Các bài Suy Niệm Chúa Nhật XIX Thường Niên Năm A

chua nhat 19 thuong nien

Bài đọcI Kgs 19:9, 11-13; Rom 9:1-5; Mt 14:22-33

1/ Bài đọc I9 Ông vào một cái hang và nghỉ đêm tại đó. Có lời ĐỨC CHÚA phán với ông: “Ê-li-a ngươi làm gì ở đây?”

11 Người nói với ông: “Hãy ra ngoài và đứng trên núi trước mặt ĐỨC CHÚA. Kìa ĐỨC CHÚA đang đi qua.” Gió to bão lớn xẻ núi non, đập vỡ đá tảng trước nhan ĐỨC CHÚA, nhưng ĐỨC CHÚA không ở trong cơn gió bão. Sau đó là động đất, nhưng ĐỨC CHÚA không ở trong trận động đất.

12 Sau động đất là lửa, nhưng ĐỨC CHÚA cũng không ở trong lửa. Sau lửa có tiếng gió hiu hiu.

13 Vừa nghe tiếng đó, ông Ê-li-a lấy áo choàng che mặt, rồi ra ngoài đứng ở cửa hang. Bấy giờ có tiếng hỏi ông: “Ê-li-a, ngươi làm gì ở đây?”

2/ Bài đọc II1 Có Đức Ki-tô chứng giám, tôi xin nói sự thật, tôi không nói dối và lương tâm tôi, được Thánh Thần hướng dẫn, cũng làm chứng cho tôi rằng:

2 lòng tôi rất đỗi ưu phiền và đau khổ mãi không ngơi.

3 Quả vậy, giả như vì anh em đồng bào của tôi theo huyết thống, mà tôi có bị nguyền rủa và xa lìa Đức Ki-tô, thì tôi cũng cam lòng.

4 Họ là người Ít-ra-en, họ đã được Thiên Chúa nhận làm con, được Người cho thấy vinh quang, ban tặng các giao ước, lề luật, một nền phụng tự và các lời hứa;

5 họ là con cháu các tổ phụ; và sau hết, chính Đức Ki-tô, xét theo huyết thống, cũng cùng một nòi giống với họ. Người là Thiên Chúa, Đấng vượt trên mọi sự. Chúc tụng Người đến muôn thuở muôn đời. A-men.

3/ Phúc Âm22 Đức Giê-su liền bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng.

23 Giải tán họ xong, Người lên núi một mình mà cầu nguyện. Tối đến Người vẫn ở đó một mình.

24 Còn chiếc thuyền thì đã ra xa bờ đến cả mấy cây số, bị sóng đánh vì ngược gió.

25 Vào khoảng canh tư, Người đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ.

26 Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hốt bảo nhau: “Ma đấy!” và sợ hãi la lên.

27 Đức Giê-su liền bảo các ông: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!”

28 Ông Phê-rô liền thưa với Người: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài.”

29 Đức Giê-su bảo ông: “Cứ đến!” Ông Phê-rô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Đức Giê-su.

30 Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và khi bắt đầu chìm, ông la lên: “Thưa Ngài, xin cứu con với!”

31 Đức Giê-su liền đưa tay nắm lấy ông và nói: “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?”

32 Khi thầy trò đã lên thuyền, thì gió lặng ngay.

33 Những kẻ ở trong thuyền bái lạy Người và nói: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa!”


 GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chúa hiện diện ở đâu trong cuộc đời chúng ta.

Nhìn lại quãng đời đã đi qua nhiều khi làm chúng ta kinh ngạc: Có những điều trước đây chúng ta không bao giờ nghĩ là mình có được, thế mà bây giờ lại có! Có những nơi không bao giờ chúng ta nghĩ mình có thể đặt chân đến đó, thế mà lại đến và sống ở đó! Có những trở ngại mà lúc phải đương đầu chúng ta nghĩ không thể vượt qua, thế mà lại vượt qua được… Suy nghĩ những điều này làm chúng ta tự hỏi: Lạ thật! Hình như có người nào điều khiển cuộc đời chứ không phải chính chúng ta, vì có điều chúng ta mong muốn lại không xảy ra, và có điều chúng ta không mong muốn lại xảy ra!

Những điều này không chỉ xảy ra cho chúng ta trong thời đại này, nhưng nếu theo dõi kinh nghiệm của người xưa được thuật lại trong các Bài đọc hôm nay, chúng ta có thể nhận ra những nét quen thuộc. Trong bài đọc I, tiên tri Elijah cảm thấy nhiệt thành hăng hái khi dự cuộc thi để làm chứng cho Đức Chúa trên núi Carmel; nhưng khi phải chạy trốn hoàng hậu Isabel, ông cảm thấy buồn tủi và trách Thiên Chúa sao để ông phải chạy trốn như vậy. Thiên Chúa hiện đến với ông trong làn gió nhẹ hiu hiu, để nhắc nhở cho tiên tri biết Ngài vẫn đang hiện diện với ông. Trong bài đọc II, mặc dù được Thiên Chúa dành đặc biệt để loan truyền Tin Mừng cho Dân Ngoại, thánh Phaolô vẫn dành thời gian để rao truyền Đức Kitô cho người Do-thái vì lòng yêu mến dân tộc của ông. Thánh Phaolô không thể hiểu lý do tại sao người Do-thái không tin vào Đức Kitô mặc dù các ngôn sứ đã nói về Ngài trong Kinh Thánh. Sau cùng, thánh Phaolô phải nhìn nhận Thiên Chúa có kế hoạch riêng cho họ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu truyền cho tông đồ Phêrô được đi trên mặt nước biển mà đến với Ngài; nhưng khi ông bắt đầu sợ hãi vì sóng gió nổi lên, ông bị chìm và kêu cầu Chúa cứu. Ngài đưa tay đỡ ông và trách: “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?”

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: thuật lại kinh nghiệm của tiên tri Êlijah, ông sống khoảng 960 BC.

1.1/ Lý do tiên tri Elijah phải chạy trốn: Để hiểu Bài đọc hôm nay, chúng ta cần đọc trở lại ít chương nữa trong Sách Các Vua, quyển I, chương 18. Ông là tiên tri duy nhất của Chúa còn sót lại và nhiệm vụ của ông là khôi phục niềm tin vào Thiên Chúa đã mất trong Israel. Để thực hiện điều này, ông đã bảo Vua Akhab sai triệu tập tòan thể con cái Israel trên núi Carmel. Tại đây, ông đã thách thức 450 tiên tri của Baal để dự cuộc thi xem coi Chúa nào là Chúa thật bằng cách mỗi bên xẻ một con bò tơ, xẻ thịt ra rồi đặt trên củi, nhưng không châm lửa. Bên nào kêu xin thần của bên ấy, thần nào đáp lại bằng cách khiến lửa từ trời xuống đốt cháy thịt, thần đó là Thiên Chúa; và họ đã chấp nhận dự thi. 450 tiên tri của Baal kêu xin suốt từ sáng tới trưa mà không có lửa, nhưng khi một mình tiên tri Êlijah kêu cầu Thánh Danh Chúa, thì Ngài đã khiến lửa từ trời xuống thiêu rụi cả củi lẫn thịt.

Tòan dân thấy vậy thì sấp mặt xuống đất và nói: “Yahvê chính là Thiên Chúa!” Êlijah truyền bắt trói tất cả các tiên tri của Baal, mang xuống núi và cắt cổ họng hạ sát họ tại đó. Vì biến cố này mà hòang hậu Isabel ra chiếu chỉ bắt giết Êlijah để đền mạng cho các tiên tri bị hạ sát của bà, và Êlijah phải tìm đường chạy trốn từ Bắc xuống Nam, và trèo lên núi Hôreb nơi Thiên Chúa đã trao Thập Giới cho Môisen. Phần vì sợ hãi mệt mỏi, phần vì đường xa đói khát làm ông nản chí, ông mong được chết và nói: “Lạy Đức Chúa! Đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông của con.” Ông vào một cái hang và nghỉ đêm tại đó. Có lời Đức Chúa phán với ông: “Elijah ngươi làm gì ở đây?” Ông thưa: “Lòng nhiệt thành đối với Đức Chúa, Thiên Chúa các đạo binh nung nấu con, vì con cái Israel đã bỏ giao ước với Ngài, phá huỷ bàn thờ, dùng gươm sát hại các ngôn sứ của Ngài. Chỉ còn sót lại một mình con mà họ đang lùng bắt để lấy mạng sống con.” Người nói với ông: “Hãy ra ngoài và đứng trên núi trước mặt Đức Chúa.”

1.2/ Thiên Chúa hiện đến với ngôn sứ Elijah: Có tất cả 4 sự kiện xảy ra được tường thuật hôm nay.

(1) Gió to bão lớn xẻ núi non, đập vỡ đá tảng trước nhan Đức Chúa, nhưng Đức Chúa không ở trong cơn gió bão.

(2) Sau đó là động đất, nhưng Đức Chúa không ở trong trận động đất.

(3) Sau động đất là lửa, nhưng Đức Chúa cũng không ở trong lửa.

(4) Sau lửa có tiếng gió hiu hiu. Vừa nghe tiếng đó, ông Êlijah lấy áo choàng che mặt, rồi ra ngoài đứng ở cửa hang. Bấy giờ có tiếng hỏi ông: “Êlijah, ngươi làm gì ở đây?”

Rất nhiều lần trong cuộc đời, nhất là những lúc phải đương đầu với bao nhiêu thử thách khó khăn, chúng ta kêu van Chúa để Ngài giúp chiến đấu; nhưng không thấy bóng dáng Ngài đâu! Nhiều lúc quá mệt mỏi vì cố gắng xây dựng, chúng ta cũng đã phải thốt lên như Êlijah: “Chúa ơi! Quá đủ rồi! Không còn sức để đi tiếp nữa!” Nhưng sau những lúc ấy, khi cuộc đời bình an trở lại, chúng ta nhận ra kết quả của những gì chúng ta làm, chúng ta nhận ra ai đã giúp chúng ta chiến đấu trong khi mọi người bỏ rơi chúng ta! Ngài đúng là một Thiên Chúa ẩn mình! Chúng ta có thể nhận ra Ngài trong tiếng gió hiu hiu, nhưng chưa bao giờ được thấy mặt Ngài!

2/ Bài đọc II: thuật lại kinh nghiệm của Thánh Phaolô, gần 2000 năm trước chúng ta.

 2.1/ Thánh Phaolô muốn rao giảng Tin Mừng cho cả Do-thái cũng như cho Dân Ngoại: Thánh Phaolô, người sống cả ngàn năm sau tiên tri Êlijah, cũng cùng tâm trạng này. Ngài đã trở lại và trở thành tông đồ cho Dân Ngọai sau biến cố ngã ngựa và bị mù trên đường đi Damascus để bắt bớ những tín hữu theo đạo. Lòng nhiệt thành vì muốn cho mọi người hiểu và tin vào Chúa Kitô, ngài đã không quản ngại bất cứ một khổ cực nào để loan truyền Lời Chúa. Mặc dù gặt hái được nhiều thành công nơi Dân Ngọai, nhưng ngài phải đương đầu với rất nhiều chống đối và bắt bớ từ những người Do Thái đồng hương của ngài.

Trong trình hôm nay, ngài đã thành thực chia sẻ: “Có Đức Kitô chứng giám, tôi xin nói sự thật, tôi không nói dối và lương tâm tôi, được Thánh Thần hướng dẫn, cũng làm chứng cho tôi rằng: lòng tôi rất đỗi ưu phiền và đau khổ mãi không ngơi. Quả vậy, giả như vì anh em đồng bào của tôi theo huyết thống, mà tôi có bị nguyền rủa và xa lìa Đức Kitô, thì tôi cũng cam lòng.” Chúng ta đã biết Đức Kitô quan trọng thế nào cho cuộc đời Thánh Phaolô, thế mà ngài có thể thốt lên những lời tâm huyết này vì quá khao khát ơn Cứu Độ cho người Do Thái đồng hương của ngài.

2.2/ Thánh Phaolô không hiểu nổi lý do nhiều người Do-thái không tin Đức Kitô: Vì họ đã được thừa hưởng các đặc ân dành cho Israel mà Dân Ngọai không có: Họ là người Israel, họ đã được Thiên Chúa nhận làm con, được Người cho thấy vinh quang, ban tặng các giao ước, lề luật, một nền phụng tự và các lời hứa. Họ là con cháu các tổ phụ; và sau hết, chính Đức Kitô, xét theo huyết thống, cũng cùng một nòi giống với họ.

Tuy nhiên, Thiên Chúa đã có kế họach của Ngài và con người không thể hiểu kế họach đó: Chính vì sự cứng lòng tin của họ mà Dân Ngọai được nghe Tin Mừng và được sát nhập vào làm Dân Chúa. Chính Thánh Phaolô đã thú nhận: Sau cùng Chúa sẽ cứu Israel! Khi nào chuyện ấy sẽ xảy ra? Thời gian là của Chúa và không ai biết được ngày ấy ngọai trừ Chúa.

3/ Phúc Âm: Chúa truyền cho Thánh Phêrô đi trên biển để đến với Chúa.

Phép lạ trên Biển Hồ hôm nay được tường thuật sau phép lạ Chúa hóa bánh ra nhiều để nuôi 5000 người ăn bởi hấu hết các Thánh Ký. Chúa Giêsu muốn các tông đồ tiếp tục công việc thường nhật nên Ngài bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng vì họ muốn tôn người làm vua (trình thuật của Gioan). Giải tán họ xong, Người lên núi một mình mà cầu nguyện. Tối đến Người vẫn ở đó một mình. Còn chiếc thuyền thì đã ra xa bờ đến cả mấy cây số, bị sóng đánh vì ngược gió.

3.1/ Các tông đồ sợ hãi khi nhìn thấy có người đi trên mặt nước biển và tiến về phía các ông: Các tông đồ là dân chài, nên có thể không sợ hãi nhiều vì sóng gió; nhưng khi thấy có người đi trên mặt biển thì các ông kinh hoàng vì không người nào có thể đi trên biển ngọai trừ quyền lực siêu nhiên; nhưng Chúa Giêsu liền bảo các ông: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!”

Sợ hãi và hồ nghi là bản năng của con người, nhưng một khi đã được lý trí soi sáng cho biết điều gì đáng tin và không nên sợ, con người cần vượt thắng những bản năng này. Phêrô có lý do để tìm ra Sự Thật khi yêu cầu: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài.” Đức Giêsu bảo ông: “Cứ đến!” Ông Phêrô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Đức Giêsu.

3.2/ Sự sợ hãi làm cho Phêrô bắt đầu chìm: Phêrô đã đi được trên mặt nước nên ông không nên hồ nghi và sợ hãi nữa vì ông đã biết rõ người đứng trước mặt là Chúa Giêsu và uy quyền của Ngài có thể cho ông đi trên mặt nước, điều mà con người không thể làm được. Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và khi bắt đầu chìm, ông la lên: “Thưa Ngài, xin cứu con với!” Đức Giêsu liền đưa tay nắm lấy ông và nói: “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?” Khi thầy trò đã lên thuyền, thì gió lặng ngay. Những kẻ ở trong thuyền bái lạy Người và nói: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa!”

Đời mỗi người chúng ta là một cuộc hành trình trên biển như Phêrô: có lúc bình an, có lúc sóng gió, có lúc lật thuyền gần chìm. Khi nào chúng ta có lòng tin vững mạnh vào Chúa thì chúng ta sẽ bước đi bình an giữa muôn ngàn sóng gió; nhưng nếu chúng ta hồ nghi sự hiện diện hay uy quyền của Chúa trong cuộc đời, chúng ta sẽ chao đảo vì sóng gió. Những lúc như vậy, chúng ta có cảm tưởng như không thấy sự hiện diện của Chúa hay Người đang để chúng ta chiến đâu một mình; nhưng thực ra Chúa vẫn đồng hành ngay bên và sẵn sàng cứu vớt khi gần bị chết chìm.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Qua các bài đọc và kinh nghiệm cá nhân, chúng ta đã học được bài học quá khứ: bàn tay Chúa luôn ở với chúng ta trong mọi biến cố của cuộc đời.

– Tương lai đi đâu, đến chỗ nào, gặp ai, làm gì, chuyện gì sẽ xảy ra, lúc nào, thành công hay thất bại… chúng ta mù tịt; nhưng như tổ phụ Abraham, chúng ta cứ thẳng đường tiến tới, vì chúng ta đã có kinh nghiệm quá khứ: bàn tay Thiên Chúa không bao giờ rời chúng ta.

– Chúng ta hãy sống giây phút hiện tại cách an bình và làm tất cả những gì có thể. Không than thân trách phận khi phải đương đầu với quá nhiều đau khổ. Không nóng lòng chất vấn Chúa khi đã quá cố gắng mà chưa nhìn thấy kết quả. Không kết án cũng chẳng tiên đoán điều gì sẽ xảy ra cho ai vì cuộc đời còn dài, và cuộc đời mỗi người nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa.

1.Xin cho con đi trên mặt nước.

(Trích trong ‘Manna’ – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)

Suy Niệm

Giữa lúc dân chúng định tôn Đức Giêsu làm Vua, sau khi đã được no nê bánh và cá, thì Ngài lại giải tán họ, và buộc các môn đệ phải chèo thuyền qua bờ bên kia.

Yên lặng trở lại với nơi hoang vắng.

Chỉ còn một mình Đức Giêsu, cầu nguyện. Ngài chìm sâu trong gặp gỡ Cha, Đấng sai Ngài. Nhưng Đức Giêsu không quên các môn đệ. Ngài biết họ đang vật lộn với sóng gió, một mình. Kinh nghiệm cam go này thật cần cho họ.

Mãi gần sáng, Ngài mới đi trên mặt nước mà đến. Các môn đệ tưởng là ma, nên kêu la sợ hãi. Đức Giêsu trấn an họ: “Hãy yên tâm, Thầy đây, đừng sợ.”

Tuy còn ngờ vực, Phêrô đã dám liều đề nghị: “Nếu quả là Thầy, thì xin cho con được đi trên mặt nước mà đến với Thầy.”

Thật là một lời đề nghị làm ta kinh ngạc.

Phêrô có thể chỉ cần nói: Nếu quả là Thầy, thì xin cho sóng gió yên lặng. Nói như thế dễ hơn nhiều, ít nguy hiểm hơn nhiều. Nhưng Phêrô đã chấp nhận dấn thân nghiêm túc.

Nếu không phải là Thầy, thì thật là dại dột.

Nhưng nếu đúng là Thầy, thì ông tin mình cũng đi được trên mặt nước như Thầy.

Đức Giêsu chấp nhận đề nghị của Phêrô: “Cứ đến.”

Thế là Phêrô bước ra, đi trên mặt nước, đến với Đức Giêsu.

Thật không thể tưởng tượng nổi, mặt nước trở nên cứng như đá, hay con người có đức tin trở nên nhẹ bổng.

Phêrô đi được bao xa, ta không rõ, nhưng lòng ông thì cứ reo lên sau mỗi bước đi: “Đúng là Thầy rồi!”

Phải tin thì mới dám xin đi trên mặt nước, nhưng phải dám đi trên mặt nước, thì mới tin trọn vẹn.

Cần ngắm nhìn những bước chân của Phêrô, những bước chân của lòng tin mạnh mẽ.

Nhưng khi gió lồng lên dữ dội, nỗi sợ hãi ùa vào, lòng tin bị chao đi với sóng, lúc đó Phêrô thấy mình bị hút xuống lòng biển. Ông chỉ kịp kêu lên: “Lạy Thầy, xin cứu con”. Bàn tay Chúa đưa ra nắm lấy ông và đưa ông về thuyền.

“Người kém tin, tại sao lại hoài nghi!”

Hoài nghi và sợ hãi đã làm Phêrô trở nên nặng nề, và nhận chìm ông xuống.

Chúng ta chỉ bắt đầu hiểu tin là gì khi phải chịu lênh đênh giữa sóng gió và đêm tối chỉ vì Chúa buộc phải ra đi, khi dám xin đi trên mặt nước dù Chúa chỉ là cái bóng trước mặt.

Gợi Ý Chia Sẻ

Qua đoạn Tin Mừng trên đây, bạn có thấy Đức Giêsu là một nhà huấn luyện giỏi để cho các môn đệ trưởng thành hơn trong đức tin không?

Thánh Phêrô đã có kinh nghiệm đi trên mặt nước. Trong đời bạn, bạn có một kinh nghiệm kinh khủng tương tự như thế không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

Con chẳng dám xin đi trên mặt nước như Phêrô, nhưng nhiều khi con cảm thấy sống đức tin giữa lòng cuộc đời chẳng khác nào đi trên mặt nước.

Có bao thứ sóng gió đẩy đưa và lôi cuốn.

Có bao cám dỗ muốn hút con vô vực sâu.

Cả sự nặng nề của thân xác con cũng kéo ghì con xuống.

Đi trên mặt nước cuộc đời chẳng mấy dễ dàng. Nhiều khi con thấy mình bàng hoàng sợ hãi.

Xin cứu con khi con hầu chìm.

Xin nắm lấy tay con khi con quỵ ngã.

Xin nâng đỡ niềm tin yếu ớt của con, để con trở nên nhẹ tênh mà bước những bước dài hướng về Chúa. Amen.

2.Xin cứu con – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu

Suy niệm:

Bài Tin Mừng hôm nay là một loạt những kinh nghiệm thiêng liêng.

Có thể chúng ta ít nhiều đều đã có những kinh nghiệm này.

Thầy Giêsu là một nhà giáo nhân từ và cương quyết.

Ngài giáo dục các môn đệ bằng cách đưa họ vào những kinh nghiệm.

Kinh nghiệm bị Thầy bắt buộc phải qua bờ bên kia (c. 22),

dù họ rất muốn ở lại bờ bên này để nếm dư vị của thành công vừa rồi.

Sau phép lạ nhân bánh, người ta định tôn Thầy lên làm vua (Ga 6, 15).

Chỉ cần Thầy gật đầu là trò được chia sẻ tiếng tăm và quyền lực.

Các môn đệ đã bị ép lên thuyền, ngay lập tức, lúc chạng vạng tối.

Kinh nghiệm bị sóng đánh vì ngược gió.

Thuyền đã xa bờ mấy cây số, tiến tới không được, lùi lại cũng không xong.

Vào lúc khó khăn ấy lại không có Thầy ở trong thuyền.

Hầu như suốt đêm các môn đệ phải vất vả chèo chống với sóng gió.

Họ phải tập chiến đấu trong đêm tối khi không có Thầy ở bên.

Họ có nghĩ quyết định của Thầy là sai lầm, vội vã không?

Kinh nghiệm hốt hoảng, sợ hãi và được trấn an.

Mãi đến lúc gần sáng, Thầy Giêsu mới đi trên biển mà đến với các môn đệ.

Ngài đến khi họ chưa thấy rõ mặt Ngài.

Ngài đến vào lúc bất ngờ và đến theo cách bất ngờ, khiến họ khiếp kinh.

Ngài đến đem bình an mà họ tưởng là ma quái đe dọa (c. 26).

Quả thật có những lúc không dễ nhận ra là Chúa đang đến với mình.

Chúa đến làm các môn đệ sợ hãi hơn cả sóng gió.

Nhưng “Cứ yên tâm, chính Thầy đây. Đừng sợ!” (c. 27).

Kinh nghiệm tự đưa mình vào một thách đố của lòng tin.

Một mặt Phêrô vẫn chưa tin trọn vẹn khi nói câu: Nếu quả là Thầy…(c. 28).

Nhưng mặt khác ông lại rất táo bạo khi dám xin ơn đi trên mặt nước.

Ông coi đó là cách thức chắc chắn nhất để biết có phải là Thầy không.

Nếu đúng là Thầy thì Thầy cũng có thể cho mình làm được như Thầy.

Chỉ cần Thầy truyền lệnh là đủ, Phêrô tin như thế.

Kinh nghiệm đi trên mặt nước và kinh nghiệm bị chìm.

Khi được Thầy cho phép, Phêrô đã dám từ thuyền bước xuống biển động.

Và ông đã đi được một quãng không rõ bao xa (c. 29).

Mặt nước cứng như đá hay người ông trở nên nhẹ bổng?

Bây giờ thì đúng là Thầy rồi, chỉ Thầy mới cho mình làm được như Thầy.

Phêrô sung sướng tiến về phía Thầy với lòng tin đang lớn lên.

Nhưng khi gặp gió thổi mạnh thì ông lại sợ, lại hoài nghi, yếu tin.

Ông mất tập trung vào sự hiện diện quyền năng của Thầy và bị chìm.

Người ta có thể bị chìm ngay khi biết Chúa ở trước mặt.

Kinh nghiệm được Thầy nắm tay mà dắt vào thuyền.

Khi Phêrô kêu cứu, Thầy Giêsu đã giữ ông khỏi bị nước nuốt chửng.

Sau đó hẳn hai Thầy trò đã cùng nhau đi trên sóng mà về thuyền.

Khi cả hai lên thuyền thì gió lặng, chẳng cần Thầy phải dẹp yên sóng gió.

Các kinh nghiệm môn đệ vừa trải qua thật kinh khủng và gần gũi với ta.

Buồn bực, sợ hãi, căng thẳng, bình an, nghi ngờ, chới với, hạnh phúc.

Đời Kitô hữu là một chuỗi những kinh nghiệm như thế.

Chúng ta tưởng Chúa bỏ rơi, Chúa vắng mặt, Chúa là ma làm ta sợ hãi.

Đơn giản Chúa là Thầy biết cách làm ta trưởng thành qua kinh nghiệm.

Cuối cùng chúng ta sẽ nhìn nhận: “Quả thật Thầy là Con Thiên Chúa” (c. 33).

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

con chẳng dám xin đi trên mặt nước như Phêrô,

nhưng nhiều khi con cảm thấy

sống đức tin giữa lòng cuộc đời

chẳng khác nào đi trên mặt nước.

Có bao thứ sóng gió đẩy đưa và lôi cuốn.

Có bao cám dỗ muốn hút con vô vực sâu.

Cả sự nặng nề của thân xác con

cũng kéo ghì con xuống.

Đi trên mặt nước cuộc đời chẳng mấy dễ dàng.

Nhiều khi con thấy mình bàng hoàng sợ hãi.

in cứu con khi con hầu chìm.

Xin nắm lấy tay con khi con quỵ ngã.

Xin nâng đỡ niềm tin yếu ớt của con,

để con trở nên nhẹ tênh

mà bước những bước dài hướng về Chúa. Amen.

3.Chúa Nhật 19 Thường Niên

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)

Cầu Nguyện

Không rõ lúc nào thì con thuyền các môn đệ gặp gió ngược.

Có gió thì có sóng, sóng đánh làm thuyền chòng chành.

Thuyền rơi vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan.

Tiến tới bờ bên kia thì không được, mà về cũng không xong,

vì con thuyền đã ra xa bờ nhiều dặm.

Các môn đệ phải tự mình đương đầu với sóng gió.

Tay chèo của họ mệt mỏi giữa đêm khuya.

Không có Thầy Giêsu ở đây, trong khoang thuyền này.

Tại sao Thầy bắt họ phải qua bờ bên kia ngay lập tức?

Tại sao Thầy không hoãn đến sáng mai, vì đâu có gì mà vội?

Bây giờ Thầy đang làm gì một mình ở chỗ hoang vắng đó?

Thầy có biết các môn đệ vì vâng lời Thầy mà gặp rắc rối không?

Có một thứ sóng gió nào đó đang xôn xao trong lòng họ.

Thầy Giêsu đến với họ lúc trời còn tối, nên chẳng ai nhận ra.

Ngài đến với họ ngay giữa sóng gió, Ngài đạp lên sóng mà đi.

Các môn đệ thấy bóng người đi trên mặt nước.

Hoảng hốt và sợ hãi, họ tưởng mình thấy ma.

Họ nghĩ chỉ có ma mới đi trên mặt nước được.

Nhưng đây không phải là ma, đây là người Thầy của họ.

“Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!”

Vậy mà Phêrô vẫn chưa nhận ra giọng nói và khuôn mặt của Thầy.

Ông muốn đưa ra một trắc nghiệm để kiểm chứng.

“Nếu quả là Ngài, xin truyền cho con đi trên nước để đến với Ngài.”

Nếu ông đi được trên nước thì người kia mới đúng là Thầy Giêsu.

Ông xác tín rằng điều Thầy làm được, Thầy cũng cho trò làm được.

Phêrô tự đặt mình vào một thách đố không dễ dàng.

Thầy Giêsu chấp nhận thách đố này và mời Phêrô: “Hãy đến!”

Thầy đã đi trên sóng nước để đến với ông.

Nay Thầy mời ông đi trên sóng nước để đến với Thầy.

Chúng ta cần hình dung giây phút Phêrô đặt chân trên mặt nước.

Mặt nước đang có sóng lớn vì gió mạnh.

Ông có ngần ngại khi bước ra khỏi thuyền không?

Ông có dám tin mình sẽ đi được trên nước không?

Phêrô đã làm gì để chiến thắng sự sợ hãi đang đè nặng?

Chúng ta chỉ biết ông đã thắng được chính mình,

đã ra khỏi thuyền, đã đặt chân trên sóng nước và bước đi.

Không rõ người ông trở nên nhẹ hay mặt nước trở nên cứng.

Càng bước đi, ông càng xác tín rằng đúng là Thầy rồi.

Và ông cứ hướng về phía Thầy mà tiến bước.

Nhưng ngay cả khi tin Thầy đang ở trước mặt mình,

Phêrô cũng bị chao đảo vì một cơn gió mạnh bất ngờ ập tới.

Ông sợ hãi và chìm xuống, nên ông la to xin Thầy cứu mình.

Thầy Giêsu lập tức đưa bàn tay ra nắm lấy ông.

Thầy trách ông đã nghi ngờ, dù chỉ trong một giây phút.

Nghi ngờ là dấu hiệu của lòng tin còn non yếu.

Lòng tin này có thể lung lay trước những biến động của cuộc đời.

Thật cảm động cảnh Thầy Giêsu nắm tay Phêrô và đưa ông về thuyền.

Gió vẫn chưa ngừng, sóng vẫn đánh.

Nhưng Phêrô yên tâm đi bên Thầy, đạp trên sóng gió mà đi.

Chỉ khi Thầy trò về thuyền, gió mới lặng.

Kinh nghiệm của Phêrô cũng là kinh nghiệm của các kitô hữu.

Kinh nghiệm bị ép phải qua bờ bên kia ngay lập tức,

trong hoàn cảnh trời tối, ngược gió, và không có Thầy gần bên.

Kinh nghiệm hoảng hốt vì Thầy đến mà mình không nhận ra.

Kinh nghiệm hạnh phúc đi được trên nước để đến với Thầy,

và rồi bị chìm, dù biết Thầy ở ngay trước mặt.

Kinh nghiệm được Thầy dắt về thuyền trong bình an.

Bao nhiêu cung bậc cảm xúc trong từng kinh nghiệm.

Tất cả dẫn đến kinh nghiệm cuối là nhận ra Con Thiên Chúa

đang ở trong cùng thuyền với Hội Thánh hôm nay (Mt 14,33).

Lời Nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

Sống ở đời chẳng ai thích sóng gió,

nhưng sóng gió lúc nào cũng có trong đời người.

Các môn đệ đầu tiên đã nhiều lần gặp sóng gió ở hồ Galilê.

Sóng gió đến khi Chúa đang ngủ vùi trên thuyền,

khiến môn đệ phải vội vàng đánh thức.

Sóng gió đến khi Chúa không ở trong thuyền,

khiến môn đệ phải chèo chống vất vả.

Chúa không tránh cho đời chúng con khỏi mọi sóng gió,

vì Chúa biết sóng gió làm chúng con trưởng thành,

tập vượt qua nỗi sợ hãi bằng lòng tin,

tập vượt qua nỗi lo âu bằng hy vọng.

Chúa để chúng con chiến đấu suốt đêm với gió ngược,

nhưng lại đến với chúng con khi trời gần sáng.

Xin cho chúng con yêu quý sự bình an,

nhưng lại không ngỡ ngàng trước sóng gió.

Giữa cơn sóng gió, xin cho chúng con tin rằng

Chúa vẫn hiện diện gần bên chúng con,

và đang đưa con thuyền Giáo Hội về đến bến.

4.“Đừng sợ!”

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)

Trong những ngày này, làn sóng thứ hai của đại dịch Covid-19 đang bùng phát và có nguy cơ lây lan nhanh chóng trong cộng đồng tại đất nước chúng ta. Mọi người đều lo lắng hoang mang, nhất là tại một số tỉnh thành có nhiều người nhiễm bệnh, được coi như ổ dịch. Những biện pháp phòng và chống dịch bệnh đã được triển khai với hy vọng dịch bệnh sẽ sớm bị khống chế. Giữa bối cảnh đầy lo âu và hoang mang lo lắng, Lời Chúa hôm nay nói với chúng ta: “Đừng sợ!”.

Mặc dù đã theo Chúa được một thời gian, quan niệm và niềm tin của các môn đệ vào thày mình vẫn còn non nớt và lệch lạc. Nhiều lần họ bị Chúa quở trách là yếu lòng tin, hoặc chỉ nhìn mọi việc theo quan niệm trần tục. Thánh Matthêu hôm nay kể lại, khi thấy Chúa Giêsu đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ, các ông tưởng là ma và sợ hãi kêu la. Chúa Giêsu trấn an các ông: “Cứ yên tâm, chính Thày đây, đừng sợ!”. Xem ra ông Phêrô vẫn chưa tin đó là Thày Giêsu, nên đưa ra một đề nghị đồng thời cũng là một thách thức: “Nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài”. Những gì được trình bày tiếp theo trong trình thuật cho chúng ta thấy: nếu Chúa sẵn sàng chấp nhận thách thức đó, thì con người lại không đủ can đảm và niềm tin. Phêrô cũng bước đi trên mặt biển, nhưng chẳng vững được bao lâu, vì đức tin của ông dao động, nên ông có nguy cơ chết đuối. Sự sợ hãi của con người khiến họ nghi ngờ quyền năng và tình thương của Thiên Chúa. Cũng vì sợ hãi, mà có nhiều người tín hữu mang một niềm tin hỗn tạp, tức là vừa tin vào Chúa và cũng tin vào các thần linh qua những thực hành mê tín dị đoan đi ngược lại với giáo huấn của Chúa. Như thế, niềm tín thác vào Chúa đòi hỏi vượt lên mọi nghi ngờ, đến mức chấp nhận mọi rủi ro, vì tin có Chúa luôn phù giúp.

Giữa cơn hoạn nạn do đại dịch Covid-19, có những câu hỏi được đặt ra: Thiên Chúa ở đâu mà không cứu giúp con người? Câu hỏi này không mới, nhưng nó được đặt ra ở mọi thời đại, giữa chiến tranh tàn khốc, giữa các cuộc diệt chủng, giữa nạn đói hoặc thiên tai. Thiên Chúa vẫn hiện diện giữa chúng ta. Đau khổ luôn là một huyền nhiệm. Con người cố gắng tìm hiểu mà không có câu trả lời thoả đáng. Tuy vậy, chúng ta xác quyết rằng: Thiên Chúa không bao giờ là nguyên nhân gây nên sự dữ, vì như thế là đối nghịch với bản tính của Ngài là tốt lành và nhân hậu bao dung. Đau khổ do chính con người tạo ra, bằng cách này hay cách khác, chủ quan hay khách quan. Thiên tai, lũ lụt, dịch bệnh, đói khát là do con người tàn phá thiên nhiên, làm mất đi sự quân bình sinh thái Chúa đã tạo dựng. Một số người giàu sống ích kỷ co cụm. Một số quốc gia độc tài không quan tâm đến công bằng xã hội và quyền lợi nhân phẩm của con người. Cũng phải kể đến sự lãng quên Thiên Chúa, thậm chí loại trừ Ngài ra khỏi gia đình và cuộc sống. Sự kiêu ngạo lớn nhất của con người thời nay là tự coi mình có khả năng giải quyết mọi vấn đề liên quan đến sinh mạng, cuộc sống, hiện tại và tương lai. Họ không cần đến Thiên Chúa. Họ coi Ngài như vật cản đà tiến của xã hội và hạn chế tự do của con người. Giữa một cuộc đời đầy bất ổn, Chúa vẫn nói với chúng ta: “Đừng sợ!”.

“Đừng sợ!”vì Chúa là Đấng quyền năng. Ngài tạo dựng nên vũ trụ và muôn vật muôn loài từ hư vô, đồng thời điều khiển vũ trụ trong trật tự kỳ diệu. Chúng ta gọi Chúa là Đấng Quan phòng, tức là Ngài yêu thương, che chở và hướng dẫn chúng ta là tạo vật của Ngài. Tin vào quyền năng của Chúa sẽ giúp con người tìm thấy bình an. Bài đọc I kể với chúng ta: ngôn sứ Elia đang gặp nguy hiểm trước sự truy đuổi của vua Akháp, sau khi thách thức với 450 tiên tri thờ thần Ba-an trên núi Carmen. Trong khi các tiên tri thần Baan kêu cầu, hô hoán, rạch mình mẩy mà không có hiệu quả, thì ông Elia đã chiến thắng khi cầu nguyện xin lửa từ trời xuống thiêu đốt của lễ. Sau cuộc đấu này, vua Akháp và hoàng hậu tìm giết ông. Ông tìm đến núi Khôrép để gặp Chúa. Cuộc gặp gỡ này giúp ông xác tín vào sứ mạng, đồng thời giúp ông lấy lại tinh thần và nghị lực để tiếp tục thi hành sứ mạng Chúa trao. Thiên Chúa không tỏ mình trong bạo lực, động đất, núi lửa, nhưng trong làm gió hiu hiu, tượng trưng cho sự thanh bình, khiêm tốn và an hoà.

“Đừng sợ!”vì Chúa là Cha yêu thương. Đức Giêsu đã dùng nhiều câu chuyện dụ ngôn để diễn tả tình thương vô bờ của Thiên Chúa. Ngài là Cha nhân hậu, luôn muốn cho con cái mình những điều tốt lành. Ngài cũng luôn bao dung tha thứ những lầm lỗi của con người, với ước mong cho họ được hạnh phúc đời này cũng như đời sau. Tín thác vào tình thương của Chúa, chúng ta không còn sợ hãi, nhưng cảm nhận sự bình an trong cuộc đời, nhất là sự bình an nội tâm, “tâm bất biến giữa cuộc đời vạn biến”.

“Đừng sợ!”vì Chúa là Đấng chữa lành những vết thương tinh thần và thể xác của con người. Chúa Giêsu là gương mặt dịu hiền đầy thương xót của Chúa Cha. Người đã chữa lành mọi thứ bệnh tật, kể cả sự chết và tội lỗi. Hãy đến với Chúa để được Ngài băng bó tâm hồn tổn thương của chúng ta. Hãy đến với Chúa để được Ngài chữa lành những bệnh tật thể xác và tâm hồn. “Đức tin đã cứu con!”, nhiều lần Chúa Giêsu đã tuyên bố như thế. Đến với Chúa mang theo niềm tín thác cậy trông, chúng ta sẽ được Chúa chữa lành.

“Đừng sợ!”, vì Chúa là Đấng Thẩm phán chí công. Cuộc sống hôm nay, thật giả lẫn lộn, nhiều người mất niềm tin nơi đồng loại. Hãy chuyên tâm làm việc thiện, không phải lấy tiếng khen của người đời, nhưng là để thực hiện lời Chúa dạy. “Đong đấu nào, sẽ nhận lại đấu ấy”, Chúa không để ai bị thiệt thòi và không để lòng quảng đại bị quên lãng. Thực tế đã chứng minh điều ấy. Mặc dù bị hiểu lầm, Tông đồ Phaolô vẫn không nản chí, vì ông tin có lương tâm và có Chúa Thánh Thần làm chứng cho sự trung tín ngay thẳng của mình (Bài đọc II).

“Đừng sợ!”, vì Chúa vẫn luôn hiện diện trong cuộc đời, dù nhiều khi ta không nhận ra Ngài. Đừng nghĩ là một “bóng ma” ám ảnh đời ta, nhưng là Ánh sáng, là Đấng soi đường về chân hạnh phúc. Hãy kêu cầu Chúa và hãy xác tín nơi Ngài. Trình thuật của Mátthêu cho thấy lòng tin của ông Phêrô các môn đệ đã được phục hồi sau khi Chúa nắm lấy tay Phêrô để kéo ông lên. Các ông bái lạy Người và thốt lên: “Quả thật Người là Con Thiên Chúa”. Các ông đã mạnh mẽ tuyên xưng Đức tin và đẩy lui nỗi sợ hãi.

Giữa cuộc đời bấp bênh và đầy nguy cơ này, chúng ta hãy đến với Chúa. Xin Người kéo chúng ta lên khỏi nỗi sợ hãi trước những hiểm nguy đang rình rập chúng ta. Có Chúa, cuộc đời chúng ta sẽ vui tươi và an bình.

5.“Quả thật, Ngài là Con Thiên Chúa!”

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc, S.J.)

