứ không phải chỉ khẳng định là mình đã sống chính trực trong quá khứ một cách nhất thời mà thôi. Vì thế, những ai biết suy xét, biết thay đổi đời sống, biết đoạn tuyệt với những sai phạm, họ sẽ được sống, và không phải chết.

Đường lối của Thiên Chúa luôn là đường ngay chính, cho dù lối đường này nhiều khi có vẻ đánh đố và làm chúng ta kinh ngạc, đặc biệt khi chúng ta không hiểu nổi lòng thương xót của Thiên Chúa sâu xa như thế nào. Chúng ta có thể cứng đầu cứng cổ cho rằng, lối đường của Thiên Chúa không ngay thẳng. Nhưng ngay cả khi chúng ta cố tình chống lại lối đường của Thiên Chúa, thì đường lối của Ngài vẫn luôn là cách thế tuyệt vời nhất để biểu tỏ lòng yêu thương của Ngài đối với con người. Đức Giêsu chính là nguyên mẫu cho chúng ta. Ngài đã trọn vẹn đi theo đường lối của Thiên Chúa. Thánh Phaolô đã bắt đầu bài thánh thi ca tụng Đức Giêsu, bằng việc khuyến mời giáo đoàn Philip hãy có “cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau” giống như Đức Giêsu đã thực hiện. Ngài xin anh chị em tín hữu “Hãy sống khiêm nhường, luôn coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích riêng cho cá nhân, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác”. Theo Thánh Phaolô, cách thái này chính là lối bước trọn lành mà đức Giêsu đã vạch dẫn, và trên nẻo đường này, sự vâng phục Thiên Chúa luôn phải được thực thi cách triệt để.

Qua cách thái mà Chúa Giêsu đã thực hiện, Thánh Phaolô muốn ngỏ trao cho chúng ta một sứ điệp: “Đức Giêsu đã nêu gương cho ta, đã tự nguyện biến mình ra không, mặc lấy thân nô lệ, sống kiếp phàm nhân. Khi mang thân phận con người, Ngài đã tự hạ vâng lời cho đến chết và chết trên Thập tự”. Đây là con đường dẫn đến núi sọ và huyệt đá. Đây cũng chính là con đường mà trong vườn cây dầu, Đức Giêsu đã khiếp sợ khi phải đối diện, đến mức độ Ngài đã khẩn xin Chúa Cha cất mình tránh khỏi con đường đó. Tuy nhiên Ngài đã chấp nhận dấn bước trong khiêm tốn, trong vâng phục và hy sinh cho đến chết. Lẽ tất nhiên, nhiều lúc chúng ta cũng có thái độ giống như đám đông ngày xưa. Họ đã la toáng lên và nói với Ezêkiel “ Đường lối của Thiên Chúa chẳng ngay thẳng chút nào”. Sự cố chấp này trái ngược hẳn với thái độ của Đức Giêsu, Đấng luôn khiêm tốn và vâng phục cách triệt để. Họ phản kháng như thế không phải là để tra hỏi xem đường lối của Thiên Chua như thế nào, không giống như Đức Giêsu đã hành xử. Cũng không phải là họ nài xin Thiên Chúa thực hiện nơi họ một lối đường khác. Không phải thế. Chính họ đã phản kháng, ngoan cố chống lại Thiên Chúa và đường lối của Ngài. Khi chúng ta chối từ con đường mà Thiên Chúa đã vạch dẫn, chính là lúc chúng ta đang chống lại Ngài, và đang tìm cách để đào thoát cũng như xa tránh Ngài.

Tuy vậy, như Ezêkiel đã mô tả, ngay khi chúng ta đang tìm cách né tránh đường lối Thiên Chúa, Ngài vẫn còn tạo cho chúng ta cơ hội để giúp ta sám hối và quay trở về. Động thái khoan dung này được biểu tỏ qua dụ ngôn của Thánh Mathêu trong phụng vụ hôm nay với hình ảnh về hai người con. Trong dụ ngôn, đứa con thứ đã thưa không với cha, nhưng sau đó nó suy nghĩ lại và thay đổi quyết định, trong khi đứa thứ nhất nói có, nhưng lại không đi làm vườn nho cho cha nó. Nếu chúng ta là chính đứa con đã từng nói không với Thiên Chúa là Cha của chúng ta, chúng ta vẫn còn cơ hội để thay đổi. Ngay cả như đứa con thứ nhất tuy đã thưa vâng nhưng lại không đi, nó cũng vẫn có thể sám hối và đổi thay. Chúng ta hay thích làm theo ý chúng ta, thế thì tại sao, chúng ta lại không cố gắng tìm kiếm và thi hành theo đường lối của Thiên Chúa. Điều đó tùy thuộc vào thái độ nội tâm nơi mỗi người.

