Các bài Suy Niêm Chúa Nhật V Thường Niên Năm A

Suy Niem CN 5 Thuong Nien Nam A

Bài đọcIsa 58:7-10; 1 Cor 2:1-5; Mt 5:13-16.

1/ Bài đọc I6 Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là chia cơm cho người đói,
rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ;
thấy ai mình trần thì cho áo che thân,

không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục?

8 Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông, vết thương ngươi sẽ mau lành.
Đức công chính ngươi sẽ mở đường phía trước,

vinh quang ĐỨC CHÚA bao bọc phía sau ngươi.

9 Bấy giờ, ngươi kêu lên, ĐỨC CHÚA sẽ nhận lời,

ngươi cầu cứu, Người liền đáp lại: “Có Ta đây!”
Nếu ngươi loại khỏi nơi ngươi ở gông cùm, cử chỉ đe doạ và lời nói hại người,

10 nếu ngươi nhường miếng ăn cho kẻ đói, làm thoả lòng người bị hạ nhục,
thì ánh sáng ngươi sẽ chiếu toả trong bóng tối,

và tối tăm của ngươi chẳng khác nào chính ngọ.

2/ Bài đọc II1 Thưa anh em, khi tôi đến với anh em,

tôi đã không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu mà loan báo mầu nhiệm của Thiên Chúa.

2 Vì hồi còn ở giữa anh em, tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giê-su Ki-tô, mà là Đức Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh vào thập giá.

3 Vì thế, khi đến với anh em, tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy.

4 Tôi nói, tôi giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn,

nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa.

5 Có vậy, đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm,

nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa.

3/ Phúc Âm13 “Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi.

14 “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được.

15 Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà.

16 Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.


GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy trở nên khí cụ hữu dụng khi Thiên Chúa dùng tới.

 Thiên Chúa có uy quyền làm mọi sự. Ngài có thể làm cho mọi người trở nên những người con thánh thiện của Ngài, mà không cần dùng tới công sức của con người; nhưng Ngài đã không làm như thế. Ngài cho con người được tham gia vào trong công trình cứu chuộc, bằng cách trở nên những khí cụ Ngài dùng để đưa con người tới Thiên Chúa, và Ngài kể những gì con người làm cho nhau là làm cho chính Ngài. Một điều quan trọng con người cần nhận ra: họ không có năng lực đưa con người tới Thiên Chúa, họ chỉ là khí cụ Thiên Chúa dùng mà thôi. Năng lực đưa con người tới Thiên Chúa là do hoàn toàn nơi Thiên Chúa, vì Ngài hoạt động từ bên trong con người. Vì thế, không ai có thể nói mình đưa một người vào đạo hay một tội nhân trở về với Chúa, mà chỉ là một khí cụ Thiên Chúa dùng mà thôi. Một ví dụ điển hình là lời thú nhận của Gioan Tẩy Giả: “Tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc: “Hãy dọn đường cho ngay thẳng để Ngài tới.””

Các bài đọc hôm nay muốn làm nổi bật tư tưởng này. Trong bài đọc I, ngôn sứ Isaiah sau khi đã đả kích thói ăn chay hình thức, đã giúp dân chúng hiểu ý nghĩa của việc ăn chay là giúp cho người khác có cơ hội sinh sống; và qua sự giúp đỡ này, những người được giúp đỡ sẽ nhận ra niềm tin của các tín hữu, để rồi họ cũng nhận biết và tin vào Thiên Chúa. Trong bài đọc II, thánh Phaolô giải nghĩa tiến trình một người tin nhận Đức Kitô: Ông chỉ là khí cụ (cái miệng) Thiên Chúa dùng để nói những gì Ngài muốn nói. Tin Mừng là của Đức Kitô mặc khải cho ông. Năng lực giúp một người hiểu sự thật và tin vào Đức Kitô là quyền năng của Chúa Thánh Thần. Trong Phúc Âm, thánh Matthew dùng hai hình ảnh để diễn tả khí cụ Thiên Chúa dùng nơi các tín hữu để giúp con người nhận ra những việc tốt các tín hữu làm, và họ tôn vinh Thiên Chúa.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là chia cơm cho người đói.