1. Đức Giê-su một nơi, các môn đệ một nơi (c. 22-24)

Sau phép lạ bánh hóa nhiều, “Đức Giê-su liền bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước”. Với phép lạ bánh hóa nhiều, chắc chắn đã tạo ra nơi các môn đệ sự gắn bó nào đó: vinh quang của Thầy được tỏ hiện, sự thán phục của đám đông đối với Thầy, nhưng các môn đệ cũng được hưởng nữa, bánh dư tràn, và những mối tương quan với nhiều người được dệt nên qua biến cố đặc biệt này. Nhưng, đã đến lúc phải bỏ lại tất cả, vì Chúa muốn các môn đệ phải “sang bở bên kia”.

a. Chiêm ngắm Đức Giê-su

Chúng ta hãy nhìn ngắm Đức Giê-su. Chính Ngài giải tán đám đông chứ không phải các môn đệ ; bởi vì Đức Giê-su mới là mục tử ; đoàn chiên, là đoàn chiên của Người ; và chính Người nuôi dưỡng đoàn chiên, chứ không phải các môn đệ.

Sau đó, Đức Giê-su núi cầu nguyện một mình suốt đêm. Chúng ta có thể hình dung ra Đức Giê-su đang cầu nguyện, và lắng nghe Ngài cầu nguyện. Về điều này, Tin Mừng theo thánh Gioan kể lại cho chúng ta rất nhiều (x. Ga 14-17). Chúng ta có thể đoán ra rằng, một phần quan trọng của thời gian cầu nguyện mà Đức Giê-su thực hiện là việc “nhận định thiêng liêng”: phải bày tỏ căn tính Ki-tô và Con Thiên Chúa của Ngài như thế nào và bằng con đường nào: con đường mà ma quỉ gợi ra trong sa mạc và cũng là con đường mà các môn đệ mong chờ? Hay con đường mà Chúa Cha muốn từ thủa tạo thiên lập địa và được ghi khắc trong sáng tạo và trong lịch sử cứu độ? Con đường đáp ứng mọi nhu cầu của con người bằng quyền năng và những phép lạ cả thể, như bánh hóa nhiều? Hay bằng con đường của hạt lúa mì, con đường trở nên lương thực cho con người (x. St 1, 29), con đường mang lấy mọi bệnh hoạn tật nguyền của loài người, con đường băng qua Biển Đỏ Sự Chết? Thánh sử Gioan làm rõ hướng đi này của Đức Giê-su, khi kể lại lời nói của Đức Giê-su về Bánh Hằng Sống, ngay sau phép lạ bánh hóa nhiều (x. Ga 6).

b. Chiêm ngắm các môn đệ

Các môn đệ được Đức Giê-su mời gọi xuống thuyền để sang bờ bên kia. Trong hành trình đi theo Đức Ki-tô trong một ơn gọi, chúng ta vẫn cứ thỉnh thoảng lại phải “sang bờ bên kia” ; và sẽ đến lúc, và lúc đó không thể tránh được, chúng ta phải sang bờ bên kia của sự chết. Những lúc như thế, hành trình “sang bờ bên kia” đều chất chứa những bấp bênh và thách đố, và nhất là phải hi sinh và từ bỏ rất nhiều, như các môn đệ bị Đức Giê-su bắt phải bỏ lại tất cả, xuống thuyền, ra khơi xa, để sang bờ bên kia. Quả vậy, một thử thách rất lớn ở giữa lòng biển cả đang chờ các môn đệ, và chắc chắn đó sẽ là thử thách không bao giờ quên:

Các môn đệ ở trên thuyền, thuyền ở giữa Biển Hồ: lúc đó là ban đêm và trên thuyền không có Thầy Giê-su.

Một hoàn cảnh như thế đã là một thử thách rồi, vì trong đêm tối và ở giữa biển, nên các môn đệ không còn thấy bở bến, có thể mất hướng đi và bị biển vùi dập và nuốt trửng bất cứ lúc nào. Nhưng, thêm vào đó, con thuyền bị sóng đánh vì gió ngược nữa, khiến các môn đệ phải vất vả chèo chống.

Vẫn chưa hết thử thách, vì Đức Giê-su biết rõ hoàn cảnh thử thách của các môn đệ, nhưng mãi canh tư Ngài mới đến, nghĩa là mãi đến rạng sáng!

Thử thách của các môn đệ nói về hay làm chúng ta nhớ tới những thử thách riêng của mỗi người chúng ta. Vậy đâu là những thử thách mà chúng ta đang phải đối diện? Nhưng Lời Chúa trong trình thuật Tin Mừng này còn mời gọi chúng ta phải biết nhận định để nhận ra sự hiện diện của Chúa ngay trong lòng thử thách.

2. Đức Giê-su đến với các môn đệ (c. 25-31)

a. Các môn đệ và Đức Giê-su

Chúng ta hãy nhìn ngắm, lắng nghe và quan sát các môn đệ, khi họ thấy Đức Giê-su đi trên mặt nước đến với họ. Khi các môn đệ của Đức Giê-su đang bị vùi dập giữa sóng nước mênh mông và dữ dằn trong đêm tối, Ngài không đưa họ ra khỏi thử thách này, nhưng Ngài “vượt qua” biển cả hung tợn và chết chóc để gặp gỡ các môn đệ ngay giữa lòng thử thách. Đó là hình ảnh tuyệt đẹp loan báo Ngài sẽ đi vào cõi chết để gặp gỡ chúng ta trong thử thách tận cùng là sự chết, để nói với chúng ta rằng: “Thầy đây, đừng sợ, vì Thầy mạnh hơn sự chết”. Nếu chúng ta đang ở trong thử thách, vậy thì đâu là cách thức Đức Giê-su đi đến và hiện diện cùng với chúng ta trong thử thách?

Cách Ngài đến thật lạ lùng, đến độ các môn đệ tưởng là ma, do đó họ rất hoảng hốt, bởi vì Ngài đi trên mặt biển mà đến với các ông! Chúng ta hãy cảm thông với các môn đệ: ở giữa biển và trong cảnh “tranh tối tranh sáng”, bỗng nhiên có người đi thẳng tới! Sau này, các ông cũng sẽ hốt hoảng tưởng là ma, khi Đức Ki-tô từ cõi sống lại, nghĩa là vượt qua biển cả sự chết, tỏ mình ra cho các môn đệ. Và làm sao không hốt hoảng được, khi một người đã được chôn táng cẩn thận rồi, mà này lại “trở về”!

Chúng ta hãy lắng nghe lời của Đức Giê-su: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây đừng sợ”. Ở giữa lòng thử thách của biển cả và sau này, trong cơn sầu khổ của cuộc Thương Khó, các môn đệ tự mình không thể nhận ra Đức Ki-tô hằng sống ; nhưng Ngài phải ra dấu cho các môn đệ bằng cách “lên tiếng”. Thật vậy, với bà Maria Ma-đa-lê-na đang khóc bên mộ, Đức Ki-tô đã gọi tên của bà: “Maria” ; với hai môn đệ đang buồn rầu thất vọng trên đường Emmau, Đức Ki-tô phục sinh đã âm thầm đồng hành và giải thích thử thách Thương Khó của Ngài dưới ánh sáng của Sách Thánh ; và với các môn đệ đang ở giữa thử thách của biển cả, Đức Giê-su lên tiếng: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây đừng sợ”.

Và trong mọi thử thách của chúng ta, thử thách của thân phận và của số phận, Đức Ki-tô vẫn luôn lên tiếng, nói với chúng ta: “Thầy đây, đừng sợ”, vì Ngài đã trải qua tất cả và đã vượt qua tất cả. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, phải ở tận cùng của khó khăn và thử thách, Người mới đến và đến cách lạ lùng để cứu giúp và mở đường cho chúng ta đi ; và sau này, Chúa sẽ cứ để chúng ta chết đi, nghĩa là chúng ta phải đi vào trong bóng đêm của biển cả sự chết ; và chỉ sau đó, Đức Ki-tô Phục Sinh, là Đấng chiến thắng sự chết, mới đến đón chúng ta ở bở bên kia của sự chết.

b. Ông Phê-rô và Đức Giê-su

Ngay sau khi Đức Giê-su lên tiếng, ông Phê-rô liền thưa: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài.” Lời yêu cầu này của Phê-rô vừa diễn tả sự nghi ngờ, vì ông nói: “Nếu quả là Ngài…”, và vừa diễn tả cá tính đặc biệt của ông: nhanh nhẹn, thẳng thắn, can đảm, không sợ hãi và rất gắn bó với Thầy Giê-su.

“Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và khi bắt đầu chìm”. Khi sợ hãi, thì tất yếu bị lún chìm ; và lời của Đức Giê-su mặc khải cho biết lí do của sự sợ hãi: “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?”. Ngài đưa tay nắm lấy ông, rồi Ngài mới trách. Nếu không sẽ quá muộn! Như thế, lún chìm là hậu quả tất yếu và tự tại của sự hoài nghi ; ngược lại, khi tin tưởng, chúng ta sẽ vững bước và vượt qua thử thách thân phận, số phận, sự dữ và tội lỗi, bởi vì lòng tin có sức mạnh cứu độ, như Đức Giê-su nói: “lòng tin của con đã cứu con” (x. Lc 7, 50 và Mt 17, 19-20).

Nhưng, một cách sâu xa hơn, điều ông Phê-rô xin, cũng chính là cách thức mà mỗi người môn đệ được mời gọi đến với Đức Giê-su: như Phê-rô, người môn đệ cũng phải “đi trên mặt nước” để đến với Đức Giê-su. Hình ảnh “đi trên mặt nước” thật là ý nghĩa: chẳng dựa vào gì hết, chỉ dựa vào Lời Chúa thôi, nhưng đầy hiểm nguy sóng gió và có nguy cơ lún chìm. Chúng ta cũng phải “đi trên mặt nước” để đến với Đức Giê-su, chắc chắn chúng ta sẽ sợ hãi, chúng ta la lên: “Chúa ơi, xin cứu con!”, và Đức Giê-su liền đưa tay nắm lấy chúng ta.

3. “Ngài là Con Thiên Chúa” (c. 32-33)

“Khi thầy trò đã lên thuyền, thì gió lặng ngay”. Như thế, ở đâu có Đức Ki-tô hiện diện, thì ở đó sóng yên gió lặng. Chúng ta hãy khát khao có được kinh nghiệm này: lòng chúng ta được “sóng yên gió lặng”, khi chúng ta mở rộng lòng quảng đại đón nhận Đức Ki-tô vào con thuyền cuộc đời hay con thuyền tâm hồn của chúng ta, cho dù chúng ta đang phải sống trong thử thách hay cơn khốn khó. Xin cho chúng ta nghiệm được sức mạnh chiến thắng sự chết và những gì thuộc về sự chết, mỗi khi có Đức Ki-tô Phục Sinh hiện diện.

Lúc nãy các môn đệ tưởng Ngài là “ma”, bây giờ họ tuyên xưng Ngài là Con Thiên Chúa. Ngài sẽ bày tỏ căn tính Con Thiên Chúa của Ngài một cách thực sự và trọn vẹn khi chiến thắng vượt qua Sự Dữ và Sữ Chết trong mầu nhiệm Vượt Qua.

***

Ở giữa lòng thử thách, Đức Giê-su đến cứu giúp, nhưng các môn đệ lại hốt hoảng ; và theo thánh Mác-cô, lí do là vì: “các ông đã không hiểu ý nghĩa phép lạ bánh hóa nhiều, lòng trí các ông còn ngu muội” (Mc 6, 52). Lý do được nêu ra ở đây thật là lạ: phép lạ bánh hóa nhiều (x. Mt 14, 13-21), vừa được Đức Giê-su thực hiện có liên quan gì đến thử thách các môn đệ vừa trải qua?

Câu hỏi này thật đáng cho chúng ta suy gẫm. Thực vậy, nếu các môn đệ và cả chúng ta hôm nay nữa, hiểu và tin vào quyền năng của Chúa, Đấng có thể làm cho chúng ta no đầy trong cơn đói khát, Đấng đã đưa chúng ta từ hư vô vào trong sự sống, Đấng hi sinh chính sự sống của mình vì chúng ta, Đấng vẫn nuôi dưỡng chúng ta mỗi ngày bằng Lời và Mình của Ngài, thì sẽ không hốt hoảng sợ hãi và dễ dàng nhận ra Chúa vượt qua tất cả để đến gặp gỡ chúng ta ngay trong bóng tối của thử thách, của Sự Dữ, của tội lỗi và của chính sự chết.

6.Lạy Thầy xin cứu con – ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

Khi thấy ai gặp nhiều gian nan khốn khó, người ta nói: “Đời anh sóng gió nhiều quá” hay nói: “anh phong trần quá” – phong là gió, trần là cát bụi. Thực ra, cuộc đời con người ở trần gian, không nhiều thì ít, ai cũng gặp sóng gió bão táp. Những cơn lốc của thiên tai gây sập nhà nát cửa như lụt lội, hạn hán, giông tố, động đất…

Những cơn lốc của hận thù, tham lam bất công, bóc lột đàn áp con người còn gây ra những tai họa như chiến tranh, khủng bố ma túy, cờ bạc, đàng điếm, sida…

Những cơn lốc của chính mình, của lười biếng, kiêu căng, mù quáng, bệnh tật, cố chấp gây ra cho mình bao nhiêu thảm họa. Đến nỗi Napôlêon đã thắng hàng vạn quân địch, nhưng lại bị thua chính mình: Ông đã thua tính kiêu căng và tính mê đắm giai nhân.

Lời Chúa hôm nay nêu rõ ba nguyên nhân đã làm cho con người phải điêu đứng.

Nguyên nhân thứ nhất là thiên nhiên như sóng gió, lụt lội, động đất, các môn đệ hầu hết là dân chài lưới, thế mà giữa biển khơi sóng gió đã làm các ông hoảng hồn đến nỗi thấy bóng Thầy đi trên mặt biển, các ông đã la hét sợ hãi tưởng thủy quái.

Nguyên nhân thứ hai là người khác: Người khác đây là dân tộc Do thái. Họ đã được Thiên Chúa nhận làm con, được thấy vinh quang Chúa, được ban tặng Lời Chúa là chính Con Một Thiên Chúa xuống thế làm người là Đức Giêsu Kitô cùng huyết thống nòi giống với họ, là anh em, là đồng bào của họ (Bài II) thế mà họ không đón Người, không đón nhận vinh quang Thiên Chúa. Điều đó làm Phaolô vô cùng đau khổ, đau khổ đến nỗi Phaolô dù phải gian truân, khốn khổ, đói rách, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo không thể tách Phaolô ra khỏi tình yêu Đức Giêsu Kitô, nhưng bây giờ Phaolô sẵn sàng chịu nguyền rủa, xa lìa Đức Kitô để cho anh em đồng bào ông trở về với Đức Kitô (Rm. 8, 35 và 9, 1-5).

Êlia cũng chịu đau khổ như thế vì đồng bào ông. Ông đã phải liều mạng đến kéo họ về với Thiên Chúa, giải thoát họ khỏi gông cùm tà thần, dù một mình phải thách thức với cả ngàn sư sãi thờ thần Baal của hoàng hậu và nhà vua. Dù thắng cuộc và sư sãi thần Baal bị tiêu diệt, ông vẫn phải trốn thoát tay hung tàn của hoàng hậu lùng bắt (Bài I).

Nguyên nhân thứ ba là chính mình gây nên khốn khó cho mình. Phêrô được Chúa cho đi trên mặt biển đến với Ngài, khi đang được hưởng ơn lạ như thế; ông lại hoài nghi, đâm lo sợ, thế là ông bị biển cả nhận chìm ông. May mắn ông đã vội vã kêu lên: Lạy Thầy, xin cứu con.

Lạy Thầy, xin cứu con”. Chính con nhiều lần cũng bị nhận chìm trong biển trần gian do nhiều hoàn cảnh éo le của cuộc đời và do chính con đã gây ra…

Lời cầu nguyện: “Lạy Thầy, xin cứu con” phải là lời cầu nguyện liên tục của con hàng ngày, từng giây từng phút trong đời con. Xin cho con biết luôn luôn kêu lên: “Lạy Thầy, xin cứu con” vì từng giây từng phút không có Thầy cứu giúp, không có ơn Thầy gìn giữ, không có ơn Thầy soi sáng, không có ơn Thầy cứu độ, chắc chắn con bị nhận chìm dưới đáy vực thẳm tội lỗi, dưới đáy địa ngục tử thần. “Lạy Thầy, xin cứu con”.

7.Trên sóng biển

Sau khi làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, Chúa Giêsu đã bảo các môn đệ rời bỏ đám đông để qua bờ bên kia, còn Ngài thì lo việc giải tán dân chúng.

So sánh hai đoạn Tin Mừng ấy chúng ta ghi nhận được một chi tiết thú vị. Đó là giữa lúc các môn đệ muốn giải tán dân chúng thì Chúa Giêsu lại yêu cầu các ông giữ họ lại và lo cho họ ăn. Còn bây giờ khi các ông muốn ở lại với họ thì Ngài lại buộc các ông phải rời bỏ họ mà đi nơi khác. Chúa Giêsu xem ra muốn chất dứt niềm hứng khởi của các ông giữa một đám đông vừa mới được thưởng thức phép lạ Ngài làm. Qua đó Chúa Giêsu như muốn dạy các ông một bài học về tinh thần phục vụ đích thực: Hãy phục vụ người khác nhưng đừng tìm cách hưởng thụ hay khai thác những kết quả do việc phục vụ đem lại. Hãy giúp đỡ vì tình trạng cần giúp đỡ của người khác chứ không thể dựa vào lòng biết ơn của họ để tạo thêm uy tín, thanh danh hay ảnh hưởng của riêng mình.

Người môn đệ của Chúa phải luôn ở trong tư thế sẵn sàng từ bỏ nơi của phép lạ hoá bánh ra nhiều, nơi của sự thành công, nơi của những cơ sở đã được gầy dựng, nơi của một chỗ đứng đã được bảo đảm, để đến một nơi xa lạ, một nơi khởi sự làm quen với những bất trắc và những khó khăn có thể gặp phải. Cũng như trên đỉnh Taborê, giữa lúc Phêrô đang tính chuyện dựng lều thì Ngài lại giục các ông phải xuống núi và tiếp tục con đường lên Giêrusalem, là nơi bản án tử hình của Ngài đang được chuẩn bị.

Công cuộc rao giảng Tin Mừng của các môn đệ không phải là không có những bất trắc, những xáo trộn và những hiểm nguy, như xưa trên mặt biển, các ông đã gặp phải phong ba bão táp. Nhưng nếu chỉ nhìn vào những bất trắc, thì người ta dễ thất vọng và thối lui. Thế nhưng Chúa Giêsu vẫn có đó trong đêm tối của phong ba bão táp. Ngài có đó để nói với chúng ta rằng: Hãy yên tâm, Thầy đây, đừng sợ.

Vấn đề là trong những lúc bất trắc xảy đến, chúng ta phải biết nhận ra sự hiện diện của Ngài để can đảm và vững tâm bước tới. Giữa những âm thanh của biển gầm sóng vỗ, chúng ta phải biết nhận ra tiếng nói của Ngài. Và như thế niềm tin của chúng ta phải là một niềm tin, không xuất phát từ lý luận, từ sách vở, nhưng xuất phát từ việc nhận biết Chúa và tiếng gọi yêu thương của Ngài giữa những sự kiện xảy đến trong cuộc sống của chúng ta.

8.Con thuyền Giáo Hội

Phải chăng đoạn Tin Mừng sáng hôm nay phản ảnh cho một kinh nghiệm sống đức tin của Giáo Hội thời sơ khai? Thực vậy, như một con thuyền tròng trành giữa biển khơi dậy sóng, Giáo Hội chỉ là một cộng đoàn nhỏ bé và yếu đuối giữa một thế gian đối nghịch và không ngừng áp đảo…

Trong cuốn chuyện Quo vadis, tác giả Sienkievich đã đặt Phêrô, người chài lưới già nua và dốt nát trong thế đối diện với Néron, một hoàng đế hùng mạnh, chủ tể của trần gian. Phêrô đã run rẩy, ngẩng mái đầu bạc trắng của mình lên trời cao mà thầm thĩ kêu xin: Lạy Chúa, con biết làm gì với thành phố mà Chúa sai con tới. Của y nào là biển cả và đất liền. Của y nào là muông thú trên mặt đất cũng như thuỷ tộc dưới lòng đại dương. Của y nào là những vương quốc, thành quách và 30 chiến đoàn đang canh giữ. Còn con, lạy Chúa, con chỉ là một tên ngư phủ, sống quanh quẩn trên các mặt sông hồ. Con biết làm gì đây. Làm sao con thắng được sự dữ mà y đã gieo rắc.

Quả là mong manh, bé bỏng và yếu đuối, thế nhưng Giáo Hội vẫn không ngừng đi tới vì tin rằng Chúa Giêsu vẫn đang hiện diện như lời Ngài xác quyết: Thầy đây, đừng sợ. Cho dẫu đó chỉ là một sự hiện diện vô hình, tưởng chừng như ảo ảnh. Thế nhưng cộng đoàn nhỏ bé ấy đã làm đảo lộn cả lịch sử. Néron đã biến đi như một cơn mộng dữ đẫm máu. Còn Phêrô, người chài lưới già nua và dốt nát vẫn còn đấy, đã chiếm lĩnh đến muôn thuở cả trần gian.

Cũng chính vì thế mà câu chuyện của 2.000 năm về trước luôn là nguồn suy tư và sức mạnh cho Giáo Hội, đặc biệt trong những giai đoạn phải đối diện với những khó khăn và thử thách, với những phong ba và bão táp, để ở đó, Giáo Hội hâm nóng lại niềm tin của mình và can đảm tiến bước.

Trong chuyến viếng thăm mục vụ tại Pháp vào năm 1989, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng đã lấy đoạn Tin Mừng hôm nay làm chủ đề để khai triển suy tư và tăng cường sức mạnh cho một Giáo Hội đã từng có thời kỳ vàng son đáng nhớ, nhưng hôm nay đang phải đối đầu với những vấn đề được xem là bi quan và nan giải.

Đồng thời, nếu hình ảnh Phêrô đi trên sóng biển được nhìn với tư cách người lãnh đạo Giáo Hội, thì Phêrô ấy cũng còn là hình ảnh tượng trưng cho từng người Kitô hữu đang sống trong lòng cuộc đời. Với niềm tin bên cạnh những giây phút nghi nan và ngờ vực. Với những niềm vui mừng xen lẫn những âu lo và sợ hãi. Với quyết tâm giữa những ngả nghiêng và chao đảo. Chính nơi con người Phêrô ấy mà mỗi người chúng ta sẽ nhận ra thân phận mỏng manh và yếu đuối của bản thân. Và nhất là nơi con người Phêrô ấy, chúng ta cần hun nóng lại niềm cậy trông và kêu cầu: Lạy Chúa, xin cứu vớt con.

9.Biển đời.

Có một cậu bé xin đi biển để học nghề làm thuỷ thủ. Ngày nọ trời dông bão, người ta bảo cậu leo lên cột buồn. Leo được nửa phần đầu thì dễ dàng vì cậu cứ đưa mắt ngước lên trời. Nhưng đến lưng chừng, cậu phạm phải một sai lầm, đó là cậu nhìn xuống mặt biển dậy sóng. Thế là cậu bị chóng mặt như muốn ngã xuống. Thấy vậy, một thuỷ thủ già bèn la lên: Này cậu bé, hãy nhìn lên trời. Nghe theo lời chỉ dẫn trên, cuối cùng cậu bé đã leo tới đỉnh cột buồm một cách an toàn.

Lỗi lầm của cậu bé giống hệt lỗi lầm của Phêrô qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Cậu bé đã rời mắt khỏi bầu trời và đã nhìn xuống mặt biển dông bão như Phêrô đã rời mắt khỏi Chúa và nhìn xuống những ngọn sóng.

Điều này cũng thường xảy đến với mỗi người chúng ta. Thực vậy, có những lúc trong cuộc đời, chúng ta cảm nghiệm được sự hiện diện đầy quyền năng và yêu thương của Chúa, nhất là những lúc chúng ta được may mắn và những thành công như mỉm cười với chúng ta. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng sóng yên biển lặng. Trái lại cuộc đời của chúng ta cũng có những ngày phong ba và bão táp. Chính trong những giờ phút đen tối này, chúng ta dễ dàng rời xa Chúa, chúng ta dễ dàng từ bỏ Ngài để đi tìm những sự vật khác, để rồi bản thân chúng ta bị chao đảo, mất thăng bằng và chìm xuống.

Đoạm Tin Mừng sáng hôm nay mời gọi chúng ta hãy thẳng thắn kiểm điểm lại đời sống của mình. Nếu lúc này, chúng ta không cảm nhận được sự bình an, niềm vui mừng và hy vọng thì chắc chắn đó là vì chúng ta đã lìa xa Chúa. Nếu như lúc này chúng ta đang chao đảo và như muốn chìm xuống đáy nước, thì chắc hẳn đó là vì chúng ta đã không còn tin tưởng, cậy trông và phó thác vào Chúa. Hãy quay trở về cùng Chúa và hãy kêu lên như thánh Phêrô: Lạy Chúa, xin cứu vớt con. Chắc chắn Ngài sẽ ra tay phù trợ, bởi vì Ngài không phải chỉ là một Thiên Chúa quyền năng, có thể làm được những sự chúng ta kêu van, mà hơn thế nữa, Ngài còn là một người cha đầy lòng thương xót, luôn sẵn sàng cứu vớt và nâng đỡ chúng ta ở mọi nơi và trong mọi lúc. Có Chúa cùng đi với chúng ta trên vạn nẻo đường đời, chúng ta sẽ không còn sợ hãi trước những phong ba và bão táp, chúng ta sẽ không còn lo lắng trước những gian nan và thử thách như lời thánh vịnh đã viết: Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả chỉ là uổng công, thành trì Chúa chẳng giữ trông, hùng binh kiện tước cũng không ra gì.

Và để kết luận, chúng ta cùng nhau ghi nhớ tư tưởng sau đây của một câu danh ngôn: Có Chúa thì màng nhện cũng sẽ trở nên tường thành. Trái lại, nếu không có Chúa, thì tường thành cũng chỉ là màng nhện mà thôi.

10.Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành

Có một người nọ ví cuộc đời của mình như một người lữ hành đang đi trên một bãi biển đầy cát. Khi nhìn lại cuộc hành trình, anh nhận ra hai điều kỳ lạ:

Điều thứ nhất: Khi anh thành công, hạnh phúc, vui sướng… anh thấy có bốn dấu chân trên cát. Đó là hai dấu chân của anh và hai dấu chân của Chúa. Thiên Chúa đồng hành để chia sẻ niềm vui với anh.

Điều thứ hai: Khi anh thất bại, đau khổ, buồn sầu…anh chỉ thấy có hai dấu chân trên cát. Và anh nghĩ đó là hai dấu chân của mình. Thiên Chúa đã bỏ rơi khi anh thất bại. Thiên Chúa đã vắng bóng khi anh đau khổ.

Sau đó, anh thắc mắc với Chúa: “Khi con thành công, hạnh phúc thì Chúa lại đồng hành với con, đi với con. Nhưng khi con thất bại, đau khổ là những lúc con cần Chúa nhất thì Chúa lại bỏ rơi con. Tại sao Chúa lại đối xử với con như thế?”

Chúa trả lời: “Khi con vui thì Ta đi bên cạnh con, đi với con, song hành cùng con. Còn khi con buồn, đau khổ, thất vọng thì Ta lại vác con trên vai của Ta. Cho nên dấu chân trên cát là của Ta chứ không phải của con.” (Câu chuyện sưu tầm trên Internet).

Trong cuộc sống, có lẽ những lúc thất bại, đau khổ, buồn sầu chúng ta cũng có cảm giác bị Chúa bỏ rơi như người đàn ông trong câu chuyện trên đây. Nhưng trong thực tế, Ngài không bỏ rơi chúng ta, Ngài luôn ở với chúng ta, đồng hành với chúng ta trong mọi nẻo đường của cuộc sống. Ngài không chỉ đồng hành khi chúng ta hạnh phúc, thành công mà còn đồng hành với chúng ta, ở bên cạnh để an ủi và nâng đỡ mỗi khi chúng ta gặp khó khăn đau khổ. Các bài Lời Chúa hôm nay cũng chứng minh cho chúng ta thấy điều đó.

Bài đọc 1, trích từ sách Các Vua quyển thứ nhất: khi Êlia bênh vực cho dân Chúa, kéo dân Chúa khỏi sự thống trị của tà thần. Ông đã thắng được cả ngàn sư sãi thờ thần Baal của hoàng hậu và nhà vua. Nên ông bị bà hoàng hậu I-de-ven truy bắt. Ông đã phải chạy trốn lên núi Kho-rép. Trong quảng đường chạy trốn đó, có những lúc ông không còn tha thiết với cuộc sống nữa, nhưng Thiên Chúa luôn ở cùng ông. Thiên thần đã dọn bánh cho ông ăn khi đói và nước cho ông uống khi khát (x. 1V 19,1-8). Tại núi Kho-rép, ông còn được Thiên Chúa hiện ra với ông qua làn gió hiu hiu. Sau đó, Thiên Chúa sai ông đi xức dầu cho một số người làm vua và làm ngôn sứ: xức dầu phong Kha-da-ên làm vua A-ram; xức dầu Giê-hu con của Nim-si làm vua Ít-ra-en; xức dầu Ê-li-sa con Sa-phát, người A-vên Mơ-khô-la, làm ngôn sứ (x. 1V 19, 9-18).

Bài Tin mừng hôm nay tiếp nối bài Tin mừng Chúa nhật tuần trước. Sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, dân chúng muốn tôn Đức Giêsu lên làm vua. Nhưng ý muốn của họ không phù hợp với sứ mạng của Ngài. Vì thế, Ngài đã giải tán dân chúng. Trước khi giản tán họ, Ngài đã bảo các môn đệ xuống thuyền đi sang bờ bên kia. Còn Ngài thì lên núi cầu nguyện một mình. Nhưng khi thuyền các môn đệ đi ra giữa biển, bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió. Cùng lúc đó, Đức Giêsu đi trên mặt nước mà đến với họ. Nhưng các môn đệ tưởng rằng đó là ma và các ông sợ hãi kêu la lớn tiếng. Ngay lập tức, Đức Giêsu trấn an các ông: “Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ!” Nghe vậy, Thánh Phê-rô đã xin Đức Giêsu “nếu thực sự là Thầy, xin truyền cho con đi trên mặt nước để đến với Thầy. Đây là một lời cầu xin đầy táo bạo và mang tính thách thức. Dầu vậy, Đức Giêsu vẫn chấp nhận lời cầu xin của ông. Phê-rô đã bước xuống khỏi thuyền và đi trên mặt nước. Đó là hành động của niềm tin. Bởi vì, nếu không có niềm tin chắc chắn không ai hành động như thế. Nhưng khi đi được nữa chừng, thấy gió mạnh, ông sợ hãi và sắp chìm xuống nên la lên rằng: “Lạy Thầy, xin cứu con!” (Mt 14,30). Đức Giêsu đưa tay cứu lấy ông, đồng thời trách nhẹ ông rằng: “Người hèn tin, tại sao mà nghi ngờ?” Sau đó, Đức Giêsu đã làm cho sóng gió yên lặng.

Câu chuyện của tiên tri Êlia và câu chuyện của Phê-rô cho chúng ta thấy phảng phất hình ảnh của Giáo hội, của mỗi người kitô hữu chúng ta trong đó. Thật vậy, lịch sử Giáo hội và cuộc đời mỗi người kitô hữu chúng ta giống như con thuyền chòng chành trên biển khơi. Ngay từ những ngày đầu mới thành lập, Giáo hội bị bách hại một cách khốc liệt và kéo dài suốt 300 năm. Hầu hết các Tông đồ đều chịu Tử đạo. Vô số các kitô hữu bị giết chết. Từ đó tới nay có lẽ không giây phút nào mà Giáo hội không bị bách hại. Lịch sử cuộc đời mỗi người kitô hữu chúng ta cũng vậy: Có những khi chúng ta phải chạy trốn “ba thù” như tiên tri Êlia. Có những khi chúng ta bị nhận chìm xuống tận đáy của vực thẳm như Phê-rô bị nhận chìm xuống biển. Đúng như lời Đức Giêsu tuyên bố: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mỗi ngày mà theo Ta.”(Lc 9,23). Thập giá đó là những sự bắt bớ, tù đày, đòn vọt đến từ những người chống đối Giáo hội. Thập giá đó là khi chúng ta chống chọi với những cám dỗ của thế gian, ma quỷ, xác thịt. Ngoài ra, thập giá cũng có thể là những đau khổ thể xác như bệnh tật, đói khát do thiên nhiên hay do người khác gây nên.

Nhưng cho dù trong hoàn cảnh nào, Giáo hội và các kitô hữu vẫn có thể vượt qua nếu biết nhìn lên Chúa, biết kêu cầu Ngài giúp đỡ. Vì thế, lời kêu cầu của Thánh Phê-rô “Lạy Chúa, xin cứu con,” cũng là lời kêu cầu của mỗi người chúng ta trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Hãy xin Chúa cứu giúp khi chúng ta gặp thử thách đau khổ về thể xác cũng như tinh thần. Hãy xin Chúa cứu giúp khi chúng ta gặp thử thách trong đời sống đức tin. Hãy xin Chúa cứu giúp khi chúng ta gặp những thất bại trong cuộc sống. Trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, nếu chúng ta biết nhìn lên Chúa, kêu cầu Ngài, chắc chắn Ngài sẽ nắm lấy tay chúng ta và bảo rằng: “Cứ yên tâm, Thầy đây đừng sợ.”

Lạy Chúa Giêsu, cuộc đời của chúng con nhiều khi cũng cảm thấy hoang mang lo sợ như tiên tri Êlia và Thánh Phê-rô ngày xưa. Xin cho chúng biết cảm nhận được Chúa ở bên cạnh, để luôn biết kêu cầu Chúa và xin Chúa hãy ra tay cứu giúp chúng con. Amen.

11.Một điểm tựa duy nhất trên cõi đời

(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)

Vào canh tư đêm ấy (khoảng ba giờ sáng), đang khi các môn đệ vất vả chèo lái con thuyền ngược gió giữa sóng cả trùng khơi thì bỗng phát hiện một bóng ma chập chờn trên mặt nước. Mọi người hoảng hốt la lên. Nào ngờ đó lại là Chúa Giê-su. Ngài trấn an họ: “Chính Thầy đây! Đừng sợ!”. Biết vậy, Phê-rô hăm hở đòi đi trên nước như Thầy: “Thưa Thầy, nếu quả là Thầy thì xin truyền cho con đi trên mặt nước và đến cùng Thầy.”

Được Chúa chấp thuận, Phê-rô bước ra khỏi thuyền, bước đi lảo đảo trên sóng nước như người say và đến khi gặp cơn sóng dữ ập đến, Phê-rô quá đỗi kinh hoàng nên bị chìm xuống và hoảng hốt kêu lên: “Lạy Thầy, xin mau cứu con!”

Lập tức, Chúa Giê-su nắm lấy tay Phê-rô, kéo ông lên rồi đưa ông vào thuyền bình an vô sự.

***

Sống trên đời nầy, chúng ta cũng như Phê-rô đi trên mặt biển. Mọi sự chung quanh đều chao đảo, bấp bênh. Mạng người quá đỗi mong manh. Kiếp người như ngọn đèn lung linh trước gió, như giấc chiêm bao!

Cuộc đời đầy dẫy tai ương

Những thiên tai xảy ra dồn dập khắp nơi trên thế giới: bão tố, lũ lụt, động đất, sóng thần, lốc xoáy… đã gây ra tổn thất khủng khiếp về nhân mạng cũng như về tài sản.

Bên cạnh đó, những tai hoạ do con người gây ra cũng khủng khiếp và tàn bạo không kém: chiến tranh, bạo lực, khủng bố, đàn áp, bóc lột, bệnh tật, đói nghèo…

Trước những tai ương hoạn nạn đó, con người biết tìm đâu nơi nương tựa vững bền? Biết bám víu vào ai để bảo toàn mạng sống? Biết dựa vào sức mạnh nào để đương đầu?

Chẳng có chi vững bền

Trên cõi đời nầy, tìm đâu ra một điểm tựa vững bền?

Tựa vào tiền của ư? Tiền của không mua được sức khoẻ và sự sống. Những tỷ phú giàu nhất thế giới cũng không thoát khỏi bệnh tật và chết chóc.

Tựa vào địa vị, chức quyền ư? Những tổng thống, vua chúa quyền lực nhất thế gian cũng chỉ được ngồi trên ngai trong thời hạn ngắn rồi bị truất phế và tất cả không trừ ai đã vùi thây dưới mộ.

Chẳng có gì kiên cố

Toà tháp đôi ở Newyork cao đến 110 tầng (417- 425 mét) đứng uy nghi sừng sững giữa trời, vượt hẳn lên các công trình kiến trúc hoành tráng chung quanh, ngạo nghễ thách thức với cả những cơn địa chấn mạnh nhất, nằm ở trung tâm một đất nước phồn vinh và hùng mạnh nhất thế giới, nhưng có ai ngờ: nó đã bị tấn công, bị bốc cháy ngùn ngụt và sụp đổ tan tành trước sự kinh hoàng của hàng tỉ người trên thế giới, chôn vùi ngót năm ngàn nạn nhân dưới khối bê tông khổng lồ của nó trong một biến cố gây chấn động thế giới vào ngày 11 tháng 9 năm 2001.

Mọi thứ đều bấp bênh

Hành trình của con người trên dương gian không khác chi hành trình của Phêrô trên mặt nước; nhìn trước, nhìn sau, nhìn lui, nhìn tới, mọi thứ đều chao đảo, tất cả đều bấp bênh, chẳng có gì vững bền.

“Ôi nhân sinh là thế: như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao” (Khuyết danh)

Biết nương tựa vào đâu

Con người không thể dựa vào người khác vì tất cả những người khác cũng đang ở trong tư thế bấp bênh, chao đảo như mình. Một chiếc tàu sắp đắm không thể cứu vớt chiếc tàu khác cũng đang chìm đắm như mình.

Cần phải có một “quyền lực” nào đó ở bên trên, ở một bờ bến vững vàng, mới có thể cứu vớt những ai đang chìm đắm trong biển đời chao đảo.

Hãy nắm lấy bàn tay Chúa Giêsu

Duy chỉ có bàn tay Chúa Giêsu mới có đủ quyền năng cứu vớt mọi người trên dương thế và bàn tay ấy luôn đưa tay ra để nâng đỡ, dìu dắt, cứu vớt bao người.

Bàn tay Chúa Giêsu đã đẩy lùi bệnh tật ra khỏi kiếp người: chạm đến những người phong hủi khiến những người nầy được sạch (Mt 8,3); đặt lên “những người đau yếu mắc đủ thứ bệnh hoạn và họ được chữa lành” (Lc 4, 40)

Bàn tay Chúa Giêsu trả lại ánh sáng cho người mù tối: chạm đến mắt người mù khiến y được sáng. (Mt 9,29. 20, 34)

Bàn tay Chúa Giêsu đã lôi kéo con người ra khỏi cõi chết: nắm lấy bàn tay bé gái đã chết và trả lại sự sống cho em. (Mt 9,24)

Và cũng chính bàn tay ấy đã đưa ra nắm lấy tay Phêrô đang chới với giữa sóng gió hãi hùng, kéo ông khỏi bị chìm đắm và đưa ông vào trong thuyền bình an vô sự. (Mt 14, 31).

Lạy Chúa Giêsu,

Chỉ có Chúa và duy chỉ có một mình Chúa mới là điểm tựa duy nhất cho nhân loại đang chơi vơi, chao đảo giữa biển đời tăm tối hãi hùng.

Bàn tay Chúa vẫn đưa ra và sẵn sàng nắm lấy bàn tay yếu đuối của con người đắm chìm giữa biển đời tối đen đầy sóng gió, nhưng tiếc thay, người đời không chịu để cho Chúa nắm lấy tay mình.

Chúa yêu mến con người và sẵn sàng cứu vớt họ, nhưng đồng thời Chúa cũng luôn tôn trọng tự do của họ.

Xin soi sáng cho nhân loại hôm nay khám phá ra bàn tay đầy quyền năng của Thiên Chúa Tình Yêu đang luôn vươn ra để che chở và cứu vớt mọi người.

Xin cho chúng con được trở thành bàn tay nối dài của Chúa, sẵn sàng đưa ra nắm lấy những bàn tay khác đang gặp sóng gió gian nan.

12.Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái

Chủ đề: Sống trước sự hiện diện uy quyền của Thiên Chúa. (Mt 14,27)

I. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Cuộc sống của chúng ta rất tất bật, bon chen, cực nhọc… Chúng ta cảm thấy mình như bị cuốn hút vào một dòng chảy liên tục, không ngơi nghỉ. Vì thế, có một khoảng thời gian bình lặng như Thánh lễ mỗi ngày Chúa nhựt như thế này thì thật là bổ ích: chúng ta vừa có dịp bình tâm lại, vừa được nghe Lời giáo huấn của Chúa, lại vừa được múc lấy nghị lực từ nơi Chúa, như lời Ngài đã nói “Hỡi những ai lao nhọc, hãy đến với Ta, các ngươi sẽ tìm được sự ngơi nghỉ”.

Chúng ta đã đến với Chúa. Xin Chúa cho chúng ta được nghỉ ngơi và bồi dưỡng.

II. Gợi ý sám hối

Chúa luôn hiện diện bên cạnh chúng ta, nhưng rất ít khi chúng ta nhớ tới Ngài.

Chúa sẵn sàng giúp đỡ ta, nhưng ít khi chúng ta xin Ngài giúp.