35. Thực thi thánh ý Chúa – Lm. Minh Vận, CRM

Khi Tom Mason về hưu, ông đã mua một thửa đất thật rộng lớn ở miền quê với ý định biến nó thành một vườn hoa mênh mông. Chàng thanh niên thứ nhất đến xin việc, ông hỏi: “Anh có biết nghề làm vườn không?” Chàng ta tự thú mình biết rất ít về phương diện này. Ông bảo anh: “Anh thấy những bông hoa nhỏ đó chứ? Anh hãy dập chúng xuống đất cho tôi”. Chàng thanh niên liền phản đối: “Tôi không biết cách làm vườn thật, nhưng tôi không biết đó là cách đối xử với các loại hoa nhỏ như thế”. Nói rồi, chàng từ giã ra đi. Sáng hôm sau, một chàng thanh niên khác tới xin việc, Tom Mason lại cũng hỏi chàng có biết nghề làm vườn không và được chàng trả lời: “Không, tôi không biết nghề làm vườn, nhưng tôi sẽ rán học”. Tom Mason nói tiếp: “Vậy anh dập những bông hoa nhỏ này xuống đất cho tôi”. Chàng thanh niên vâng lời làm theo ý chủ. Thấy vậy, Tom Mason nói với chàng: “Tôi đoán anh muốn biết tại sao tôi lại bảo anh dập những bông hoa đó xuống đất”. Chàng thanh niên đáp lại: “Tôi không biết tại sao, nhưng tôi nghĩ ông có lý do thì mới bảo tôi làm thế”.

  1. Ý NGHĨA DỤ NGÔN TRONG TIN MỪNG

Chúa Kitô thường dùng những hiện tượng, những sự kiện xảy ra trong đời sống hằng ngày hoặc dùng những dụ ngôn để dạy cho nhân loại những bài học luân lý hợp với giáo lý Ơn Cứu Độ của Chúa.

Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa đã nêu một dụ ngôn, một người cha sai hai người con đi làm vườn nho, ngụ ý nói tới hai loại người tương phản xung khắc nhau lúc đương thời. Hai loại người đó là:

  1. Người phần thu: Những người thu thuế làm việc cho chính quyền đô hộ, bị người Do Thái đương thời liệt vào hạng người tội lỗi đáng khinh bỉ, là loại mọt dân, tay sai ngoại bang; vì lẽ, họ không trung thành với luật Maisen và những luật lệ lưu truyền của tiền nhân.

  2. Người pharisiêu: Pharisiêu là một giáo phái Do Thái, được tôn trọng là bậc thông thái, là hàng đạo đức, là bậc quí phái, là thầy dạy của dân chúng… Họ chủ trương cặn kẽ tuân giữ luật Maisen và các lưu truyền của tiền nhân theo nghĩa đen của từ ngữ. Loại người này thường kiêu căng, lên mặt dạy đời. Họ hay tìm cách bắt bẻ lời giảng dạy, cách cư xử và xuyên tạc để giảm uy tín các phép lạ của Chúa Kitô đã thực hiện trong thời Người rao giảng Tin Mừng Cứu Độ. Họ chỉ rình mò để tìm cớ tiêu diệt Chúa, không tiếp nhận giáo lý của Người.

Chính Chúa đã dùng nhiều dụ ngôn để vạch trần âm mưu và cảnh tỉnh lương tâm chai đá của họ bằng dụ ngôn hôm nay, cũng như dụ ngôn hai người lên Đền Thờ cầu nguyện… Chúa đã lên án tội kiêu căng của bọn người Pharisêu tự cao tự đại và khen ngợi lòng sám hối của người Phần Thu biết khiêm tốn thú nhận tội lỗi của mình và thực tâm cải thiện đời sống.

  1. CHÚA KITÔ, GƯƠNG TUÂN PHỤC

Dụ ngôn hôm nay tả 2 thái độ của 2 người con khi được người cha sai đi làm vườn nho.

  1. Người con thứ nhất: Được lệnh cha truyền, chàng ta vùng vằng trả lời: “Con không đi”, nhưng rồi chàng ta nghĩ lại và hối hận đi làm theo ý cha. Đó là hình ảnh những người Phần Thu hay thu thuế thường bị liệt vào hàng tội nhân, đã không tuân giữ luật Maisen và các lưu truyền của tiền nhân, nhưng họ đã thực lòng tiếp nhận giáo lý Chúa Kitô và tin tưởng tôn thờ phụng sự Ngài.

  2. Người con thứ hai: Khi được lệnh cha truyền, chàng ta vui vẻ trả lời: “Con xin đi”, nhưng rồi lại không đi, chàng ta chỉ nói cho qua lần và coi thường lệnh truyền của cha. Đó là hình ảnh những người Pharisiêu tự cao tự đại, hãnh diện vì mình là những người thông thái đạo đức, trung thành tuân giữ luật Maisen và các lưu truyền của tiền nhân. Chính luật Maisen lại chỉ cho họ nhận biết Chúa Kitô, nhưng nhất định họ không tiếp nhận giáo lý trong những lời giáo huấn của Ngài, không tin nhận Ngài là Đấng Cứu Thế Thiên Chúa sai đến.

  3. Người con thứ ba: Dụ ngôn hôm nay đề cập đến hai người con, tuy người con thứ nhất chối không đi, sau lại hối hận ra đi làm theo ý cha; người con thứ hai vui vẻ chấp nhận, nhưng lại không thèm làm… Chúng ta lại có hình ảnh một người con thứ ba hoàn hảo, Ngài không những vui vẻ sung sướng chấp nhận mà đã thực hiện trọn hảo ý Cha Ngài muốn, để làm vui lòng Người. Đó là chính Chúa Kitô, Đấng đã nêu lên dụ ngôn này và kêu gọi chúng ta noi theo bắt chước mẫu gương Ngài đã để lại.