1.1/ Thực hành đức bác ái trong lời nói cũng như trong hành động: Ngôn sứ Isaiah nghiêm khắc đả phá việc chay tịnh hình thức và khoe khoang. Ông giúp dân chúng nhận ra cốt lõi của việc ăn chay là để cho tha nhân cũng có cơ hội được sống xứng nhân phẩm của một con người: “Cách ăn chay mà Thiên Chúa ưa thích chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ, thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục?” Đây là ba điều của 7 điều mà Giáo Hội dạy các tín hữu phải làm trong việc tỏ lòng thương xót tha nhân về phần xác. Ngoài ra, Giáo Hội còn dạy 7 điều thương tha nhân về phần linh hồn như: lấy lời lành mà khuyên người, mở dạy kẻ mê muội, yên ủi kẻ âu lo, răn bảo kẻ có tội, tha kẻ khinh dể ta, nhịn kẻ mất lòng ta, cầu xin cho kẻ sống và kẻ chết.” Trong trình thuật hôm nay, ngôn sứ Isaiah vắn tắt về việc thương linh hồn như sau: “Nếu ngươi loại khỏi nơi ngươi ở gông cùm, cử chỉ đe doạ và lời nói hại người… làm thoả lòng người bị hạ nhục.”

1.2/ Thiên Chúa sẽ nhận lời khi người thực thi bác ái cầu xin: Tất cả của cải, ơn thánh hay tài năng mà một người có được để giúp đỡ người khác đều đến từ Thiên Chúa; nhưng Ngài “kể cho” là giúp đỡ chính Ngài. Những ai chuyên chăm thực thi đức bác ái, Thiên Chúa tiếp tục ban nhiều của cải, ơn thánh và tài năng để họ có thể ban phát nhiều hơn nữa, và đền bù mọi tội lỗi nếu họ đã xúc phạm đến Ngài. Trình thuật của ngôn sứ Isaiah diễn tả hiệu quả của người biết thực thi bác ái như sau: “Ánh sáng ngươi sẽ chiếu toả trong bóng tối, và tối tăm của ngươi chẳng khác nào chính ngọ. Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông, vết thương ngươi sẽ mau lành.
Đức công chính ngươi sẽ mở đường phía trước, vinh quang Đức Chúa bao bọc phía sau ngươi. Bấy giờ, ngươi kêu lên, Đức Chúa sẽ nhận lời, ngươi cầu cứu, Người liền đáp lại: “Có Ta đây!””

2/ Bài đọc II: Tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô.

2.1/ Rao giảng Lời Chúa không bằng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu: Đối phương của thánh Phaolô tại thành Corintô chỉ trích sau lưng ngài với các tín hữu là không biết những triết lý cao siêu của triết lý Hy-lạp, là nói năng không hùng biện hay lợi khẩu như họ… Những lời chỉ trích này chẳng những không làm cho Phaolô buồn, mà còn giúp chất liệu cho ngài để làm sáng tỏ đạo lý đức tin với các tín hữu.

Trước tiên, Phaolô muốn nói: người rao giảng Tin Mừng như ông không rao giảng đạo lý của mình hay của bất cứ một ai khác, ngoài đạo lý mà Đức Kitô đã mặc khải cho. Trọng tâm của Tin Mừng là Đức Kitô chịu đóng đinh trên Thập Giá, tuy bị coi là điên rồ đối với người Hy-lạp và sỉ nhục đối với người Do-thái; nhưng đó lại là sức mạnh và uy quyền của Thiên Chúa dùng để đập tan xiềng xích của tội lỗi và mang ơn cứu độ đến cho con người. Phaolô cũng như bất cứ nhà rao giảng Tin Mừng nào phải lo lắng, sợ sệt, và run rẩy khi trình bày đạo lý của Đức Kitô; lý do là phải trình bày sự thực làm sao cho xác thực như Đức Kitô trao phó, chứ không được lẫn lộn và gây hiểu lầm nơi người nhận. Khi nhà rao giảng làm sai lạc sự thật của Tin Mừng, ông chắc chắn sẽ phải lãnh nhận hình phạt nơi Thiên Chúa.

2.2/ Đức tin các tín hữu có được hoàn toàn do quyền năng của Thiên Chúa: Phaolô ý thức rất rõ người rao giảng Tin Mừng chỉ là “cái miệng” Thiên Chúa dùng để loan báo những gì Ngài muốn nói. Phần đạo lý là của Đức Kitô mặc khải. Làm cho độc giả hiểu biết sự thật và tin vào Đức Kitô là do quyền năng Thánh Thần của Thiên Chúa. Phaolô xác tín ông không phải là lý do đức tin của các tín hữu: “Tôi nói, tôi giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa. Có vậy, đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa.”

3/ Phúc Âm: Làm chứng cho Thiên Chúa bằng cuộc sống chứng nhân.

Để giúp các tín hữu nhận ra vai trò của mình trong chương trình cứu độ, Chúa Giêsu đưa ra hai hình ảnh rất căn bản và quen thuộc:

3.1/ Muối: “Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi.”