Nhiều lần chúng ta làm những điều xấu ngay trước mặt Chúa khiến Chúa phải buồn.

III. Lời Chúa

1. Bài đọc I (1 V 19,9.11-13)

Thời vua Acáp đang trị vì vương quốc Israel, hoàng hậu Giêsaben một mặt đem việc thờ phượng các thần Baal vào nước, mặt khác tích cực bách hại các ngôn sứ của Yavê. Ngôn sứ Êlia vì dám đương đầu với bà cho nên bị bà truy nã ráo riết. Ông phải chạy trốn lên núi Horép. Ở đó Thiên Chúa đã hiện ra với ông và thêm sức cho ông.

Ðoạn trích này mô tả Thiên Chúa như là Ðấng vô hình nhưng rất gần gũi và hùng mạnh: Êlia không nhìn thấy Ngài, nhưng ông biết Ngài đang hiện diện bên cạnh ông qua một làn gió hiu hiu.

2. Ðáp ca (Tv 84)

Thiên Chúa hiện diện gần gũi con người qua lời giáo huấn, qua ơn cứu độ, qua lòng từ bi của Ngài.

3. Tin Mừng (Mt 14,22-33)

Sau phép lạ hoá bánh ra nhiều (Tin Mừng Chúa nhựt tuần trước), Ðức Giêsu giục các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia Biển Hồ. Còn Ngài thì ở lại giải tán dân chúng, rồi lên núi cầu nguyện một mình.

Ðến chiều, thuyền các môn đệ gặp bão lớn, các ông vô cùng sợ hãi.

Chính lúc đó Ðức Giêsu đi trên mặt biển mà đến với các ông. Ban đầu các ông tưởng là ma nên càng sợ hơn nữa. Nhưng khi đã nhận biết đó là Thầy mình thì các ông bình an trở lại và tuyên xưng “Thật Thầy là Con Thiên Chúa”.

4. Bài đọc II (Rm 9,1-5) (Chủ đề phụ)

Phaolô là một nhà truyền giáo nhiệt thành. Tuy nhiên ông cảm thấy hầu như bất lực trong việc làm cho những đồng bào Do Thái của ông tin vào Ðức Giêsu Kitô: “Tôi buồn phiền quá đỗi, lòng tôi hằng đau đớn”.

Vì yêu thương đồng bào và tha thiết với sự cứu rỗi của đồng bào, ông dám hy sinh tất cả: “Chính tôi đã ao ước được loại khỏi Ðức Kitô vì phần ích của anh em tôi”.

Nhưng dù sao ông vẫn hy vọng rằng cuối cùng dân Do Thái sẽ tin, bởi vì dù sao họ cũng “được quyền làm nghĩa tử, được vinh quang giao ước, lề luật, việc phượng tự và lời hứa”.

IV. Gợi ý giảng

1. Tin lúc an bình và khi gặp sóng gió

Hai hình ảnh về một lòng tin đã được thánh Mátthêu nối kết với nhau, như một đối trọng, nói lên sự hiện diện của “Thiên Chúa ở cùng” luôn là điều cần thiết cho các môn đệ năm xưa, cũng như cho mỗi người chúng ta hôm nay. Lòng tin của chúng ta vào Thiên Chúa như một mặt hồ phản chiếu. Có những lúc phẳng lặng trong suốt soi rõ những vẻ đẹp thiên nhiên. Nhưng nhiều khi chỉ một làn gió nhẹ làm gợn sóng, mặt hồ liền xao động, bao nhiêu vẻ đẹp đều tan biến.

Nhìn lại những thăng trầm cuộc đời, mỗi khi chúng ta được sống trong bầu khí an vui, được hài lòng với mọi sở nguyện, chúng ta dễ dàng xác tín và cảm nhận mạnh mẽ sự quan phòng của Chúa. Thế nhưng khi gặp phải những khó khăn thử thách, những điều bất ưng, những nghịch cảnh – như các môn đệ xưa giữa cơn sóng gió – chúng ta cũng dễ dàng hoang mang lo sợ và không nhận ra Ngài. Bởi lẽ chúng ta đã quá lo lắng về cuộc sống và chỉ biết tự lo liệu lấy một mình. Nhưng “Phúc thay ai bước đi không phải nhờ cái nhìn, mà nhờ sự phó thác của niềm tin” (Sh Roger). Quả thật, lòng tin của chúng ta đã nhiều lúc yếu ớt, mong manh – một khi chúng ta không biết tín thác vào Ðức Kitô để có sự bình an, không cùng chia xẻ con đường thập giá, như một phương tiện để hưởng nhờ vinh quang với Ngài.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết đón nhận thử thách như những cơ hội để trưởng thành lòng tin. Và xin cho chúng con luôn suy gẫm lời dạy của Thánh Bênađô: “Khi bạn được tràn đầy ơn phúc thì chớ có nói ‘Không gì làm tôi nao núng’. Như thế bạn sẽ không phải rên siết: Chúa vừa giấu tôn nhan, lòng tôi đã bàng hoàng” (Mai Chi, báo CgvDt, số đặc biệt Giáng sinh ’95, trang 228-229)

2. Sợ và Tin

Tâm trạng và cảm xúc của Phêrô trong bài Tin Mừng này cho ta thấy liên hệ giữa Sợ và Tin:

Ban đầu khi thuyền gặp bão và không có Ðức Giêsu trong thuyền thì Phêrô và tất cả các môn đệ khác đều sợ.

Ðến khi nhận ra cái bóng kia đang đi trên mặt nước là Ðức Giêsu thì Phêrô tin, dám xin Thầy cho mình cũng bước trên mặt nước được như Thầy.

Nhưng khi thấy sóng to gió lớn, đức tin của ông suy giảm, ông liền sợ và bắt đầu chìm.

Lúc đó ông nhớ tới Chúa, giục lòng tin lại và kêu xin “Lạy Thầy, xin cứu con”. Ðức Giêsu đưa tay nắm lấy ông. Ông không còn sợ nữa.

Cuối cùng khi Thầy trò đã ở trên thuyền, Phêrô và các môn đệ không sợ nữa, họ tuyên xưng đức tin “Thật, Thầy là Con Thiên Chúa”.

Bài học ở đây là: Chúng ta sợ khi chúng ta không tin hay khi đức tin yếu kém; nhưng khi tin thì không còn sợ nữa.

3. Những người đi trên mặt nước

Ðức tin không bảo đảm cho người tin khỏi gặp sóng gió, nhưng thêm sức cho người ấy có thể bước đi trên mặt nước giữa sóng gió tơi bời.

Hiểu như thế thì không phải chỉ một mình Phêrô, mà còn rất nhiều người có thể đi trên mặt nước:

A là một sinh viên sống xa gia đình và ở nhà trọ. Sáng Chúa nhật, trời lạnh, chăn ấm. A không muốn ngồi dậy đi lễ. Vả lại anh cũng ngại bị những bè bạn ngoại đạo thấy anh đi lễ và chê cười anh còn mê tín dị đoan. Sau vài phút dằng co, A cương quyết tung chăn ngồi lên chuẩn bị đi lễ. Nghĩa là A bắt đầu bước đi trên mặt nước, bất chấp sóng gió của cơn mê ngủ và sự dị nghị của bạn bè.

B là một cô gái độc thân, sau một lần nhẹ dạ đã phải mang thai. Nếu gia đình hay được, nếu hàng xóm biết được thì… ôi thôi, cô không dám nghĩ tiếp. Cô định đi phá thai. Nhưng rồi cô can đảm giữ lại bào thai ấy. B cũng đang bước đi trên mặt nước bất chấp bao sóng gió phũ phàng của dư luận.

C là một cảnh sát. Một tên bán ma túy hứa cho anh một số tiền lớn, chỉ cần anh làm ngơ cho việc làm của hắn; nếu không hắn sẽ sai đồng bọn đến tính sổ với anh. Nhưng anh cương quyết chối từ. C cũng đang đi trên mặt nước, đi ngược với sức quyến rũ của đồng tiền và sóng gió của đe dọa.

Chúng ta còn có thể nghĩ ra thêm rất nhiều thí dụ khác, trong đó có thí dụ hợp với hoàn cảnh của chính mình. Quả thật, nếu có đức tin sống động, ai cũng có thể bước đi trên mặt nước giữa bao sóng gió của cuộc đời.

4. Chúa hiện diện trong làn gió hiu hiu

Cách viết của tác giả bài đọc I (1V 19,9a.11-13a) hàm chứa một bài học sâu sắc về sự hiện diện của Chúa: Khi ngôn sứ Eâlia đứng trong một hốc núi Horép, ông thấy một luồng gió mạnh xé núi xé non, nhưng Chúa không ở trong đó; ông lại thấy một cơn bão rất mạnh làm cho đất bị động, nhưng Chúa không ở trong bão; ông còn thấy lửa, nhưng Chúa cũng không ở trong lửa. Cuối cùng ông thấy một làn gió hiu hiu, ông được soi sáng cho biết có Chúa ở trong đó, ông liền cung kính lấy khăn che mặt lại để bước ra khỏi hang diện kiến Thiên Chúa.

Bài học là: Thiên Chúa không thích hiện diện trong những thứ ồn ào, uy phong, vĩ đại. Ngài thường hiện diện cách êm ả, âm thầm và nhẹ nhàng trong cái rất bình thường của đời thường.

Chúng ta không nhận ra được sự hiện diện của Chúa bởi vì chúng ta cứ mãi tìm Ngài trong những sự phi thường.

5. Chuyện minh họa

a/ Nếu tin, hãy buông tay ra

Một người vô thần rất mê leo núi. Ngày kia trượt chân té ngã lăn từ đỉnh núi xuống. Nhưng may thay ông bám được một cành cây nằm chơ vơ giữa đỉnh cao và vực thẳm. Giữa lúc chỉ còn biết chờ chết, một ý nghĩ chợt đến với ông: Tại sao không gọi Chúa đến cứu giúp. Thế la lấy hết sức lực, người vô thần la lớn: “Lạy Chúa”. Tuy nhiên bốn bề chỉ có thinh lặng và ông chỉ nghe được tiếng dội của lời kêu van. Một lần nữa, người vô thần lại kêu xin tha thiết hơn: “Lạy Chúa, nếu quả thật Chúa hiện hữu thì xin hãy cứu con. Con hứa sẽ tin Chúa và dạy cho những người khác cũng tin Chúa.” Sau một hồi thinh lặng, bỗng người vô thần nghe một tiếng vang dậy cả vực thẳm và núi cao: “Gặp hoạn nạn thì ai cũng cầu xin như thế.” “Không, lạy Chúa, nghìn lần không. Con không giống như những người khác. Chúa không thấy sao, con đã bắt đầu tin từ khi nghe tiếng Chúa phán. Nào bây giờ xin Chúa hãy cứu con đi, và con sẽ cao rao danh Chúa cho đến tận cùng trái đất.” Tiếng ấy trả lời: “Ðược lắm, Ta sẽ cứu ngươi. Vậy nếu ngươi tin thì hãy buông tay ra.” Người vô thần thất vọng thốt lên: “Buông tay ra ư, bộ Chúa tưởng tôi điên sao!” (Trích “Món quà giáng sinh”)

b/ Ðức tin lớn lao

Có một bà nổi tiếng đạo đức, nhân hậu và luôn bình tâm trước mọi thử thách. Một bà khác ở cách xa ít dặm, nghe nói thì tìm đến, hi vọng học được bí quyết để sống bình tâm và hạnh phúc. Bà hỏi:

– Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao?

– Ồ không, tôi không phải là người có đức tin lớn lao, mà chỉ là người có đức tin bé nhỏ đặt vào một Thiên Chúa lớn lao.

V. Lời nguyện cho mọi người

CT: Anh chị em thân mến

Thiên Chúa là Cha hay thương xót. Người luôn trợ giúp chúng ta dang lúc chúng ta cần. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa và dâng lời cầu xin.

1. Con thuyền Hội Thánh thường gặp nhiều phong ba bão táp / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho con thuyền Hội Thánh / luôn được an toàn giữa biển trần gian.

2. Hiện nay / có biết bao kẻ chịu thiệt thòi do nạn kỳ thị chủng tộc / màu da / ngôn ngữ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người / biết tôn trọng quyền lợi / và phẩm giá của những anh chị em ấy.

3. Ðời sống khó khăn / lại gặp nhiều thất bại hay đau khổ / khiến một số kitô hữu chán nản thất vọng / mất niềm tin vào Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những t1in hữu đang gặp thử thách luôn hiểu rằng / chỉ có Chúa mới giúp họ đạt được thành công và hạnh phúc.

4. Ðức Giêsu đã nói / “Anh em đừng xao xuyến / nhưng hãy tin vào Thầy” / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn tin tưởng vào tình thương và quyền năng của Chúa / giữa muôn vàn thử thách gian nan trong cuộc sống thường ngày.

CT: Lạy Chúa, cuộc sống chúng con thường ngày có quá nhiều buồn phiền và đau khổ, khiến lắm khi chúng con ngã lòng trông cậy. Vậy xin Chúa thương ban ơn trợ giúp, để dù gặp nghịch cảnh đến đâu đi nữa, chúng con vẫn luôn gắn bó và tin yêu Chúa. Chúng con cầu xin…

VI. Trong Thánh Lễ

– Trước kinh Lạy Cha: Thiên Chúa là Cha luôn hiện diện bên cạnh ta, lúc nào Ngài cũng thấy ta và nghe tiếng ta. Vậy chúng ta hãy cùng nhau dâng lên Ngài lời kinh Lạy Cha.

– Sau kinh Lạy Cha: “… xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được luôn bình an, thoát khỏi mọi nỗi sợ hãi. Nhờ Cha rộng lòng thương cứu giúp…”

VII. Giải tán

Thực là sung sướng khi được biết Chúa yêu thương luôn hiện diện bên cạnh chúng ta. Chúng ta hãy sống với Ngài, làm việc với Ngài và kết hợp tâm tình cùng Ngài trong mọi việc, mọi lúc và mọi nơi.

13.Đừng sợ

(John.W. Martens – Văn Hào, SDB chuyển ngữ)

“Hãy can đảm lên. Thầy đây, đừng sợ” (Mt 14,27)

Chỉ đảo qua những bản dịch Kinh Thánh cổ xưa chuyển sang Anh Ngữ, ví dụ bản dịch của Douay-Rheims hay của King James, chúng ta sẽ thấy hạn từ ma (ghost) xuất hiện hơn cả một trăm lần ở mỗi bản dịch. Các bản dịch này chuyển ngữ từ hạn từ Hy Lạp hagios pneuma thành thuật ngữ “Holy ghost” (ma thánh). Trong các bản dịch hiện hành, các dịch giả thường sử dụng từ “Holy Spirit” (thần khí). Từ ngữ “ghost” (ma) trong các văn bản hiện nay chỉ dùng để chuyển ngữ từ tiếng Hy Lạp Phantasma và hạn từ này chỉ xuất hiện trong trình thuật kể lại việc Chúa Giêsu đi trên mặt nước, như được thuật lại trong Mt 14,26. Tuy nhiên, từ ngữ ghost trong bản dịch của Douay-Rheims và King James không ám chỉ ý niệm ma quái, mà nói về một cuộc thần hiện (apparition) hoặc về sự xuất hiện của thần khí (spirit), thì có lẽ chính xác hơn.

Điều này lý giải lý do tại sao ý niệm của từ ngữ này dần dần được chuyển đổi. Ngày nay, người ta dang dần dần loại bỏ những hình ảnh ma quái trong các phim hoạt hình, trong các câu chuyện cho trẻ em, hay trong các hóa trang ngày lễ Halloween (trước lễ các Thánh). Vì thế, thuật ngữ holy ghost (ma thánh thiêng) không còn biểu thị cho 2 khía cạnh “thánh thiện và thiêng liêng” nữa. Ám ảnh sợ hãi không nhất thiết phải gắn liền với hình ảnh ghost (ma). Dẫu sao, khi người ta dùng từ ngữ phantasma với ý niệm về ma quái, hoặc về thần hiện, hoặc nói về thần khí, rõ ràng từ ngữ này không nhắm đến một con người bằng xương bằng thịt bình thường xuất hiện trước mặt các môn đệ. Cho nên, sự liên tưởng khi nhìn thấy một phantasma (có vẻ giống như ma quái) đang đi trên mặt nước khiến các ông khiếp sợ. Họ la toáng lên “ma kìa” và rất kinh khiếp.

Khi có một người lạ hay một người chúng ta không hề quen biết xuất hiện, thường chúng ta sợ. Đây là phản ứng tự nhiên của chúng ta cũng như của các tông đồ. Tuy nhiên, trong lần gặp gỡ này, Đức Giêsu muốn vén mở đôi điều về thần tính của Ngài cho các học trò mình. Thoạt đầu, Chúa đi trên mặt nước cách lạ thường không phải nhằm khải thị thần tính của Ngài, cho dù sự kiện đó rõ ràng biểu hiện năng quyền của Ngài có thể thống trị thiên nhiên. Điều sâu xa Chúa Giêsu muốn truyền đạt cho các môn đệ , giữa lúc các ông đang khiếp hãi, là lời trấn an “Hãy can đảm lên, Thầy đây, đừng sợ”. “Thầy đây” là thuật ngữ dịch từ tiếng Hy Lạp “egô eimi” có nghĩa “Ta là”. Đây cũng là lời bày tỏ căn tính của Đức Chúa Giavê trong cựu ước, được sách xuất hành 3,14 thuật lại. Chúa nói với Môisen: “Ta là (Đấng) Ta Là” – Ego sum qui sum. Đức Giêsu muốn phá tan nỗi khiếp sợ của các môn đệ bằng cách khẳng định sự hiện diện của Ngài giữa cơn giông bão, và sâu xa hơn, đó chính là sự hiện diện của Thiên Chúa nơi hữu thể của Đức Giêsu. Thiên Chúa đang hiển hiện nơi thân xác của chính Đức Giêsu.

Phêrô xuất hiện, và ông đã đáp trả lời trấn an của Thầy mình. Ông tin rằng đây không phải là một bóng ma, một phantasma, nhưng là chính Đức Giêsu Đấng đang gọi mời ông và các môn đệ. Phêrô bắt đầu bước xuống biển và đi trên mặt nước. Nhưng một lần nữa, ông lại sợ khi sóng to gió lớn nổi lên. Quyết tâm của ông bị chao đảo. Ông từ từ lún chìm trong dòng nước. Cho dù Đức Giêsu có nói hay không nói với Phêrô “ Sao kém tin thế”, thì Phêrô cũng đã gào lên với Chúa “Thưa Thầy, xin cứu con”. Đây là một động thái tổng hợp cả hai mặt: vừa nghi ngờ khiến ông bị chìm, vừa bày tỏ lòng tin như một phương sách cuối cùng. Lòng tin đó khởi dẫn ông tìm đến ơn cứu độ giữa lúc bị chìm dưới biển. Không phải chỉ Phêrô, nhưng tất cả những ai lúc đó đang ở trên thuyền, chứng kiến những sự kiện nói lên sự trọng thị đối với Đức Giêsu – chính xác hơn là sự tôn phục Ngài, chúng ta cũng như các tông đồ sẽ phải thốt lên “ Đúng Ngài là con Thiên Chúa”. Đức Giêsu đã mặc khải uy quyền của Ngài vượt trên sức mạnh thiên nhiên và khuất phục cả những mãnh lực làm chúng ta chảo đảo sợ hãi. Nhưng quan trọng hơn hết, Ngài khải thị cho chúng ta chính thần tính của Ngài và biểu tỏ sức mạnh có thể cứu lấy những gì đã hư mất.

Đa phần chúng ta chưa từng có kinh nghiệm về sự hiện diện linh thánh của Thiên Chúa sâu xa như các môn đệ, và trải nghiệm đức tin giống như các ngài đã kinh qua khi thắng vượt được sự nghi ngờ và nỗi sợ hãi. Các ngài e rằng, mình có thể rơi vào những ảo giác bên ngoài nhằm đánh lừa , và cái họ thấy trước mắt chỉ là một bóng ma đầy kinh khiếp. Vì thế, đây là mấu chốt khiến câu chuyện ma trong trình thuật Tin Mừng hôm nay trở nên khá thú vị. Không phải lúc nào Thiên Chúa cũng đến với chúng ta trong hình hài thân xác, hoặc giữa cơn bão tố, hay trong lúc chúng ta chao đảo đức tin. Thiên Chúa tỏ mình ra cho chúng ta trong muôn vàn cách thái khác nhau. Ngôn sứ Elia đã đến một cái hang trên núi Horeb, ngọn núi của Chúa, để gặp Chúa. Nhưng Chúa không hiện diện trong cơn giông bão. Ngài không có mặt trong cơn động đất, trong núi lửa, nhưng Chúa đến trong “tiếng gió hiu hiu nhè nhẹ”. Sau khi Elia nghe những âm thanh nhẹ nhàng này, ông tiến ra đứng trước cửa hang để đón gặp Chúa. Trong sự thanh vắng sau cơn bão tố, Chúa đã xuất hiện , hoàn toàn tĩnh lặng giữa núi rừng. Thần khí của Chúa đã đến với Elia dưới một một dạng thức thiêng liêng. Người ta có thể sánh ví , Ngài đến giống hệt như một bóng ma vậy.

14.Kêu cầu Danh Thánh Chúa Giêsu

Thánh Phêrô đã kêu lên: “Lạy Ngài, xin cứu giúp con”. Lời kêu xin thật ngắn gọn, và khẩn thiết để giúp Phêrô thoát khỏi sóng to gió lớn. Lời kêu cầu đó, Phêrô nhắm vào chính Chúa Giêsu. Vì thế, chúng ta hãy noi gương Phêrô mà kêu cầu Chúa Giêsu, để Ngài ban ơn giúp ta đứng vững trước mọi khó khăn ở đời này và hưởng hạnh phúc ở đời sau.

“Lạy Ngài, xin cứu giúp con”. Lời của Phêrô đã thốt lên trong sợ hãi, để xin Chúa Giêsu cứu giúp. Trong hoàn cảnh “ngàn cân treo sợi tóc” Phêrô lo sợ, khi thấy mình nguy hiểm đến tính mạng. Nhưng! ngay lúc đó Phêrô ý thức Chúa Giêsu đang hiện diện trước mặt ông và sẵn sàng cứu giúp ông. Cho nên, Phêrô đã kêu cầu Danh Thánh Chúa Giêsu một cách dứt khoát và trông cậy vào Ngài. Nhờ đó, Phêrô được Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy và đưa lên ông thuyền bình an. Cho dù, đức tin Phêrô còn yếu kém, như Chúa Giêsu đã khiển trách ông: “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi”.

Trong xã hội Do Thái thời bấy giờ, Danh Thánh Chúa Giêsu luôn vang lên mọi lúc, mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh qua môi miệng của mọi hạng người khi gặp Ngài. Lời kêu cầu của họ thật ngắn gọn: như các thánh Tông đồ đã kêu cầu ngài cứu giúp khi thấy thuyền sắp chìm: “Lạy Ngài, xin cứu chúng con, chúng con chết mất”. Hay người mù ăn xin nài nỉ: “Lạy Ngài, xin cho tôi được thấy”. Ngay khi Chúa Giêsu bị treo trên Thánh giá, danh Thánh của Ngài cũng vang lên qua anh trộm lành: “Lạy Ngài, khi vào Nước của Ngài, xin nhớ đến tôi”. Những lời kêu cầu đó, đôi khi chỉ vì sợ sệt hay muốn Ngài chữa lành bệnh mà thôi. Nhưng, tất cả đều tin rằng ChúaGiêsu sẽ giúp đỡ họ. Đối với Chúa Giêsu thì không từ chối một ai, sẵn sàng đón nhận và giúp họ nhận ra giá trị đích thực của cuộc sống tại thế cũng như đời sống mai sau.

Chính Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu đã cảm nhận đều này. Thánh nữ luôn kêu cầu danh Thánh Chúa Giêsu mọi nơi, mọi lúc, trong mọi hoàn cảnh: khi gặp gian nan thử thách, đau khổ bệnh tật hay an vui hạnh phúc. Đặc biệt, khi đối diện với cái chết thánh nữ thân thưa: “Lạy Chúa Giêsu, con yêu mến Chúa”. Những lời kêu cầu đó như là một sức mạnh giúp ngài chấp nhận tất những gì xảy ra trong cuộc đời của thánh nữ. Cho nên, sau khi từ giã thế gian, nụ cười vẫn rạng rỡ trên môi ngài như lúc còn sống.

Có thể nói, Danh Thánh Chúa Giêsu nằm ở trung tâm kinh nguyện Kitô giáo. Tất cả những lời nguyện trong phụng vụ đều kết thúc bằng công thức: “nhờ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con”. Cũng như, tột đỉnh của Kinh Kính Mừng Maria là câu “và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ”. Đối với chúng ta, nhiều khi chưa nhận ra giá trị của việc kêu cầu Danh Thánh Chúa Giêsu. Thực tế cho thấy nhiều người khi gặp thất bại, đau khổ, đã kêu Danh Thánh Ngài để trách móc: “Lạy Chúa Giêsu, tại sao để cho con đau khổ, bệnh tật” hay có người đã thốt lên: “Giêsu ơi! Tao đã thua mày”. Đây là dịp chúng ta hãy xác tín rằng. Chúa Giêsu luôn hiện diện bên cạnh ta và sẵn sàng giúp đỡ ta trong mọi lúc mọi nơi, nếu chúng ta kêu cầu danh Thánh Ngài, cho dù đức tin của chúng ta con yếu kém: như Ngài đã phán: ” Ta sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Vì vậy, khi gặp gian nan thử thách, đau khổ, bệnh tật. Chúng ta hãy bày tỏ: “Lạy Chúa Giêsu, xin cứu giúp con. Xin chữa lành con”. Chắc hẳn Ngài sẽ cứu chúng ta như đã từng đưa tay nắm lấy Phêrô; Ngài sẽ chữa lành cho chúng ta như từng chữa lành cho người cùi được sạch, người mù được sáng mắt. Đối Chúa Giêsu, Ngài luôn mở rộng bàn tay đón nhận những người tội lỗi biết ăn năn thống hối trở về, như đón nhận Giakêu hay hứa ban cho anh trộm lành được ở với Ngài. Như thế, khi chúng ta tội lỗi, xúc phạm đến Ngài hãy nói với cả con tim mình: “Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót con”. Cụ thể hơn, một chút nữa, trước khi rước lễ ta hãy ý thức những lời ta sẽ kêu cầu: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành mạnh”. Hơn nữa, khi ta làm việc, khi ăn uống, hay khi nghỉ ngơi…Chúng ta hãy thân thưa: “Lạy Chúa, xin làm việc cùng con,…”

Lời kêu cầu vào Danh Thánh Chúa Giêsu là con đường đơn giản nhất của việc cầu nguyện. Nếu chúng ta thường xuyên lặp đi lặp lại danh Thánh Ngài mọi lúc, mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh với một tâm hồn khiêm tốn, tin tưởng, phó thác vào Chúa Giêsu, thì lời kêu cầu này không biến thành những lời lãi nhãi, những giúp chúng ta nắm giữ được Lời Chúa và nhờ lòng kiên nhẫn mà sinh hoa kết quả. Vì, Chúng ta đã ý thức Ngài đang hiện diện và sẵn sàng giúp đỡ ta. Tôi tin chắc rằng Ngài sẽ giúp ta luôn đứng vững trước sống to gió lớn của cuộc đời. Và khi nhắm mắt lìa đời, chúng ta sẽ rạng rỡ môi cười như Thánh nữ Têsêsa: một nụ cười mãn nguyện. Đồng thời, Chúa Giêsu sẽ nói với mỗi người chúng ta như nói với anh trộm lành: “Ngày hôm nay con sẽ ở trên Thiên đàng với Ta”. Amen.

15.Đừng sợ

(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)

Đoạn Tin Mừng hôm nay mang một niềm an ủi lớn lao cho chúng ta, những con người nhỏ bé đang chật vật lo lắng cho cuộc sống của mình, đang chơi vơi trên mặt biển đời, không biết tương lai sẽ đi về đâu. Ai trong chúng ta cũng gặp sóng gió. Ai cũng có gánh nặng đầy vai, nhiều người lại chán nản, tuyệt vọng vì cuộc sống quá khắc nghiệt, nhất là trong hoàn cảnh hiện tại, nhất là đối với người nghèo, cơm không đủ ăn, con cái bệnh hoạn không tiền chạy thuốc… Bức tranh cuộc đời của nhiều người mang một màu đen buồn thảm.

Giáo hội cũng là con thuyền đang bập bềnh giữa sóng gió của thế giới, đa số là vô đạo, cũng lâm nguy, đang cố gắng chống chọi để lướt sóng. Những cuộc tấn công bằng nhiều cách đã làm cho Giáo hội có lúc cũng phải giao động nhất là chính con cái của Giáo hội cũng yếu đuối, lỡ lầm.

Hoàn cảnh của các môn đệ đúng là hình ảnh của cuộc đời, tròng trành trong cơn bão táp, không có gì bám víu. Cố hết sức cũng không đi đến đâu. Con thuyền gần như không vâng theo người lái. Nhưng kìa, có bóng hình xuất hiện, mập mờ trong bóng đêm, giữa trời và nước. Các môn đệ, mệt nhoài và lạnh cóng vì lúc ấy là canh tư rồi. Bóng ai thấp thoáng như thế? Các ông hoảng hốt vì chỉ có ma thôi. Chúng ta đang sống trong một thế giới tiến bộ, chúng ta không còn sợ ma, nhưng các môn đệ thì khác. Thời bấy giờ, người ta rất sợ ma quỉ. Các ông thấy bóng người rõ hơn, gần hơn. Họ hoảng hốt la lên với tất cả sức lực để đuổi ma, mong rằng ma kia sẽ sợ và biến đi. Nhưng càng la to, bóng ma càng đến gần. Nhưng bức tranh đổi màu khi một tiếng nói vang lên giữa sóng gió: “Chính Thầy đây, đừng sợ”. Niềm vui thay vào nỗi sợ. Phêrô lại bạo gan: “Nếu là Thầy, xin cho con đi trên mặt nước đến với Thầy”. Một lời xin táo bạo! Đi trên mặt nước? Nhưng Thầy vẫn chấp nhận và bảo: “Cứ đến”. Thế là Phêrô bước ngay ra khỏi thuyền và đi trên mặt nước. Nhưng chúng ta không biết khoảng cách là bao xa. Phêrô đi được mấy bước, chúng ta cũng không biết, chỉ biết là Phêrô, bị sóng táp đã quên rằng mình đang đi trên mặt nước và đang đi đâu. Ông chìm xuống và hoảng sợ la lên xin cầu cứu. Chúa Giêsu liền đưa tay nắm lấy ông và nói: “Người đâu mà kém tin vậy? Sao lại hoài nghi”?

Bức tranh thật ngộ nghĩnh và đầy an ủi. Chúa Giêsu đi trên mặt nước và đến với các ông. Điều này vượt quá tầm tưởng tượng của chúng ta. Đây chính là khuôn mặt của Chúa Giêsu, một con người tầm thường như chúng ta nhưng không như chúng ta, Ngài là Thiên Chúa làm người. Ngài dùng quyền năng của Ngài để cứu giúp chúng ta. Những phép lạ Ngài làm đều chứng minh điều đó, và giúp chúng ta tin vào Ngài. Tin vào Ngài tức là tin vào một Thiên Chúa quyền năng đến để phục vụ và cứu vớt chúng ta. Điều này chính là một điều đầy an ủi cho chúng ta, những người đang bập bềnh trên sóng nước. Vấn đề là chúng ta có tin vào Ngài không? Tin đến mức độ nào? Tin đến nỗi như Phêrô, dám nhào xuống biển để đi trên mặt nước? Đôi khi tin là như thế.

Cuộc sống thực tế của chúng ta lắm khi là một đêm tối dày đặc. Nhiều người tự hỏi trong đêm tối của tâm hồn: Chúa ở đâu? Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã bị thử thách suốt bao nhiêu năm, tâm hồn khô lạnh như một khúc củi, vẫn luôn tin không sứt mẻ. Ngay khi nằm trên giường bệnh, lúc gần chết Têrêsa vẫn chưa hết đau đớn vì cơn cám dỗ về đức tin, nhưng Têrêsa vẫn chiến đấu tới cùng. Chỉ vài phút trước khi chết, Têrêsa mới thanh thản mỉm cười và nói tiếng cuối cùng, “con yêu mến Chúa” rồi tắt thở.

Tin là đi trên mặt nước để đến với Chúa. Tin không là một sự nhàn hạ nghỉ ngơi mà là một cách liều mạng cho Chúa. Nhắm thẳng vào Chúa và bước tới, dù đôi khi chúng ta cũng bị chìm xuống như Phêrô. Nhưng Chúa vẫn ở đó và nắm tay kéo chúng ta lên. Nhìn thấy cảnh này chúng ta thấy vui không? Chúa trách nhẹ Phêrô… và hai người cùng bước lên thuyền. Thuyền chúng ta có chở Chúa không? Tin là thế đó là chở Chúa theo trong suốt cuộc đời. Có Chúa, cuộc đời đắng cay thế nào, chúng ta không mảy may sợ hãi. Thiên Chúa là nơi con nương ẩn, là thuẫn đỡ khiêng che, con sợ gì nguy khốn. Thánh vịnh ngập tràn những lời xác quyết như thế.

Chúng ta không tự mình làm gì có giá trị: “Không có Thầy, anh em không làm được việc gì”. Chúa đã nói như thế. Chúng ta có thể giàu có, danh tiếng khắp thế giới hay uy quyền, nhưng không có Chúa, mọi sự chỉ là tro bụi. Vinh hoa phú quí trần gian có là gì nếu chúng ta phải mất linh hồn? “Dù lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích gì?” Cầu xin cho chúng ta vững tin để chúng ta không chết chìm giữa những cám dỗ của thế gian.

Con thuyền Giáo hội cũng thế. Giữa thế kỷ khoa học này, Giáo hội phải đương đầu với rất nhiều thách đố. Những cuộc bách hại càng tinh vi. Nhưng Giáo hội vẫn không sờn lòng, vẫn tin vào Đấng đã hứa ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế. Vẫn dấn thân rao giảng Tin Mừng dù bị “bầm giập” như Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nói.

Chúng ta được gọi làm chứng nhân cho một Thiên Chúa Tình Yêu, làm sao không bị thương tích giữa một thế giới đầy hận thù, tranh chấp? Làm sao chúng ta không bị đóng đinh, bị chà đạp như thánh Phaolô đã nói? Chúng ta yếu đuối nhưng chúng ta tin vào sức mạnh của Đấng đã chết và sống lại cho chúng ta. Chúng ta vẫn có niềm hy vọng không phai vì Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Ngài đang cầu nguyện trên núi một mình đang lúc các môn đệ ra khơi. Biết có gió mạnh và các môn đệ phải lao lực chèo chống, Ngài đến với các ông và giúp các ông vượt qua cơn sóng gió. Tin vào Chúa, nhưng chúng ta phải không thôi chèo chống không mỏi mệt, vì chúng ta cũng không thể ngồi không để con thuyền chúng ta trôi theo dòng nước. Người Công giáo luôn phải lội ngược dòng như Thầy chí thánh của mình.

Thánh Phaolô là con người có một niềm tin sắt đá không gì lay chuyển nổi, Ngài đã liều mạng cho Chúa và cho các linh hồn. Niềm tin chính là sức mạnh của Ngài. Ngài vượt hết mọi trở ngại trên đường truyền giáo của ngài. Niềm tin đó được nuôi dưỡng bằng một lòng mến sôi nồng đến nỗi ngài dám nói rằng: không có gì có thể chia cắt tôi ra khỏi tình yêu của Chúa, dù là những bậc thần thiên hay ma quỉ, hay những gian nan như thế nào đi nữa cũng không ai tách tôi ra khỏi tình yêu của Chúa.

Chúng ta dám tin không? Tin tuyệt đối hay chỉ mơ hồ? Muốn như thế, chúng ta phải học biết Chúa Giêsu là ai. Đức tin chỉ ăn sâu vào trong tâm hồn chúng ta khi chúng ta biết tôi tin vào ai. Các môn đệ sau khi biển lặng gió êm đã đến trước Chúa Giêsu và nói lên niềm tin của họ: “Chính Thầy là con Thiên Chúa”. Có lẽ chúng ta còn yếu kém, có thể chối Ngài như Phêrô, nhưng lòng tin vẫn là sức mạnh để chúng ta vượt thắng sự hèn nhát và tiếp tục hành trình của chúng ta cho đến ngày cuối cùng.

Chúng ta đang đi trên biển đời giông tố. Chúa Giêsu biết điều đó. Ngài không bỏ chúng ta mồ côi, Ngài sẽ đến với chúng ta như Ngài đã hứa. Và đây Ngài ở nơi bàn thờ, Ngài là của lễ để chúng ta góp phần tạ ơn Chúa Cha với Ngài. Ngài là của ăn thần linh chúng ta cần đến để vượt biển trần gian và làm cho danh Cha cả sáng. Ăn lấy Ngài, để chúng ta luôn có Ngài và chúng ta sẽ can đảm hơn để dấn thân vào cuộc chiến cam go của đức tin, và làm cho ánh sáng Tin Mừng ngày càng sáng tỏ trong cuộc sống mỗi người chúng ta và quanh chúng ta.

16.Chúa Nhật 19 Thường Niên

(Suy niệm Tin Mừng của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)

Vào Chúa Nhật XIX Thường Niên Năm A này, bản văn Cựu Ước và bản văn Tin Mừng cùng nhau giới thiệu Thiên Chúa là nguồn mạch của sự bình an.

1V 19: 9, 11-13

Trong sách Các Vua quyển thứ nhất, Thiên Chúa tỏ mình ra với ngôn sứ Ê-li-a trên núi Khô-rếp (tên gọi khác của núi Xi-nai), không còn trong cảnh sấm chớp kinh thiên động địa, nhưng trong cõi thinh lặng chứa chan ân tình trìu mến.

Rm 9: 1-5

Trái lại, Bài Đọc II trích từ thư của thánh Phao-lô gửi tín hữu Rô-ma là một lời tâm sự đầy xao xuyến của thánh nhân trước sự cứng lòng tin của đồng bào Do thái của mình, tuy họ đã được Thiên Chúa đổ tràn biết bao thánh ân.

Mt 14: 22-33

Tin Mừng tường thuật việc Đức Giê-su đi trên biển hồ trong phong ba bão tố. Ngay khi Ngài gặp lại các môn đệ trên thuyền, bão tố trở nên dịu êm. Sự bình yên trở lại trên thiên nhiên và trong cõi lòng của con người.

BÀI ĐỌC I (1V 19: 9, 11-13)

Sách Các Vua quyển thứ nhất và quyển thứ hai dành một chỗ rộng lớn cho vai trò của các ngôn sứ, đặc biệt cho ba ngôn sứ: Ê-li-a, Ê-li-sa và I-sai-a.

Ngôn sứ Ê-li-a là một nhân vật thần bí có quyền năng hô phong hoán vũ, nhưng trước hết, là một con người của đức tin. Ông thực hiện sứ vụ ngôn sứ của mình ở vương quốc miền Bắc (còn gọi vương quốc Ít-ra-en), vào triều đại của vua A-kháp (874-853 tCn). Sứ mạng của ông gặp nhiều gian truân. Vua A-kháp là một vị quân vương vô đạo. Vợ vua, hoàng hậu I-de-ven, ngoại đạo, công chúa của vua Xi-đon, vua này vừa là vua đồng thời cũng là tư tế của thần Ba-an. Vua A-kháp sùng bái việc cúng tế ngẫu tượng và không thể chịu đựng được những lời khiển trách của ngôn sứ Ê-li-a. Trong khi đó, hoàng hậu I-de-ven quyết tâm truy lùng ngôn sứ Ê-li-a sau biến cố ngôn sứ Ê-li-a tru diệt các ngôn sứ của thần Ba-an trên núi Cát-men.

1. Hành trình tâm linh của ngôn sứ Ê-li-a.

Trước cuộc bách hại của vương triều, Ngôn sứ Ê-li-a rời bỏ vương quốc miền Bắc, trốn chạy vào vương quốc miền Nam (cũng gọi là vương quốc Giu-đa) cho đến tận biên giới sa mạc xa xôi. Ở đó, ông quyết định thực hiện một cuộc hành hương theo vết chân của ông Mô-sê. Sau một cuộc hành trình dài, ông đến núi thánh Khô-rếp (cũng được gọi núi Xi-nai theo truyền thống vương quốc miền Bắc). Chán nản vì những nổ lực của ông đã biến thành mây khói, vị ngôn sứ cố gắng tôi luyện lại niềm tin của mình trên chính những nơi Thiên Chúa đã tỏ mình ra.

Bốn thế kỷ cách biệt giữa ngôn sứ Ê-li-a và ông Mô-sê, dường như núi Khô-rếp đã trở thành thánh địa hành hương. Vị ngôn sứ nằm nghỉ trong một chiếc hang xưa kia ông Mô-sê đã trú ngụ, nơi mà truyền thống đã xem như thánh địa.

Chính để an ủi người tôi trung của mình, Thiên Chúa tỏ mình ra nhưng không trong tiếng sấm chớp kinh thiên động địa, cũng không trong cảnh đất rung núi lở hồn xiêu phách lạc, nhưng trong “làn gió mát hiu hiu thổi” (dịch sát từ: “trong tiếng động của cõi thinh lặng tinh tế”).