Bài Thánh Thư, Thánh Phaolô đã nhắc lại: Khi tới trần gian, Chúa Kitô đã thưa với Cha Ngài: “Lạy Cha, này Con xin đến để chu toàn thánh ý Cha” (Heb 10:7). Thánh nhân còn quả quyết: “Người đã tự hạ vâng lời và vâng lời cho đến chết trên Thập Giá” (Phil 2:8). Chính vì lòng ngoan thảo vâng phục cao cả đó, Chúa Cha đã được thỏa lòng khen ngợi: “Con là Con Cha yêu dấu, Con hằng làm vui thỏa lòng Cha” (Mt 7:5). Đó chính là mẫu gương sáng ngời chúng ta phải noi theo bắt chước, khi Chúa bày tỏ thánh ý Người cho chúng ta.

III. BỔN PHẬN CỦA CỦA CON CÁI CHÚA

Khi lãnh Bí Tích Thánh Tẩy, được trở nên con cái Chúa, chúng ta đã long trọng tuyên thệ từ bỏ ma quỉ, từ bỏ tội lỗi, từ bỏ những mơn trớn của xác thịt và quyến dũ của thế gian. Tin nhận Chúa và thực thi thánh ý Người. Thánh ý Chúa được thể hiện nơi những giáo lý Tin Mừng, nơi những giáo huấn và lề luật tốt lành của Giáo Hội, nơi tiếng lương tâm chân chính đã được Chúa phú bẩm nơi mỗi người chúng ta. Một đôi khi, thánh ý đó trái với bản năng tự nhiên của con người phàm tục, khiến chúng ta khó chấp nhận, nhưng thánh ý đó lại có sức giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ của thần dữ hỏa ngục, khỏi những ràng buộc của tội lỗi đam mê dục vọng và gông cùm của thú tính đê hèn; lại ban cho tâm hồn chúng ta được hưởng sự bình an chân thật, nhất là ban cho chúng ta sức mạnh chiến thắng được những khó khăn, giúp chúng ta dễ dàng đạt tới Ơn Cứu Độ và Đích Thánh Thiện của con cái Chúa, là chính Hạnh Phúc Vĩnh Cửu đời sau Chúa dành cho con cái Chúa trên Quê Trời.

Kết Luận

Vậy chúng ta có mau mắn ngoan ngoãn, với hết tình con ngoan thảo sẵn sàng vui sướng chấp nhận và thực thi thánh ý Chúa qua các giáo huấn và tinh thần của Tin Mừng, lời dạy dỗ của vị Đại Diện Chúa, tiếng lương tâm chân chính đã được Chúa khắc ghi trong tâm hồn chúng ta không?

Để chúng ta cũng được sung sướng nghe lời Chúa phán với chúng ta như đã tuyên dương Chúa Kitô, Con Một Chí Ái của Người: “Con là Con rất yêu dấu của Cha, Con hằng làm vui thỏa lòng Cha” (Mt 7:5).

Vậy con hãy tới lãnh phần thưởng Cha dành cho con và vui hưởng hạnh phúc với Cha trong vinh quang vĩnh cửu Quê Trời.

36. Chúa Nhật 26 Thường Niên

NÓI VÂNG VỚI THIÊN CHÚA CHÍNH LÀ THAY ĐỔI NGAY LẬP TỨC

Một người bạn nói với tôi: -Việc biểu dương những kẻ mại dâm làm tôi bực mình. Cha sở của chúng tôi luôn trưng dẫn bản văn này: “Những cô gái mại dâm sẽ vào Nước Trời trước các con”.

Tôi đã sửa lại: Tin Mừng không nói “sẽ vào trước các con” mà là “vào trước các con”. Chúa Giêsu không dành một sự ưu tiên về mặt lý thuyết cho tất cả các cô gái mại dâm! Ngài nhận thấy một điều đó là trong số các thính giả của Ngài, những cô gái mại dâm là những người đầu tiên tin vào Ngài và trở lại đạo.

Người bạn của tôi ngập ngừng.

– Tôi làm vui lòng Chúa Giêsu nếu tôi là một tên vô lại chính cống hơn là một người suy nghĩ chín chắn hay sao?

Tôi đã thấy nhiều người Kitô hữu vấp phải khó khăn này, nhất là sau một bài giảng trong đó người ta đã hành hạ họ. Chắc chắn họ không để ý rằng họ phản ứng hơi giống như những người Pharisêu mà Chúa Giêsu dành dụ ngôn hai người con cho họ.

Hai người con nhận cùng một lời mời gọi. Đây là chi tiết chủ yếu: cho dầu hoàn cảnh và cuộc sống của chúng ta như thế nào, Thiên Chúa vẫn dành cho chúng ta lời mời gọi cơ bản và cũng một lời đề nghị đó. Những khác biệt giữa chúng ta có thể là lớn, nhưng chúng rất hời hợt so với sự chọn lựa sâu xa của chúng ta; trả lời vâng hoặc không cho Chúa Giêsu Kitô.

Khi hai người con nghe: “Hôm nay con ra làm vườn nho cho cha nhé”, một người nói vâng, nhưng anh ta không đi. Người kia nói không, nhưng “nghĩ lại” anh ta lại đi. Hãy ghi nhớ hai tiếng mấu chốt: hôm nay và nghĩ lại, và bạn hãy nghĩ đến những người vây quanh Chúa Giêsu lúc Ngài nói điều này. Chính Ngài là lời mời gọi của Thiên Chúa, lời mời gọi mạnh mẽ nhất: “Hôm nay, hãy lắng nghe Ta trong khi lắng nghe Con Ta”.