2. Tấm lòng trìu mến của Thiên Chúa.

Hai hoàn cảnh thần hiện với ông Mô-sê và ngôn sứ Ê-li-a không như nhau. Xưa kia, dân Do thái cắm lều ở dưới chân núi Xi-nai. Vào lúc đó, Thiên Chúa đã ngỏ lời với dân trong cảnh trời đất rung chuyển và núi non hừng hực lửa, ngõ hầu toàn dân nhận biết sự hiện diện đầy quyền năng của Thiên Chúa, nhờ đó dân biết kính sợ Ngài và lắng nghe ông Mô-sê, người trung gian của Ngài.

Trái lại, ngôn sứ Ê-li-a hoàn toàn cô độc, không tìm thấy một nơi nương tựa nào trên trần thế nầy. Thiên Chúa, thay vì làm ông khiếp sợ, tỏ mình ra trong giọng nói thì thầm dịu êm. Đây là cách thức khác Thiên Chúa bày tỏ sự thánh thiêng của Ngài. Hành động cứu độ của Thiên Chúa không tất yếu phải là ngoạn mục, ngược lại thường nhất là kín đáo. Trong trường hợp của ngôn sứ Ê-li-a, Thiên Chúa muốn ông hiểu rằng Ngài đang lắng nghe lời cầu nguyện của ông. Chính trong ân tình trìu mến mà Ngài muốn chuyện trò với ông.

Ngoài ra, không ngoại trừ rằng tác giả muốn cho dân Do thái bất tín và thờ ngẫu tượng một bài học: thần Ba-an của dân Ca-na-an là thần bão tố; còn Đức Chúa, Thiên Chúa chân thật, thì hoàn toàn khác.

Thật tuyệt vời khi Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay đã đối chiếu hai bản văn Cựu Ước và Tân Ước để giới thiệu Đức Giê-su là Đấng dẹp yên phong ba bão tố. Chính Ngài đem lại sự bình an. Sự hiện diện của Thiên Chúa là nguồn mạch của sự bình an.

BÀI ĐỌC II (Rm 9: 1-5)

Bài Đọc II bắt đầu trích chương 9 của thư của thánh Phao-lô gửi tín hữu Rô-ma, trong đó thánh nhân thú nhận những nỗi phiền muộn bao la của mình trước sự cứng lòng tin của đồng bào Do thái của thánh nhân.

1. Nỗi ưu phiền lớn lao.

Nỗi phiền muộn của thánh Phao-lô lớn lao đến mức thánh nhân sợ người ta không muốn tin như vậy. Vì thế, thánh nhân viện dẫn Đức Ki-tô ra làm chứng: “Có Đức Ki-tô chứng giám”, đoạn Chúa Thánh Thần: “Lương tâm tôi, được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, cũng làm chứng cho tôi”. Người ta có thể nghĩ rằng thánh Phao-lô đã muốn trung thành với truyền thống Do thái theo đó một sự kiện được cho là thật nếu có hai người làm chứng.

Thánh nhân vừa mới trình bày một cách nồng nàn vận mệnh vinh quang được chuẩn bị cho các tín hữu (chương 8). Thật sự là nỗi đau đến xé lòng nếu như đồng bào của mình đã không được dự phần vào vinh quang nầy. Thánh nhân chấp nhận chịu nguyền rủa để cứu anh em đồng bào cùng chung huyết thống với mình, dù phải hiến dâng chính bản thân mình, thì ngài cũng cam lòng. Ở đây, thánh nhân dùng từ Hy lạp “tách ra” theo nghĩa tiêu cực. Từ Hy lạp này có hai nét nghĩa, hoặc tích cực: đối tượng được tách ra khỏi thế giới phàm trần để được dâng hiến cho Thiên Chúa; hoặc tiêu cực: được tách ra để bị nguyền rủa. Thánh nhân dùng động từ Hy lạp này ở nơi khác cũng theo nghĩa tiêu cực như 1Cr 12: 3; 16: 22; Gl 1-8. Tiếng kêu tận đáy lòng, tiếng kêu quá đỗi bi thương cùng cực, có lẽ được gợi hứng từ tiếng kêu đến xé lòng của ông Mô-sê trước sự bất trung của dân Do thái cúi mình thờ lạy con bê vàng như là đấng giải phóng họ: “Than ôi, dân này đã phạm một tội lớn! Họ đã làm cho mình một tượng thần bằng vàng! Nhưng giờ đây, ước gì Ngài miễn chấp tội họ! Bằng không thì xin Ngài xóa tên con khỏi cuốn sách sự sống mà Ngài đã viết” (Xh 32: 31-32).

2. Một dân phản loạn.

Thánh nhân nhắc lại tất cả những ân ban mà Thiên Chúa đã tuôn đổ dư tràn cho dân Ngài: “Họ đã được Thiên Chúa nhận làm con, được Người cho thấy vinh quang, ban tặng giao ước, lề luật, nền phụng tự và những lời hứa”. Sau hết, thánh nhân nhấn mạnh đặc ân cao vời khôn sánh mà dân Do thái đã lãnh nhận, đó chính là “Đức Ki-tô, xét theo huyết thống, cũng cùng một nòi giống với họ”. Thánh nhân còn nói thêm: “Người là Thiên Chúa, Đấng vượt trên mọi sự. Chúc tụng Người đến muôn đời”. Đây là một trong những ví dụ hiếm hoi, ở đó thánh Phao-lô gọi Đức Ki-tô là Thiên Chúa. Chúng ta còn gặp một ví dụ duy nhất khác ở Tt 1: 3: “Vào đúng thời đúng buổi, Người đã biểu lộ lời Người trong lời rao giảng đã được giao phó cho tôi, theo lệnh của Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta”.

TIN MỪNG (Mt 14: 22-33)

Câu chuyện Đức Giê-su đi trên biển hồ sóng to gió lớn được định vị vào ban đêm sau phép lạ hóa bánh ra nhiều.

Sau khi hóa bánh ra nhiều cho dân chúng được ăn no nên trong hoang địa, Đức Giê-su buộc các môn đệ xuống thuyền sang bờ hồ bên kia, còn Ngài thì giải tán đám đông dân chúng và lên núi cầu nguyện một mình. Các ông, đa số là những ngư phủ dày dặn kinh nghiệm, biết rằng vượt biển hồ rộng lớn trong đêm tối rất nguy hiểm. Thánh Mát-thêu không đưa ra bất kỳ lời giải thích nào cho thái độ kỳ lạ của Đức Giê-su. Chúng ta biết được nhờ Tin Mừng thứ tư: “Đức Giê-su biết người ta sắp tôn Ngài làm vua, một lần nữa, một mình rút lui lên núi” (Ga 6: 15). Đức Giê-su cẩn trọng tách riêng các môn đệ ra khỏi đám đông, vì sợ rằng các ông để cho mình bị đám đông lôi cuốn nẩy sinh trong lòng ước muốn tái lập vương triều Ít-ra-en. Đó không là sứ mạng của Ngài.

1. Chúa Giê-su cầu nguyện một mình:

Bất cứ khi nào các thánh ký kể ra việc Đức Giê-su cầu nguyện, họ đều nhấn mạnh tính chất trầm lắng và cô độc của Ngài: “Đức Giê-su lên núi một mình mà cầu nguyện”. Ngài cầu nguyện trong những trường hợp quan trọng (khi chịu phép rửa của Gioan Tẩy Giả, khi biến hình trên núi cao), trước khi đưa ra những quyết định quan trọng (khi chịu những thử thách trong hoang địa, ở vườn Cây Dầu). Việc Đức Giê-su cầu nguyện sau phép lạ hóa bánh ra nhiều thật sự chiếm lấy thời điểm bản lề. Đám đông tán dương Ngài như một người có phép thuật thần thông biến hóa; họ ước mơ một Đấng Thiên Sai quyền năng trần thế; họ để ngoài tai sứ điệp của Ngài. Thất vọng, Đức Giê-su sắp mở ra cho sứ vụ của Ngài một hướng đi khác: để hết tâm trí vào việc ưu tiên đào tạo các môn đệ của Ngài. Trước khi đưa ra quyết định này, Đức Giê-su trải qua suốt buổi chiều và thâu đêm để thân thưa với Cha Ngài.

2. “Thầy đây, đừng sợ”

Dù cầu nguyện một mình trên núi, Đức Giê-su vẫn không rời mắt khỏi con thuyền của các môn đệ Ngài. Khi thấy con thuyền của họ lâm nguy, Đức Giê-su đi trên mặt biển sóng to gió lớn mà đến với các ông. Theo quan niệm Kinh Thánh, “biển” là nơi các ác thần cư ngụ và hoạt động (x. G 7: 12; Is 27: 1; 51: 9t; Đn 7…). Ở đây, thánh Mát-thêu mô tả con thuyền trong đêm tối “bị vùi dập” bởi những đợt sóng hung dữ, tức là đang ở trong tình trạng bị thế lực sự ác đe dọa.

Câu chuyện Tin Mừng hôm nay sở hữu nhiều yếu tố gợi lên biến cố Phục Sinh. Động từ “đến” được dùng ở đây cũng là động từ tiêu biểu chỉ những lần Đức Giê-su Phục Sinh đến với các môn đệ Ngài (Lc 24: 15; Ga 20: 19) trong tư thế là Đấng chiến thắng những thế lực hung dữ của tử thần. Thời điểm “Đức Giê-su đến với các ông” vào khoảng canh tư, tức từ ba giờ đến sáu giờ sáng nhắc độc giả nhớ thời điểm Đức Giê-su sống lại khi trời “vừa ló dạng” theo thánh Mát-thêu (Mt 28: 1), “lúc mặt trời hé mọc” theo thánh Mác-cô (Mc 16: 2), “vừa tảng sáng” theo thánh Lu-ca (Lc 24: 1), “sáng sớm… lúc trời còn tối” theo thánh Gioan (Ga 20: 1). “Thấy Người đi trên mặt biển, “Các ông hoảng hốt bảo nhau: “Ma đấy!”, tương tự như những lần Đấng Phục Sinh hiện ra, “các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma” (Lc 24: 36-37). Trước tiếng kêu kinh khiếp của các môn đệ, Đức Giê-su đáp trả: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!” như những lần Đấng Phục Sinh hiện ra trấn an các môn đệ Ngài (x. Mt 28: 10).

Trong bối cảnh này, lời trấn an của Đức Giê-su có nghĩa, chính là Thầy, chứ không phải bóng ma như anh em tưởng. Tuy nhiên, trong Cựu Ước, “Egô Eimi” (chính là Ta”) là danh Thiên Chúa đã mặc khải cho ông Mô-sê (x. Xh 3: 13-15; Is 42: 8). Với danh xưng này, Đức Giê-su khẳng định chân tính thần linh của Ngài.

3. Cuộc đối thoại giữa Đức Giê-su và thánh Phê-rô:

Cuộc đối thoại giữa Đức Giê-su với thánh Phê-rô là nguồn riêng của Tin Mừng Mát-thêu. Thánh Phê-rô xin Chúa cho mình được đi trên sóng nước mà đến với Người: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài”: Ở đây, thánh Phê-rô không gọi Đức Giê-su theo cách thông thường: “Thưa Thầy”, nhưng “Kurie”: “Thưa Ngài” hay “Lạy Chúa”. Được Chúa Giê-su cho phép, ông hăm hở liều lĩnh, lao xuống nước. Ba lần trong Tin Mừng của mình, thánh Mát-thêu nêu bật con người của Phê-rô: trong câu chuyện này, vào lúc tuyên xưng đức tin ở Xê-da-rê, và vào lúc Biến Hình. Nhưng khi thấy biển động mạnh, ông hoảng sợ, và khi bắt đầu chìm ông liền la lên: “Lạy Chúa, xin cứu con”. Đây là lần đầu tiên một trong các Tông Đồ kêu cứu Đức Giê-su bằng tước hiệu “Đấng Cứu Độ”.

Điều làm nên con người thánh thiện của thánh Phê-rô chính là cứ mỗi lần hành động theo tính khí nông nổi của mình, ông vấp ngã; nhưng mỗi lần vấp ngã, ông lại chỗi dậy. Mỗi lần vấp ngã càng giúp ông hiểu Thầy hơn như ở đây, ông nhận thức rằng để có được một đức tin vững mạnh, không thể cậy dựa vào sức riêng của mình, nhưng vào Đức Giê-su, Đấng Cứu Độ của mình. Kinh nghiệm này rất cần thiết cho bất kỳ vị lãnh đạo của Giáo Hội.

4. Phản ứng của các môn đệ:

Câu chuyện kết thúc trong bầu khí phụng vụ: “Những kẻ ở trong thuyền bái lạy Người” và đồng thanh tuyên xưng: “Quả thật, Ngài là Con Thiên Chúa”, vì ai có quyền năng chế ngự các thế lực của sự dữ như thế, nếu không phải là Thiên Chúa. Thật xứng hợp với lời ca tụng của thánh vịnh gia về quyền năng của Thiên Chúa:

“Nước đã thấy Ngài, lạy Thiên Chúa,

thấy Ngài, nước rùng mình khiếp sợ,

cả vực sâu cũng run rẩy kinh hoàng.

Đường của Chúa băng qua biển rộng” (Tv 77: 17, 20).

Câu chuyện hôm nay sở hữu cái nền của Giáo Hội hậu Phục Sinh. Giáo phụ Tết-tu-li-a-nô, và sau này thánh Giáo Phụ Âu-gút-ti-nô, sẽ khai triển đề tài nổi tiếng về con thuyền Giáo Hội. Như các Tông Đồ, Giáo Hội, khi trung thành thi hành sứ mạng của mình trên biển đời này, cũng phải đương đầu với biết bao những chống phá của các thế lực hung ác. Nhưng Đấng Phục Sinh không hề rời mắt khỏi con thuyền. Khi cần thiết, Ngài đến cứu giúp Giáo Hội: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!” (14: 27). Sau khi Chúa Giêsu bước lên thuyền, sóng yên gió lặng. Sự hiện diện của Người đủ sức đem lại bình yên và chế ngự những thế lực hung ác điên cuồng.

Trong cuộc đời của mỗi người chúng ta cũng thế. Nếu biết đặt Chúa Giêsu ở trung tâm đời mình như một hiện diện đích thực và sống động, chúng ta sẽ được an bình nội tại, dù bên ngoài tứ bề sóng gió. Về phần mình, thánh Phê-rô là thuyền trưởng lèo lái con thuyền Giáo Hội. Để con thuyền trực chỉ hướng đến bến bờ bình an, vượt qua những phong ba bão tố, hơn ai hết thánh Phê-rô nhận thức rằng không cậy dựa vào tài năng lèo lái của mình, nhưng đặt trọn niềm tin tưởng vào Đức Giê-su Phục Sinh: “Lạy Chúa, xin cứu con với!” (14: 30). Lời kêu cứu của thánh Phê-rô cũng là lời khẩn cầu của mỗi người chúng ta mỗi khi cần đến ơn phù trợ của Đức Giê-su, Đấng Cứu Độ của chúng ta: “Quả thật, Ngài là Con Thiên Chúa”.

17.Chúa Nhật 19 Thường Niên

(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)

Câu chuyện Tin Mừng chúng ta vừa nghe rất thích hợp với mỗi người chúng ta. Cuộc đời thường được ví như một chiếc thuyền đang đi giữa biển, bị sóng gió tròng trành. Nhất là trong xã hội hôm nay, một xã hội bị đảo lộn từ trong ra ngoài. Con người trở thành nạn nhân của chính mình. Một xã hội mạnh được yếu thua. Một xã hội gần như không có con tim, chỉ có lợi nhuận, quyền thế, tiện nghi. Đua nhau kiếm tiền, bất cần lương tâm. Công bằng bác ái như một thứ xa xỉ dành cho một hạng người nào đó dại khờ còn đeo đuổi mộng mơ đạo đức.

Đời sống đạo đức chúng ta phải phải chống chọi với những làn sóng vô đạo, đang đe dọa đắm chìm chúng ta.

Các tông đồ, theo lệnh Chúa, xuống thuyền để sang bờ bên kia. Nếu có gió thuận họ sẽ căng buồm, nếu không phải chèo. Lần nầy thì gió ngược sóng to họ phải chèo chống và khoảng cách đôi bờ có thể hơn mười cây số, và Chúa Giê-su không cùng đi với họ.

Vì gió ngược sóng to, họ phải hết sức cực khổ mới không bị trôi dạt theo chiều gió.

Biển hồ Galilê như một đứa trẻ tinh nghịch, là một biển hồ rất nguy hiểm, vì những cơn gió lốc thường từ sa mạc thổi về, không báo trước. Những cơn giận bất ngờ của Biển hồ là một mối đe dọa thường xuyên cho các ngư phủ.

Chúa Giê-su biết các môn đệ đang khó nhọc chèo chống, Ngài đến với họ. Ngài đã chứng tỏ quyền uy của Ngài khi Ngài ra tay cứu giúp những người bệnh hoạn tật nguyền, Ngài đã có lần ra lệnh cho sóng biển lặng im, Ngài xua trừ ma quỉ…

Môsê xưa kia chỉ cần giơ gậy lên truyền cho Biển Đỏ tách ra làm hai cho dân đi qua. Êlia cũng không kém uy quyền.

Chúa Giêsu vượt xa những khuôn mặt thần thoại ấy của Cựu Ước. Bóng dáng Ngài đơn thường như mọi người, lời nói Ngài uy nghiêm quyền phép, bàn tay Ngài vun vãi những việc diệu kỳ.

Ngài đến với các môn đệ trong đêm tối. Bằng cách nào?

Ngài xuất hiện từ xa, và lúc ấy độ canh ba. Giữa trời với nước, các môn đệ nhìn thấy một bóng hình xuất hiện, và dần dần, bóng hình cứ lớn thêm và gần hơn…

Giữa trời với nước, đêm khuya, bóng hình đó là gì? Đối với các môn đệ lúc bấy giờ thì chỉ có thể là ma. Họ la hoảng lên và càng cố la to trông cậy có thể làm cho bóng ma hoảng sợ và không đến gần.

Tại sao Chúa không dùng một hình thức nào dễ chấp nhận hơn?

Chúng ta không thể biết được ý định của Ngài. Có lẽ Ngài muốn cho các môn đệ và cả chúng ta hiểu rằng, chúng ta không thể nhận ra Ngài dễ dàng, mà phải qua nhiều giai đoạn, chậm rãi và đôi khi phải sợ sệt. Ngài cho chúng ta cảm nhận rằng chúng ta nhỏ bé trước cuộc sống, phải chống chọi để sống còn, để khỏi phải lún chìm, nhưng Ngài không để chúng ta một mình. Ngài đến với chúng ta qua nhiều hình thức.

Khởi đầu, chúng ta không nhận ra Ngài, nhưng dần dần, Ngài cho chúng ta khám phá ra Ngài, ngay giữa những cơn bão tố.

Đó là hồng ân tuyệt diệu Ngài dành cho chúng ta.

Hơn nữa, Ngài muốn chúng ta liều với Ngài. Chúng ta thấy thái độ của Phêrô:

“Nếu là Thầy thì xin cho đi trên mặt nước đến với Thầy…”

“Đến đây!”

Lời mời gọi của Thầy làm Phêrô vững dạ, bước ra khỏi thuyền không e ngại… Nhưng chỉ một vài giây sau: “Xin Thầy cứu con với!”

Chúng ta luôn có nguy cơ đắm chìm và sa ngã. Chỉ một giây phút nghi ngờ, chúng ta có thể lún sâu.

Muốn giữ vững niềm tin, phải phấn đấu và, trên hết: cậy tin.

Phêrô dám liều, khi đã nhận ra Thầy. Bất chấp mọi sự, Phêrô bước đi trên mặt nước. Đúng là con người liều mạng. Điều đó chứng tỏ niềm tin của Phêrô thật vững chắc và vô điều kiện. Có Chúa đó thì mọi sự đều có thể.

Chúng ta dám tin vô điều kiện như thế không?

Chúng ta đòi điều kiện mới tin. Chúng ta không dám liều. Chúng ta đòi có những bảo đảm cần thiết. Đời sống yên ổn mới có thể lo việc thờ phượng.

Không! Chúa là bảo đảm duy nhất, vì Ngài là Thiên Chúa, là Đấng nắm quyền trên trời dưới đất, là chủ của lịch sử. Ngài đã bỏ mọi sự để đến trong trần gian nầy, không phải để làm trò cười cho thiên hạ.

Các thánh đã tin và không bao giờ thất vọng.

Thánh Phaolô đã tin mãnh liệt và ngài đã thắng tất cả mọi trở lực trên con đường truyền giáo.Thánh Clêmentê Hopbauer, nuôi một đám trẻ mồ côi. Bà bếp báo cáo là không còn gì để ăn… Thánh nhân bình tỉnh đáp: “Cứ tin thôi.” Ngài vào trước nhà tạm cầu nguyện, và đến trưa, một chiếc xe chở đủ thứ đồ ăn vào và mọi người được ăn no… Thánh Gioan Boscô cũng nuôi một bầy thiếu niên bụi đời, bị đuổi từ nơi nầy sang nơi nọ, không ai chấp nhận lũ trẻ tinh nghịch của Ngài, Ngài chỉ tin vào sự quan phòng của Chúa, và mọi sự được giải quyết ổn thỏa. Mẹ Têrêxa Calcutta cũng thế. Bị xua đuổi, gặp đủ thứ gian nan, Mẹ chỉ tin và hôm nay, Mẹ đã mang lại cho thế giới một làn sóng yêu thương không ai ngờ.

Chúng ta không dám tin, chúng ta chẳng làm gì được. Thế giới quanh ta vẫn sa đọa, gia đình chúng ta kém yêu thương…

Chúng ta hãy tin vững chắc rằng, Chúa không bao giờ thua chúng ta, nếu chúng ta tin.

Dù muốn dù không, chúng ta đã đã bước vào con thuyền của Phêrô, nghĩa là chúng ta đã dấn thân vào con đường Nước Trời, chúng ta không còn thuộc về thế gian. Chúng ta là của Chúa: “Thế gian sẽ ghét các con vì nó đã ghét Thầy trước.”

Bão tồ của thế gian sẽ vây bọc chúng ta. Chúng ta cứ chèo chống, Chúa Giêsu sẽ đến trong bão tố.

Còn Chúa, chúng ta còn hy vọng. Ngài cho Phêrô đi trên mặt biển, Ngài cũng gọi chúng ta liều mạng như thế. Dù chúng ta có sợ sệt, hồ nghi, chúng ta vẫn có thể kêu đến Ngài.

Điểm tựa vững chắc của chúng ta là Chúa Giêsu mà thôi: “Ngoài Chúa ra, chúng con không tìm đâu được hạnh phúc”. Thánh vịnh luôn dạy chúng ta cầu nguyện như thế.

Tất cả trên trần gian nầy không có gì vững chắc cả. Cá nhân chúng ta lệ thuốc mọi thứ: môi sinh, xã hội, kinh tế… Gia đình chúng ta cũng bấp bênh. Giáo Hội cũng tròng trành vì những cuộc tấn công của ma quỉ, của những trào lưu vô đạo, vì sự yếu đuối của con cái mình. Nguy hiểm bên ngoài, nguy hiểm bên trong. Thế nhưng Giáo Hội vẫn tin tưởng vào Đấng đã tạo lập nên mình trên nền đá Phêrô. Chỉ có niềm tin bảo vệ chúng ta.

Chúa Giêsu bước lên thuyền. Tất cả đều thay đổi. Sự yên lành trở lại. Sóng gió im lặng. Thầy trò gặp nhau. Các môn đệ đến thờ lạy Ngài: “Thầy thật là Con Thiên Chúa”.

Chúa Giêsu hôm nay và mãi mãi vẫn ở với chúng ta nhờ tấm Bánh Hằng Sống. Hãy đến với Ngài, thờ lạy Ngài, đưa Ngài vào con thuyền nhỏ bé của chúng ta. Thờ lạy và yêu mến Ngài, mặc cho bão tố thế gian vẫn đe dọa. Ngài vẫn mãi mãi là bảo đảm vững chắc cho chúng ta.Ngài đến và: ”Bình an cho chúng con”.

18.Hướng nhìn lên Chúa – Jos. Hồng Ân

Chính Đức Giêsu đã xa lánh đám đông, “đi thuyền đến một chỗ hoang vắng riêng biệt” (Mt 14, 13) để nghỉ ngơi, cầu nguyện và hướng nhìn về lên Chúa Cha, lý do là vì dân chúng đã nhận ra Chúa là đấng Mesia và kéo đến với Người để được Người chữa bệnh và nghe lời Người giảng dạy. Trình thuật bài Tin Mừng cho thấy rằng, sau khi chữa bệnh, giảng dạy và cho dân chúng ăn no nê, “Đức Giêsu liền bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng. Giải tán họ xong, Người lên núi một mình mà cầu nguyện. Tối đến Người vẫn ở đó một mình” (Mt 14, 22-23). Chỉ còn một mình Đức Giêsu, Ngài chìm sâu trong cầu nguyện, hướng nhìn lên Chúa Cha, gặp gỡ thân tình với Chúa Cha.

Đức Giêsu chìm sâu trong cầu nguyện, nhưng Ngài không quên các môn đệ. Ngài biết họ gặp sóng to, gió lớn, đang vật lộn, đang phải lao đao, vất vả chèo chống với sóng gió trên biển. Nên Chúa xuất hiện kịp thời để cứu giúp các ông. “Vào khoảng canh tư, Người đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ. Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hốt bảo nhau: ‘Ma đấy!’, và sợ hãi la lên” (Mt 14, 25-26). Các môn đệ lo lắng, sợ hãi, trước phong ba bão táp, lại nhìn thấy Chúa Giêsu đi trên mặt nước trong đêm tối, tưởng là ma, các ông càng hoảng sợ hơn. Các ông sợ hãi, hoảng hốt, vì kém tin, nên các ông tưởng Chúa là ma và vô cùng sợ hãi. Đức Giêsu liền lên tiếng trấn an các ông: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!” (Mt 14, 27).

Khi nghe Chúa nói: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!” (Mt 14, 27). Ông Phêrô liền mạnh dạn thưa với Chúa: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài” (Mt 14, 28). Ông là người duy nhất trong nhóm môn đệ dám xin điều mà không ai dám xin. Đức Giêsu nhận lời cầu xin của Phêrô, nên đã bảo ông: “Cứ đến. Ông Phêrô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Đức Giêsu” (Mt 14, 29). Ông Phêrô bước ra khỏi thuyền mà đi trên mặt nước để đến với Chúa. Nhưng sau đó: “thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và khi bắt đầu chìm, ông la lên: “Thưa Ngài, xin cứu con với” (Mt 14, 30). Đi trên mặt nước là một điều không tưởng, nhưng có Chúa thì có thể đi trên mặt nước một cách dễ dàng, có thể làm được những việc phi thường hơn thế nữa. Nhờ vào Chúa, ông Phêrô đã làm được điều đó. Nhưng quả thực ông đã mắc phải một sai lầm lớn là vì “thấy gió thổi thì ông đâm sợ”, vì ông nghi ngờ, đức tin của ông bị chao đảo, ông đã nhìn xuống mặt biển giông tố, ông không nhìn lên Chúa, ông quên rằng Chúa đang đứng bên cạnh ông, nên ông bị chìm xuống nước. Đáng lẽ khi gặp phong ba, báp táp, ông phải hướng lòng lên Chúa, mắt nhìn về Chúa, luôn tin tưởng phó thác trong vòng tay yêu thương và quan phòng của Chúa. Ông cần gạt bỏ hết những lối suy nghĩ trần tục, những lo lắng, sợ hãi, bối rối, loại bỏ những “vật cản” để tiến bước.

Có một câu chuyện kể rằng vào lúc mới có thuyền buồm, một cậu bé nọ xin đi biển để học làm thủy thủ. Một hôm biển có bão, người ta bảo cậu leo lên trên cột để hạ cánh buồm xuống. Leo được nửa phần đầu thì dễ dàng vì cậu đưa mắt nhìn lên bầu trời. Nhưng đến lưng chừng cậu phạm phải một sai lầm. Cậu nhìn xuống mặt nước biển trong cơn bão, thế là cậu bị chóng mặt và muốn ngã xuống. Thấy thế, một thủy thủ già la to: “Này nhóc, ngước nhìn lên bầu trời đi! Nhìn lên bầu trời đi”. Cậu bé nghe theo lời chỉ dẫn, cậu ngước nhìn lên trời và cuối cùng đã leo lên được an toàn.

Lỗi lầm của cậu bé, giống lỗi lầm của Phêrô trong bài Tin mừng hôm nay. Cậu ta đã rời mắt khỏi đích nhắm, nhìn xuống mặt biển giông tố, cậu đã bị choáng, có thể rơi xuống và bị chìm, bị vùi dập trong lòng biển, nhưng sau đó cậu nhìn lên bầu trời và cậu tiếp tục chèo lên an toàn, như Phêrô đã rời mắt khỏi Chúa Giêsu và nhìn xuống mặt biển giông tố, nên đã bị chìm xuống. Nhưng khi Phêrô bị chìm ông đã nhìn lên Chúa, cầu xin Chúa, nên ông đã được Chúa nắm tay và kéo ông lên. Quả thật, trong những phút thất bại, ông Phêrô luôn biết cầu cùng Chúa. Điều kỳ diệu là cứ mỗi lần vấp ngã, ông lại trỗi dậy, những thất bại đó đem ông đến gần Chúa hơn. Sự thất bại của ông Phêrô được Chúa cứu, đã làm ông càng thêm yêu mến Chúa hơn.

Trong đêm tối cuộc đời, nhiều khi chúng ta gặp sóng gió, bão táp, gặp gian nan khốn khó, mất bình an, bị nhận chìm xuống là vì chúng ta cậy sức riêng của mình, không nhìn lên Chúa, không tin tưởng phó thác nơi Chúa. Để đứng vững mỗi khi gặp sóng gió, bão táp trên biển đời, chúng ta hãy nhớ rằng, Chúa không bỏ rơi ta, Chúa luôn ở bên ta, như Ngài đã đến bên các môn đệ trong đêm tối trên biển, khi các ông gặp sóng to, gió lớn, khi các ông phải vất vả chèo chống. Mỗi khi ta bị gió thổi, bị sóng đánh chìm, ta hãy nhìn lên Chúa, cầu xin Người cứu giúp, như xưa Phêrô đã cầu cùng Chúa “thưa Ngài xin cứu con với” (Mt 14, 30).

Bài Tin mừng hôm nay mời gọi chúng ta hướng lòng lên Chúa, mắt nhìn về Chúa, tin tưởng phó thác trong vòng tay yêu thương và quan phòng của Chúa. Chúng ta biết rằng ở đâu có Chúa thì ở đó có bình yên, như xưa các môn đệ được bình yên khi có Chúa ở cùng: “Khi thầy trò đã lên thuyền, thì gió lặng ngay” (Mt 14, 32).

19.Uy quyền – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Tiên tri Êlia xuất hiện và làm nhiều việc phi thường tại miền Bắc Kinh Thành nước Israel dưới thời vua Ahab, vào thế kỷ thứ 9, trước Công Nguyên. Theo sách Các Vua, Êlia đã bảo vệ việc tôn thờ Thiên Chúa Yavê chống lại thần Baal thuộc xứ Canaan. Êlia đã thực hiện một số việc lạ lùng như cho kẻ chết sống lại, cho lửa từ trời xuống và được cất nhắc lên trời trong xe lửa. Trong sách Malachi, nói về sự trở lại của Êlia trước ngày Chúa quang lâm. Trong Tân Ước, có nhắc đến tên Êlia, khi người ta so sánh tiên tri Êlia với Chúa Giêsu và Gioan Tẩy Giả. Ông Êlia xuất hiện cùng với Môisen trong sự kiện Chúa Giêsu biến hình trên núi Taborê.

Chúng ta không biết nhiều về tiểu sử đời tư của tiên tri Êlia. Tên Êlia có nghĩa là Chúa của tôi là Yavê. Tại Israel, khi vua Ahab và hoàng hậu Jezebel tôn thờ các thần dân ngoại và xây dựng đền thờ kính thần Baal. Baal là thần xứ Canaan, họ tin rằng thần này chịu trách nhiệm về việc làm sấm chớp, mưa bão và sương sa. Jezebel nhập cư các thầy tư tế và các tiên tri của thần Baal vào đất Canaan. Êlia cảnh cáo và thách thức vua Ahab và các đồ đệ của thần Baal là sẽ có hạn hán trong ba năm. Êlia cũng đã thách đố quyền lực của thần Baal trên của lễ toàn thiêu. Kết qủa thần Baal chỉ là hư danh. Êlia đã toàn thắng trước mặt chư dân, nhưng vì ghen tương, bà hoàng hậu Jezebel tìm cách trả thù, nên ông phải trốn chạy lên núi. Chúa đã nâng đỡ an ủi ông trong cơn khốn cùng: Chúa phán cùng ông Êlia rằng: Hãy ra đứng trên núi trước tôn nhan Chúa. Bỗng Chúa đi qua; có một cơn gió mạnh xẻ núi non và nghiền nát đá trước mặt Chúa. Nhưng Chúa không ở trong gió bão. Sau trận gió bão thì đất động; Chúa cũng không ở trong cơn động đất (1Vua 19, 11).

Bài phúc âm hôm nay, sau khi Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều để nuôi dân, Chúa ở lại trong hoang địa để cầu nguyện. Thánh Matthêô viết: Canh tư đêm tối, Người đi trên mặt biển mà đến với các ông (Mt 14, 25). Chúa Giêsu đi trên mặt nước. Một sự kiện lạ lùng. Con người bình thường với sức nặng khi bước xuống nước sẽ bị chìm xuống. Ở miền Nam Do-thái, vùng Giuđêa có Biển Chết, nước rất mặn. Khi xuống nước tắm, chúng ta có thể nằm ngửa và thân xác sẽ nổi trên mặt nước và không cần phải cựa quậy chân tay. Khi đứng thì nhẹ nhàng nhưng nằm thì thân xác có thể nổi. Không ai có thể đi trên mặt nước. Trong một vài cảnh lạ quảng cáo trên truyền hình, đôi khi chúng ta cũng thấy có người đi trên mặt nước, nhưng phải cẩn thận quan sát vì có sự dàn dựng phía sau để che mắt thiên hạ. Cũng giống như tất cả các nhà ảo thuật, họ đều có kỹ năng chuyên môn để qua mắt bà con. Chúng ta có thể tìm hiểu về nguồn ngọn của các sự việc cách cụ thể trên sách vở báo chí.

Chúa Giêsu đi trên mặt nước và đến với các tông đồ vào ban đêm: Chúa Giêsu nói với các ông rằng: Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ (Mt 14, 27). Các tông đồ là những người chài lưới rất quen thuộc với khung cảnh sóng biển. Khi thấy sự kiện lạ, các ông hoảng sợ. Đúng thế, ai mà không sợ chứ! Một phản ứng rất tự nhiên của con người. Các sự kiện lạ vượt ra ngoài qui luật của không gian và thời gian. Chúa Giêsu củng cố đức tin của các ông bằng các dấu lạ, để các ông nhận ra uy quyền của Thiên Chúa. Chúng ta thấy các tông đồ được chứng kiến nhiều phép lạ mà Chúa đã thực hiện, nhưng tới lúc nguy nan và khó khăn, đức tin của các tông đồ cũng vẫn bị lung lay và sợ hãi.

Ông Phêrô tính tình rất thật thà và nhiệt thành. Ông đã xin Chúa cho đi trên mặt nước, Chúa chấp nhận, nhưng: Khi thấy gió mạnh, ông sợ hãi và sấp mình xuống nên la lên rằng: Lạy Thầy, xin cứu con (Mt 14, 30). Phêrô là dân chài lưới. Ông sống trên sông nước và tắm lội hằng ngày, vậy mà khi gió thổi mạnh, ông chìm xuống và vội la lên, xin Chúa cứu. Đứng trước Đấng có quyền phép vô cùng, Phêrô cảm thấy mình quá nhỏ bé và yếu đuối. Ông cậy dựa vào tình thương của Chúa để xin cứu vớt. Có Chúa, con còn sợ chi ai. Tính tình của ông Phêrô rất bộc trực nhưng chân thành. Chúa Giêsu đã yêu thương và trao cho ông quyền trên các tông đồ. Chúa còn trao quyền cho ông cai quản Giáo Hội mà Chúa thiết lập. Chúa hỏi ông và ba lần ông đã tuyên xưng: Lạy Thầy, con mến yêu Thầy.

Cuộc đời của mỗi người chúng ta cũng đối diện với năm chìm bảy nổi. Nhưng các khó khăn và thất bại trong cuộc sống là những bài học giúp chúng ta sống trưởng thành hơn. Mới đây, trong một cuộc họp hàng tháng, chúng tôi đã chia sẻ về các vấn đề gây sự ưu tư trong cuộc sống đạo. Một linh mục chia sẻ rằng: Mỗi ngày cha đều dâng lễ và rước Mình Máu Thánh Chúa, vậy mà sau ba mươi năm linh mục, cũng chẳng thay đổi được bao nhiêu. Tính nào vẫn tật đó. Các tính xấu cứ lập đi lập lại. Lời chia sẻ rất chân tình. Hầu như ai trong chúng ta cũng thế. Tội đó đã xưng mười năm trước, nay vẫn còn tái phạm. Đôi khi chúng ta muốn sửa đổi và chừa tội, nhưng chỉ thay đổi và chừa cải được chút chút. Sau vài suy nghĩ, tôi tự an ủi rằng: Dù sao chúng ta cũng còn tiếp tục ở lại trong ơn nghĩa Chúa cho tới ngày hôm nay. Cũng giống như thức ăn thức uống giúp nuôi dưỡng chúng ta qua tháng ngày, nhờ từng bữa ăn bổ sức mà chúng ta còn sống khỏe tới ngày hôm nay. Tạ ơn Chúa.

Mỗi ngày sống là một ngày mới hoàn toàn. Chúng ta cùng dâng lời tạ ơn Chúa. Sống ngày hôm nay cho trọn vẹn. Ngày hôm qua có bị ngã, bị chìm thì sự việc cũng đã qua. Chúng ta không thể làm gì được với quá khứ. Bình sành đã bể là đã bể. Hàn gắn lại là việc của ngày hôm nay. Chúng ta không nên ngồi đó để phiền trách về quá khứ đã qua. Cái đã qua giúp chúng ta học hỏi nhiều kinh nghiệm để tiến thân và sống tốt hơn. Đừng chìm đắm trong qúa khứ, nhưng hãy vui sống giây phút hiện tại mà chúng ta đang có đây. Phêrô đã chìm xuống nước và vội la lên, xin Thầy cứu con. Nếu có khi nào chúng ta bị rơi chìm, thất bại và chán nản, hãy nhớ rằng chúng ta có Chúa Giêsu là Chúa và là Đấng có uy quyền trên hết mọi tạo vật. Hãy thân thưa với Chúa: Lạy Chúa, xin cứu con!.

Phần thưởng của cuộc sống là sự an vui và hạnh phúc. Khi con người nhận rõ vai trò, sứ vụ và cùng đích của cuộc đời, thì không còn phải lắng lo nhiều. Niềm tin sẽ dẫn dắt chúng ta hoàn thành sứ mệnh của con người trong cuộc lữ hành. Hãy tránh dần sự tranh chấp vô thưởng vô phạt để duy trì tình thân ái. Bỏ bớt cái tôi cao ngạo và dễ ghét, để cùng hòa đồng xây dựng sự hài hòa trong an bình. Tất cả mọi sinh hoạt đều qui hướng tạo niềm an vui hôm nay và ngày mai. Niềm vui lớn lao nhất của chúng ta là được làm nghĩa tử của Thiên Chúa. Trong niềm tin sống đạo và ân sủng của các Bí tích trong Giáo Hội, chúng ta được tháp nhập vào nhiệm thể của Chúa Kitô, để đồng thừa hưởng gia nghiệp đã hứa ban. Không riêng gì dân Do-thái mà tất cả mọi người tin vào Chúa Kitô: Họ đều là người Israel, họ được quyền làm nghĩa tử, được vinh quang, giao ước, lề luật, việc phụng tự và lời hứa (Rm 9, 4). Chúng ta sẽ được thừa kế gia sản ơn cứu độ mà Thiên Chúa dành sẵn cho loài người qua Con Chúa Nhập Thể và cứu chuộc.

Lạy Chúa, Chúa là chủ của muôn loài muôn vật. Chúa có quyền sáng tạo, biến hóa và tái tạo. Xin Chúa biến đổi tâm hồn chúng con trở thành những mảnh đất phì nhiêu sinh hoa kết trái nhân đức tốt lành trong cuộc sống. Xin cho chúng con can đảm tin tưởng và dõi theo lối bước của Chúa. Hãy lắng nghe lời của Thầy Chí Thánh: Thầy đây, các con yên tâm, đừng sợ!

20.Cuộc gặp gỡ của Thiên Chúa

(Suy niệm của Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng)

Tin Mừng Mt 14: 22-33: Tin mừng hôm nay ghi lại sự kiện Chúa Giêsu đi trên mặt nước hồ Tibêria. Phép lạ này tiếp tục là lời mời gọi hãy tín thác vào Chúa.