Cho tới lúc đó một số người tin rằng họ nói vâng với Thiên Chúa nhưng thực tế họ nói không với Ngài. Họ không biết thực sự người ta nói vâng với Thiên Chúa như thế nào. Trên quan điểm này những người Pharisêu gống y như những cô gái mại dâm. Tất cả những người ấy đều đứng trước cơ may lớn lao là cuối cùng có thể nói vâng với Thiên Chúa ngay lập tức (vào ngày hôm nay): họ chỉ cần lắng nghe Chúa Giêsu là đủ. Những người mại dâm chớp lấy cơ may này, trong khi người Pharisêu bình chân như vại.

Làm sao giải thích một phản ứng khác biệt đến thế được? Tất cả đều nằm trong điều này: “nghĩ lại”. Để nói vâng với Thiên Chuá, phải bắt đầu bằng việc thấy rằng chúng ta đang nói không với Ngài. Thú nhận điều đó không phải là điều dễ dàng. Có một nguy cơ rình rập những người tốt nhất, những kẻ có nhiều nỗ lực như người Pharisêu: tin rằng mình ở gần Thiên Chúa đến độ không nghĩ đến hoán cải, thay đổi. Đối với những người mại dâm, tiếng không của họ nói với Thiên Chúa lớn đến nỗi họ không ngần ngại khi họ đã hiểu họ có thể nói vâng với Ngài ngay lập tức. Chúng ta, người con cả! Chúng ta nói biết bao nhiêu lần Amen… nhưng chúng ta không nhúc nhích.

– Thế thì phải làm người luật sĩ hoặc kẻ mại dâm?

– Không, mà là khám phá ra chúng ta là những luật sĩ và những người mại dâm. Dù là ngươì này hay người khác, tức là những kẻ tội lỗi. Khi chúng ta ý thức về điều đó, chúng ta có cơ may làm người con thứ hai, người con của tiếng vâng thực sự.

37. Thái độ vâng phục

(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ – R. Veritas)

Thomas Mertin mồ côi cha mẹ lúc lên mười sáu tuổi, hai mươi tuổi ông theo Đảng Cộng Sản, lúc hai mươi ba tuổi thì trở lại đạo Kitô, hai mươi bốn tuổi làm phóng viên cho tuần báo New York, sau khi nghỉ phóng viên đến hai mươi sáu tuổi từ bỏ mọi sự cuốn gói đi theo Chúa.

Thomas Mertin đến ở nhà Dòng Kentucky và trở thành tu sĩ sống đời chiêm niệm. Trong tập sách tự thuật về “Cuộc Đời Của Mình”, Thomas mô tả lại những bước đầu tiên của cuộc trở lại như sau:

Lúc đó tôi vừa mới xong trung học và đang dùng xe lửa để đi thăm khắp nơi Âu Châu với một cuộc sống khá phung phí. Một hôm nằm trong khách sạn, tôi chợt ý thức về những tội lỗi của mình, tất cả mọi sự qua đi thật nhanh. Tôi như được soi sáng để nhìn biết sự khốn cùng của tâm hồn tôi. Tôi nhất định thoát ra khỏi hoàn cảnh này, khỏi những ồn ào và lần đầu tiên Thomas Mertin đã ý thức là mình đã có kinh nghiệm cầu nguyện, cầu nguyện để xin Thiên Chúa giải thoát mình khỏi mọi ràng buộc.

Bài Phúc Âm hôm nay xem ra như người con thứ nhất nói không đi rồi lại đi, anh ta có một thái độ thay đổi cách tự động máy móc. Nhưng trong thực tế, trong đời sống thiêng liêng của mỗi người chúng ta, cần phải có thời gian cùng với những lời cầu nguyện, xin Chúa thương nâng đỡ chúng ta, đưa chúng ta ra khỏi hoàn cảnh hiện tại là đang sống trong tội lỗi, đam mê của xác thịt. Mỗi người cần phải ăn năn trở lại, cần phải thưa vâng với Lời Chúa mời gọi, vì không ai có thể nói là mình đã hoàn toàn thưa vâng với Chúa.

Mỗi người đều cảm thấy nhiều khó khăn làm mình khó trở lại, khó chấp nhận với hoàn cảnh hiện tại của mình, cảm thấy trống vắng và muốn thay đổi, cảm thấy có một sự không ổn nào đó trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Đó là bước đầu tiên của tiến trình trở lại cùng Chúa. Rồi một biến cố nào đó đánh động và mở ra một quyết định, một bất ngờ như Thomas Mertin đang ở trong khách sạn, bất ngờ cảm thấy sự khốn cùng của mình và muốn vượt ra khỏi sự khốn cùng ấy.

Nói theo ngôn ngữ thần học thì đây là giây phút của ân sủng đánh động, mời gọi chúng ta trở về với Ngài để đời sống chúng ta được ăn khớp với lời dạy của Chúa. Cuối cùng cần phải có một quyết định cụ thể để thực hiện một việc làm theo hướng đi mới. Mỗi ngày chúng ta cần cầu nguyện nhiều và tiếp xúc thân mật với Chúa để xin Chúa ban ơn soi sáng cho chúng ta có một quyết định dứt khoát theo đúng hướng đi mà Chúa muốn chúng ta tiến bước. Hơn nữa, mỗi ngày chúng ta cần trở về với Chúa và thưa với Chúa “Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa”.

Xin Chúa soi sáng giúp con nhận ra thánh ý Chúa trong những việc làm hàng ngày, trong những biến cố xảy ra trong đời sống của con và xin Chúa ban cho con được ơn can đảm chu toàn đến cùng, xin Chúa gìn giữ mỗi người trong đức tin mà chúng con tuyên xưng qua kinh Tin Kính.

38. Sẵn sàng tin

1) Ý nghĩa thứ nhất của dụ ngôn:

Do Thái và lương dân đều có những thái độ khác nhau, giống như thái độ của hai anh em đề cập trong dụ ngôn. Những người trước nài xin vâng rồi bỏ đi, và giờ quyết định họ sẽ bị kết án. Còn lương dân bị gạt bỏ, sau tìm thấy đường về với nước Chúa. Lối giải thích phổ biến này có vẻ hữu lý, nhưng chưa đi vào điểm cốt yếu. Không thể quả quyết về lương dân rằng họ đã từ chối từ nguyên tắc. Nói chung, thái độ của những người đại diện ưu tú của họ chứng tỏ rằng, họ là những người đang tìm hiểu và nhận biết đấng thần linh là lẽ sống của họ. Nhưng theo lời chú giải riêng của Đức Kitô, Ngài đã hướng dụ ngôn này theo một ý nghĩa khác.

Có những nhà chú giải thấy ở đó sự giải thích về tương quan giữa lý thuyết và thực tế. Bản văn tin mừng chỉ có những người trong lý thuyết không chấp nhận, nhưng lại chấp nhận trên thực tế. Song giải thích này cũng bất toàn, vì lời chối từ của người đầu tiên không dựa trên những nhận định lý thuyết mà phát sinh từ một tâm tính cục cằn và bất nhã. Những người khác thấy trong dụ ngôn của Chúa sự đối lập giữa thực tại và vẻ bên ngoài. Người con thứ hai hình như vâng lời, nhưng thực tế lại bất phục. Trong lúc người có một tâm hồn tốt đẹp, nhưng bên ngoài lại khó thương. Lối giải thích này cũng vô ích nếu ta đào sâu bản văn, vì yếu tố cốt yếu không phải là tình trạng cố hữu, cũng không phải là thái độ trung thực núp trong vẻ bên ngoài giả dối. Yếu tố cốt yếu chính là sự hoán cải tình cảm, chính là một ý hướng canh tân, một tình trạng cải hóa của con người: nghĩa là hối hận về một thái độ sai lạc và sau khi đã ý thức, họ ước muốn thay đổi. Đây là điều thấy hiện rõ trong lời Chúa: “Rồi sau anh hối hận và đi làm”.

Theo lời quả quyết của Chúa Giêsu, dụ ngôn này nói về những điểm khác nha giữa những người biệt phái và luật sĩ, những người thu thuế và những kẻ khác, những người lãnh đạo tinh thần của Israel sống mãi trong một thái độ vị kỷ, làm họ xa Thiên Chúa. Chỉ biết chấp nhận lời Chúa, họ trung thành với Môisen, với đức tin, và với những đòi hỏi, như đứa con thứ nhất trung thành với ý cha. Còn khi những giới luật Thiên Chúa không còn đáp ứng với những nguyện vọng cá nhân của họ, họ không còn tha thiết nữa. Qua việc làm của Gioan Tẩy giả xưa, Chúa đòi hỏi việc thống hối, kêu gọi hoán cải tâm hồn và cuộc sống, thì họ không lo gì đến. Còn những người phần thu có lẽ đã lầm lạc, có lẽ hành động trái với thiên ý, nhưng khi họ nghe thấy tiếng gọi của Chúa Giêsu, họ hối cải và đạt tới nước Chúa. Trung thành đích thực nghĩa là sẵn sàng trả lời tiếng gọi của Chúa. Người ta không thể tự khép mình mãi trong một hình thức cuộc sống, vì họ phải thay đổi ngay nếu tiếng gọi từ cao đòi hỏi. “Các ông đã không thống hối để tin vào Gioan tẩy giả”. Đó là lời mắng trách mà Chúa Giêsu nêu ra cho bọn Biệt Phái.

2) Ý nghĩa thứ hai của dụ ngôn.

Những chú giải khác đem tới kết luận khác nhau. Một lối chú giải sai lạc chỉ nêu cao ý nghĩa lịch sử. Dụ ngôn được áp dụng theo dự phóng của thời đại cho thái độ khác nhau của Do Thái và lương dân, biệt phái và phần thu. Lối giải thích lịch sử đó khá xa xôi với đòi hỏi quan trọng nhất. Vì như thế, dụ ngôn chỉ áp dụng cho kẻ khác chứ không cho chính mình.