Thiên Chúa kết hợp mật thiết trong đời sống con người. Ngài phung phí tình yêu của Ngài cho chúng ta cách lạ kỳ. Từ ngàn xưa, Thiên Chúa đến với nhân loại, nói với nhân loại qua các Tiên tri mà vẫn chưa đủ để thỏa mãn tình yêu của Ngài, Thiên Chúa đã làm người nơi Chúa Giêsu, Con Một của Chúa Cha. Người đã sống giữa nhân loại trong thời gian. Người tiếp tục sống, hiện diện và hoạt động nơi Thánh Thần, Giáo hội và Bí tích Thánh thể của Người.

Sự hiện diện của Thiên Chúa kín đáo, im lặng và vô hình. Cần phải có con mắt đức tin để nhận ra những dấu chỉ về sự hiện diện của Thiên Chúa giữa chúng ta. “Kẻ kém lòng tin. Tại sao lại nghi ngờ?” Lời Chúa Giêsu khiển trách Phêrô cũng liên quan đến chính chúng ta, Kitô hữu hôm nay. Chúng ta hãy cầu xin cho đức tin mỗi người thêm mạnh mẽ, vững vàng để nhạn ra bàn tay Chúa Giêsu đang nâng đỡ trước những đau khổ, thử thách và cám dỗ.

I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

1. Bài đọc I: 1V 19,9.11-13

Tiên tri Êlia gặp gỡ Thiên Chúa trên Núi Sinai

Thiên Chúa đã tỏ mình ra với Tiên tri Êlia không phải trong cảnh tượng hùng vĩ kinh thiên động địa, nhưng trong im lặng của sự hiện diện nội giới và thiêng liêng, biểu tượng là cơn gió nhẹ.

a. Chống cự lại Nữ hoàng Jézabel, muốn du nhập vào Israel việc thờ cúng Thần Baal, Tiên tri Êlia đã gặp nguy hiểm đến tính mạng. Ông đã phải trốn về phía nam của Sinai, là nơi ngày xưa Môsê đã gặp Thiên Chúa.

b. Nhưng trong khi Thiên Chúa tỏ mình cho Môsê với sức mạnh của gió lốc tự nhiên, thì Ngài lại tỏ mình cho Êlia, con người đang kiệt sức và chán nản, bằng sự dịu dàng trong im lặng của núi rừng, trong tiếng thì thào.

c. Thiên Chúa mạc khải những điều cao siêu kín nhiệm ngay trong nội giới của các Tiên tri, chứ không bằng các hiện tượng lạ thường bên ngoài. Điều này là kinh nghiệm cho đời sống nội tâm của Kitô hữu: tìm Chúa, gặp Chúa và lắng nghe tiếng Chúa trong chính tâm khảm của mình là nơi bí ẩn. Tiếng Chúa cần phải được đánh động lương tâm mỗi người.

2. Bài đọc II: Rm 9,1-5

Nỗi đau khổ lớn lao của Phaolô

Thánh Phaolô nói nỗi buồn lớn lao nhất của ngài là thấy phần lớn anh em Do Thái của ngài không tin vào Đức Kitô. Nếu cần thiết làm hiến vật tách khỏi Đức Kitô vì người Do Thái, ngài cũng chấp nhận.

a. Toàn bộ chương 9 của Thư Rôma này, Phaolô đề cập đến vấn nạn dân Do Thái không tin nhận Chúa Giêsu Kitô.

b. Ước vọng của Phaolô không thể thực hiện được nhưng lại nói lên tình yêu lớn lao của ông dành cho dân tộc của mình, một dân được Thiên Chúa tuyển chọn, được đón nhận tràn đầy nhất đặc quyền trải suốt nhiều thời đại.

c. Người Do Thái có nhiều đặc ân mà các dân tộc khác không thể nào được, thế mà phần đông họ lại không tin vào Chúa Giêsu Kitô, tự đánh mất ơn cứu độ, ơn nghĩa tử.

3. Tin mừng: Mt 14,22-24

Chúa Giêsu đi trên mặt nước

Tin mừng hôm nay ghi lại sự kiện Chúa Giêsu đi trên mặt nước hồ Tibêria. Phép lạ này tiếp tục là lời mời gọi hãy tín thác vào Chúa.

a. Việc Chúa Giêsu đi trên mặt nước đến với các môn đệ, xem ra như là phép lạ chỉ dành riêng cho các môn đệ, những người đang ở trên con thuyền, nghĩa là cho Giáo hội của Người. Chính Chúa Giêsu sẽ là Đấng cứu Giáo hội khỏi mọi dòng nước dữ, mọi cơn sóng nguy hiểm rình chực nhận chìm con thuyền Giáo hội.

b. Phêrô đi trên mặt nước: Ông được Chúa Giêsu thông ban quyền lực của mình, đây là chi tiết làm nổi bật khía cạnh Giáo hội học của bản văn. Giáo hội được Người thông ban các năng quyền để phục vụ nhân loại. Tuy nhiên, Phêrô chỉ đi được trên mặt nước khi ông tin, còn khi ông kém tin, tỏ ra sợ hãi thì ông bị chìm. Mọi quyền năng, ân sủng đều đi kèm theo lòng tin. Một khi đã tin thì không có gì mà không làm được.

c. Kết thúc trình thuật là lời tuyên xưng của mọi người: “Quả thật Thầy là Con Thiên Chúa”. Lời tuyên xưng này mở ra một hành trình mới, đánh dấu một sự trưởng thành trong niềm tin của các môn đệ. Tín thác vào Chúa Giêsu Kitô để mạnh mẽ, can đảm vững bước theo Người.

II. GỢI Ý BÀI GIẢNG

1. Sự hiện diện của Chúa Giêsu, nguồn bình an:

Sau khi Chúa Giêsu lên thuyền, gió bỗng yên lặng. Sự hiện diện của Người đủ sức mang lại yên tĩnh và chế ngự phong ba bão táp. Biển theo nghĩa Kinh thánh tượng trưng cho quyền lực của sự ác. Đi trên biển chứng tỏ quyền năng và sự chiến thắng của Chúa Giêsu trên sự dữ, nguồn gốc của bất an, chia rẽ, đau khổ. Nơi đâu có Chúa Giêsu, ở đó có bình an. Cuộc đời người Kitô hữu không thể tránh khỏi những phong ba bão táp của cuộc sống, những lúc như thế, hơn bao giờ hết cần phải chạy đến với Chúa Giêsu Kitô. Nếu biết đặt Người ở trung tâm đời mình thì sẽ tìm kiếm được an bình nội tâm, cho dù có gặp biết bao sóng gió.

Chúa Giêsu hiện diện ngay trong cuộc sống của Kitô hữu nếu mọi người biết đến với Người qua việc nghe, thực thi lời Người, đón nhận Mình Máu Thánh Người và siêng năng cầu nguyện với Người.

2. Tín thác cuộc đời trong tay Chúa Giêsu:

Các môn đệ vì sợ hãi sóng to gió lớn nên không nhận ra Chúa Giêsu, ngộ nhận Người là ma. Chúa Giêsu trấn an họ: “Thầy đây, đừng sợ”. Còn hơn cả một lời trấn an, đây còn là một mạc khải: sự hiện diện của Chúa sẽ xua đi mọi nỗi sợ hãi; hãy tín thác cuộc đời trong tay Người. Khi Người xuất hiện thì gió yên biển lặng ; khi Người có mặt thì có sự bình an. Chính vì thế mà các môn đệ đã thờ lạy Người: Thầy quả thật là Con Thiên Chúa. Lời tuyên xưng này đồng thời cũng là lời biểu lộ một sự tín thác nơi Người. Tất cả mọi người trên thuyền cùng tuyên xưng một đức tin, cùng chung một lòng trông cậy.

Trong cuộc sống của mỗi người, niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô cần được thanh luyện và minh chứng trong thử thách gian nan. Nếu biết tín thác vào Người, thì càng khó khăn, càng vất vả, càng gặp nguy khốn, càng vươn lên mạnh mẽ trong đức tin, càng trung thành theo giáo huấn của Người và càng tìm kiếm được bình an.

3. Can đảm dấn thân lên đường cùng Giáo hội:

Việc chúa Giêsu đi trên mặt nước đến với các môn đệ trên thuyền là một hình ảnh mang tính Giáo hôi học. Chúa Giêsu luôn đồng hành cùng con thuyền Giáo hội. Phêrô thủ lãnh của Giáo hội, tin tưởng nhảy xuống nước để bước đi. Mọi thành phần Giáo hội hôm nay cũng phải tin tưởng cùng nhau nhảy xuống nước để đi gặp Chúa Giêsu. Khi Phêrô sợ hãi, kém tin là chính lúc đó ông bị chìm. Một khi đã liều mình theo Chúa thì phải theo đến cùng, bằng không chính nỗi sợ hãi sẽ nhạn chìm chúng ta.

Kitô hữu phải biết can đảm mạnh mẽ băng mình vào dòng đời này, để loan Tin mừng cho con người và thế giới hôm nay. Cùng với toàn thể Giáo hội, lèo lái con thuyền Giáo hội xông pha vào trong bão táp của thế giới đầy bất công, bạo lực, chiến tranh, vô luân này không chút sợ hãi. Chúa Giêsu luôn hiện diện và ở cùng con thuyền Giáo hội.

III. LỜI NGUYỆN TÍN HỮU:

Mở đầu: Anh chị em thân mến, xác tín vào sự hiện diện mang bình an của Chúa Giêsu trong cuộc sống này, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện.

1. Giáo hội ngày nay đã và đang đương đầu với biết bao thách đố, chống đối trong đời sống luân lý. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các vị chủ chăn của chúng ta luôn được hồn an xác mạnh, kiên định trong đức tin, vững vàng trong đức cậy và chân thành trong đức mến để hướng dẫn dân Chúa vững bước trên đường nên thánh.

2. Ngày nay thế giới đang phải đối đầu với biết bao tai ương, chiến tranh và phân hóa, khiến cho biết bao người phải sống trong sự bấp bênh kinh tế, bất ổn tinh thần và bất hòa với nhau. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo quốc gia, các tổ chức thiện nguyện, các phong trào xã hội luôn hết lòng cộng tác để xây dựng một thế giới văn minh, hòa bình và thịnh vượng.

3. Cuộc sống Kitô hữu không thể tránh khỏi phong ba bão tố. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người, mọi gia đình trong cộng đoàn chúng ta luôn tìm được nơi Chúa Giêsu sự bình an và sức mạnh để can đảm tuyên xưng niềm tin của mình.

Lời kết: Lạy Chúa Giêsu, Chúa là nguồn mạch bình an. Chúng con, từng hoàn cảnh, từng cuộc đời mỗi người, mỗi gia đình, mỗi cộng đoàn đã và đang gặp biết bao sóng gió thử thách. Xin Chúa đến với chúng con, nâng đỡ chúng con và giúp chúng con vững bước trong niềm tin của mình. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.

21.Lạy Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con

(Suy niệm của Lm. Anmai, DCCT)

Liệu người ta có sống được không khi không có lòng tin? Câu trả lời dường như quá dễ dàng, người ta chết vì thiếu cơm thiếu gạo, thiếu chất dinh dưỡng hay thuốc men chứ có ai chết vì thiếu lòng tin!

Nhưng cứ thử hình dung, một đứa trẻ nếu không có lòng tin vào tình thương, vào trách nhiệm của cha mẹ mình thì dù có ăn ngon mặc đẹp, được hưởng thụ mọi tiện nghi, thậm chí được học hành thì đứa trẻ ấy cũng chẳng bao giờ được sung sướng. Nếu sống như vậy nó chỉ là một đứa trẻ vất vưởng mồ côi, có lẽ trong số những trẻ bỏ nhà đi bụi đời nhiều em đã mang theo cõi lòng tan hoang như thế. Bình thường, ra khỏi cái thế giới của gia đình, một thiếu niên có thêm lòng tin mới, tin vào thầy cô bạn bè, nhà trường. Chúng đau khổ khi bị bạn bè chơi xấu, và đâu đó nhà trường đã biến thành thị trường, người dạy không vì chúng mà vì túi tiền của cha mẹ chúng nên chúng đã hỗn láo, hư hỏng hoặc lớn lên ra trường đi làm, chúng tìm mọi cách để tận thu lại với đời.

Vợ chồng mà không tin nhau thì dù nhà cao cửa rộng, chăn êm nệm ấm thì cũng chỉ là một sự “liên hiệp”, và những cuộc hành lạc hợp pháp. Không niềm tin thì không thể có tình yêu, còn hạnh phúc càng là chuyện hoang tưởng.

Một cuộc sống thiếu lòng tin thì đó không phải là cuộc sống…

Chẳng hiểu làm sao mà ngày hôm nay con người sống trong một thế giới thiếu vắng lòng tin để rồi từ thiếu vắng lòng tin nó đã gây ra cho con người biết bao nhiêu là xáo trộn, biết bao nhiêu à bất an. Ngày hôm nay người ta phải đối diện với quá nhiều sự giả trá, sự gian tà để rồi không còn tin vào nhau như xưa nữa.

Nhan nhản, sách báo, tivi, các chương trình truyền thông đại chúng cho chúng ta thấy một cuộc đời thật ê chề, thật chán chường. Tất cả chỉ là những lời hứa hão huyền, những lời hứa cuội. Mới đây thôi, tuần qua, một sự kiện đáng nhớ của người dân Sài Gòn: cơn mưa chiều ngày 1 tháng 8 đã biến Sài Gòn thành một dòng sông. Do đâu? Do người ta hứa hẹn, người ta thiếu trách nhiệm để ma lo cho dân. Ngân sách rót ra cho chuyện sửa chữa cầu cống, ngập lụt đổ ra bạc tỷ, tiền ấy gom góp từ mồ hôi nước mắt của dân, vậy mà sau những trận mưa thì người dân hoàn toàn chịu trận. Chịu riết rồi chẳng còn ai tin vào lời hứa là sẽ lo cho dân, sẽ phục vụ dân nữa. Một lần, hai lần, ba lần người ta còn cố gắng chờ đợi để mà tin nhưng nhiều lần quá chẳng ai còn can đảm để mà tin.

Ngoài đường là như vậy, còn trong nhà thì sao? Trong nhà hình như cũng nhuốm một cái màu đen tối của sự mất niềm tin vào nhau. Ai cũng sợ sống sự thật, đối diện với sự thật để rồi người ta không còn đến với nhau thật lòng nữa. Chắc có lẽ từ cái lối sống “làm láo báo cáo hay” nó nhen nhúm vào trong con người ta khi nào mà người ta không hay để rồi ai cũng báo cáo, cũng “nổ” cũng tô son trát phấn về mình. Vì sao? Vì sợ người đối diện biết cái bộ mặt thật của mình nên người ta phải làm như vậy. Và khi làm như vậy đến một lúc nào đó cũng xuất đầu lộ diện thì thử hỏi còn ai dám tin vào nhau nữa?

Cay đắng, bi đát ở chỗ là con người, ai ai cũng thấy và cần sống với những người có niềm tin vào nhau nhưng rồi người ta cư xử với nhau làm sao đấy. Cứ thật thật giả giả lẫn lộn để rồi đi tìm một lòng tin nguyên vẹn hơi bị hiếm.

Đứng trước vấn nạn của lòng tin, chúng ta có lòng tin như thế nào với người xung quanh và người xung quanh chúng ta có tin chúng ta hay không? Cách riêng, người kitô hữu, người có Chúa thì sống lòng tin như thế nào?

Bài tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy rõ về lòng tin. Phêrô, là người đã từng theo Thầy mình đi rao giảng nhưng đụng chuyện Phêrô cũng chưa tin vào Chúa, vẫn ngờ vực Chúa. Qua thái độ ngờ vực của Phêrô, Chúa Giêsu đã thẳng thắn trách móc ông. Chúng ta nhìn lại đời mình, chúng ta theo Chúa nhiều năm lắm, có người hai chục, có người ba chục, có người bốn chục… được Chúa yêu thương nhiều, được Chúa ủ ấp nhiều nhưng hình như chúng ta vẫn mang trong mình thái độ ngờ vực như Phêrô thì phải. Thế nhưng chuyện hay nơi Phêrô là sau bao nhiêu lần ngã lên vấp xuống nhưng cuối cùng Phêrô đã tin và sống chết với Thầy. Còn chúng ta, chúng ta sẽ sống sao với Thầy của chúng ta?

Ngày hôm nay, cơ hội để chúng ta đặt lại niềm tin của chúng ta vào Chúa. Chúng ta đã theo Chúa nhiều năm nhưng hiện giờ lòng tin của chúng ta vào Chúa như thế nào? Chúng ta tin vào người đời hay tin vào Thiên Chúa.

Chúa vẫn nhắc nhở chúng ta trong các thánh vịnh:

Ẩn thân bên cạnh Chúa Trời

Thì hơn tin cậy ở người trần gian

Tin vào thần thế vua quan

chẳng bằng ẩn náu ở bên Chúa Trời (Tv 117, 8.9)

Cuộc đời mỗi người chúng ta vẫn bị giằng co, vẫn đứng giữa cái ngã ba đường là dựa vào Chúa hay dựa vào thần thế vua quan, tin vào Chúa hay tin vào của cải vật chất? Đây không phải là chuyện đơn giản mà là chuyện chúng ta phải đối diện mỗi ngày trong cuộc sống thường nhật.

Nhìn lại cuộc đời mỗi người chúng ta, nhìn lại tất cả các biến cố lớn bé từ khi cất tiếng khóc chào đời đến ngày hôm nay chúng ta thử hỏi xem ai đã quan phòng cho cuộc đời chúng ta? Ai yêu thương chúng ta? Ai là thành luỹ đời chúng ta? Ai là cùng đích đời chúng ta? Vậy mà chúng ta đã không dựa vào tình yêu, vào đấng quan phòng, vào thành luỹ, vào Chúa của đời chúng ta mà chúng ta cứ quanh quẩn mãi trong cái thế giới vật chất, trong cái thế giới mau qua chóng tàn này.

Tuần trước, khi đang giúp cho một đôi hôn phối do một cha trong Dòng nhờ bỗng dưng cô bé nói với tôi rằng: “Mẹ bạn trai con đi coi thầy rồi, phải là trong tháng 10 này phải cưới vì tuổi của con và tuổi của anh ấy chỉ cưới trong tháng 10. Nếu không thì chúng con phải đợi đến 3, 4 năm nữa mới cưới được!”.

Tôi nghe xong tôi ngạc nhiên vì tôi biết rằng hai bên đều là đạo gốc, được học hành giáo lý nghiêm túc ở một giáo xứ lớn hẳn hoi mà nói với tôi như thế! Hoá ra là mẹ của chú rễ dù là người có đạo nhưng hình như chẳng còn tin vào Chúa mà tin vào ông thầy bói. Tôi bèn nói với hai bạn trẻ rằng tôi cảm ơn mẹ của chú rễ. Và, nếu được xin kính mời bà mẹ của chú rễ đến đây, dẫn tôi đến với ông thầy bói nào đó đã coi cho hai bạn. Tôi nói rằng:

Thứ nhất: tại sao ông thầy bói coi cho hai bạn được mà sao không coi tương lai cho ông như thế nào? Tại sao ông phải đi lượm bạc cắc từ những người nhẹ dạ và thiếu lòng tin vào Chúa? Nếu giỏi, sao ông không coi chiều nay xổ số ra số mấy để ông mua nguyên tập vé số để có nhà lầu xe hơi mà phải đi coi bói thế này?

Thứ hai: nếu được nhờ ông coi xem tương lai tôi có làm giám mục hay không? Nếu tôi làm giám mục tôi mời ông về ở trong “Toà” với tôi? Làm gì mà ông coi được? Ngay cái bản thân của ông ông không biết ông sống ngày nào, chết ngày nào sao mà coi được cho ai?

Và còn nữa về chuyện thiếu lòng tin vào nhau, thiếu lòng tin vào Chúa nên đến với bói toán. Nhất là các cô các chị. Đôi khi chồng mình mệt mỏi hay có vấn đề gì không chịu hỏi, chạy tới hỏi ông thầy bói và khi mở bài lên con đầm bích. Ông phán ngay cho một câu là chồng chị có một người nước da ngăm ngăm theo đuổi! Thế là về nhà mặt nặng mày nề với ông chồng mà không chịu hỏi thực hư!

Thời buổi ngày hôm nay người ta thường nói đùa với nhau là “lên cung trăng” rồi mà người ta còn tin vào bói toán. Thật ra số người tin vào bói toán ngày nay còn nhiều chứ không phải là ít, cách riêng là nữ giới. Vì nhẹ dạ, vì thiếu lòng tin và nhất là thiếu lòng tin vào Thiên Chúa nên họ dựa vào bói toán là điều dễ hiểu. Lẽ ra trong những cơn gian nan thử thách của cuộc đời họ tìm đến Chúa, họ cậy vào Chúa nhưng không, họ đã tìm đến những con người tầm thường của thế gian.

Và như đã nói ở trên, cuối đời Phêrô hối hận về tất cả những gì mình làm buồn phiền Thầy mình nên Ngài đã làm lại tất cả những gì có thể được để minh chứng cho tình yêu của Ngài đối với Thầy Chí Thánh. Và với lời nguyện xin quen thuộc của Ngài khi Chúa Giêsu hiện ra sau khi Phục Sinh với mẻ cá lạ, mỗi người chúng ta trong từng phút từng giây của cuộc đời cũng biết thưa như Phêrô: “Lạy Ngài ơi thương đến! Xin củng cố giúp con! Này lòng tin con đây còn mỏng dòn non yếu! “Lạy Ngài ơi thương đến! Xin củng cố giúp con! Này lòng tin con đây hầu đã vỡ tan rồi” (bài Con tin thưa Thầy – linh mục Thành Tâm)

Khi và chỉ khi ta đặt niềm tin của ta vào Chúa như Phêrô thì cuộc đời ta mới bình an giữa muôn sóng sóng gió của cuộc đời này được.

Nguyện xin Chúa là nguồn mạch của sự sống, nguồn mạch tình yêu, nguồn mạch của lòng tin đến và ở lại trên cuộc đời của mỗi người chúng ta để chúng ta luôn trao phó cuộc đời của chúng ta vào trong bàn tay của Chúa trong bất cứ hoàn cảnh nào, môi trường nào mà chúng ta đang sống.

22.Chính là Ta! Đừng sợ!

(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)

Như Marcô và Gioan, Matthêô đặt trình thuật “Chúa Giêsu đi trên mặt nước” nầy (14,22-32) ngay sau trình thuật về bánh cá hoá nhiều nuôi năm ngàn người. Cả hai trình thuật đều nhằm trả lời những thắc mắc của dân làng Nazaréth (13,54-56), Hêrôđê (14,2), và cả môn đệ (8,27) về căn tính của Chúa Giêsu đã được nêu ra trước đó. Trong câu chuyện bánh cá hoá nhiều, Chúa Giêsu tỏ mình ra cho dân chúng như vị mục tử được Thiên Chúa sai đến để nuôi sống họ. Phần các môn đệ, họ chưa nhận ra Ngài là ai (x. 16,9-10). Trong trình thuật nầy, Chúa Giêsu sẽ tỏ mình vinh quang cho họ qua biến cố trên mặt biển, và chính họ sẽ tuyên xưng Ngài là Con Thiên Chúa.

Bối cảnh không gian của câu chuyện được xác định là từ lúc Chúa Giêsu buộc các môn đệ lên thuyền, eis to ploiton (c. 22) và kết thúc là lúc Phêrô đã trở lại trong thuyền; và lúc nầy tất cả các môn đệ đều tuyên xưng Ngài là “Con Thiên Chúa”, eis ton ploiton (c. 32). Cụm từ nầy đóng khung câu chuyện. Hơn nữa, hạn từ eutheōs/euthus xuất hiện ba lần (cc. 22, 27 và 32) và đánh dấu các hành động quyết định của Chúa Giêsu ở khởi đầu, đoạn giữa và kết thúc của câu chuyện. Hạn từ nầy giúp phân đoạn bố cục của câu chuyện như sau: Dẫn nhập (cc. 22-23); Chúa Giêsu với các môn đệ (cc. 24-27); Chúa Giêsu với Phêrô (cc. 28-32); Kết luận (c. 33).

Chủ đề của đoạn 14,22-32 liên quan đến việc tuyên xưng Chúa Giêsu. Matthêô trình bày theo cách tiệm tiến việc các môn đệ nhận biết Ngài: “ma”, phantasma (c. 26), “Chúa”, kyrie (c. 28), và cao điểm là “Con Thiên Chúa”, Theou uios ei (c. 33). Bên cạnh việc tuyên xưng nầy, Chúa Giêsu còn tự mạc khải “Thầy đây”, egō emi (c. 27).

Dẫn nhập (cc. 22-23)

Các môn đệ đã có mặt với Chúa Giêsu vào buổi chiều ngày Ngài làm phép lạ bánh cá hoá nhiều nuôi năm ngàn người ăn (14,15). Họ đã chứng kiến phép lạ mà họ không nghĩ đến. Họ đã muốn Chúa Giêsu giải tán dân chúng (14,15), nhưng Chúa Giêsu chỉ làm theo đề nghị của họ sau khi chính Ngài đã cho họ ăn thỏa thuê (c. 22). Ngài đã tự tỏ mình ra cho dân chúng như là vị mục tử tốt lành nuôi sống đàn chiên. Bây giờ Ngài muốn tỏ mình ra cho các môn đệ.

Matthêô không đề cập điểm đến “Bethsaiđa” thuyền của các môn đệ như trong Marcô (Mc 6,45). Thật ra, câu chuyện sẽ không diễn ra ở bờ bên kia, mà trên đường đến bờ bên kia. Matthêô nhấn mạnh là Chúa Giêsu “cầu nguyện riêng một mình trên núi”, kat’ idian proseuzasthai (c. 23) và sau đó Ngài đến với các môn đệ; trong khi Marcô lại trình bày Chúa Giêsu “một mình trên núi” và nhìn xuống Ngài thấy thuyền các môn đệ đang ra giữa dòng và gặp gió bão (x. Mc 6,47), và Ngài đi xuống và đến với họ. Như thế, cụm từ kat’idian, “riêng” như thánh sử đã dùng trong nhiều trường hợp khác (x. 14,13; 17,1; 20,17; 24,3), cho biết trước là Chúa Giêsu sắp sửa mạc khải một điều quan trọng liên quan đến bản thân Ngài.

Hai phần cc. 24-27 và cc. 28-32 nằm trong khung cảnh là thuyền đang gặp sóng gió và Chúa Giêsu đến với họ. Câu chuyện bắt đầu từ khi sóng gió nổi lên (c. 24) và chấm dứt khi sóng gió yên lặng (c. 32). Hạn từ “gió”, anemos (cc. 24 và 32) đóng khung phần chính nầy.

Chúa Giêsu với các môn đệ (cc. 24-27)

So sánh với đoạn song song trong tin mừng Marcô (Mc 6,45-52), chúng ta thấy có nhiều điểm khác biệt. Trước tiên Matthêô nhấn mạnh bằng cách đặt đầu câu là “chiếc thuyền” bị lắc lư, to de ploion (c. 24); trong khi Marcô kể là chính “các môn đệ”, autous (Mc 6,48); tiếp đến là Matthêô bỏ yếu tố “Chúa Giêsu thấy” như trong Marcô, thay vào đó, Matthêô ghi nhận là các “môn đệ thấy” Chúa Giêsu đến với họ (c. 26). Sau cùng Matthêô thêm vào yếu tố (lắc lư) “bởi sóng”.

Trong các câu 24-27 Matthêô cho thấy sự tuơng phản trong thái độ và lời nói của Chúa Giêsu và các môn đệ. Trước tiên thánh sử trình bày cảnh con thuyền trước sóng gió trên biển. Sóng làm lắc lư con thuyền trên đó có các môn đệ. Động từ basanizō, chỉ được dùng 3 lần trong Matthêô diễn tả sự hành hạ trên con người do bệnh tật (8,6), trên ma quỉ do việc Con Thiên Chúa đến (8,29), và trên chiếc thuyền do sóng gió (14,24). Việc các môn đệ đặt câu hỏi về căn tính của Chúa Giêsu sau khi ngài làm cho sóng gió yên lặng (8,27) cho thấy biển cả biểu tượng cho một quyền lực hỗn mang mà con người không thể làm chủ được. Các môn đệ trên thuyền cũng bị lắc lư bởi các đợt sóng. Trong khi đó, Chúa Giêsu “đi trên mặt biển” mà đến với họ. Cách diễn tả nầy có nghĩa là Ngài làm cho biển cả tùng phục Ngài và Ngài thống trị được nó (x. Tv 77,20; Gióp 9,8; Is 43,16; Xh 14,10-15,21; Tv 107,23-32; Khôn ngoan 14,2–4).

Tiếp đến, Matthêô mô tả các phản ứng tinh thần của các môn đệ (c. 26). Trước tiên họ kinh hãi, tarassō, khi nhìn thấy Chúa Giêsu. Từ phantasma, chỉ xuất hiện nơi đây và có nghĩa là “sự hiện ra”, “ma”. Vua Hêrôđê cũng kinh hãi tương tự khi nghe tin vua dân do thái mới sinh ra (2,3). Như thế, cả hai đều có một phản ứng giống nhau trước sự xuất hiện của Chúa Giêsu Kitô. Phản ứng tiếp theo là sợ hãi, phobos (c. 26). Đây cũng là phản ứng trước các cuộc thần hiện (28,4.8).

Phần Chúa Giêsu (c. 27), Ngài củng cố các môn đệ bằng lời mạc khải về chính mình. Động từ thapseō, “vững lòng” được dùng chỉ ba lần, và trong hai lần khác được dùng vào cuối trình thuật chữa lành bệnh tật (9,2.22). Có thể nghĩ là Chúa Giêsu chữa lành các môn đệ khỏi sự kinh hãi trước sựđe dọa của sóng gió. Cụm từegō emi, “Thầy đây”, vừa là một khẳng định đối nghịch với phantasma, “ma”, vừa mang tính mạc khải về căn tính của Ngài. Ngài là Đấng hiện hữu (Xh 3:14; Is 41,4; 43,10; 47,8). Sau cùng là “đừng sợ!” Cụm từ nầy được Matthêô dùng hầu như chỉ trong bối cảnh của cuộc thần hiện (17,7; 28,5.10). Vậy, việc Chúa Giêsu đi trên mặt nước đến với các môn đệ là một biểu lộ vinh quang và căn tính của Ngài cho họ.

Chúa Giêsu với Phêrô (cc. 28-32)

Phần nầy là riêng của Matthêô. Thánh sử trình bày câu chuyện của Phêrô như là sự tiếp nối câu chuyện của các môn đệđểđi một mạc khải rõ hơn về căn tính của Chúa Giêsu. Thánh sử dựa trên kết cấu của phần trước và liên kết với nó qua cách diễn tả và lập lại từ vựng.

Trong phần trước, các môn đệ nói Chúa Giêsu là “ma”; ở đây Phêrô đặt câu điều kiện “Nếu là Thầy” (c. 28) dựa trên khẳng định “Thầy đây” (c. 27), nghĩa là Phêrô đã được khai sáng. Tiếp đến, Phêrô muốn kiểm chứng giả thiết của mình bằng đòi hỏi một phép lạ, được đi trên mặt nước như Chúa Giêsu (cc. 28.29). Sau cùng, thay vì “gió ngược” làm con thuyền lắc lư, và việc thấy Chúa làm các môn đệ sợ hãi (cc. 24.26), ở đây “gió mạnh” mà Phêrô thấy làm cho ông sợ hãi (c. 30). Lần nữa, tương tự như trường hợp của các môn đệ, Matthêô đặt một mạc khải về Chúa Giêsu vào lúc Phêrô sợ hãi: “Lạy Chúa, xin cứu con”. Thánh sử đã dùng cách diễn tả như một số nơi khác trong tin mừng: động từ “thấy” + động từ “sợ hãi” và lời tuyên xưng về Chúa Giêsu (x. 9,8; 14,30; 27,54). Phêrô không chỉ tuyên xưng Chúa Giêsu là Chúa, kyrie, mà cả Đấng có thể cứu vớt ông (1,21; 8,5).

Từ oligospistoi gồm oligos + pistis nghĩa là “ít + lòng tin”“ít + tin tưởng”. Khác với 8,26, lời khiển trách nầy nhắm thẳng vào Phêrô. Sự thiếu tin tưởng nầy trước tiên bởi ông đặt một câu điều kiện với Chúa Giêsu “Nếu là Thầy”, và tiếp đến làông xin đến với Chúa Giêsu mà không nhìn vào Chúa, mà nhìn vào gió. Lòng ít tin tưởng nầy được làm mạnh thêm bởi câu hỏi “tại sao lại nghi ngờ”, distazō. Tuy được cho biết đó là Chúa rồi nhưng lòng nghi ngờ vẫn còn (x. 28,17).

Kết luận (c. 33)

Trình thuật kết thúc với cảnh các môn đệ quỳ gối thờ lạy Chúa Giêsu và tuyên xưng “Quả thật, Ngài là Con Thiên Chúa” (c. 33). Thánh sử muốn tập trung vào Chúa Giêsu hơn là các môn đệ. Cao điểm của trình thuật chính là hành động “quỳ gối” và lời tuyên xưng “Quả thật, Ngài là Con Thiên Chúa”.

Chúa Giêsu, Đấng đã làm cho bánh cá hoá nhiều nuôi năm ngàn người cũng là Đấng đi trên mặt biển và cứu Phêrô khỏi chìm xuống nước. Ngài chính là Con Thiên Chúa, được sai đến trần gian để nuôi sống và cứu độ con người.

23.Giá của một ly sữa

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Hình ảnh Chúa Giêsu đi trên mặt nước cho chúng ta thấy tình thương của Chúa dành cho các môn đệ thật cao sâu. Dù đêm tối. Dù giông bão. Điều đó không cản bước để Ngài tiến đến với các môn đệ. Ngài đã đến thật đúng lúc, thật kịp thời. Ngài đến để phá tan giông bão. Ngài đến trả lại sự bình yên cho biển cả và cho cả các tông đồ đang hú hồn bạc vía!

Cuộc sống là bước đi trên biển đời. Có sóng gió. Có giông tố. Có những khó khăn khiến biết bao người chao đảo. Họ đang cần chúng ta làm điều gì đó để cứu giúp họ. Hằng ngày có biết bao bàn tay đang xòe ra cầu cứu chúng ta. Liệu rằng chúng ta có dám thoát ra khỏi sự bình yên của mình để đến với anh em và giúp họ vượt qua khó khăn hay không?

Có thể chúng ta nghĩ mình sẽ chẳng làm được những chuyện phi thường như Chúa Giêsu, điều này cũng chẳng sai, nhưng chúng ta lại có thể làm những chuyện bình thường với trái tim phi thường hết mình vì tha nhân. Những chuyện bình thường thật dễ làm nhưng lại đòi hỏi phải có tình yêu mới có thể tìm được hạnh phúc trong từng điều nhỏ nhặt bình thường.

Người ta kể rằng: Trưa hôm đó, có một cậu bé nghèo bán hàng rong ở các khu nhà để kiếm tiền đi học. Bụng đói cồn cào mà lục túi chỉ còn mấy đồng tiền ít ỏi, cậu liều xin một bữa ăn tại một căn nhà gần đó. Nhưng cậu giật mình xấu hổ khi thấy một cô bé ra mở cửa. Và thay vì xin gì đó để ăn, cậu đành xin một ly nước uống. Cô bé trông cậu có vẻ đang đói nên bưng ra một ly sữa lớn.

Cậu bé uống xong, hỏi “Tôi nợ bạn bao nhiêu?”.

“Bạn không nợ tôi bao nhiêu cả. Mẹ dạy rằng chúng tôi không bao giờ nhận tiền khi làm một điều tốt.”

Cậu bé cám ơn và đi khỏi. Lúc này, Howard Kelly thấy tự tin hơn nhiều, mạnh mẽ hơn nhiều.

Nhiều năm sau, cô gái đó bị căn bệnh hiểm nghèo. Các bác sĩ trong vùng bó tay và chuyển cô lên bệnh viện trung tâm thành phố để các chuyên gia chữa trị. Tiến sĩ Howard Kelly được mời khám. Khi nghe tên địa chỉ của bệnh nhân, một tia sáng loé lên trong mắt ông. Ông đứng bật dậy và đi đến phòng bệnh nhân và nhận ra cô bé ngày nào ngay lập tức. Ông đã gắng sức cứu được cô gái này. Sau thời gian dài, căn bệnh của cô gái cũng qua khỏi. Trước khi tờ hoá đơn thanh toán viện phí được chuyển đến cô gái, ông đã viết gì đó lên bên cạnh.

Cô gái lo sợ không dám mở ra, bởi vì cô chắc chắn rằng cho đến hết đời thì cô cũng khó mà thanh toán hết số tiền này.

Cuối cùng cô can đảm nhìn, và chú ý đến dòng chữ bên cạnh tờ hoá đơn….

“Đã thanh toán đủ bằng một ly sữa.”

Ký tên

Tiến sĩ Howard Kelly.Nước mắt vui mừng cứ thế dâng trào và lời từ trái tim cô gái thốt lên trong nước mắt: “Cảm ơn ông!.”

Đây là câu chuyện có thật. Dr. Howard Kelly là một nhà vât lý lỗi lạc, đã sáng lập ra Khoa Ung thư tại trường Đại học John Hopkins năm 1895.

Cuộc sống luôn mời gọi chúng ta hãy làm điều gì đó có ích cho tha nhân. Bởi chung quanh chúng ta có biết bao mảnh đời bất hạnh lầm than. Cuộc sống luôn đưa đến cho chúng ta biết bao bàn tay đang cần chúng ta dìu họ đi qua những khó khăn, hay giúp họ đứng dạy bước tiếp sau những lần vấp ngã. Việc làm này tưởng chừng như chỉ là một việc tốt nhỏ bé rồi sẽ trôi qua, nhưng thực ra nó sẽ được đền bù khi chúng ta gặp khó khăn. Đó là trường hợp của cô gái đã tặng người bạn nghèo một ly sữa để làm động lực cho câu ta tiến thân và thành danh mai sau.

Vâng, chúng ta có thể không có khả năng đi trên mặt nước, nhưng chúng ta có thể nâng đỡ, dìu dắt anh em qua những khó khăn của cuộc sống. Vì cuộc sống chung quanh chúng ta có quá nhiều những hoàn cảnh đang cần chúng ta thi ân giúp sức.

Chúng ta có thể không có khả năng hô phong hoán vũ nhưng chúng ta có thể xoa dịu những đau thương cho anh em bằng sự chia sẻ, bằng cảm thông liên đới.

Chúng ta có thể không có khả năng ngăn gió chống bão nhưng chúng ta có thể giúp anh em làm lại cuộc đời sau những thất bại làm ăn.

Vâng, chúng ta không cần phải làm những chuyện cao siêu, chỉ cần cho một ai đó ly nước với một tấm lòng chân thành là được. Cuộc sống của chúng ta chỉ cần có tấm lòng như dẫn người già qua đường, nhịn chút quà sáng để cho các em học sinh khó khăn, biết an ủi động viên người đang đau bệnh hay thất bại, tủi hờn… Đó là những việc chúng ta đang làm cho cuộc sống này tốt đẹp hơn.

Cuộc đời ai mà không cần sự nâng đỡ, bao bọc của người khác. Thật không ngoa khi nói rằng chúng ta đều lớn lên trong tình thương giúp đỡ của người khác cụ thể là cha mẹ, là thầy cô, bạn bè… Thế nên, hãy sống có ích cho tha nhân. Hãy làm điều gì đó tốt đẹp cho tha nhân. Hãy đến với tha nhân để xoa dịu nỗi đau cho họ, để dìu họ đi qua những khổ đau, để giúp họ đứng dậy làm lại cuộc đời.

Xin Chúa cho chúng ta có đôi chân nhẹ nhàng, thanh thoát để đến với tha nhân trong tinh thần phục vụ mà không mong đền đáp. Amen.

24.Dìu nhau tiến bước

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Khi đối diện với đau khổ chúng ta thường hỏi: Chúa ở đâu? Và khi đứng trước những nghi nan chúng ta thường đặt điều kiện: “Nếu có Thiên Chúa xin hãy cứu con?”. Thế nhưng, đau khổ vẫn cứ tiếp diễn trên thế gian. Mỗi ngày trôi qua chúng ta phải chứng kiến biết bao cái chết đau thương, biết bao những bất hạnh rủi ro đến với con người chúng ta. Nhìn vào cuộc đời khiến nhiều người bi quan bảo rằng: “Đời là bể khổ”, hay ‘Cây xanh thiếu lá nó xanh xanh – Biết mình thế này thà đừng sinh ra”. Quả thực, nếu sinh ra trong cuộc đời để rồi chịu cực, chịu khổ, chịu nhiều đắng cay đoạ đầy là một bất hạnh cho kiếp người chúng ta. Nhưng thực ra, trong cuộc sống vẫn có những niềm vui. Niềm vui của tình liên đới, của sự chia sẻ, của lòng bác ái, của tinh thần hy sinh dấn thân phục vụ vì lý tưởng và vì đồng loại…

Trong giáo xứ Bình Lâm có một em bé 6 tuổi tên là K’ Thủ Lĩnh. Em vừa lọt lòng mẹ đã bị bỏ đi. Điều tệ hại là chính người vứt em đi đã bẻ gãy đôi chân của em thành tàn phế rồi mới bỏ em bên vệ đường. Em đã được một gia đình người dân tộc Châu Mạ đón về nuôi. Mỗi ngày em đi học phải có người bồng ẵm đi, nếu đi một mình phải đi bằng khuỷ chân thật tội nghiệp! Thấy cảnh thương tâm, giáo xứ đã quyết định đưa em đi bệnh viện để chữa trị đôi chân. Tại trung tâm chấn thương chỉnh hình ơn Chúa đã đến với em và giáo xứ. Vì đã có nhà tài trợ sẵn lòng trả toàn bộ chi phí cho ca mổ và suốt thời gian điều trị cho em. Đây là một món quà quá bất ngờ đối với gia đình mẹ nuôi của em và với giáo xứ. Chúng ta cùng tạ ơn Chúa vì trên thế gian này vẫn còn đó những tấm lòng quảng đại được trao ban một cách quảng đại và vô vị lợi.