Dụ ngôn có một ý nghĩa khác nếu ta thấy trong đó có một đòi hỏi phải sẵn sàng tin tưởng. Trong trường hợp này, con người cảm thấy tâm hồn bị khích động rồi nhận ra một đòi hỏi khắt khe rằng: cần phải thuộc về Giáo Hội và phê bình những ai ở ngoài Giáo Hội, rồi sẽ ngoan cố bịt tai không chịu nghe thấy tiếng gọi của Ngài. Vô tình người ta tự cho mình đang đi đúng đường và sống trong tình trạng thiện hảo. Lòng tự tin sai lạc này biến thành cảm giác tự mãn: trong lúc kết án Biệt phái thì người ta lại trở nên giống họ! Ở đây trái lại, Đức Kitô mạnh mẽ mời gọi những ai nghe theo tiếng Ngài phải thống hối, biến đổi, sẵn sàng thay đổi hay hoán cải cuộc sống theo lệnh Thiên Chúa. Thái độ chính đáng duy nhất là tâm hồn sẵn sàng đón nhận đức tin, luôn luôn chú ý nghe và vâng lời, không tự ý điều hòa cuộc sống, nhưng đặt tất cả trong bàn tay Thiên Chúa. Những người có tín ngưỡng giữ đạo theo vẻ bên ngoài, với thời gian sẽ không được chấp nhận vào nước Chúa. Những kẻ khác, bề ngoài có vẻ theo một đường xấu, nhưng trong thâm tâm nhận biết sự sai lạc của tâm hồn mình rồi hoán cải, chính họ sẽ được cứu rỗi. Vậy dụ ngôn này đề phòng chống lại thái độ cứng lòng trong tâm hồn, sự kiêu hãnh tôn giáo, sự an bình giả tạo bên trong và đòi hỏi chúng ta phải nghe Thiên Chúa để theo tiếng gọi của Ngài. Con người phải hoán cải và để cho người ta hoán cải không ngừng, bởi vì từ một thái độ sai lạc, họ sẽ lầm lạc vào đường xấu. Cho dù bên ngoài, tất cả xem ra tốt đẹp. Thật là kỳ cục khi thấy Chúa Giêsu yêu thích những kẻ phần thu hơn những bọn Biệt Phái và Luật sĩ. Hẳn thái độ đó phải là dịp tội cho Do Thái. Nhưng sở dĩ như thế, vì Chúa Giêsu thấu suốt thâm tâm nhân loại. Một tội nhân ý thức về tội tính của mình và hối cải khi được ơn sủng đánh động, còn giá trị hơn một người mộ đạo chỉ muốn sống trong vẻ đạo đức của mình, và vì kiêu ngạo không nghe thấy tiếng gọi siêu nhiên. Hiểu như thế, dụ ngôn bày tỏ sự nghiêm trọng và thái độ cứng rắn đặc biệt đối với những ai ở bên trong. Dụ ngôn khiển trách thái độ hoán cải giả trá và thái độ bất mãn ban đầu. Khi con người đi từ thái độ chấp nhận đến từ chối, thì đó là thái độ đáng thương hại. Vì thực ra, phải đi từ từ chối đến chấp nhận mới hợp lý. Con người mà luôn luôn liều lĩnh chối bỏ Thiên Chúa, cũng sẽ phải tỏ ra luôn sẵn sàng hối cải cách trung thực nhất. Đó là điều mà dụ ngôn này bàn tới.

39. Vâng phục Thiên Chúa

Anh chị em thân mến.

Một lần nọ, người chủ ruộng dẫn con trâu đến mảnh đất để cày, con trâu và người chủ làm việc suốt buổi sáng. Đến trưa người chủ thả trâu cho nghỉ ngơi và ăn cỏ, còn người chủ cũng ăn uống lấy sức. Con trâu đang nằm nhơi cỏ, thì bỗng đâu có con cọp xuất hiện làm cho trâu hốt hoảng, nhưng cọp trấn an trâu và nói: thân mi to lớn, với sức khoẻ phi thường, tại sao mi phải lệ thuộc con người yếu đuối và chịu sự điều khiển như thế? Con trâu trả lời: con người tuy nhỏ bé, yếu đuối, nhưng họ có trí khôn, nên sức mạnh không làm gì được trí khôn của họ. Cọp mới hỏi trâu trí khôn là gì mà ghê thế? Trâu bảo cọp hãy đến hỏi con người. Cọp mới đến gần con người xin cho xem trí khôn. Con người bảo là để quên ở nhà, anh bảo cọp chờ anh ta về nhà lấy cho nó xem. Nhưng anh ta chợt suy nghĩ và bảo cọp. Mi hãy để ta trói mi lại, chứ nhở khi về lấy trí khôn cho mi xem, mi sợ và bỏ trốn thì sao? Cọp bị chạm tự ái, nên để cho người trói lại. Vừa trói xong, anh ta lấy một cây to đến bên cọp và đánh cho đến khi cọp không còn sức vùng vẫy nữa, anh ta bảo: trí khôn của ta đây nầy. Con trâu nhìn thấy thế và mỉm cười cho cọp.

Con trâu nhận ra được sức mạnh của con người nên nó vâng phục và không cưỡng lại, nên nó được an toàn và được sức mạnh đó bảo vệ nó. Còn con cọp, không biết được thực chất như thế nào nên nó bị sức mạnh đó tiêu diệt nó.

Hai người con trong dụ ngôn mà Chúa Giêsu cho mọi người nhìn thấy, họ không phải là những người bốc đồng hay thay đổi. Nhưng người con thứ nhất biết suy nghĩ và nhận ra được giá trị đích thực của cuộc sống, anh nhận ra được sức mạnh của tình yêu thương nơi người cha, nên anh hối hận và quay trở về với tình yêu thương và thi hành những gì mà người cha bảo anh làm. Còn người con thứ hai, chỉ sống hời hợt bên ngoài, anh tưởng nghĩ có thể lấy lòng người cha bằng cử chỉ bên ngoài; anh đã lầm, người cha rất buồn và có lẽ cũng đang chờ đợi anh hành động theo như những gì mình đã nói. Người thi hành ý muốn của cha, mới là người vâng lời cha thực sự, chứ không phải người nói khác nhưng thực hành hoàn toàn khác là có giá trị.

Ngôn hành bất nhất là những gì thường thấy nơi con người. Khi con người chỉ biết có chính mình mà không biết đến người khác, khi đó lời nói và hành động khó mà đi đôi với nhau được.

Những gì là thường tình của con người, những gì là của câu chuyện ngày xưa, nó có phải là những gì của mỗi người trong chúng ta ngày hôm nay không?

Nhiều lần trong cuộc sống, mỗi người chỉ nhìn thấy chính mình, nhìn thấy những gì mình có, những gì mình làm được, để rồi mang niềm tự hào đến tự phụ kiêu căng. Khi đó, Thiên Chúa không còn hiện diện và không có giá trị cho cuộc sống, vì khi đó chỉ có tài năng sức lực con người là trên hết. Thiên Chúa dường như phải thi hành để trả lại cho con người những gì đã ban ra. Những lúc đó, chúng ta giống như con cọp trong rừng, không biết mình cũng không biết người, không giá trị của mình như thế nào. Nếu cứ ngoan cố trong những ý nghĩ và suy tư của mình như thế, thì số phận của chúng ta không khác gì số phận con cọp bao nhiêu.

Nhưng nếu trong cuộc sống, chúng ta nhận ra quyền năng Chúa, chúng ta cũng nhận ra được những giới hạn của chính mình, để biết quay trở về và vâng phục thánh ý Chúa thì hạnh phúc biết bao.

Những lần chúng ta dâng lên Chúa những lời kinh, những lời cầu nguyện chân thành, cùng với những việc làm tốt đẹp mà chúng ta nhìn thấy nhu cầu cần thiết của người khác và đáp ứng cho họ. Đó là những lần chúng ta thi hành thánh ý Chúa bằng cả lời nói và việc làm. Cũng có những lúc chúng ta thấy bất mãn trong cuộc sống, muốn bỏ cuộc, muốn buông trôi tất cả, muốn hành động cho thỏa cơn nóng giận, nhưng chợt kịp suy nghĩ và ngưng ngay lại, vì nhận ra đây là những điều không đẹp lòng Chúa. Đó là những lúc chúng giống như người con thứ nhất, nói không rồi chợt hối hận để sẳn sàng thi hành những gì đẹp lòng Chúa.

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa soi sáng cho mỗi người để biết nhận ra Chúa trong đời sống, đồng thời cũng biết nhận ra những yếu đuối của chính mình để biết quay trở về với tình yêu Chúa.

40. Nói và Làm

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)

Trang Tin Mừng hôm nay trình bày dụ ngôn hai người con nhận cùng một lời mời gọi của cha với hai thái độ khác nhau.

– Người con thứ nhất: Lúc đầu từ chối, không vâng lời cha. Nhưng sau đó nghĩ lại, nó đi làm vườn nho cho cha. Đứa con này tượng trưng cho các người thu thuế và tội lỗi.Tuy đã phạm tội, nhưng sau đó đã hồi tâm tin theo Chúa Giêsu mà quay về với Thiên Chúa.

– Người con thứ hai: Lúc đầu ngoan ngoãn vâng lời cha. Nhưng thực tế nó lại không đi làm vườn nho theo ý cha. Đứa con này có vẻ công chính, tượng trưng cho các Thượng tế Kinh sư Pharisiêu. Tuy giữ luật Môsê trong từng chi tiết, nhưng họ lại từ chối Gioan Tẩy Giả, người đã đến chỉ đường công chính. “Thưa cha, con đây”: câu trả lời lễ phép của một đứa con ngoan ngoãn hiếu thảo, sẵn sàng vâng nghe lời cha dạy bảo; “Nhưng rồi lại không đi”: đứa con này mới chỉ vâng lời cha bằng môi miệng bề ngoài. Sau đó nó không đi làm vườn nho theo lời cha dạy. Anh ta có thái độ “ngôn hành bất nhất”, “nói mà không làm”, “nói một đàng mà làm một nẻo”. Một đời sống vụ hình thức bề ngoài. Một thái độ đạo đức giả. Người con thứ hai ám chỉ những Thượng tế, Kinh sư và Pharisiêu. Thời ấy, họ là những bậc vị vọng, họ tự xưng mình là đạo đức, công chính, trong sạch. Thực tế họ rất giả hình. Nói rất hay nhưng không thực thi điều mình nói. Họ nói mà không làm.

Giữa lời nói và việc làm thường có một khoảng cách rất lớn. Nói thì dễ nhưng làm thì khó. Con người dễ rơi vào thói nói nhiều làm ít, hoặc chỉ nói suông mà không làm, hoặc còn tệ hơn nữa khi việc làm mâu thuẫn với lời nói.

Nói và làm, một tiêu chuẩn để xét định đời sống.

Kể xong dụ ngôn, Chúa Giêsu hỏi: “Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?”. Họ trả lời: “Người thứ nhất”. Đó là người nói không, nhưng đã hối hận và đi làm việc. Ở đây rõ ràng có hai loại người: nói ít làm nhiều và nói nhiều làm ít.

– Nói ít làm nhiều.