Thực vậy, nếu không có tấm lòng nhân ái được trao ban thì những bất hạnh rủi ro đến với nhân loại sẽ mãi mãi không bao giờ nguôi ngoai, nhưng nếu có nhiều tấm lòng nhân ái, biết chia sẻ cho nhau, thì những đau thương mất mát sẽ sớm được hàn gắn và chữa lành. Vì có ai đó đã nói rằng:

“Có một đường đi, đi chung Đường sẽ vui hơn,

Có một quặn đau, đau cùng sẽ sớm nguôi ngoai”.

Trở lại với bài phúc âm của Chúa nhật 18 thường niên, thánh Matthêu đã nhấn mạnh với chúng ta một điều: nếu không có lòng nhân ái của em bé dâng cho Chúa 5 chiếc bánh và hai con cái, có lẽ đã không có phép lạ hoá bánh ra nhiều để chia sẻ với hơn 5 ngàn người đang đói vào buổi chiều hôm đó. Bài phúc âm hôm nay, Chúa còn khẳng định với chúng ta: sự dữ luôn có mặt ở quanh ta. Cuộc đời không thiếu những sóng gió nghi nan. Nhưng, Chúa có thể làm những điều tốt hơn từ trong những bất hạnh này. Em K’ Thủ Lĩnh từ trong bất hạnh nhưng hôm nay em đã học được bài học về nhân ái khi đôi chân của em đang được chữa trị. Và Chúa Giêsu Ngài đã làm phép lạ từ lòng tốt của người dâng cho Chúa bánh và cá. Phải chăng, Chúa muốn dạy chúng ta bài học, khi đứng trước khổ đau của anh em mình, chúng ta phải tự hỏi: chúng ta đang ở đâu khi khổ đau ập xuống anh em? Chúng ta đã làm gì cho anh em mình khi chứng kiến những cảnh tang thương và bất hạnh của anh em? Sự dữ vẫn đang hoành hành. Quyền lực của ác thần vẫn làm cho con người sợ hãi, đôi khi đánh mất niềm tin. Nhưng Chúa vẫn đang mời gọi chúng ta: Anh em đừng sợ, vì Thầy đã thắng thế gian. Thầy đã thắng thế gian, đó cũng là tiếng mời gọi các môn đệ của Chúa là chúng ta, hãy cũng với Chúa để chiến thắng sự dữ, để đẩy lùi cái ác ra khỏi thế gian, để xoa dịu những đau thương mất mát trong cuộc đời. Đồng thời Ngài cũng mời gọi chúng ta hãy đưa tay cho Ngài dìu chúng ta bước qua những khó khăn của dòng đời. Thánh Phê-rô đã có thể đi trên mặt nước, đi qua hiểm nguy khi ông nhận ra Chúa đang đến với ông. Cuộc đời chúng ta cũng chỉ bình an trước gian nan khi chúng ta tin tưởng rằng: Chúa vẫn đang đồng hành với chúng ta. Chúa vẫn đang mời gọi chúng ta hãy trao vào tay Chúa những khó khăn của cuộc đời để Chúa sẽ giải thoát chúng ta khỏi mọi hiểm nguy.

Và hôm nay với biết bao khổ đau của tha nhân, Chúa cũng muốn chúng ta hãy là chứng nhân cho tình thương và lòng nhân ái của Chúa, khi chúng ta cùng cầm tay nhau vượt qua những thăng trầm của cuộc đời. Khi chúng ta biết chạnh lòng thương xót trước những bất hạnh của tha nhân. Khi chúng ta không phủi tay trốn tránh trách nhiệm trước những nhu cầu của thời đại. Vâng cuộc đời sẽ ấm áp hơn nếu mỗi người biết liên đới và chia sẻ cho nhau để làm vơi đi những khổ dau, những lắng lo trong cuộc sống.

Chúng ta có thể không có khả năng làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, nhưng chúng ta có khả năng trao vào tay Chúa một chút lương thực ít ỏi, để Chúa có thể nhân rộng cho hàng ngàn người hưởng dùng.

Chúng ta có thể không có khả năng đi trên mặt nước, nhưng chúng ta có thể nâng đỡ, dìu dắt anh em qua những khó khăn của cuộc sống.

Chúng ta có thể không khiến cho sóng gió ba đào im lặng, nhưng chúng ta có thể góp phần đầy lùi sự dữ và xoa dịu những đau thương bằng lòng quảng đại và nhân ái của chúng ta.

Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta lòng mến nồng nàn để chúng ta trở nên khí cụ mang tình yêu và lòng nhân ái đến cho anh chị em chung quanh. Nguyện xin Chúa ban thêm đức tin và đức cậy để chúng ta luôn biết cậy dựa vào ơn trợ giúp của Chúa và an bình sống trong sự quan phòng của ChúaAmen.

25.Khi hành trình đức tin có sóng gió

(Suy niệm của Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn)

Vào khoảng năm 860 trước công nguyên, vương quốc Israel bị ảnh hưởng bởi tà giáo. Vua Ahab và hoàng hậu Izabel nuôi dưỡng hàng ngàn tiên tri Baal. Nhiều đền thờ thần thoại được xây lên. Dân chúng cũng hùa theo việc cúng bái Baal. Nhưng tiên tri của Giavê Thiên Chúa là Êlia vẫn can đảm đương đầu với đám đông phản trắc để bênh vực chính giáo.

Một mình ông dám thách thức 450 tiên tri Baal hãy chứng minh cho toàn dân biết đâu là Chúa thật. Êlia bảo người ta bắt hai bò tơ để đôi bên cùng xẻ thịt, đặt lên củi, và khẩn cầu. Thần linh nào đáp lời nguyện xin, cho lửa xuống thiêu cháy đống củi cùng của lễ, thì đó chính là Đấng mọi người phải tôn thờ.

Sau khi giết bò và chất lên bàn thờ, 450 tiên tri và tư tế Baal bắt đầu kêu khấn: “Lạy thần Baal, xin đáp lời chúng tôi.” Nhưng không một tiếng trả lời! Họ bắt đầu nhảy nhót như kiểu lên đồng. Nhưng cũng chẳng thấy ai đáp lại! Êlia mới chế nhạo: “Các ngươi phải kêu lớn lên nữa. Không chừng thần linh đang suy tính hay bận rộn chuyện gì; cũng có thể ngài đi vắng hoặc đang ngủ. Đánh thức ngài dậy đi!” Các môn đệ thần Baal ra sức kêu gào, lại còn rạch mình cho máu chảy lai láng như kích động lòng trắc ẩn của thần linh. Nhưng vẫn không thấy gì.

Lúc này Êlia mới giơ tay cầu nguyện: “Lạy Giavê Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Israel, ước gì hôm nay người ta nhận biết chính Người… xin nhậm lời tôi” (1 V 18,36-37), và lập tức Giavê cho lửa từ trời thiêu cháy hết mọi của lễ của Êlia. Thấy vậy, toàn dân tung hô Thiên Chúa. Thế rồi, khi được lệnh của Êlia, họ đem các tiên tri và tư tế Baal xuống núi giết sạch.

Chuyện sảy ra quá bất ngờ khiến hoàng hậu Izabel bàng hoàng căm tức. Bà thề sẽ lấy mạng Êlia bằng mọi giá. Khi biết thế, vị tiên tri tức tốc lên đường lánh nạn. Sau một ngày trốn chạy vất vả trong vùng sa mạc khô khan, ông cảm thấy mệt mỏi chán chường. Con người can đảm và nhiệt thành hôm nào bây giờ lại rơi vào tình trạng hoang mang cực độ đến nỗi muốn chết cho yên. Ông thốt lên: “Nay đã đủ rồi, lạy Giavê, xin cất mạng tôi đi, tôi cũng không hơn gì các bậc tổ tiên”.

Người hùng của Thiên Chúa mà cũng có lúc đảo điên như thế thì huống chi là tôi! Thế nhưng câu chuyện không chỉ dừng lại ở đó. Kinh thánh kể tiếp:

Chính trong giây phút giao động và chán nản đó của người hùng, sứ thần Thiên Chúa đã đến nâng đỡ ông bằng bánh và nước. Êlia đã ăn và uống. Sau đó tiếp tục hành trình 40 ngày đêm đến núi Sinai. Tại đây ông đi vào cuộc gặp gỡ và đối thoại với Thiên Chúa. Cuộc gặp gỡ sảy ra không phải trong bão tố, đất động hay lửa chớp, nhưng trong làn gió thoảng đưa.

Từ trong làn gió thoảng ấy, Thiên Chúa cất lời nâng đỡ và chỉ dẫn Êlia. Cuộc gặp gỡ thân tình với Giavê đã kéo ông khỏi hố sâu của lao đao thất vọng. Kết quả, Êlia tìm lại được bình an và sức mạnh nội tâm, tiếp tục ra đi chu toàn sứ mạng làm chứng cho Thiên Chúa.

Thiết tưởng hành trình đức tin của người Kitô hữu cũng có những lúc khốn khó lao đao như Êlia vậy. Dù là người nhiệt tâm và can đảm cách mấy cũng không tránh khỏi tình trạng bị thế gian săn đuổi, đe doạ, và bao chước cám dỗ tấn công. Lắm lúc tưởng như sắp chìm sâu trong bão tố của hận thù, ích kỷ, đam mê. Ngay như thánh Phêrô, vị tông đồ năng nổ và xông xáo nhất trong hàng ngũ các tông đồ, cũng đã từng bị sóng gió làm đảo điên đến nỗi “sắp chìm xuống” (Mt 14,30). Nhưng khi ông thốt lên lời kêu van, “Lạy Thầy, xin cứu con”, thì bàn tay đỡ nâng của Thiên Chúa đã giải thoát và đem lại bình an ngọt ngào.

Cho đến hôm nay, những người theo Đức Kitô vẫn chưa hết bị sóng gió trần gian bủa vây, không chỉ là những truân chuyên trong cuộc sống, nhưng còn là những cám dỗ tinh vi của quỉ ma. Nhưng liệu trước các phong ba dữ dằn đó, tôi có nghe được tiếng nói đỡ nâng và nhắc nhở của Thiên Chúa chăng? Lắm khi tiếng nói của Ngài rất nhẹ nhàng như “gió hiu hiu thổi” chứ không phải như tiếng đất động, bão tố hay hoả hào.

Thử hỏi: nếu là một thanh niên hay thiếu nữ đang tuổi lớn lên, trước những lời réo gọi của đam mê xác thịt, liệu tôi có nghe được tiếng nhắc nhở “phúc cho ai có lòng trong sạch” nơi lương tâm để vượt thoát cạm bẫy dục tình và tiến lên núi cao với Chúa không?

Nếu vì nhẹ dạ mà sa ngã hay mang thai, trước những sóng gió của từ khước khinh bỉ, hay giòng xoáy phá thai của thời đại muốn nhận chìm sự sống, liệu tôi có nghe được tiếng bảo thì thầm trong lương tâm rằng “phá thai là giết người”, và rồi hướng nhìn lên Chúa, kêu nài một sự đỡ nâng an ủi không?

Nếu là người mẹ có đứa con hư dại hay người vợ có ông chồng hủ bại, liệu tôi có nghe được lời nhắc nhở “hãy vững tin” của Đức Giêsu để tiếp tục hành trình làm nhân chứng cho đạo Chúa không?

Nếu là người cha phải lao đao vì trách nhiệm gia đình, bị giong tố của xã hội tấn công, bị chèn ép, hiểu lầm, khích bác…, liệu tôi có nghe được tiếng nói “Đừng sợ, có Ta đây”, và rồi đưa tay cho Đức Giêsu để Ngài kéo lên không?

Cuộc đời người Kitô hữu được ví như hành trình tiến lên núi Thánh giữa sa mạc nắng cháy, hay như chiếc thuyền đang tìm về bến bờ giữa bao sóng gió to và gió ngược. Không có ơn Chúa đỡ nâng, chắc chắn con người sẽ ngã gục. Cũng như nếu không có những chiếc bánh và ấm nước Thiên Chúa trao cho, Êlia đã bỏ cuộc giữa đường; hay nếu không có bàn tay Đức Giêsu giơ ra kéo lên, Phêrô đã chìm sâu trong sợ hãi và hoang mang.

Song khi có Chúa, bình an và sức mạnh sẽ đến. Dù giông tố và thách đố trần gian cứ sảy ra, con thuyền đời tôi vẫn thẳng tiến, vì có Thiên Chúa đồng hành.

Nhưng để được như thế, có lẽ tôi phải không ngừng kêu lên: “Lạy Chúa, xin cứu con” (Mt 14,30).

26.Chúa Nhật 19 Thường Niên

(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

Nghe xong trang Tin Mừng hôm nay, chắc quý ông bà và anh chị em liên tưởng đến thảm hoạ đắm tàu Titanic xảy ra hồi 2 giờ 20 phút sáng ngày 15 tháng 4 năm 1912. Đó là con tàu lớn nhất và sang trọng nhất thời đó. Nó được thiết kế để không thể bị đắm, thế mà đã bị đắm ngay trong chuyến vượt biển đầu tiên từ Anh sang Mỹ Châu, làm chết 1.513 người. Còn con thuyền của môn đệ tuy nhỏ hơn, đơn sơ gấp mấy ngàn lần con tàu TItanic, nó không đăm vào băng nhưng bị sóng đánh tơi bời. Các ông không chết và thuyền không chìm vì có Chúa đến cứu dù có bán tín bán nghi nhưng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa toàn năng, Ngài thống trị bá chủ muôn loài muôn vật Ngài đã dẹp yên sóng dữ.

Từ chốn biển cả trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta nhìn lại xã hội chúng ta đang sống như là biển khơi và mỗi người hay gia đình chúng ta là những chiếc thuyền đang ra khơi. Đi trên biển đời, chúng ta có lúc gặp được những con gió mát là hạnh phúc, có lúc biển lặng là bình an, mạnh khoẻ, thành công… con thuyền của ta trôi êm đềm nhẹ nhàng trôi theo dòng đời đáng sống; nhưng cũng có lúc gặp gió to là bệnh tật, gian nan khó khăn, làm ăn thất bại, nghèo đói… rồi gặp sóng lớn là gia đình bất hạnh, con cái hư hỏng nghiện game, cờ bạc, độ bóng đá, nghiện ma tuý… những lúc ấy con thuyền đời ta hay gia đình ta bị chao đảo, dễ buông xuôi cho nó chìm theo dòng đời nghiệt ngã vì kém lòng tin vào chính mình, nhất là vào Thiên Chúa và sức mạnh của Lời của Chúa.

Đức tin chúng ta đi từ tình trạng yếu đuối tiến đến việc tuyên xưng mạnh mẽ, nhờ cảm nghiệm được sự hiện diện đầy quyền năng của Chúa Giêsu trong chính hoàn cảnh thách đố đức tin của các môn đệ, các Thánh và cả chúng ta. Chẳng hạn, Tông đồ Phêrô hôm nay, giữa sóng gió nổi lên, ông hoảng sợ, sợ đến nỗi Chúa đến mà tưởng là ma, rồi Chúa đến nói rõ rằng: “Thầy đây, đừng sợ”. Ông Phêrô cũng chưa tin chắc 100% nên ông đã ra điều kiện với Chúa để kiểm chứng, ông nói: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài”. Chúa Giêsu nói cứ đến, thế là ông nhảy vào khoảng trống, bước ngay xuống nước để đến với Chúa. Cho nên, đức tin của ông Phêrô là một sự liều lĩnh, nhưng không phải là sự liều lĩnh tuyệt vọng: nhảy xuống nước để tự tử! Trái lại, tin là một liều lĩnh tràn đầy hy vọng, vì tin chắc Chúa đang đứng đó, Ngài là Đấng Cứu Độ, là sự sống, là Con Thiên Chúa hằng sống, quyền năng và đầy lòng thương xót luôn cứu giúp mỗi khi kêu cầu. Ấy nhưng, đang khi đi thấy gió thổi thì ông Phêrô đâm sợ, và khi bắt đầu chìm dần, ông la lên: “Thưa Ngài, xin cứu con với!” Đức Giê-su liền đưa tay nắm lấy và cứu ông. Tại sao ông chìm? Vì yếu lòng tin và nghi ngờ Chúa trước những cơn sóng dữ.

Cũng vậy, đức tin của chúng ta và sự dấn thân với đức tin trong những hoàn cảnh sống khó khăn, thử thách, thậm chí là đau đớn sóng gió cuộc đời là điều hiển nhiên phải có vì chưng, Thánh Phêrô quả quyết: “Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội, – vàng là của phù vân, mà còn phải chịu thử lửa. Nhờ thế, khi Đức Giê-su Ki-tô tỏ hiện, đức tin đã được tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem lại vinh quang, danh dự” (1Pr 1,7). Cho nên, giữa sóng gió cuộc đời là gặp gian nguy, thử thách, chúng ta sợ hãi, kém tin vào chính mình và nhất là Chúa, thì con thuyền của ta càng nguy hiểm hơn, vì chính nỗi sợ hãi sẽ nhấn chìm chúng ta, khiến chúng ta buông xuôi, mất niềm tin và tuyệt vọng. Khi Phêrô chỉ nghĩ đến Chúa, chỉ dựa vào sức mạnh của Chúa, thì ông mạnh mẽ đi trên mặt nước, nhưng khi ông nghi ngờ, chỉ nghĩ đến mình, chỉ co rút vào bản thân, thì ông bị chìm xuống. Chúng ta yếu đuối, bất lực trước những hoàn cảnh khó khăn, thử thách, những đớn đau thể xác lẫn tinh thần nhưng nếu chúng ta nghĩ đến Chúa, dựa vào sức mạnh toàn năng của Ngài và kêu cầu Ngài, thì Ngài sẽ kéo chúng ta lên bằng cách cho chúng ta ý chí, nghị lực, thêm đức tin cho ta để ta vượt khó, vượt khổ và thoát tội. Cụ thể, Anh Nguyễn Phùng Linh, anh đã tin vào Lòng Chúa xót thương, tin vào quyền năng của Chúa mạnh mẽ cho nên anh kêu cứu Chúa, nhờ tôi cầu nguyện kêu xin Chúa và nhờ Đức Mẹ chuyển cầu cứu anh khỏi chết chìm trong vũng lầy ma tuý. Qủa thế, Chúa cứu anh và kéo anh lên quay trở về sau gần hai mươi năm sống trong tội lỗi. Hôm nay anh gọi về với tôi và xin làm chứng với cộng đoàn về đức tin vào Chúa, Chúa thương cầm lấy tay anh như đã từng cầm lấy tay Phêrô đưa quay cơn sóng gió cuộc đời của anh. Xin mời anh Linh:

Vâng, đức tin của chúng ta không thể chỉ gói trọn nơi những lời tuyên xưng, những buổi tham dự lễ nghi phụng tự, những khi lãnh nhận bí tích, nhưng đức tin đó phải đi vào cuộc sống thực sự của chúng ta với mọi sinh hoạt của mình hay gia đình, hay ngoài xã hội. Tin Chúa là phải dấn thân vào thực tại, sống chung đụng với mọi người, chấp nhận đi vào những cực nhọc, vất vả, khó khăn, nguy hiểm như anh Linh vừa mới chia sẻ, anh chấp nhận đau đớn thân xác khi cơn nghiện hoành hành trong thời gian anh cai, anh chấp nhận tất cả để được Chúa biến đổi chữa lành, đã đưa anh qua những cơn sóng gió cuộc đời anh.

Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, xin cho mỗi người chúng ta luôn tin rằng Chúa luôn hiện diện và liên đới với chúng ta trong mọi nỗi gian truân, để từ bên trong, Ngài giúp chúng ta vượt qua mọi sóng gió bão táp của cuộc hành trình đức tin tiến về quê hương vĩnh hằng trên trời bình an mà không phải đắm chìm. Tin Chúa phải vâng nghe Lời Ngài, vâng lời tức phải sống, sống là chấp nhận thánh ý Chúa và thi hành dù khi vui sướng hay gian nan khốn khổ. Một lòng tin như thế “sẽ làm cho chúng ta có cái nhìn bên trong được sắc xảo và giúp trí tuệ khám phá sự hiện diện sinh động của Đấng an bài trong diễn tiến của các biến cố, hoàn cảnh” (Giáo Hoàng Gioan Phaolô, Thông điệp, Đức Tin và Chân Lý, 1998, số 16). Vì vậy, đọc, suy niệm và sống Lời Chúa hằng ngày sẽ củng cố lòng tin đồng thời giúp chúng ta sống can trường và bình an trong đau khổ, vui tươi khi hoạn nạn, và lạc quan khi gian khổ. Thiên Chúa để chúng ta phải chịu thử thách, gian khổ nhằm để tôi luyện lòng tin thêm vững chắc, đồng thời Ngài luôn ban mọi sức mạnh cần thiết đủ để giúp chúng ta vượt qua mọi thử thách của cuộc đời qua việc sống Lời Chúa hằng ngày. Với đức tin như thế, xin mời cộng đoàn đứng lên tuyên xưng đức tin:

27.Chúa Giêsu đi trên mặt biển

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)

Bài Tin Mừng hôm nay (Mt 14,22-33) là một trình thuật được viết theo thể văn “thần hiện”, trong đó, các yếu tố văn chương được sắp xếp để làm nổi bật một cuộc tỏ hiện lạ thường và bất ngờ của một hữu thể thần linh, dành cho một số đối tượng đặc biệt, nhằm mục tiêu mặc khải một phẩm chất hay một hành động thần linh.

Hôm ấy, sau khi dân chúng ăn no nê bởi phép lạ hóa bánh ra nhiều (14,13-21), “Đức Giêsu bắt các môn đệ xuống thuyền đi qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng” (c.22). Đức Giêsu thúc giục, thậm chí là ép buộc, các đồ đệ xuống thuyền. Người muốn các ông mau chóng rời xa khung cảnh “huy hoàng” của một phép lạ cả thể, và rời xa đám đông đang phấn khích vì phép lạ đó. Chính Người đảm nhận việc giải tán đám đông dân chúng này.

“Giải tán xong, Người lên núi riêng một mình mà cầu nguyện. Tối đến, Người vẫn ở đó một mình” (c.23). Đây là lần đầu tiên Mt nói về việc Đức Giêsu cầu nguyện, cho dù, như Lc cho thấy, đây là một việc làm rất thường xuyên của Người. Lần thứ hai và cũng là lần cuối cùng Mt kể về việc Đức Giêsu cầu nguyện sẽ là trong câu chuyện ở vườn Ghếtsêmani (26,36tt). Điều này kín đáo cho chúng ta hiểu nội dung lời cầu nguyện của Đức Giêsu tối nay trên núi, khi Người ở riêng một mình, còn các môn đệ thì đang ở trong thuyền lênh đênh trên biển. Quả thực, sự kiện Người vội vã bắt buộc các môn đệ rời xa đám đông sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, và sự song song của cảnh tượng cầu nguyện này với trình thuật Ghếtsêmani, cho phép chúng ta nghĩ rằng lời cầu nguyện của Đức Giêsu ở đây có liên quan đến cám dỗ về lý tưởng Mêsia hiển thắng mà các môn đệ của Người (và Hội Thánh mọi thời) phải đối diện. Nói cách khác, sự kiện Đức Giêsu buộc các môn đệ xuống thuyền khi Người giải tán đám đông, đề nghị một cách hiểu Đức Giêsu cầu nguyện suốt đêm cho các môn đệ, để họ không bị sa vào chước cám dỗ về một Đấng Mêsia quyền năng, hiển hách, “hoành tráng”.

Khi Đức Giêsu đang cầu nguyện một mình trên núi, thì chiếc thuyền của các môn đệ “đã ra xa bờ cả mấy cây số, bị sóng đánh vì ngược gió” (c.24). Trong Mt, con thuyền là biểu tượng của Hội Thánh (x. 8,23-27). Các môn đệ đang ở trong con thuyền ấy, còn con thuyền thì đang lênh đênh giữa biển.

Trong tư duy Thánh Kinh (x. Is 27,1; 51,9t; Đn 7; G 7,12…), biển là nơi cư ngụ của các mãnh lực tà thần. Khi con thuyền đã ra xa bờ “cả mấy cây số” (dịch sát: nhiều stađiôs; mỗi stađiôs = 185m), tức là con thuyền đang ở giữa vùng cư ngụ và hoạt động của các mãnh lực đó. Cộng đoàn các môn đệ, như thế, đang ở trong tình trạng bị đe dọa bởi các mãnh lực của bóng tối và quyền lực tà thần.

Con thuyền của các môn đệ đang bị sóng đánh vì ngược gió. Trước đây, ở 8,24, tác giả Mt đã từng dùng một lối nói đặc biệt hơn nhiều để mô tả hoàn cảnh của cộng đoàn Hội Thánh: con thuyền bị tra tấn (basanizô) bởi các cơn sóng. Khi viết về tình trạng con thuyền ở 8,24 cũng như ở 14,24, có lẽ tác giả Mt liên tưởng đến những hoàn cảnh đau khổ mà Hội Thánh phải trải qua khi thi hành sứ mạng. Nhưng có sự khác biệt giữa hai hoàn cảnh. Một bên là những cơn sóng “tra tấn” con thuyền, như thể có “động đất” (seismos) trên biển (x. 8,24), tức là những khó khăn đến từ xã hội bên ngoài, từ những hoàn cảnh biển đời nổi sóng “hành hạ/tra tấn” con thuyền Hội Thánh. Còn bên kia, trong 14,24, là một nguyên nhân bên trong: trạng thái tâm linh và tinh thần không đúng đắn của các môn đệ. Đức Giêsu sai các môn đệ xuống thuyền để “sang bờ bên kia” (c.22), là nơi mà các ông đã từng đến với Người (x. 8,28), tức là trong một vùng dân ngoại. Ngọn gió thổi ngược (c.24) ngăn cản các môn đệ thi hành lệnh truyền của Đức Giêsu, có lẽ chính là phản ứng của các ông khi phải rời bỏ nơi chỗ vừa diễn ra một biến cố hoành tráng cả thể, rời bỏ nơi chỗ trong đó vừa bùng lên niềm hy vọng về một sự chiến thắng hiển hách, tức là niềm hy vọng rằng Đức Giêsu sẽ trở thành một thủ lãnh huy hoàng của đám đông dân chúng đang phấn khích vì được ăn no nê sau một phép lạ cả thể. Chính trạng thái tâm hồn không muốn rời xa niềm hy vọng đó đã làm cho con thuyền của các môn đệ tròng trành: con thuyền bị ngược gió.

“Vào khoảng canh tư, Đức Giêsu đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ” (c.25). Trong sách Gióp, Thiên Chúa “đi trên mặt nước” (G 9,8: “Duy mình Người trải rộng các tầng trời, đạp lên trên ba đào biển cả”; x. 38,16). Bằng cách lướt đi trên mặt biển, Đức Giêsu cho thấy Người là Đấng được Thiên Chúa ban cho quyền lực thần linh tuyệt đối.

Nhưng phản ứng của các môn đệ lúc này là phản ứng của sự không tin vào quyền năng và phẩm giá thần linh đó. Trong cái trạng thái tâm linh không thích hợp như đã nói trên kia (“ngược gió”), khi được nhìn thấy sự thể hiện phẩm tính và quyền lực thần linh của Đức Giêsu qua việc Người đi trên mặt biển mà đến với họ, các môn đệ đã không có lòng tin vào quyền năng và phẩm giá thần linh đó. “Thấy Người đi trên mặt biển, các môn đệ hoảng hốt bảo nhau: ‘Ma đấy!’ và sợ hãi la lên” (c.26). Họ không nhận ra nơi Đức Giêsu vị “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (x. 1,23). Và vì thế, họ từ khước chấp nhận mọi tính cách hiện thực trong sự hiện diện của Người bên cạnh họ. Họ nghĩ đó là ma! Họ từ chối thực tại Người – Chúa nơi Ngài.

“Đức Giêsu liền bảo các ông: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!” (c.27). Đối diện với phản ứng tiêu cực và sợ hãi của các môn đệ, Đức Giêsu tự giới thiệu mình. Mệnh đề “cứ yên tâm” nhằm trấn an các môn đệ khỏi nỗi sợ mà các ông đang trải qua vì thiếu lòng tin. Ứng với lời kêu gọi đó là một khẳng định quan trọng “chính Thầy đây!”. Lời khẳng định này trước hết nhằm mục tiêu điều chỉnh: chính là Thầy đây chứ không phải là ma như anh em lầm tưởng. Nhưng đồng thời, lời khẳng định này lại trùng khít với biểu thức mà Thiên Chúa đã dùng để tự mặc khải về chính mình trong Cựu Ước (x. Xh 3,14; Is 43, 1.3.10t).

“Ông Phêrô liền thưa với Người: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài” (c.28). Ông Phêrô có vẻ tin vào Đức Giêsu. Nhưng đó là lòng tin vào quyền năng làm những sự lạ lùng của Đức Giêsu chứ không phải là lòng tin vào tình yêu của Người. Ông muốn được “đi trên mặt nước” tức là muốn được tham dự vào cái điều kiện và thân phận thần linh của Đức Giêsu. “Đức Giêsu bảo ông: “Cứ đến!” (c.29a). Chúa không từ chối ông Phêrô, trái lại, còn mời ông thực hiện ước muốn của ông. Vấn đề không phải là Người sẵn sàng thỏa mãn tham vọng của ông Phêrô. Thực ra, mọi kẻ đi theo Người đều được mời gọi đón nhận và sống trong tư cách và thân phận của người con Thiên Chúa (x. 5,9). Vì thế, Đức Giêsu không ngần ngại bảo ông Phêrô đi trên mặt nước mà đến với Người. Vậy “ông Phêrô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Đức Giêsu” (c.29b).

“Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ” (c.30a). Ông mong được hưởng một điều kiện thần thiêng không có bất cứ chướng ngại vật nào. Ông vẫn mang tâm tính của một người mong phép lạ. Ông vẫn ước mong một cuộc “đến với Thầy” theo một cách thức lạ thường, huy hoàng và không khó khăn. Ông đã quên mất rằng người ta trở nên con Thiên Chúa là giữa những chống đối, bách hại và khó khăn mà thế gian gây ra, như chính Đức Giêsu đã nói: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa” (5,10-11).

“Khi bắt đầu chìm, ông Phêrô la lên: “Thưa Ngài, xin cứu con với!” (c.30b). Nỗi sợ hãi của ông Phêrô ở đây cũng giống như nỗi sợ hãi của các môn đệ trước đây trong câu chuyện con thuyền của các ông bị “tra tấn” bởi các con sóng lớn trên biển (x. 8,23tt). Trong câu chuyện đó, cũng như trong câu chuyện hôm nay, các môn đệ hoặc ông Phêrô đều kêu cầu với Đức Giêsu, xin Người can thiệp trong những hoàn cảnh khó khăn. Thái độ và cách hành xử này, xét theo một khía cạnh, là thái độ đáng khen. Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận rằng lời xin của ông Phêrô ở Mt 14,30 phảng phất thái độ và quan niệm được diễn tả trong Tv 18,5-18 và Tv 144,5-7, theo đó, người cầu xin mong chờ một sự can thiệp ngoại thường của Thiên Chúa từ trời cao để giải quyết tình trạng bi đát và tuyệt vọng của con người.

“Đức Giêsu liền đưa tay nắm lấy ông và nói: “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?” (c.31). Tất nhiên Đức Giêsu sẵn sàng can thiệp trong những hoàn cảnh khó khăn. Tuy nhiên, điều cốt yếu không phải là những can thiệp ngoại thường, mà là sự ở với của Người. Khi có Người ở với, người ta có thể làm được mọi sự (x.19,26) và chắc chắn sẽ được cứu.

“Khi thầy trò đã lên thuyền, thì gió lặng” (c.32). Sự đối nghịch và thậm chí là phản kháng của các môn đệ đối với lệnh truyền phải rời xa tham vọng về một vương quốc Mêsia huy hoàng chiến thắng, bây giờ chấm dứt: “Gió lặng”. Cơn gió thổi ngược ấy vốn là sự kiếm tìm sự vẻ vang phàm trần.

Bấy giờ, “những kẻ ở trong thuyền bái lạy Người và nói: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa!” (c.33). “Những kẻ ở trong thuyền” tức là cộng đoàn Kitô hữu ở trong Hội Thánh. Cộng đoàn ấy bây giờ tin thật Đức Giêsu là Con Thiên Chúa và tuyên xưng lòng tin ấy.

Lời tuyên xưng này được đặt ở cuối trình thuật, tức là sau khi Đức Giêsu đã lướt đi trên mặt biển đồng thời tự mặc khải về mình bằng cách sử dụng chính biểu thức mà Thiên Chúa tự nói về Người trong Cựu Ước (“Ta là”), và sau khi Đức Giêsu đã can thiệp để cứu ông Phêrô khỏi tình trạng bị chìm xuống biển. Vì thế tước hiệu “Con Thiên Chúa” được áp dụng cho Chúa Giêsu ở đây vừa mang giá trị Kitô học, vừa mang ý nghĩa cứu độ học. Đồng một trật, Đức Giêsu chứng tỏ Người có quyền lực thần linh tuyệt đối (phương diện Kitô học) và quyền lực ấy được thi thố để cứu các môn đệ (phương diện cứu độ học).

Đó chính là xác tín đức tin vĩ đại mà Hội Thánh muốn công bố với chúng ta hôm nay, và đồng thời cũng là xác tín đức tin làm nền tảng cho cuộc sống của mỗi tín hữu và của tất cả Hội Thánh trong hiện tại.

Gợi ý suy niệm và chia sẻ

1. Hơn một lần Đức Giêsu mời gọi các môn đệ rời xa lý tưởng Do Thái về một vương quốc Mêsia đắc thắng kiểu thế gian. Trong bài Tin mỪng hôm nay, Người bắt các ông xuống thuyền sang bờ bên kia trước, tránh xa cám dỗ tận dụng phép lạ hóa bánh ra nhiều để mơ tưởng về một phong trào Mêsia hoành tráng… Ngày nay, hình như Người vẫn thường phải yêu cầu chúng ta xuống thuyền ngay và sang bờ bên kia như vậy, thay vì mơ tưởng về một Hội Thánh bách chiến bách thắng bề ngoài với hàng loạt lễ hội không có thực chất Tin Mừng.

2. Sẽ có gió ngược làm cho con thuyền Hội Thánh tròng trành, và gió ngược đó trước hết là ngược với hướng mà Chúa Giêsu yêu cầu các mộ đệ nhắm tới. Chính những mơ tưởng về một Hội Thánh đắc thắng ngược với lý tưởng của Đức Giêsu sẽ là một trong những ngọn gió ngược đó. Rồi biết bao toan tính, biết bao chương trình, biết bao tham vọng ngược với bản chất và sứ mạng đích thật của Hội Thánh…

3. Lướt đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ trong đêm, sử dụng chính biểu thức “Ta là” của mặc khải Cựu Ước về Thiên Chúa để tự trình bày về chính mình, Đức Giêsu cho thấy Ngài là Con Thiên Chúa và nắm trong tay quyền lực thần linh tuyệt đối. Và Ngài đến với con thuyền Hội Thánh trong tư cách Con Thiên Chúa có quyền linh tuyệt đối đó. Đó không chỉ là chuyện xưa, mà còn là chuyện của ngày hôm nay nữa. Chúng ta có tin thế không? Chúng ta có cảm nghiệm về thực tại đó không?

4. Chấp nhận cho ông Phêrô tham gia vào thân phận Con Thiên Chúa (= đi trên mặt nước) của mình, cứu ông khi ông chìm xuống biển vì thiếu lòng tin, cùng ông lên thuyền và khiến gió ngược phải yên lặng, Đức Giêsu cho thấy chính Người, trong tư cách là Con Thiên Chúa có quyền lực thần linh tuyệt đối, là Đấng cứu độ nhân loại. Chúng ta trải nghiệm quyền năng cứu độ đó như thế nào?

28.Người đâu mà kém tin vậy

(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)

Tin Mừng Mt 14: 22-33: Trong cuộc sống bình yên và nhất là trong những lúc gặp gian nan thử thách, Thiên Chúa luôn ở bên cạnh chúng ta. Chúa sẵn sàng ban ơn phù trợ và cứu giúp khi chúng ta kêu cầu.

Sau khi dân chúng được ăn no nê bởi phép lạ hóa bánh ra nhiều (14,13-21), “Đức Giêsu bắt các môn đệ xuống thuyền đi qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng” (c.22). Người muốn các ông rời xa khung cảnh “huy hoàng” của một phép lạ cả thể, và rời xa đám đông đang phấn khích vì phép lạ đó.

“Giải tán xong, Người lên núi cầu nguyện.

Khi Đức Giêsu đang cầu nguyện một mình trên núi, thì chiếc thuyền của các môn đệ “đã ra xa bờ, bị sóng đánh vì ngược gió” (c.24). “Vào khoảng canh tư, Đức Giêsu đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ” (c.25). Nhưng các môn đệ không tin vào quyền năng và phẩm tính thần linh của Chúa Giêsu, nên khi “thấy Người đi trên mặt biển, các môn đệ hoảng hốt bảo nhau: ‘Ma đấy!’ và sợ hãi la lên” (c.26).

Họ không nhận ra Đức Giêsu và vì thế, họ từ chối sự hiện diện của Người bên cạnh họ.

Họ nghĩ đó là ma!

“Đức Giêsu liền bảo các ông: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!” (c.27).

“Phêrô liền thưa với Người: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài”

Phêrô có vẻ tin vào Đức Giêsu. Nhưng đó là tin vào quyền năng của Đức Giêsu chứ không phải tin vào tình yêu của Người. Ông muốn được “đi trên mặt nước” tức là muốn được tham dự phẩm tính thần linh của Đức Giêsu.

“Đức Giêsu bảo ông: “Cứ đến!” Chúa không từ chối Phêrô, trái lại, còn mời ông thực hiện ước muốn của ông. Vì thế, Đức Giêsu không ngần ngại bảo ông Phêrô đi trên mặt nước mà đến với Người. Vậy “ Phêrô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Đức Giêsu”, nhưng thấy gió thổi thì ông đâm hoảng sợ.

“Đức Giêsu liền đưa tay nắm lấy ông và nói: “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?” (c.31).

Có câu chuyện kể rằng:

Một người vô thần rất mê leo núi. Ngày kia trượt chân té ngã lăn từ đỉnh núi xuống. Nhưng may thay ông bám được một cành cây nằm chơ vơ giữa đỉnh cao và vực thẳm. Giữa lúc chỉ còn biết chờ chết, một ý nghĩ chợt đến với ông: Tại sao không gọi Chúa đến cứu giúp.

Thế la lấy hết sức lực, người vô thần la lớn: “Lạy Chúa”.

Bốn bề thinh lặng và ông chỉ nghe được tiếng dội của lời kêu van.

Một lần nữa, người vô thần lại kêu xin tha thiết hơn: “Lạy Chúa, nếu quả thật Chúa hiện hữu thì xin hãy cứu con. Con hứa sẽ tin Chúa và dạy cho những người khác cũng tin Chúa.”

Sau một hồi thinh lặng, bỗng người vô thần nghe một tiếng vang dậy cả vực thẳm và núi cao: “Gặp hoạn nạn thì ai cũng cầu xin như thế.”

“Không, lạy Chúa, nghìn lần không. Con không giống như những người khác. Chúa không thấy sao, con đã bắt đầu tin từ khi nghe tiếng Chúa phán. Nào bây giờ xin Chúa hãy cứu con đi, và con sẽ cao rao danh Chúa cho đến tận cùng trái đất.”

Tiếng ấy trả lời: “Được lắm, Ta sẽ cứu ngươi. Vậy nếu ngươi tin thì hãy buông tay ra.” Người vô thần thất vọng thốt lên: “Buông tay ra ư, bộ Chúa tưởng tôi điên sao !”

Cũng như Phêrô, người vô thần này có vẻ tin vào Chúa. Nhưng đó là lòng tin vào quyền năng làm những sự lạ lùng của Chúa, chứ không phải là lòng tin vào tình yêu của Người.

Hơn nữa lòng tin của ông chỉ là lòng tin vụ lợi. Tin vào Chúa bởi vì đang rơi vào con đường cùng, nghĩa là bí quá nên phải tin vào Chúa. Tin vào Chúa, nhưng vẫn còn nghi ngờ, không dám buông tay ra, như vậy chưa tuyệt đối tin vào Chúa.

Phép lạ Chúa Giêsu đi trên mặt nước và cứu Phêrô cho khỏi bị chìm, nói lên quyền năng vô biên của Chúa.

Trong cuộc sống bình yên và nhất là trong trong những lúc gặp gian nan thử thách, Thiên Chúa luôn ở bên cạnh chúng ta. Chúa sẵn sàng ban ơn phù trợ và cứu giúp khi chúng ta kêu cầu. Để bảo đảm cho cuộc sống, chúng ta hãy luôn ngước mắt nhìn lên Chúa, đừng nhìn xuống, đừng cậy dựa vào mình hay vào người khác mà chỉ cậy nhờ ơn Chúa phù giúp.

Lạy Chúa xin nhìn đến đức tin yếu kém của chúng con. Xin thêm đức tin cho chúng con. Amen.

29.Những cơn sóng

Thiên Chúa tạo dựng con người. Ngài ban cho họ tự do. Ngài luôn tôn trọng tư tưởng, dự định của con người, nhưng với thời gian và qua dòng lịch sử, Ngài thanh lọc, kiện toàn những gì không phù hợp với Nước Trời. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể làm người cũng đi theo đường lối đó, như chúng ta thấy trong bài phúc âm hôm nay.

Sau khi cho dân chúng ăn no nê (Mt 14, 13 – 21) Chúa Giêsu buộc các môn đệ lên thuyền sang bờ bên kia. Giải tán dân chúng xong, Chúa Giêsu để các môn đệ lên thuyền rời khỏi đó; còn phần mình, Ngài lên núi cầu nguyện một mình. Chúa Giêsu phải thúc giục các môn đệ xuống thuyền sang bờ bên kia. Chúa Giêsu muốn dạy họ rằng: tránh quan niệm sai lầm của dân chúng muốn tôn Người lên làm vua theo kiểu trần thế. Đàng khác, Người muốn dạy các môn đệ bài học: “phục vụ không phải để được danh vọng, quyền uy”.

Vâng lời Thầy nên các môn đệ ra đi, nhưng có lẽ các ông không được hài lòng, các ông không vui vì họ ít ra đã đóng góp trong phần thành công của bữa tiệc no nê hôm nay mà chỉ vỏn vẹn có “năm chiếc bánh và hai con cá” (Mt 14, 17). Phép lạ hoá bánh ra nhiều này là một chiến tích lẫy lừng. Một chiến tích mang lại cho họ những thành công mà họ đang mong mỏi đợi chờ. Một thành công làm cho họ phấn khích. Một thành công xứng với niềm mong mỏi mà các ông đã bỏ công đi theo Thầy Giêsu. Các ông đã hết sức kiên nhẫn chờ đợi ngày Chúa Giêsu làm Vua, cơ hội đó hôm nay đã đến nhưng Chúa lại từ chối. Không những bỏ lỡ cơ hội mà Chúa còn ra lệnh cho các ông lập tức rời bỏ nơi đó, bỏ lại những thành công trước mắt mà không phải hối tiếc. Bỏ lại tất cả để đi vào sứ vụ mới. Đó là ý Chúa Giêsu muốn. Đứng trước lời mời gọi này, các ông hết sức ngỡ ngàng, nuối tiếc; nuối tiếc đã dẫn các ông đến chỗ bất mãn, chán nản. Chán nãn, bất mãn gây cho các ông mệt nhọc. Mệt nhọc làm cho các ông ngã lòng. Các ông đã bước đi nhưng bàn chân rã rời. Chân bước đi nhưng lòng mình còn bị níu kéo. Từng bước đi đang nặng trĩu cõi lòng. Nhịp đập con tim vẫn mãi dan díu. Ánh mắt con người ngoái lại đắng sau.

Hơn ai hết, Chúa Giêsu biết rất rõ tâm trạng của học trò mình. Không những Ngài biết họ bằng ánh mắt và bằng cả cõi lòng khi Ngài cầu nguyện trên triền núi. Bởi vì Ngài là Đấng thấu suốt mọi bí ẩn mà! Các môn đệ chèo chống vất vả bởi lẽ thuyền các ông đi ngược với sóng gió và hơn nữa chính các ông còn gặp trở ngại lớn hơn là gặp ngược lại với cả ý muốn. Ý muốn của Chúa Giêsu lại ngược lại với ý muốn, ngược lại với sở thích của mình. Tư tưởng, ước muốn làm cho các ông cứ ở mãi trong vòng lẫn quẫn. Con thuyền đang gặp phải sóng gió chòng chành. Sóng trên biển cả. Sóng trong cõi lòng. Sóng dâng trong ước muốn. Sóng cứ mãi vỗ về. Sóng cứ mãi nhấp nhô. Từng đợt sóng cứ di chuyển. Sóng sau xô sóng trước. Sóng sau cao hơn sóng trước. Sóng đánh mất phương hướng. Sóng làm cho lòng người thêm rối rắm. Sóng vỗ tan vỡ tình người. Sóng vỗ tan tình hiệp thông. Sóng làm lạc xa niềm tin. Sóng làm cho lòng người nôn nao. Sóng càng da diết thì càng làm cho lòng người càng nuối tiếc! Sóng vô hình và hữu hình đang sánh đôi. Sóng vô tình ly tán. Ôi con sóng xôn xao!

Chính lúc đó, Ngài đi trên mặt biển để đến với các ông. Ngài vẫn hiện diện. Ngài đến gần hơn. Ngài làm như thế để các ông hiểu rằng Ngài có quyền năng trên các tạo vật, Ngài có quyền trên bánh ăn no nê, Ngài có quyền trên cơn sóng, Ngài có quyền năng trên biển cả. Ngài có quyền năng chế ngự thiên nhiên. Ngài có quyền năng và thấu suốt từng cơn sóng trong cuộc đời mỗi người. Ngài có chương trình của Ngài và Ngài sẽ thực hiện chương trình ấy. Đi trên sóng nước, Chúa Giêsu cũng để chuẩn bị cho các môn đệ tin vào thiên tính của Người. Vì chỉ có mình Thiên Chúa mới có được quyền năng như thế. Điều này mời gọi chúng ta tin tưởng vào tình thương và quyền năng cứu sống của Chúa khi chúng ta phải đương đầu với những sự dữ do thiên nhiên hay những sự dữ bởi ma quỷ.

Nếu trong Cựu Ước, Môisen dẫn dân Do Thái đi qua Biển đỏ một cách an toàn thì trong Tân Ước, Thánh sử Matthêu cho chúng ta thấy Chuá Giêsu là Môi sen mới. Đấng nuôi dưỡng dân chúng nơi hoang địa cũng chính là vị Thiên Chúa giải phóng dân Do Thái khỏi ách Aicập: “Con đường Người nằm trên sóng biển” (Tv 77, 20). Và sự chiến thắng trên sóng nước tử thần này thuộc về Chúa Phục Sinh, vì Chúa chế ngự sóng biển là cách diễn tả Chúa tỏ uy quyền trên thiên nhiên, trên sự dữ và như vậy Người cũng là Đấng chiến thắng sự chết. Ngài đầy quyền năng, có khả năng đem dân Chúa qua biển cuộc đời còn an toàn hơn nhiều và an toàn đến Thiên đàng vĩnh cửu.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đặt tất cả tin tưởng vào quyền năng của Chúa. Ngài có chương trình cho mỗi người chúng ta. Điều quan trọng không phải là chúng ta bắt Thiên Chúa làm theo ý chúng ta, để rồi khi không được như ý nguyện, chúng ta tỏ ra buồn phiền, than trách Chúa. Trái lại, chúng ta hãy đặt hết tin tưởng vào Chúa. Ngài vẫn hiện diện để sẵn sàng cứu giúp chúng ta. Hãy phó thác vào quyền năng yêu thương của Ngài và như thế tâm hồn chúng ta sẽ được bình an.

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con tin tưởng mạnh mẽ vào Chúa để Chúa làm nên cuộc đời chúng con như ý Ngài muốn. Xin dẹp tan những con sóng xô vô tình đang làm xon xao cõi lòng chúng con. Xin cho chúng con một niềm tín thác vào Chúa. Amen.

30.Hãy an tâm vì luôn có Chúa

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Chúa nhật vừa qua, chúng ta nghe thánh Matthêu thuật lại phép lạ Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều (x. Mt 14, 13-21), tiếp theo là biến cố Chúa biến hình trên núi (x. Mt 17, 1-9) và hôm nay chúng ta nghe tiếp Chúa Giêsu đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ (x. Mt 14, 22-33).

Êlia và Phêrô là hai nhân vật nổi bật của tuần này. Êlia chứng kiến ba sự kiện trên trái đất là gió bão, động đất và lửa, Thiên Chúa đều không hiện diện ở đó. Giữa sức mạnh của vũ trụ với tiếng gió hui hui, Êlia phải học phân định để nghe thấy lời trong thinh lặng, hay trong chính bản thân mình (x. 1V 19, 9a. 11-13a).

Trước khi đề cập đến Phêrô, chúng ta không thể không nói đến các môn đệ được Chúa Giêsu “giục xuống thuyền mà qua bờ bên kia trước” (14, 22), còn dân chúng, những người Do thái được giải tán, theo một nghĩa nào đó, họ là “những người ở bên này”. Việc các môn đệ phải “sang bờ bên kia”, nghĩa là các ông phải vượt qua những thực tại hữu hình, tạm thời của thân xác, bước sang sự vĩnh cửu vô hình. Dĩ nhiên, các ông không thể cập bờ bên kia trước Chúa Giêsu; các ông phải trải qua kinh nghiệm không có Thầy, họ không thể tới bến bình an.

Có chuyện gì mà Chúa Giêsu buộc các môn đệ phải xuống thuyền? Phải chăng là để chống lại cơn cám dỗ và các tình huống khó khăn? Chắc chắn có một cơn giống tố trong lòng các ông và ở biển hồ Galilêa. Vì chưa hiểu dấu chỉ phép lạ hóa bánh ra nhiều, nên các ông đã theo dân chúng muốn tung hô Chúa làm vua! Giờ đây họ cảm thấy thế gian sợ hãi và xao xuyến biết bao!

“Người lên núi cầu nguyện một mình” (Mt 14, 23). Người cầu nguyện cho ai? Chắc chắn là cho dân chúng vừa giải tán, sau khi đã được ăn bánh no nê, họ không biết phải làm gì. Chúa Giêsu cũng cầu cho các môn đệ, ở giữa biển khơi đang bị kiệt sức bởi sóng đánh vì ngược gió khỏi mọi sự dữ. Chính nhờ lời cầu nguyện của Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha mà các môn đệ không bị chìm vì sóng to gió lớn.

Còn Phêrô, được Chúa Giêsu mời gọi bằng kinh nghiệm đức tin. Ông xin Thầy cho được đi trên mặt nước (x. Mt 14, 28). Chúa Giêsu đã ban cho ông quyền đi trên biển. Biển, tượng trưng cho mãnh lực của sự dữ và sự chết; Chúa Giêsu đi trên mặt biển, là đi trên sự chết, thể hiện sự chiến thắng của Người trên sự dữ và sự chết. Toàn bộ mầu nhiệm Phục sinh là ở chỗ Chúa Giêsu chiến thắng sự chết và biển cả. Theo quan niệm của người Do thái, biển là sào huyệt của sự chết. Đi trên biển là liều chết. Chính sự rủi ro này mà khi Phêrô đáp lại lời gọi của Chúa Giêsu, “xuống khỏi thuyền, bước đi trên mặt nước” (Mt 14,29), là ông giẫm chân trên sự chết. Nên không có lạ, khi ông nghi ngờ.

Chỉ khi Phêrô tin và phó thác vào Thầy, ông mới có thể đi trên mặt nước. Ông bị chìm xuống lúc ông nghi ngờ. Thấy gió mạnh, ông sợ, sự sợ hãi trước tai ương của thế gian này lại giúp cho ông tin vào quyền năng của Thầy. Chính lúc ông thôi tin vào Chúa, ông mất quyền đi trên biển, và chìm xuống. Khi đi được trên mặt nước chứng tỏ Phêrô tin, lúc chìm xuống cho thấy ông không tin. Thật là đức tin ngược đời, vì chính lúc ông không cậy dựa vào Chúa, ông bị chìm, ông lại kêu Chúa cứu.

Với lời kêu cứu của Phêrô: “Lạy Thầy, xin cứu con!” (Mt 14, 30) Chúa Giêsu đáp lại bằng cử chỉ và lời. Người giơ tay nắm lấy ông và trách: “Người hèn tin, tại sao mà nghi ngờ?” (Mt 14, 31) Khi gió thổi mạnh, nỗi sợ hãi và nghi ngờ về quyền năng của Chúa đột nhập vào Phêrô, một con người yếu lòng tin. Cứu ông lên khỏi nước, Chúa Giêsu dạy ông rằng, tình thầy trò không phải là đức tin của người môn đệ, nhưng là lòng trung thành của Thầy. Cảnh tượng trên phơi bày sự cao cả cũng như thấp hèn của người môn đệ. “Khi cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng. Những người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng: “Thật, Thầy là Con Thiên Chúa” (Mt 14, 32-33). Quả thật, niềm tin vào Con Thiên Chúa chỉ có được sau một hành trình dài của đau khổ, chết và phục sinh của Đức Giêsu Con Thiên Chúa.

Lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ trên biển: “Thầy đây, đừng sợ. Ma đâu có xương có thịt như Thầy có đây”, cũng là lời Chúa nói với các ông sau khi Chúa phục sinh ” Tại sao các con run sợ, tại sao các con nghi ngờ… chính Thầy đây, hãy xem tay chân Thầy đây”. Hai khung cảnh khác nhau về thời gian nhưng đều có một điểm chung là run sợ, kém lòng tin và nghi ngờ, cả hai lần Chúa Giêsu đều khẳng định “chính Thầy đây mà” (x. Lc 24; Mt 14).

Ở cuối trình thuật, các môn đệ được mô tả là những người tin khi sấp mình xuống thờ lạy Chúa. Còn Phêrô, mỏng giòn, yếu đuối, Chúa Giêsu lại trao Giáo hội cho ông. Chúa Giêsu sẽ đồng hành cùng Giáo hội. Như Phêrô, người yếu tin, chúng ta cần có bàn tay của Chúa kéo chúng ta lên, bước vào con thuyền Giáo hội để sang bờ bên kia.

Phần chúng ta, nếu một ngày nào đó chúng ta phải đương đầu với các cơn cám dỗ không thể tránh được, hãy nhớ rằng Chúa Giêsu buộc chúng ta xuống thuyền; từ bờ bên này sang bờ bên kia không thể không có sóng gió. Và khi chúng ta thấy những khó khăn, vất vả, mệt nhọc giữa đời vây quanh ta, thuyền của chúng ta đang ở giữa đại dương mênh mông, với những cơn sóng đang tìm cách nhấn chìm đức tin của chúng ta. Chúng ta hãy vững tin rằng, Con Thiên Chúa sẽ đi trên mặt nước đến gần chúng ta, giơ tay kéo chúng ta lên; Chúa chỉ mong đợi chúng ta tin tưởng tuyệt đối vào Chúa.

Lạy Mẹ Maria, gương mẫu về lòng tín thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa, xin giúp chúng con vững tin vào Chúa, để giữa bao bận tâm, lo lắng, khó khăn giữa biển cả cuộc đời đang làm chúng con giao động, chúng con vẫn nghe thấy lời trấn an của Chúa Giêsu, Con Mẹ: “Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ!” (Mt 14,27). Amen.

31.Thầy đây, đừng sợ

Sau phục sinh, Chúa Giêsu hứa ở lại với các môn đệ cho đến ngày tận thế. Ngài đã thực hiện lời hứa đó trong Hội thánh, trong Bí tích Thánh thể để ở với từng người chúng ta cách đặc biệt và luôn nâng đỡ chở che cho chúng ta mọi nơi mọi lúc trong cuộc sống của mỗi người chúng ta.

Trong đức tin, chúng ta được gặp gỡ Chúa và nhận được sự trợ giúp của Ngài. Xưa kia thánh Phêrô và các Tông đồ trong đêm tối chống chọi với sóng gió, họ sợ hãi vì không cảm thấy Chúa đang ở với mình. Ngay khi Chúa xuất hiện và tiến đến gần, họ cũng không nhận ra vì lòng còn bối rối. Thế nhưng, Chúa Giêsu không muốn các Tông đồ phải sợ hãi quá nhiều. Ngài đã lên tiếng xoá tan nỗi hoảng hốt của các ông: “Hãy yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!” Phêrô là người đầu tiên đáp lại lời Thầy nói, ông tỏ niềm tin vào Đức Giêsu và không còn sợ hãi những cơn sóng to gió lớn còn đang bạt vào thuyền: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài” (Mt 14,28). Trước niềm tin và sự hăng hái của Phêrô, Đức Giêsu đã ban cho ông đặc ân đi trên mặt biển. Tuy nhiên, khi đối diện với thực tế vượt quá sức phàm nhân, Phêrô bắt đầu sợ hãi, không ý thức vững vàng vào sự trợ giúp của Thầy. Chính lúc đó, thân phận phàm nhân của ông đã theo quy luật tự nhiên bắt đầu chìm xuống nước. Nhưng Phêrô đã biết kịp thời nài xin Chúa cứu giúp cho lòng tin còn non kém của ông. Lòng tin đó chỉ vững vàng sau ngày Chúa Phục sinh. Tuy nhiên, sau sự kiện đó, lòng tin của các môn đệ dần dần tiến triển và hiểu rằng Đức Giêsu là Mêssia Thiên Chúa đã hứa ban cho nhân loại.

Ngày nay, nhiều lúc chúng ta cũng gặp những trường hợp giống như Phêrô, có những lúc cuộc đời gặp gian nan sóng gió, chúng ta hay quên rằng Chúa vẫn yêu thương và sẵn sàng trợ sức cho chúng ta, chúng ta dễ lo lắng, không nhận ra Chúa đang tiến lại gần chúng ta, không nhận ra Chúa đang nhắn nhủ hay nhắc nhở chúng ta. Thường khi, lúc gặp hoạn nạn chúng ta hay phiền trách người xung quanh không giúp đỡ, nhưng khi Chúa cho cuộc sống khá lên, chúng ta lại quên giúp đỡ những anh em kém may mắn hơn mình về vật chất và tinh thần. Thật ra, nhiều lúc Chúa cũng để cho chúng ta gặp khó khăn để thanh luyện chúng ta. Xưa kia, Chúa Cha cũng để cho Con mình gặp khó khăn vất vả đến chết vì muốn cứu độ chúng ta, Ngài đã vui lòng đón nhận những hình phạt mà loài người chịu trên Thánh giá. Chúa Giêsu tỏ cho các môn đệ biết Ngài là Mêssia đau khổ đến cứu loài người khỏi nô lệ tội lỗi chứ không phải một vị vua trần thế đem lại lợi lộc vật chất theo ý loài người! Nếu chúng ta thật lòng yêu mến Chúa thì chúng sẽ đón nhận tất cả những gì Chúa gởi đến, dù là thánh giá hay hoa hồng, miễn là trong đó có dấu hiệu tình yêu của Chúa đối với chúng ta.

Chúa đến để nâng cao đời sống tinh thần, cho chúng con thoát khỏi sự lệ thuộc vật chất chóng qua chóng tàn này và hướng về sự thật vững bền. Đời này là đời tạm. Chúng ta không bỏ những bổn phận đời này nhưng biết hoàn thành bổn phận cho thật tốt: bổn phận kính Chúa và phục vụ anh em trong tình bác ái để xứng đáng nhận phần thưởng của Chúa trao, được kết hợp với Chúa và nên con Chúa đời đời trên Thiên đàng hạnh phúc.

Chúng ta hãy mạnh dạn xin Chúa cho mình vượt qua những khó khăn sóng gió cuộc đời như thánh Phêrô hôm nay. Những lúc gặp khó khăn như Phêrô đang bước đi trên mặt biển là lúc chúng ta kiểm chứng được niềm tin của mình: Chúng ta còn hoài nghi tình yêu của Chúa hay đã vững tin, chúng ta có thật là chứng nhân của Chúa chưa hay hoài nghi khi gặp thử thách gian nan? Chúng ta có mạnh dạn chèo thuyền để vượt qua những khó khăn hay buông xuôi và đổ thừa Chúa không giúp sức!

Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến trợ giúp niềm tin yếu kém của chúng con. Xin cho chúng con ngày một trưởng thành trong đời sống đức tin, ý thức nhiệm vụ và bổn phận cải thiện cuộc đời mình, gia đình mình, xã hội mình đang sống theo sự hướng dẫn của Chúa trong Kinh thánh, qua Giáo huấn của Giáo hội, theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần trong lương tâm của mình.

32.Yêu mến và tín thác vào Chúa Giêsu

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)

Trong cuộc xuất hành của dân Do thái từ Ai Cập về Đất Hứa, có một phép lạ lớn lao trên biển. Đó là phép lạ vượt qua Biển đỏ. Khi dân Do Thái rời bỏ Ai Cập đến Biển Đỏ thì quân Ai Cập đuổi theo sát phía sau lưng. Được lệnh Thiên Chúa, ông Môsê giơ tay trên biển làm cuồng phong nổi lên, nước biển liền rẽ ra làm hai để lộ đất khô ráo, dân Do thái đi vào lòng biển khô cạn, quân Ai cập đuổi theo. Đến sáng, khi người Do thái cuối cùng đi sang bờ bên kia. Thiên Chúa ra lệnh cho Môsê giơ tay trên biển, nước trở lại như cũ. Quân Ai Cập bị nhấn chìm trong biển, chết không còn một ai sống sót. Ngày đó, Thiên Chúa đã cứu dân Do thái thoát khỏi dân Ai Cập. Đó là một phép lạ lớn lao Thiên Chúa đã làm trên biển. Phúc Âm hôm nay kể một phép lạ Chúa Giêsu làm trên biển. Đó là biển hồ Galilê. Trong dịp hành hương Đất Thánh vào Mùa Chay vừa rồi, tôi có đi thuyền ngắm trời mây sông nước trên Biển hồ Galilê.

Biển hồ Galilê có hình bầu dục dài 21km rộng 12km, còn được gọi là hồ “Giênêzarét” (Lc5,1). Thánh kinh cựu ước gọi là biển “Kinnerét” (Ds 34,11; Gs 12,13) hay còn gọi là “biển Tibêria” (Ga 6,1). Tibêria hiện nay là một thành phố sầm uất ở Galilê, nằm trên bờ tây nam biển hồ. Nằm về hướng bắc Giêrusalem 100Km, biển hồ Galilê là nơi mà dòng sông Jordan đổ vào trước khi chảy qua biển Chết. Thung lũng và sông Jordan mang một sắc thái địa lý rất đặc biệt, duy nhất trên thế giới vì thấp hơn mực nước biển:208 mét tại biển hồ Galilê và 300 mét tại biển Chết. Thực vật ở đây thuộc dạng nhiệt đới, chung quanh biển hồ núi non bao phủ, lẫn vào con sông Jordan, thời tiết bất thường ở miền đất từ miền nam đến biển Chết, đó là những yếu tố hình thành những vùng gió giật và giông bão xảy ra bất ngờ trên biển hồ (Mt 8,23-27; 14,22-23).

Đối với Tân ước, biển hồ Galilê được nói đến nhiều vì là một trong những trung tâm hoạt động của Chúa Giêsu. Rất nhiều biến cố đã xảy ra tại đây: Bão tố ngừng lại (Mt 8,24-26), Mẻ lưới kỳ diệu (Lc 5,4-14), Đức Giêsu rảo trên thuyền (Mc 4,1), đi trên biển (Ga 6,16-21). Những thành ven bờ hồ như Khôrazin, Bếtsaiba, Caphanaum, Magđala là những nơi Chúa Giêsu thường lui tới, qua nhiều thế kỷ, biển hồ Galilê được gọi dưới nhiều tên: Hồ Kinnêzét, hồ Giênêsarét, và biển hồ Tibêria.

Biển hồ và những vùng lân cận, có rất nhiều di tích liên hệ đến cuộc đời của Chúa và các môn đệ Ngài. Galilê là vùng có núi đồi khô cằn, nhưng các thung lũng phì nhiêu trải dài từ biển Địa trung Hải cho đến biển hồ Galilê. Chính trong các thung lũng này đã hình thành nhiều đồn điền trái cây nổi tiếng đem lại nguồn lợi xuất khẩu. Vào năm 1960, biển hồ là điểm xuất phát cho ngày quốc gia tưới tiêu, chính quyền Israel cho đào một con kênh lớn dẫn nước từ tận biển hồ đến sa mạc Negew. Công trình thuỷ lợi mang lại nguồn lợi kinh tế to lớn cho một nước mà địa dư, khí hậu đa phần được xem là không mấy thuận lợi. Nhiều nước trên thế giới đã gởi người tới học tập.

Trở lại bài Phúc âm, Thánh Matthêu kể chuyện: trên Biển hồ Galilê, khi có trận cuồng phong từ thung lũng Baka thổi vào thì tất cả các ngư phủ vốn quá quen đi thuyền ngang dọc trên biển hồ cũng phải sợ hãi. Các ngài là những ngư phủ trên biển hồ Galilêa này, và có thể nói là đã quen thuộc với những cơn sóng to gió lớn. Vậy mà đêm hôm đó họ đã trải qua một phen hải hùng, sóng to nổi lên, gió lớn thổi ngược, phải chống chèo rất vất vả các ông mới giữ vững được con thuyền. Và rồi đã xảy ra một sự kiện bất ngờ. Chúa Giêsu đi trên mặt nước đến với các môn đệ. Vốn đã khiếp đảm vì biển động sóng gió, các môn đệ nay hoảng sợ la lên vì họ tưởng là gặp ma. Thế nhưng khi nghe tiếng nói quen thuộc trấn an: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ”, các ông mới nhận ra Chúa, lập tức Phêrô xin phép đi trên mặt nước đến gặp Chúa. Chúa bằng lòng. Phêrô bước ra khỏi thuyền đến với Chúa, nhưng đức tin của ông còn yếu kém, ông hồ nghi và lo sợ nên bị chìm dần xuống và kêu xin Chúa cứu giúp. Chúa đưa tay cầm lấy tay ông và trách nhẹ: “Người đâu mà kém tin vậy, sao lại hoài nghi?”. Khi Chúa và Phêrô đã lên thuyền, sóng gió liền yên lặng và mọi người tuyên xưng: “Quả thật Thầy là Con Thiên Chúa”.

Tuần vừa rồi, tôi đi thăm các gia đình giáo dân trong giáo xứ. Tôi đi với hai ông trong hội đồng mục vụ. Đến cổng một gia đình, có con chó to sủa lớn xông ra như muốn vồ lấy. Chúng tôi hoảng sợ đứng im. Bé Hoa 6 tuổi từ trong nhà chạy ra, bé nạt con chó: lu lu, đi vô mau. Con chó to hung dữ bỗng ve vẫy đuôi, trở lại hiền lành chạy vào nhà. Con chó to vậy mà nghe lời cô gái nhỏ vì bé Hoa là chủ của nó. Còn tôi và mấy ông tuy to con nhưng không phải chủ nó nên nó chẳng sợ mà còn định nhảy vào cắn. Hôm đó tôi miên man nghĩ về câu chuyện Phúc âm Chúa nhật này. Các môn đệ sợ hãi trước sóng to gió lớn bão tố sấm sét. Chúa Giêsu ra lệnh: hãy im đi, tức thì sóng yên biển lặng. Chúa Giêsu có quyền trên mọi sức mạnh thiên nhiên vì Người là Thiên Chúa sáng tạo, là chủ muôn loài.

Cả hai phép lạ: vượt qua Biển đỏ, Chúa Giêsu đi trên biển có một điểm giống nhau, đó là quyền năng Thiên Chúa trên mọi sức mạnh thiên nhiên. Tin vào Thiên Chúa toàn năng, Đấng tạo dựng vũ trụ và muôn loài là chúng ta sống bình an trước mọi giông bão cuộc đời.

Lời Chúa gởi đến hai sứ điệp, yêu mến và tín thác nơi Chúa Giêsu.

1. Sự hiện diện của Chúa Giêsu, nguồn bình an: Sau khi Chúa Giêsu lên thuyền, gió bỗng yên lặng. Sự hiện diện của Người đủ sức mang lại yên tĩnh và chế ngự phong ba bão táp. Biển theo nghĩa Kinh thánh tượng trưng cho quyền lực của sự ác. Đi trên biển chứng tỏ quyền năng và sự chiến thắng của Chúa Giêsu trên sự dữ, nguồn gốc của bất an, chia rẽ, đau khổ. Nơi đâu có Chúa Giêsu, ở đó có bình an. Cuộc đời người Kitô hữu không thể tránh khỏi những phong ba giông bảo của cuộc sống. Cần phải đến với Chúa Giêsu. Nếu biết đặt Người ở trung tâm đời mình thì sẽ tìm kiếm được an bình nội tâm, cho dù có gặp biết bao gian truân thử thách. Chúa Giêsu hiện diện ngay trong cuộc sống của Kitô hữu nếu mọi người biết đến với Người qua việc nghe, thực thi lời Người, đón nhận Mình Máu Thánh Người và siêng năng cầu nguyện với Người.

2. Tín thác cuộc đời trong tay Chúa Giêsu: Các môn đệ vì sợ hãi sóng gió bủa vây nên không nhận ra Chúa Giêsu, ngộ nhận Người là ma. Chúa Giêsu trấn an họ: “Thầy đây, đừng sợ”. Hơn cả một lời trấn an, đây còn là một mạc khải: sự hiện diện của Chúa sẽ xua đi mọi nỗi sợ hãi; hãy tín thác cuộc đời trong tay Người. Khi Người xuất hiện thì gió yên biển lặng; khi Người có mặt thì có sự bình an. Chính vì thế mà các môn đệ đã thờ lạy Người: Thầy quả thật là Con Thiên Chúa. Lời tuyên xưng này đồng thời cũng là lời biểu lộ một sự tín thác nơi Người. Tất cả mọi người trên thuyền cùng tuyên xưng một đức tin, cùng chung một lòng trông cậy. Trong cuộc sống của mỗi người, niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô cần được thanh luyện và minh chứng qua thử thách gian nan. Nếu biết yêu mến và tín thác vào Chúa, thì càng khó khăn vất vả, thì càng vươn lên mạnh mẽ trong đức tin, luôn có được bình an nội tâm.

Lạy Chúa Giêsu,

Con chẳng dám xin đi trên mặt nước như Phêrô, nhưng nhiều khi con cảm thấy sống đức tin

giữa lòng cuộc đời chẳng khác nào đi trên mặt nước.

Có bao thứ sóng gió đẩy đưa và lôi cuốn.

Có bao cám dỗ muốn hút con vô vực sâu.

Cả sự nặng nề của thân xác con cũng kéo ghì con xuống.

Đi trên mặt nước cuộc đời chẳng mấy dễ dàng. Nhiều khi con thấy mình bàng hoàng sợ hãi.

Xin cứu con khi con hầu chìm.

Xin nắm lấy tay con khi con quỵ ngã.

Xin nâng đỡ niềm tin yếu ớt của con, để con trở nên nhẹ tênh mà bước những bước dài hướng về Chúa. Amen (Mana).

33.“Đừng sợ… !!!”

(Suy niệm của Lm. Hiền Lâm)

Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện việc các môn đệ Chúa Giê-su hoảng hốt sợ hãi trước sóng biển ba đào đe doạ cuốn trôi, nhất là giữa đêm khuya xuất hiện một bóng người từ xa đi tới trên mặt nước. Câu chuyện “vượt biển” này được tiếp tục sau sự kiện Chúa Giê-su hoá bánh ra nhiều, các môn đệ ăn xong chưa kịp nghỉ đã bị Chúa hối thúc xuống thuyền vượt biển hồ Galilêa, còn Chúa Giê-su thì lại lên núi cầu nguyện. Như thế, điều đầu tiên mà Tin Mừng hôm nay nhắm tới là Chúa Giê-su không muốn các môn đệ an thân ỷ lại, hưởng thụ và ngủ quên trên sự tôn vinh của con người, hoặc chỉ nhìn Chúa Giê-su dưới khía cạnh quyền năng sau sự kiện hoá bánh ra nhiều, mà nghĩ sai về sứ mạng của Người. Chúa Giê-su cũng muốn môn đệ phải ra đi, bỏ lại tất cả, dám đương đầu với bão tố phong ba của biển đời. Đồng thời, Chúa muốn các môn đệ an tâm vì luôn có Chúa đồng hành. Đặc biệt với Tông Đồ trưởng Phêrô qua biến cố “suýt chìm” là một kinh nghiệm nhớ đời, huấn luyện ngài vững mạnh hơn cho việc dẫn lái con thuyền Giáo hội mà Chúa Giê-su sẽ trao phó cho ngài sau này.

Chúng ta cùng tập chú suy niệm qua hai ý tưởng sau đây:

1. Con người được mời gọi tham dự vào bản tính thần linh.

Câu chuyện được liên kết cách liên tục với những sự kiện:

–   Chúa Giê-su đi trên mặt nước giữa đêm đen.

–   Chúa Giê-su bảo: “Thầy đây, đừng sợ”

–   Chúa Giê-su chấp nhận lời thỉnh cầu của Phêrô

–   Chúa Giê-su đưa tay nắm lấy Phêrô

–   Chúa Giê-su lên thuyền thì trời êm bể lặng.

Một chuỗi sự kiện trên chứng tỏ quyền năng và hành động của Thiên Chúa, được thể hiện nơi Chúa Giê-su. Điều này mặc khải bản tính thần linh nơi Chúa Giê-su và mời gọi con người tham dự vào bản tính thần linh ấy.

Đi trên mặt biển và làm cho gió yên biển lặng là một điều vượt ra ngoài khả năng tự nhiên. Theo quan niệm Thánh Kinh, biển cả là không gian hoạt động của ma quỷ và bóng đêm là thời gian hoạt động của sự dữ. Việc Chúa Giê-su đi trên mặt biển giữa đêm đen và chế ngự chúng là chứng minh thiên tính của Người.

Một minh chứng về thiên tính nữa là khi Chúa Giê-su nói: “Thầy đây”, hay “Ta đây”, hoặc “có Ta”. Đây là lời mà chính Thiên Chúa mặc khải danh của Người cho Môsê trong Cựu Ước: “Yavê”, “Ta là”, “Ta có”, “Ta đây”, “Ta hiện hữu”. Đấng đã đến giải thoát Israel khỏi nô lệ Ai-cập, thì đây Đấng đến cứu độ giải thoát nhân loại khỏi ma quỷ và tội lỗi.

Hành động cho phép Phêrô cũng được bước đi trên mặt nước (nghĩa là cho con người được thông dự vào bản tính thần linh, chà đạp trên ma quỷ, sự dữ và tội lỗi) và nhất là Chúa Giê-su lặp lại hành động của Thiên Chúa khi đưa tay nắm lấy Phêrô lúc ông sắp chìm xuống biển đã được Thánh vịnh 18,17 viết: “Từ chốn cao vời, Chúa đưa tay nắm lấy, vớt tôi lên khỏi nước lũ mênh mông”.

Phêrô bước đi cách vững mạnh trên biển vì ông dám tin Người đi trên mặt nước là Chúa và dám bước xuống nước để đến với Người; nhưng khi đang bước đi, có thể ông cảm thấy tự hào và tưởng là mình tài giỏi, hoặc ông bắt đầu nghi ngờ liệu bóng người đàng kia là Chúa hay ma, thì ngay lúc đó Phêrô chao đảo, may mà ông vội kịp kêu xin Chúa cứu. Chúa mời gọi Giáo hội, cách riêng mỗi một người được thông dự vào bản tính thần linh của Chúa: Khi Giáo hội cũng như chúng ta tự tin vào khả năng mình để bước đi trên biển đời này thì chắc chắn sẽ bị những cám dỗ của ma quỷ và thế gian xô ngã, nên cần phải bước đi bằng niềm tin vào quyền năng của Chúa; khi bị chao đảo vấp ngã, hãy mau cầu xin Chúa đưa tay nắm lấy mình và mời Chúa lên thuyền với mình, nghĩa là cho Chúa bước vào trong cuộc đời mình.

2. Mời Chúa lên thuyền với mình giữa biển đời sóng gió.

Sóng gió trên biển cuộc đời, sóng gió trên hành trình làm người, sóng gió trên hành trình làm môn đệ… là những đau thương mất mát, những thất bại ê chề, những hoạn nạn éo le, những cô đơn thất vọng; là những bủa vây của quyền thế danh lợi, của đam mê phóng túng; là những đêm tối đức tin, những bơ vơ lạc lõng, những thử thách bách hại… Sóng gió nào cũng làm lòng người hoang mang, hoảng sợ, chông chênh. Mặt nước của cuộc đời là sự mong manh của thân phận con người, mong manh như hoa cỏ, chỉ một cơn gió thoảng cũng chẳng còn; mong manh như giọt sương mai, vội biến tan khi bình minh thức giấc; mong manh như bình sành đặt trước gió, mới đó, nhưng có thể sẽ vỡ tan tành; mong manh của giới hạn của bản thân, sự bất trắc trong việc tuân giữ luật Chúa và Hội thánh, sự tự do đầy nguy cơ có thể bị biến chất, những lối tính toán xoay xở theo kiểu của con người, những lời mời mọc ngọt ngào lao mình vào lối mòn hưởng thụ… Tất cả làm cho người Ki-tô hữu lắm lúc hoang mang và mất phương hướng, đến nỗi không còn tin vào ai nữa, giống như các môn đệ Chúa đến đứng đó mà vẫn cứ hoài nghi là bóng ma.

Tin Mừng kể lại, Chúa Giê-su đã trấn an: “Thầy đây đừng sợ”, rồi khi Người bước lên thuyền thì trời yên bể lặng.

Lời trấn an “Thầy đây đừng sợ”, chúng ta chỉ gặp thấy hai lần trong các Tin Mừng, đó là lúc các môn đệ vật lộn giữa biển khơi và lúc sợ hãi thu mình trong nhà Tiệc Ly khi Chúa chịu chết: lần này thì vừa sợ sóng biển xô chết vừa sợ ma, còn lần cuối thì cũng sợ các thượng tế tìm giết và cũng “sợ ma” nữa. Hai sự kiện nói lên hai điều sợ căn bản của chúng ta là sợ bị người đời bách hại và sợ ma quỷ tấn công, vì sợ hãi như là một bản năng sinh tồn và hầu như không ai tránh khỏi. Bản tính tự nhiên con người “tham sống sợ chết” nên lo sợ đủ điều. Nói chung, sợ hãi xuất hiện khi ta cảm thấy nguy hiểm, nhưng cũng khiến ta cảnh giác hơn. Nhưng nếu có một đức tin đủ mạnh, thì chúng ta không sợ gì vì có Chúa luôn đồng hành với lời trấn an “có Thầy đây, đừng sợ”.

Chúa Giê-su muốn chứng tỏ cho các môn đệ thấy rằng trong cơn gian nan hoạn nạn, Người luôn hiện diện: “Thầy đây, đừng sợ”. Một lời trấn an bảo đảm mạnh mẽ rằng Người luôn đồng hành với họ trên bước đường loan báo Tin Mừng, mặc dầu sóng biển ầm ầm, thủy triều sóng nước dâng cao… con thuyền có bị sóng đánh dập vùi, nhưng hãy yên tâm vì có Người ở bên.

Con thuyền của các môn đệ ngày xưa cũng chính là con thuyền cuộc đời của mỗi chúng ta hôm nay. Giữa bao sóng gió cuộc đời của kiếp người trong cuộc lữ hành đức tin.

Khi Đức Giê-su lên thuyền, gió liền lặng. Nếu trên cuộc đời của mỗi chúng ta có Chúa Giê-su, thì sự dữ, ma quỷ sẽ bị đẩy xa. Bởi khi ánh sáng tới, thì tất yếu bóng tối sẽ bị đẩy lùi.

Lạy Chúa Giê-su, Chúa luôn hiện diện để cùng đồng hành, chia sẻ và nâng đỡ chúng con. Xin cho chúng con để cho Chúa lên “thuyền cuộc đời” chúng con, nghĩa là để cho Ngài ngự vào tâm hồn chúng con, hầu không có gì do ma quỷ và thế gian bày ra có thể làm chúng con lo sợ và bị xô ngã. Amen.

34.Xin cứu con

Đời người từ khi sinh ra cho đến khi kết thúc cuộc đời là một chuỗi dài của những tiếng kêu: kêu xin, kêu cầu, kêu cứu, kêu gọi… tiếng kêu ấy được biểu lộ với nhiều hình thức khác nhau: kêu khóc, than thở, nhờ vả, sợ hãi… điều này muốn nói lên rằng: con người không thể tự lo cho mình, không thể tự cứu lấy mình. Vì thế, con người cần phải sống liên đới với nhau, nhất là phải biết hướng lòng mình lên một Đấng siêu vượt trên mình để làm chỗ dựa vững chắc cho cuộc đời của mình và đảm bảo cho cùng đích của mình.

Trong đời sống tôn giáo, khi con người biết mở miệng kêu xin lên Đấng mình tôn kính thì có nghĩa là họ đã có đức tin và đã biểu lộ đức tin của mình. Nhưng bất hạnh thay cho những ai kêu xin với Đấng mà mình không biết và không yêu mến.

Người Kitô hữu là người có Chúa Kitô trong mình và tin tưởng vào Chúa Kitô cũng như tin tưởng vào Thiên Chúa mà Đức Kitô đã mạc khải. Chúng ta cần nhận ra sự thật căn bản này là: Thiên Chúa là Đấng tạo hóa, là Đấng dựng nên muôn loài và nuôi sống chúng, trong đó có chúng ta; còn chúng ta là tạo vật của Ngài. Chúng ta cần đến Ngài để được thương yêu và chăm sóc. Vũ trụ này là một bản trường ca tình yêu được viết lên nhằm thông truyền rằng: Thiên Chúa là tình yêu. Ngài yêu thương mọi loài nói chung và yêu thương con người nói riêng.