Nói ít không phải là “ít nói” vốn thường hiểu theo nghĩa tiêu cực bộc lộ một lòng trí tối tăm hay lòng dạ mưu mô. Nói ít cũng chẳng phải là không có gì để nói hay không biết nói gì. Trái lại người nói ít là người biết mình nói gì và cũng là người có khả năng nói nhiều với chính mình bằng ngôn ngữ tư tưởng, với người bằng ngôn ngữ hành động. Chính vì thế họ dễ trở thành những người “làm nhiều”. Những người nói ít làm nhiều thường là những người tốt bụng, nhiệt thành với công việc, chu toàn nhiệm vụ và biết trách nhiệm. Họ không làm phiền người bên cạnh. Họ thích làm tốt cho người khác. Họ không bận tâm đến tiếng chê, chẳng nặng nợ với lời khen. Họ chăm chỉ làm việc và quan tâm tới từng việc làm. Với họ, làm là cách nói tốt nhất.

– Nói nhiều làm ít.

Có những người nói nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu. Họ là những người hay nói. Hay nói chưa chắc nói hay nhưng chắc chắn một điều: hay nói là một cánh cửa luôn rộng mở cho những người thích nói hay nói tốt về mình, để làm điều kiện thuận lợi cho việc dèm pha phê bình người khác. Đây là một nguy cơ của việc nói nhiều. Có biết đâu phê bình người khác lại là một cách bộc lộ lòng dạ mình ra. Mang kính đen thì phê bình sao người khác đen quá, giống như lưỡi đắng có bao giờ thấy canh ngọt. (x. Làm nụ hoa trắng, trang 90-91, ĐGM Vũ Duy Thống).

Nói và làm, hai thái độ sống

Sau câu hỏi, Chúa Giêsu xác định một câu nghe thật nhức nhối: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ vào nước trời trước các ông”. Những Thượng tế, Kinh sư và Pharisiêu không chịu nghe lời Chúa, không ăn năn sám hối. Những người thu thuế và gái điếm, khi được mời gọi đã thành tâm sám hối. Có hạng người nói không làm và hạng người làm không nói.

– Người nói mà không làm. Họ tự cho là mình đạo đức, nhưng khi Chúa Giêsu rao giảng, họ không những không tin mà còn phê phán chỉ trích những người tin Chúa, chỉ trích chính Chúa đã đón tiếp người tội lỗi.

– Người không nói nhưng lại làm. Đó là những người thu thuế và những cô gái điếm. Tuy sống tội lỗi, nhưng khi nghe Chúa rao giảng, họ đã ăn năn sám hối và tin vào Chúa.

Những bài học

Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta hai bài học quan trọng.

– Việc làm quan trọng hơn lời nói.

Chính việc làm minh chứng lời nói. Chính việc làm mới có sức thuyết phục. Lý thuyết dù có hay có đẹp đến đâu nếu không thực hiện được thì cũng vô ích. Trong đời sống, chúng ta gặp không ít những người nói hay, nói nhiều, nhưng làm chẳng bao nhiêu. Nhưng trái lại, có những người nói không hay, có khi không nói gì cả, nhưng lại làm rất nhiều. Nhất thời chúng ta có thể thích những người nói hay. Nhưng sống càng lâu, chúng ta càng mến những người nói ít làm nhiều. Con đường đi từ trái tim đến đôi tay là một con đường dài và gian khổ. Rung động trước nổi khổ của người khác là điều tốt, giúp cho họ bớt khổ là điều tốt hơn. Thánh Gioan khuyên rằng: “Hỡi anh em, đừng yêu mến bằng lời nói suông, nhưng bằng việc làm thực sự” (1Ga 3,18).

Trong đời sống thiêng liêng cũng vậy. Chúa yêu chuộng những người làm việc hơn là những người chỉ biết nói suông. Những Luật sĩ Biệt phái Kinh sư bị lên án dữ dội vì họ giả hình. Họ nói mà không làm. Họ đặt gánh nặng lên vai người khác nhưng bản thân lại tránh né. Ngày nay cũng vậy, có những bậc cha mẹ dạy con cái phải giữ đạo, phải cầu nguyện, dự lễ, nhưng chính mình lại biếng nhác, không làm gương sáng cho con cái. Chúa đòi hỏi phải thực hành: “Không phải những ai nói rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng là những kẻ làm theo ý Cha Ta trên trời” (Mt 7,21). Đức tin phải biểu lộ bằng việc làm mới là đức tin sống động. Thánh Giacôbê dạy: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Tình yêu cũng phải có việc làm. Việc làm minh chứng tình yêu đích thực. Tin yêu Chúa phải được biểu lộ bằng việc làm.

– Hãy làm một cách khiêm tốn.

Những người Pharisiêu làm gì cũng muốn phô trương. Muốn tỏ ra mình đạo đức, họ đeo lề luật trên trán, trên tay. Ðeo rồi, sợ người khác không nhìn thấy, họ phải “đeo những hộp kinh thật lớn, may những tua áo thật dài” để cho mọi người biết họ yêu mến lề luật, giữ đạo cặn kẽ. Thói phô trương dễ biến thành tự phụ tự mãn, hợm hỉnh. Nên những người Pharisiêu “ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là thầy”.

Khi phê phán người Pharisiêu, Chúa Giêsu muốn cho môn đệ hãy sống đạo trong kín đáo: “Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy… Vậy khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo… Và khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy… Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Ðấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Ðấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh” (Mt 6,1-6). Kín đáo làm việc đạo đức là dấu chỉ lòng mến Chúa chân thực. Lòng mến Chúa chân thực sẽ dẫn đến thái độ khiêm tốn, luôn biết kính trọng người khác và luôn biết phục vụ anh em.

Xin Chúa giúp chúng con biết sống “ngôn hành như nhất” để lời nói và việc làm của chúng con luôn đẹp lòng Chúa và mưu ích cho tha nhân. Amen