Hãy kêu cầu Chúa trong mọi nơi mọi lúc. Đừng ngại mở lời kêu xin Ngài. Không phải Thiên Chúa không thấy trước những nhu cầu của chúng ta, nhưng Thiên Chúa muốn chúng ta tự do bày tỏ tấm lòng của mình với Ngài. Nếu Thiên Chúa chỉ ban cho con người những gì họ kêu xin mà thôi, thì có lẽ rất nhiều người của chúng ta đã ra tro bụi lâu rồi. Bởi lẽ, những gì là căn cốt làm nên sự sống cho con người và vũ trụ đã được Thiên Chúa ban cho và gìn giữ liên tục. Có nhiều điều con người đã không hề thấy để xin nhưng Chúa vẫn ban cho vì chúng cần cho sự sống của con người. Còn những điều khác, Chúa muốn con người kêu cầu lên Chúa với mục đích duy nhất là biểu lộ sự gần gũi, thân tình và gắn bó giữa con người với Thiên Chúa, cũng như biểu lộ sự tín thác trọn vẹn của con người vào Thiên Chúa. “Ta muốn tình thương chứ không phải hy hy lễ”. Quên kêu cầu Chúa và quên tạ ơn Ngài là thái độ vô tâm, vô ơn nhất của con người.

Khi thấy Chúa Giêsu đi trên mặt biển mà đến với mình, các môn đệ hốt hoảng la lên. Đó là một tiếng kêu trong cơn bối rối và Chúa Giêsu đã đáp lời họ ngay “cứ yên tâm, Thầy đây, đừng sợ”. Rồi khi thấy mình sắp chìm xuống biển sâu, Phêrô lại kêu la: “Thưa Thầy, xin cứu con”, và Chúa Giêsu đã đáp lời ông. Nếu ngày xưa, Chúa Giêsu đã ở gần các môn đệ thế nào, thì ngày nay, Ngài cũng ở kề bên chúng ta và cứu giúp chúng ta y như vậy. Có khác chăng là cách thức Ngài hiện diện với ta mà thôi. Chúng ta đừng dùng lối suy nghĩ của con người để suy đón về sự hiện diện của Thiên Chúa.

Trong bài đọc 1, tiên tri Êlia cảm thấy hết sức buồn bã và đau khổ khi ông quyết tâm chống lại việc thờ ngẫu tượng mà bị nữ hoàng Dezebel tìm sát hại ông. ông đã chạy trốn vào sa mạc và trú ẩn trong một cái hang. Con người đau khổ ấy đã kêu xin Chúa và cầu mong cho mình được chết đi. Nhưng chính trong hoàn cảnh đó, ông đã cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa. Chúa luôn ở gần bên ông để giúp sức cho ông và cứu thoát ông. Cũng chính khi đó, ông khám quá ra rằng: đường lối của Thiên Chúa không giống với đường lối của con người. Thiên Chúa đến với ông trong một cơn gió nhẹ chứ không đến với ông trong cơn giông bão hay động đất kinh hoàng như ông nghĩ tưởng. Khi Chúa đến với ông thì ông tìm được sức mạnh để tiếp tục hành trình của mình.

Cuộc đời của người Kitô hữu chúng ta chắc chắn cũng có những khoảnh khắc đau buồn và chán nản khi hết lòng sống cho niềm tin mà mình đã lãnh nhận nhưng lại bị người đời chống đối, bắt bớ và vu khống. Chúng ta hãy vững tin vào Chúa và không ngừng kêu cầu Ngài. Chính Ngài đang ở kề bên chúng ta và sẽ giải thoát chúng ta. Vì thế, ta đừng để mình lạc mất lòng tin nhưng hãy thành tâm kêu cầu Chúa.

Có người đến hỏi vị linh mục:

“Thưa cha, có nhiều lần con cầu nguyện với Chúa, nhưng sao con cảm thấy chán nản và thất vọng quá. Lời cầu của con không được Chúa đáp lại. Hơn nữa, những biến cố không may lại cứ dồn dập đến với con. Hầu như con không thấy Chúa can thiệp vào những sự kiện này cho con. Đôi lúc, con thấy Chúa ở thật xa. Thậm chí con còn thấy nghi ngờ sự hiện diện của Chúa nữa”.

Vị linh mục lắng nghe và nhỏ nhẹ: “Này con, cha hằng cảm nhận rằng Chúa luôn ở với chúng ta. Nhưng vì con chưa thật sự phó thác vào Chúa, chưa kiên trì trong việc cầu nguyện và chờ đợi Chúa ban ơn; chưa kiên trì để khám phá ra ý Chúa trong cuộc sống của con. Vì con chỉ muốn nhìn thấy những thành quả ấy trước mắt con ngay mà lại không muốn chấp nhận thử thách trong đời sống của con. Con hãy kiên nhẫn và chờ đợi Chúa”.

Rất nhiều người trong chúng ta cũng có những tâm trạng tương tự như thế trong cuộc sống của mình. Nhưng chúng ta hãy xác tín một điều là Chúa đang ở bên cạnh ta và không hề bỏ quên một lời kêu xin nào của chúng ta. Những gì Chúa chưa ban cho ta là vì chúng chưa cần thiết hoặc nguy hại cho đời sống đức tin của chúng ta mà thôi. Nhưng chắc chắn một điều là “Chúa sẽ kiếp giải oan cho những ai thành tâm tìm đến với Ngài”.

35.Cùng phiêu lưu theo Chúa – AM Trần Bình An

Anh Maciek Kozierski, 26 tuổi, người Ba Lan, là người có thể chạy trên mặt nước dễ dàng như chạy trên mặt đất. Trước khi thực hiện màn chạy trên nước, anh Maciek Kozierski đã sử dụng một con diều và bay với tốc độ tối đa, sau đó anh đứng trên ván lướt và thả con diều ra, cách làm này để anh “cảm giác” được những bước đi trên mặt nước.

Để làm được như này, anh Maciek Kozierski đã phải tập luyện rất nhiều lần. Anh đã mất 4 ngày để “làm quen” với con sông Galilee ở Israel. Trong 4 ngày tập luyện này, anh mất tới 50 lần thử nghiệm mà không thành công, anh đã gặp phải không ít khó khăn như gió quá mạnh hay trời mưa… nhưng cuối cùng mọi việc cũng đã ổn.

Ngoài vấn đề về cách chạy, anh Maciek Kozierski còn phải chọn lúc biển lặng và gió không quá mạnh thì mới có thể thực hiện màn trình diễn của mình. Anh tự hào nói: “Những gì tôi làm hoàn toàn không có một chút thủ thuật gì.” (Zing)

Dù rất cố gắng tập luyện, anh Maciek Kozierski chỉ chạy bộ trên hồ Galilê theo quán tính, rồi cuối cùng cũng chìm lỉm, khi hết đà. Làm sao sánh nổi với Đức Giêsu nhẩn nha, bình tĩnh đi bộ trên biển hồ Galilê trong cơn bão?

Tin Mừng hôm nay, Thánh Matthêu thuật lại phép lạ thật bất ngờ. Trong khi vật lộn với bão tố trong đêm tối, các môn đệ nhìn thấy Đức Giêsu đi trên mặt nước. Họ sợ hãi vì nghĩ đó là ma, nhưng Người bảo họ đừng sợ mà hay vững tâm. Người ra tay dẹp tan cơn bão, bước đến lên thuyền và cùng họ vào bờ.

Một chi tiết đáng chú ý trong câu chuyện này, vốn chỉ được chép trong Phúc âm Mátthêu, khi thấy Đức Giêsu, ông Phêrô bước ra khỏi thuyền, đi trên mặt nước để đến với Người, nhưng đang khi đi thì ông Phêrô bỗng sợ hãi và bắt đầu chìm xuống nước, Đức Giêsu đã cứu ông.

Thiên Chúa luôn an nhiên tự tại. Ngài là chủ tể vũ trụ, nên mọi loài, mọi vật, thời gian và không gian đều quy hướng về Ngài. Theo cảm nhận của ngôn sứ Êlia: Ngài không ở trong bão táp mưa sa gầm hú, chẳng ở động đất kinh khủng, cũng chẳng ở trong lửa đỏ nóng bỏng, mà hiện diện êm ái bình an trong cơn gió hiu hiu. (1V 19, 9A, 11- 13A)

Bình an trước cám dỗ

Sau phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều gấp vạn lần, có lẽ các môn đệ đã xuất sắc trở thành những “dư luận viên,” tác động dân chúng vừa được no thỏa, đồng lòng tôn vinh Đức Giêsu lên ngôi hoàng đế. “Nhưng Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình.”(Ga 6, 15)

Chẳng phải lần đầu Đức Giêsu chịu cơn cám dỗ háo danh, ham hố quyền lực, phú quý, sang giàu, mà ngay trước khi đi rao giảng, Người đã thấm thía trải qua, khi Satan hứa hẹn trao cho tất cả vinh hoa lợi lộc các nước trên thế gian, nếu bái lạy, tùng phục quỷ vương.

Vũ khí chống lại dục vọng kiêu căng, tham sân si, mà Đức Giêsu sử dụng hiệu quả, chính là mũi giáo cầu nguyện và tấm khiên lao động, hãm mình, hy sinh. Người cách ly ngay các môn đệ khỏi đám đông, lệnh cho các ngài ra khơi. Còn chính Người giải tán dân chúng, rồi lên núi cầu nguyện. Như thế mới vững vàng bình an trước cơn thử thách cám dỗ thế gian.

Đức Giêsu hẳn muốn nhắn nhủ các môn đệ: Hãy quên ngay đi chút vinh quang phù phiếm, quên đi những thành công ngoạn mục, quên đi những công trình giáo đường nguy nga mới kiến thiết, quên đi những thành quả rao giảng rực rỡ. Bởi vì tất cả đều là hồng ân của Thiên Chúa, mà con người chỉ có vinh dự tiếp tay hoàn thành. Bởi vì sự kiện, sự việc đó chỉ để vinh danh Thiên Chúa, chứ không phải tôn vinh bản thân, cá nhân bất cứ ai, vốn đều chỉ là tạo vật thừa hành. Diệt được dục vọng tham quyền cố vị, háo danh, háo lợi, thoát khỏi thói kiêu căng, hợm hĩnh, trở nên khiêm nhường, nhu mì con người mới được bình an đích thực trong Chúa.

Bình an trong bão tố cuộc đời

Cuộc đời ai cũng đều là một cuộc bể dâu, ba chìm bảy nổi, chín bấp bênh, chẳng ai có thể nắm tay qua đêm. Mọi thứ đều có thể xảy ra trong đêm tối giông tố cuộc đời. Nhưng giữa bão bùng, gió thét gầm hú, tưởng chừng sắp bị nhận chìm vào ba đào, thì Đức Giêsu vẫn luôn thương yêu quan tâm, mà âm thầm, lặng lẽ tìm đến an ủi, che chở, cứu giúp. “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!” Nếu tỉnh táo, sốt mến liền nhận ra Người, hân hoan mừng rỡ và bình an ngay lúc hiểm nguy đó. Nếu không, chắc chắn buông xuôi chìm nghỉm, vì thất vọng ê chề, ngỡ là ma quái gọi hồn, sợ hãi la lên: “Ma đấy!” Vậy cứ vững lòng phiêu lưu cùng Chúa Giêsu trên hành trình Nước Trời, dù bao thử thách phong ba bão táp đe dọa.

Ngay trong bài giảng khai mạc sứ vụ Tông đồ Phêrô ngày Chúa nhật 22-10-1978, tại quảng trường Thánh Phêrô, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã kêu gọi toàn thể Hội Thánh và mọi người trên thế giới “Đừng sợ”:

“Anh chị em đừng sợ đón lấy Chúa Kitô và nhận lấy quyền năng của Người!”.

“Anh chị em đừng sợ! Hãy mở ra, mở toang mọi cánh cửa đón lấy Chúa Kitô! Hãy mở mọi biên giới các quốc gia, các hệ thống chính trị, những lãnh vực bao la của nền văn hóa, văn minh, phát triển cho quyền năng cứu độ của Chúa bước vào”.

“Đừng sợ! Chúa Kitô biết rõ “mọi điều trong lòng người”! Và chỉ một mình Người biết rõ” (Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II – Bài giảng lễ khai mạc sứ vụ Tông đồ Phêrô).

Bình an trong Tin Cậy Mến

“Khi Thầy trò đã lên thuyền, thì gió lặng ngay. Những kẻ ở trong thuyền bái lạy Người và nói: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa!” (Mt 14, 32-33) Khi có Chúa đồng hành, cư trong tâm hồn, khi tràn đầy lòng Tin Cậy Mến, thì lập tức có bình an, sự dữ bị khuất phục, đẩy lui. Tà thần sóng dữ, gió gầm đành bó tay, tan biến.

“Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng. Lòng anh em đừng xao xuyến, cũng đừng sợ hãi.” (Ga 14, 27) Đừng bao giờ quên lời dặn ân cần chan chứa tình yêu nồng thắm của Đức Giêsu, Người là Đức Chúa, là Thầy, cùng là Bạn, và là Anh của chúng con.

“Đường con đi có hoa thơm, cảnh đẹp, có chông gai, có hùm beo, có bạn hiền, có trộm cướp, lúc mưa sa, lúc nắng cháy, chuyện không thể tránh được. Con cứ đi, miễn lòng con đầy Chúa, đi như Phanxicô, đi như Cyrillô, Anathasiô,… Đừng mất thì giờ đứng lại, đừng sợ tiếng chửi, đừng ăn mày tiếng khen.” (Đường Hy Vọng, số 693)

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đưa tay cho ông Phêrô nắm lấy, thoát chết, xin Chúa tiếp tục nắm lấy tay chúng con, cứu chúng con khỏi sa chước cám dỗ, khỏi cạm bẫy ma quỷ, khỏi hiểm họa, tai ương trần thế, để được mãi bình an của Chúa trao ban.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu bầu, che chở, giúp đỡ và ban sức mạnh chúng con chiến đấu khải hoàn những mưu ma chước quỷ, những cạm bẫy thế gian và những ham muốn dục vọng thấp hèn của chúng con, để chúng con được bình an trong Chúa. Amen.

36.Đã tin và chưa tin

(Suy niệm của Lm. Phêrô Nguyễn Hương)

Như có lần chúng ta đã nói: Sống là một hành trình tìm kiếm liên lĩ, tìm kiếm hạnh phúc và ý nghĩa tối hậu cuộc đời. Có bao nhiên con người thì có bấy nhiêu cuộc hành trình. Với người kitô hữu, hành trang cuộc đời không gì khác hơn là Đức Tin. Đức tin là kim chỉ nam, là bảng chỉ đường hướng dẫn chúng ta đi tới mục đích.

Vậy thì tin có nghĩa là gì? Sách Giáo lý Công Giáo mới có một đĩnh nghĩa rất vắn gọn: “Tin là lời con người đáp trả lại Thiên Chúa, Đấng tự mặc khải và hiến mình cho con người, khi ban ánh sáng chứa chan cho con người đang đi tìm ý nghĩa tối hậu của cuộc đời mình” (s. 26).

Tin không phải là tin vào một cái gì, vào một học thuyết, một ý thức hệ, một số lề luật, nhưng tin chính là gắn bó, là gặp gỡ, là bước theo một Con Người, và để Con Người đó hướng dẫn ta, chỉ cho ta biết đâu là hạnh phúc đích thực và ý nghĩa tối hậu cuộc đời. Con người đó có tên là Đức Giêsu Nazareth. Như thế tin là sống với, sống như, sống cho Đức Kitô và cùng với Người bước đi trong cuộc đời này.

Những sóng gió của Đức tin

Nhưng sống niềm tin vào Đức Kitô đó trong bối cảnh của ngày hôm nay đang gặp sóng gió mà Lời Chúa hôm nay nói tới với những hình ảnh đầy tính biểu tưởng.

Nếu “biển” là biểu tượng của cuộc đời này, thì sóng gió là những thử thách và trở ngại của con thuyền Đức tin.

Tin Mừng cho chúng ta thấy rằng: Các môn đệ và nhất là Phêrô là những người “đã tin mà vẫn chưa tin”, đã tín thác mà vẫn còn hoài nghi ngờ vực, khi họ phải đối diện với sóng gió cuộc đời. “Thấy Chúa đi trên biển, họ hoảng hồn mà nói rằng: Ma kìa”! Đúng là những người kém tin, nên mới “nhìn gà hóa cáo” thôi. Trước những khó khăn, họ không còn nhận ra sự hiện diện và quyền năng của Chúa nữa!

Nhìn vào các tông đồ để chúng ta cũng soi bóng mình và thấy mình ở trong đó. Các tông đồ và Phêrô chính mỗi người chúng ta, những người đã tin mà vẫn còn chưa tin.

Ngày hôm nay chúng ta đang bị thử thách bởi một nền văn hóa vắng bóng Thiên Chúa (nhiều người thấy Chúa tưởng là ma, thấy ma tưởng là thiên thần, thấy thiên thần tưởng là quỉ dữ!), một nền văn hóa đề cao tiền bạc, tính dục, và hưởng thụ cá nhân. Sự hấp dẫn của chúng đã khiến nhiều người bỏ Chúa để chạy theo những lối sống dễ dãi, thực dụng và vì cái lợi trước mắt mà quên nhân phẩm và đạo lý của mình.

Cũng như các môn đệ, khi bình an, thành công, thì chúng ta dễ dàng tin Chúa, đến với Chúa, nhưng những khi hoạn nạn, thất bại thì chúng ta thất vọng, bỏ Chúa, không cầu nguyện và đến nhà thờ nữa, như bài thơ Dấu Chân Trên Cát diễn tả: khi bình an yên ổn thì con nhận ra dấu chân Chúa bên cạnh dấu chân con, lúc con đau buồn lẫn cô đơn. Con chỉ thấy một dấu chân trên cát. Nhưng Chúa trả lời, chính lúc đó lúc Ta đang ẳm bồng con!

Phải có một Đức Tin mang tính cá vị để khám phá sự hiện diện của Chúa

Trước những thử thách của cuộc sống, mỗi người chúng ta phải có một Đức Tin mang tính cá vị vào Đức Kitô. Có nghĩa là Đức Tin đó phải dựa trên một xác tín, một chọn lựa và dấn thân riêng của tôi để sống gắn bó với Chúa mỗi ngày. Dù có nhiều lối rẽ, cám dỗ mời mọc hấp dẫn, tôi vẫn xác tín rằng: Chỉ có Chúa mới mang lại cho tôi ý nghĩa cuộc đời và hạnh phúc bền vững. Dù có bị thử thách, bị chao đảo, nhưng tôi xin chọn “Chúa là gia nghiệp của riêng mình” (Tv 32, 12b), tôi vẫn bám lấy Chúa, trung thành với Chúa cho đến cùng. Đức tin như thế là cuộc gặp gỡ mang tính cá vị với Đức Giêsu, chỉ có đức tin đó mới giúp chúng ta vững vàng trước sóng gió cuộc đời và chỉ có Đức Tin đó mới giúp chúng ta khám phá sự hiện diện, dấu chân và cánh tay yêu thương của Chúa trong cuộc sống của chúng ta.

Lạy Chúa, con thuyền đức tin của Chúng con đang bị sống gió cuộc đời vùi dập, xin Chúa ban cho chúng con có một Đức tin sống động, mang tính cá vị và biết tĩnh thức, để dù có phải trải qua những thử thách, chúng con vẫn trung kiên theo Chúa đến cùng. Xin cho cặp mắt đức tin của chúng con luôn sáng ngời để nhận ra sự hiện diện của Chúa trong đời chúng con. Amen!

37.Thiên Chúa, Ngài là ai?

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)

Thiên Chúa không ở trong gió bão, cơn động đất, lửa…

Elia vẫn trò chuyện với Thiên Chúa, ông cầu nguyện và Thiên Chúa nhận lời ông nhưng ông không thấy được Thiên Chúa.

Thiên Chúa vẫn nói với con người, nhưng con người không thể nhìn thấy Thiên Chúa bằng mắt trần. Người ta chỉ có thể thấy Thiên Chúa nhờ con mắt đức tin! Tương quan với Thiên Chúa, con người phải nhờ đức tin, chính đức tin giúp chúng ta “thấy” những thực tại vô hình.

Gặp gỡ Thiên Chúa, là một từ ngữ để chỉ việc con người “thấy” Đấng vô hình, “cảm nghiệm” Ngài yêu thương mình dù mình không thể đụng chạm Ngài bằng thân xác. Thiên Chúa luôn ở bên con người. Ngài ở gần con người hơn chính con người. Ngài ở gần ta hơn cả chính ta.

Thiên Chúa sống thân phận con người, để con người biết sống …

Thiên Chúa là Đấng siêu vượt, nhưng Thiên Chúa muốn ở gần con người.

Thiên Chúa nhập thể, trở nên một con người như chúng ta:

Ngài biết no biết đói như chúng ta;

Ngài cảm thương nỗi thống khổ của người như Thiên Chúa luôn cảm thương con người;

Ngài cầu nguyện với Thiên Chúa như chúng ta phải cần cầu nguyện. Ngôi Lời luôn hướng về Thiên Chúa (Ga.1, 1); và cả chúng ta là những con người, chúng ta phải hướng về Thiên Chúa qua việc cầu nguyện để được Thiên Chúa dạy bảo, để biết sống như thế nào cho phải đạo!

Tại sao Đức Yêsu lại cầu nguyện, và Ngài cầu nguyện trong mọi lúc, mà con người chúng ta lại ít cầu nguyện? Tại sao Đức Yêsu luôn đi tìm và thực hiện Ý Cha, thế mà con người lại không mau mắn và sẵn sàng thực hiện Ý Cha, khi Ý Cha đem lại hạnh phúc thật cho con người?

Thiên Chúa ở gần con người, nói chuyện với con người, đối thoại với con người, cứu giúp con người khi con người bị “chìm” hay sa ngã. Con người rất mỏng dòn “tinh thần thì nhanh nhẹn nhưng thể xác thì yếu nhược” (Mt.26, 41), cần cầu nguyện để luôn ý thức về con người thật của mình, để luôn bám vào Chúa, trông cậy vào Chúa.

Người hèn tin, tại sao lại nghi ngờ?

Phêrô đã nghi ngờ không tin vào Đức Yêsu, nên đã “chìm” khi đi trên biển!

Đức Yêsu cũng bị cám dỗ không tin vào Thiên Chúa “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con” (Mc.15, 34), nhưng Đức Yêsu vẫn một niềm tín thác nơi Cha “Lạy Cha, con phó thác hồn Con trong tay Cha” (Lc.23, 46).

Điều làm con người bất hạnh, lo âu, thao thức băn khoăn, mất bình an, là không tin rằng Thiên Chúa yêu thương mình!

Ước gì chúng ta cảm nghiệm Thiên Chúa yêu thương, để chúng ta luôn bình an và tín thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Nếu bạn không tin vào Thiên Chúa, thì bạn thường tin vào ai?

2. Bạn đã gặp gỡ Thiên Chúa bao giờ chưa? Bạn có thể cho các bạn khác biết kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa của bạn không?

3. Theo bạn, Thiên Chúa là ai?

38.Tương quan giữa con người và Thiên Chúa

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)

Cần nhau, tin vào nhau, yêu thương nhau, là những nét diễn tả tương quan giữa con người. Thiên Chúa yêu thương con người, Ngài đi tìm con người, Ngài có những chương trình và sáng kiến tuyệt vời trong tương quan với con người.

1. Thiên Chúa đi tìm con người

Trong bài đọc sách Các Vua hôm nay, người ta nhận thấy Thiên Chúa muốn tỏ mình cho Elia. Ngài đã truyền cho Elia ra khỏi hang động nơi tiên tri đang trú ẩn và đứng chờ vì Thiên Chúa sắp ngang qua. Thiên Chúa không ở trong cơn giông, không ở trong cơn động đất, không ở trong ngọn lửa… Thiên Chúa không muốn đến với con người qua những gì làm con người sợ hãi.

Không phải Elia chủ động đi tìm Thiên Chúa nhưng chính Thiên Chúa đã có ý muốn tỏ mình cho Elia. Thiên Chúa muốn có tương quan với con người. Khi Adam và Evà không tin rằng Thiên Chúa yêu thương mình, nên đã nghe lời ma quỷ bất tuân lệnh Thiên Chúa mà ăn trái cây Ngài cấm ở vườn Eden, thì chính Thiên Chúa đã chủ động đi tìm con người, gọi con người, bắt chuyện với con người. Khi con người không còn tin vào Thiên Chúa, muốn trốn Thiên Chúa, không muốn nói chuyện, không muốn có tương quan với Ngài nữa, thì Thiên Chúa vẫn muốn nối lại tương giao với con người bằng đối thoại. Mỗi người khi phạm tội là chối bỏ Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vẫn tiếp tục tác động nơi lòng mỗi người, làm mỗi người nhận ra lỗi lầm của mình, ăn năn sám hối để bắt đầu lại.

Thiên Chúa là nguồn bình an. Cơn giông, động đất, lửa, là những dấu chỉ Thiên Chúa sắp đi ngang qua, nhưng bình an nhẹ nhàng thanh thản là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa hiện diện. Bình an là một dấu chỉ đặc biệt cho người ta thấy mình đi đúng đường, cho thấy Thiên Chúa đang hiện diện cách đặc biệt với con người.

2. Khiêm tốn chấp nhận chương trình của Thiên Chúa

Thánh Phaolô có một tình yêu đặc biệt đối với đồng bào của ngài. Với Phaolô, Đức Yêsu là tất cả, và thánh nhân sẵn sàng đánh đổi tất cả để được Đức Yêsu. Khi Phaolô thấy dân Do Thái, đồng bào của ngài, không nhận biết Đức Yêsu thì ngài buồn biết bao. Nói theo ngôn ngữ con người, ngài sẵn sàng và ao ước các anh em của Ngài nhận biết Đức Yêsu, và nếu ngài bị những tai ương bất hạnh mà đổi lại các anh em Do Thái của ngài nhận biết Đức Yêsu, thì ngài sẵn sàng và muốn được điều đó.

Chắc chắn Thiên Chúa không yêu dân riêng của Ngài thua thánh Phaolô. Chắc chắn Thiên Chúa luôn làm điều tốt nhất cho dân riêng của Ngài. Thánh Phaolô cũng tin như vậy. Thánh Phaolô biết mình không hiểu chương trình của Thiên Chúa về dân riêng của ngài; và thánh nhân đã phải chấp nhận sự thực như nó đang là trong niềm phó thác vào Thiên Chúa: đa số người Do Thái không tin nhận Đức Yêsu.

Trên thế giới hiện tại có bao nhiêu người chưa tin nhận Đức Yêsu. Kitô-hữu phải tin rằng Thiên Chúa yêu thương họ, như Thiên Chúa vẫn yêu thương dân Do Thái. Kitô-hữu phải có thái độ đối với họ như thánh Phaolô có thái độ đối với đồng bào Do Thái của ngài. Yêu thương, tôn trọng dân Do Thái. Không than trách Thiên Chúa tại sao lại để chuyện đó xảy ra, nhưng khiêm tốn nhận biết rằng chương trình của Thiên Chúa thật cao sâu vô cùng mà mình không thể hiểu thấu được.

3. Đức tin được diễn tả qua cầu nguyện, phó thác và yêu thương

Đức Yêsu cầu nguyện với Thiên Chúa sau một ngày làm việc. Đức Yêsu, một người luôn kết hiệp với Thiên Chúa nhưng vẫn cần có thời gian đặc biệt để cầu nguyện. Nếu Đức Yêsu còn cần cầu nguyện, thì mỗi người chúng ta còn phải cần cầu nguyện hơn nữa. Cầu nguyện là ý thức Thiên Chúa đang hiện diện với mình và yêu thương mình. Cầu nguyện là nhìn lại tất cả những gì mình làm trong tương quan với Thiên Chúa. Cầu nguyện để mình là mình hơn, để mình tự do với bạc tiền danh vọng tình duyên, để mình bình an và hạnh phúc hơn.

Đức tin vào Thiên Chúa và thái độ phó thác tất cả cho Thiên Chúa phải đi với nhau. Phêrô đã có thể đi trên mặt nước; nhưng một khi thiếu tin tưởng vào Đức Yêsu và vào Thiên Chúa thì ông bị chìm. Cuộc sống như con thuyền trên bể đời, không thiếu những sóng gió như thể làm chìm thuyền đến nơi. Các tông đồ cũng đã thiếu tin tưởng trên hồ Galilê nên đã phải đánh thức Chúa dậy. Phêrô cũng đã xin Chúa cứu khi thấy mình hầu chìm. Đức tin rất quan trọng để có tương quan thân tình với Thiên Chúa và đứng vững trong mọi nghịch cảnh.

Không ai thấy Thiên Chúa bằng mắt trần, nhưng Thiên Chúa vẫn hiện diện đó. Với đức tin, người ta như thể thấy được Thiên Chúa là Đấng Vô Hình. Với niềm tin vào Thiên Chúa tình yêu, người ta có thể chịu đựng và vượt qua được những khó khăn trong cuộc sống, để có thể bình an trong mọi hoàn cảnh. Cũng nhờ đức tin vào Thiên Chúa, con người có thể tin tưởng vào nhau; vì tin rằng con người luôn có thể được Thiên Chúa biến đổi. Chính nhờ tin vào Thiên Chúa, mà con người có thể tin tưởng và yêu thương nhau. Tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với con người liên hệ mật thiết với nhau. “Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà ghét anh em mình, thì đó là kẻ nói dối; vì nếu anh em là những người hữu hình mà người đó không yêu thương thì làm sao người đó có thể yêu mến Thiên Chúa là Đấng vô hình được” (1Ga. 4, 20).

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1. Bạn có tin Thiên Chúa yêu thương bạn không? Đâu là bằng chứng?

2. Theo bạn, cầu nguyện thì được lợi ích gì?

3. Theo bạn, “Thiên Chúa cần con người” hay “con người cần Thiên Chúa” hơn?

39.Con tưởng! – Lm. Gioan B. Phan Kế Sự

Bài hát “Con tưởng rằng con vững tin…” của Linh Mục nhạc sĩ Nguyễn Duy quả là suy niệm thật thích hợp cho chủ đề Lời Chúa của tuần 19 thường niên năm A. Câu chuyện “Chúa đi trên mặt biển” và sự kiện “chìm nghỉm” của Phêrô đã nói lên thực tại thân phận con người khi phải đối diện với những sức ép của mãnh lực thiên nhiên,thế lực trần gian và cả chính sự yếu đuối tự thân của mỗi người. “Con tưởng rằng con vững tin, khi đời sống tòan những hoa hồng”. Nhiều khi, chúng ta tưởng rằng mình đã đủ lớn,lớn cả thể xác, lớn cả chức vị nhưng thực ra chúng ta cũng chỉ là một tạo vật thật tầm thường, bé nhỏ và yếu đuối giữa biển đời mênh mông, đầy bão tố.

Sức ép của những cơn gió ngược đến từ thiên nhiên. Những đợt sóng dữ, dồn dập vỗ tứ bề, con thuyền thì chòong chành sắp chìm, bầu trời phủ một màu đen tối, chẳng thấy đâu là bến bờ. Tất cả làm nên sức mạnh của thiên nhiên khiến cho con người phải hỏang sợ và mất hết phương hướng, mặc cho những kinh nghiệm từng trải của đời ngư phủ. Sức ép về tâm lý đã làm cho các môn đệ cảm thấy chới với, mệt mỏi và buông xuôi, hỏang hốt bảo nhau “Ma đấy!” Mất hết niềm tin!

Sức ép của những cơn gió ngược đến từ con người. Những cơn bão tố đến từ quyền lực, trù dập, phe cánh xem ra thời nào cũng tràn ngập xã hội và cả ngay trong lòng giáo hội, làm mất “lửa tông đồ” và gây tác hại mất cả niềm tin. Biết đâu là chân lý, còn đâu là tình anh em huynh đệ hay chỉ là chập chùng thử thách và đêm tối. Chẳng còn ai có nhuệ khí mà chống chèo, chẳng còn ai nhiệt tâm phục vụ, trước những cơn bão quyền lực, hay cái tôi nội bộ làm thui chột tính chiến đấu. Hoảng hốt và sợ hãi là tâm trạng chung của các tông đồ ngày xưa và cả ngày nay trước sức ép ngược gió đến từ con người! Mất hết niềm tin!

Sức ép của những cơn gió ngược đến từ chính bản thân: Bệnh tật, yếu đuối và cả những cơn “cám dỗ ngọt ngào” của xác thịt, quyền lực, tình cảm đang làm cho mọi người ngày càng mất hết phương hướng giữa chợ đời đầy dẫy những cạm bẫy. Giá trị của con người đang bị đảo lộn bởi những thách thức của nếp sống văn minh hưởng thụ, bởi trào lưu chạy theo thành tích bề ngoài, “yêu cuồng sống vội, đầy thác loạn”. Con người cứ luôn phải đối diện với những “cơn sóng ngược” khi sống niềm tin của mình. Mất hết niềm tin!

Không có Chúa trên thuyền cùng đồng hành, các môn đệ một mình đương đầu với những cơn sóng dữ. Cảm giác bị bỏ rơi và cô độc, lẻ loi sẽ mãi là những cơ hội làm cho các tông đồ cảm thấy hỏang hốt, sợ hãi và đánh mất hết phương hướng. Con người đang dần dần tự đánh mất hết niềm tin vào những giá trị tôn giáo và chỉ cần những thử thách nho nhỏ, những khó khăn hay những đòi hỏi hy sinh, con người sẽ bị chao đảo, và chìm nghỉm trong vực thẳm của đam mê dục vọng.

“Sao con lại hoài nghi”. Chúa đang tra hỏi từng người chúng ta về sự tín thác, tin cậy vào Ngài. Trong mọi nơi mọi lúc, Thiên Chúa, Ngài vẫn luôn ở bên cạnh, đồng hành với kiếp người, bởi Ngài hiểu rất rõ thân phận con người thật mong manh và yếu hèn của chúng ta. Chúa đã từng trấn an Phêrô “cứ yên tâm, Thầy đây, đừng sợ” nhưng rồi “ông vẫn sợ”

“Sao con lại hoài nghi”. Đó chính là thực tại của con người chúng ta hôm nay khi mà trước mắt bầy ra biết bao cơn “cám dỗ ngọt ngào” khiến chúng ta không còn vững tin vào Chúa. Tiền bạc, dục vọng, quyền lực đang ngày càng làm lu mờ con mắt đức tin của chúng ta.

Lời cầu nguyện:

“Lạy Chúa, xin cứu chúng con kẻo chết mất”. Mang thân phận con người với sự giới hạn vì “gió ngược”, niềm tin của chúng con dễ tròng trành giữa biển đời với biết bao thử thách. Xin Chúa hãy là “núi đá” là “điểm tựa” để chúng con cậy trông và tín thác. “Thưa Thầy, xin cứu con với” …..“Vì lạy Chúa, Chúa biết con yếu đuối và đổi thay.

Con đang cần đến Chúa từng phút giây, khi an vui cũng như khi sầu đầy”…. Amen.

40.Con đường của Chúa

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)

Sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, nuôi năm ngàn người ăn uống no nê, Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ xuống thuyền đi qua bờ bên kia. Rồi Người một mình lên núi cầu nguyện suốt đêm. Tại sao Chúa có thái độ kỳ lạ như thế? Tại sao Chúa Giêsu bắt ép các môn đệ ra đi? Tại sao giữa lúc dân chúng đang phấn khởi tinh thần, giữa lúc uy tín của Người dâng cao như núi, Người lại bỏ đi? Trong Phúc Âm, thánh Marcô và thánh Matthêu không nói rõ lý do. Nhưng Phúc Âm thánh Gioan thì nói rõ: “Chúa Giêsu bỏ đi vì Người biết dân chúng muốn tôn Người lên làm vua” (Ga 6,14-15). Thật là một quyết định khác thường. Theo thói thường, ta sẽ khuyên Chúa Giêsu lên ngôi làm vua rồi đi khắp nơi làm phép lạ nuôi người ta ăn uống no nê, mọi người sẽ theo Chúa và chịu phép rửa tội, cả thế giới sẽ thuộc về Chúa, khỏi mất công truyền giáo khổ cực.

Không, con đường của Chúa thì khác với con đường của ta.

Con đường của ta là con đường kiêu ngạo trong khi con đường của Thiên Chúa là con đường khiêm nhường. Ta luôn tìm cách nâng mình lên, còn Thiên Chúa luôn tìm cách hạ mình xuống. Ta muốn xưng mình là Chúa trong khi Thiên Chúa lại muốn xuống làm người. Không chỉ làm một người bình thường, nhưng còn mặc lấy thân phận nghèo hèn, yếu ớt, thậm chí bị coi như một người tội lỗi nữa. Khi nâng mình lên, ta thường hạ người khác xuống. Còn Thiên Chúa tự hạ mình xuống để nâng con người lên làm con Thiên Chúa. Con người và Thiên Chúa đều sử dụng bậc thang, nhưng theo những mục đích khác nhau. Con người sử dụng bậc thang để leo lên cao. Ai cũng muốn lên cao trong đời sống vật chất. Ai cũng muốn leo cao trong địa vị xã hội. Ai cũng muốn leo cao trong bậc thang danh vọng. Còn Thiên Chúa lại sử dụng bậc thang để đi xuống. Từ trời Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Từ một người bình thường, Chúa còn xuống làm một người nghèo hèn, một người tội lỗi, một người thất bại.

Con đường ta chọn là con đường rộng rãi, dễ dãi. Còn con đường của Chúa là con đường chật hẹp khó khăn. Ta luôn tìm sự dễ dãi: làm sao cho đời sống đỡ vất vả, làm sao cho có những tiện nghi phục vụ đời sống, làm sao cho cuộc đời thành công tốt đẹp. Còn Thiên Chúa lại chọn con đường chật hẹp, bé nhỏ, khiêm nhường. Trong nghệ thuật quảng cáo, người ta hứa hẹn cho khách hàng mọi sự tiện nghi thoải mái. Còn Chúa Giêsu thì hứa với những kẻ muốn theo Người rằng: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta” (Mt 16, 24). Trong các trường đại học người ta quảng cáo: ai học trường này sẽ thành công, sẽ lên chức, sẽ lên lương. Còn Chúa Giêsu lại dạy các môn đệ: “Trong anh em, ai lớn nhất thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ” (Lc 22,26).

Chính Chúa Giêsu không đi vào con đường rộng rãi thênh thang, nhưng đã chọn con đường bé nhỏ, chật hẹp. Người không chọn cứu chuộc con người bằng những thành công lẫy lừng, những phép lạ kinh thiên động địa. Nhưng Người đã chọn cứu chuộc nhân loại bằng con đường đau khổ, con đường thập giá, con đường tử nạn. Chính vì thế, hôm nay, vì sợ đám đông tôn Người lên làm vua, đi xa con đường khiêm nhường bé nhỏ, Người đã bỏ đám đông mà đi. Người sợ các môn đệ bị nhiễm thói kheo khoang, phô trương, quyền lực, nên thúc giục các ông xuống thuyền sang bờ bên kia trước.

Đây không phải lần đầu tiên Chúa gặp cơn cám dỗ loại này. Trong sa mạc ma quỉ đã xui giục Người bỏ con đường khiêm nhường, đau khổ để đi vào con đường vinh quang, dễ dãi. Đây cũng chưa phải là cơn cám dỗ cuối cùng. Cám dỗ sẽ còn trở lại với lời khuyên của Phêrô khi ông ngăn cản Thầy ra đi chịu chết (x. Mt 16,23). Cơn cám dỗ khốc liết tiếp tục trong vườn Giệt-sê-ma-ni khiến Người nao núng hầu như muốn tháo lui (x. Mt 26, 39). Cơn cám dỗ không buông tha cả khi Người đã bị treo trên thánh giá với lời thách thức của mọi người: “Nếu Ông là Con Thiên Chúa, hãy xuống khỏi thập giá để chúng tôi tin” (x. Mt 27, 42). Nhưng Người đã chiến thắng tất cả những cám dỗ của ma quỉ, kiên quyết đi vào con đường thánh ý Chúa Cha, con đường khiêm nhường, vâng lời, hi sinh gian khổ.

Bản thân ta và Hội Thánh, nếu muốn trung thành với Chúa, không thể có chọn lựa nào khác ngoài con đường của Chúa đã đi.

Quá khứ đã minh chứng: Chính khi giàu sang, quyền thế, thì Hội Thánh sa sút, khủng hoảng. Trái lại những khi gặp khó khăn, nghèo khổ, bắt bớ, Hột Thánh lại phát triển mạnh mẽ, vì đang đi vào con đường của Chúa.

Là môn đệ Chúa, ta hãy mạnh dạn bước theo Chúa vào con đường khiêm nhường bé nhỏ, vào con đường chật hẹp từ bỏ mình, vào con đường thánh giá đau khổ. Tuy khó khăn, đau đớn, nhưng đó mới là con đường dẫn ta đến với Chúa, ơn cứu độ của ta.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Chúa bỏ đi, Chúa thúc giục các môn đệ bỏ đi vì sợ người ta tôn làm vua. Tôi có lựa chọn nào khiến Chúa phải bỏ đi không?

2) Tôi mong muốn Hội Thánh có khuôn mặt nào: uy quyền giàu sang hay nghèo khó, khiêm nhường?

3) Tôi có sẵn sàng đi vào con đường của Chúa không?