Từ ngàn xưa, muối là chất liệu không thể thiếu cho đời sống con người. Muối rất quí cho người tiền sử: một kí muối bằng một kí vàng. Lương bổng được trả bằng muối (sal-ary). Sal là tiếng Latin cho muối. Thuế có thể trả bằng muối (1 Mac 10:29, 11:35). Một vài công dụng căn bản của muối:

(1) Ướp để giữ cho đồ ăn khỏi hư: dưa cải, kim chi, bò khô, nai khô, cá khô…

(2) Cho hương vị: đồ ăn ngon đến đâu mà không có muối, cũng trở thành nhạt nhẽo, vô vị.

(3) Làm chảy tan đá: Rảy muối trước cửa nhà và các lối đi để ngăn ngừa khỏi đóng đá.

(4) Khử vi trùng nơi các vết thương ngoài da, trị ong cắn, ngăn ngừa khoai tây và táo khỏi đổi màu.

(5) Thử trứng hư: bỏ trứng vào nước muối, quả nào tươi sẽ chìm xuống, quả nào hư sẽ nổi lên.

(6) Muối cần cho con người, các động vật và thực vật: săn thú vật nơi có các thác mặn, bỏ muối dưới gốc cây cho sinh trái ngọt và chữa bệnh. Thiếu muối hay không có muối, mọi vật sẽ chết hay bệnh tật (1 Kgs 2:20-21).

(8) Muối cũng dùng để tiêu diệt sự sống (quá nhiều muối): Trong chiến tranh, sau khi tàn phá thành phố, họ rắc muối để tiêu diệt sự sống (Jdg 9:45, Carthage).

Trong Kinh Thánh, hình ảnh của muối tượng trưng cho những điều sau:

(1) muối tượng trưng cho sự không thay đổi, không hư nát, và trong sạch. Lev 2:13 truyền phải bỏ muối vào các lễ vật ngũ cốc để tượng trưng cho giao ước của Thiên Chúa (x/c Num 18:19). Giao ước của Thiên Chúa được gọi là giao ước muối (2 Chr 13:5). Làm phép nước phải cho chút muối vào.

(2) sự thật, Lời Chúa (Col 4:6).

(3) tình yêu, bình an (Mk 9:50).

3.2/ Ánh sáng: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà.”

Công dụng của ánh sáng: Ánh sáng và lửa rất gần nhau, ánh sáng cực mạnh sẽ trở thành lửa; vì thế những công dụng của lửa cũng có thể áp dụng cho ánh sáng.

(1) Để soi sáng và đẩy lui bóng tối: Chúa Giêsu là ánh sáng của thế gian. Ngài đến để soi sáng thế gian, nhưng thế gian muốn nuốt trửng ánh sáng mà không được.

(2) Để nấu nướng: Làm sao con người sống nếu không có lửa để nấu ăn!

(3) Ban sự sống: Mọi vật đều cần ánh sáng mặt trời, không có ánh sáng sẽ không có sự sống (hiện tượng quang học “photo synthesis”: lá cây cần có sự sáng để tăng trưởng). Chúa Giêsu tự xưng mình là “ánh sáng ban sự sống.” Ngài vừa là ánh sáng vừa là sự sống, không có Ngài, con người chẳng có ánh sáng mà cũng chẳng có sự sống (Jn 1:4)

(4) Để sưởi ấm: Ánh sáng mặt trời sưởi ấm trái đất; nếu không có ánh sáng mặt trời, trái đất sẽ chết vì lạnh. Bên các sa mạc của Do-thái, ánh sáng mặt trời là nguồn năng lượng chính.

(5) Để chữa bệnh: tia laser dùng để giải phẫu, những tia sáng cực mạnh dùng để đốt cháy các tế bào chết…

(6) Để tiêu hủy: bom nguyên tử dùng tốc độ ánh sáng để tạo năng lượng thật lớn để phá hủy, E=mc2. Ngôn sứ Joel ví Ngày của Đấng Thiên Sai đến như một hỏa lò: vừa có sức thiêu hủy những kẻ kiêu ngạo và gian ác, vừa có sức chữa lành bệnh cho người công chính.

Mục đích của việc chiếu sáng là để:

(1) Cho mọi người nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa và ngợi khen Ngài.

(2) Không cho vinh quang cá nhân: Đừng làm việc của Chúa để tạo vinh quang cá nhân, vì chúng ta đã được lãnh phần thưởng là sự khen tặng của người đời; Thiên Chúa không phải trả công cho chúng ta nữa.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Con người chỉ là khí cụ Thiên Chúa dùng. Chúng ta đừng bao giờ huyênh hoang đánh cắp công ơn Thiên Chúa hay kể lể công ơn với người khác.

– Khi Thiên Chúa dùng tới, chúng ta hãy cố gắng là khí cụ sắc bén, đừng như muối đã hết vị mặn hay đèn đã hết dầu.

– Tự Lời Chúa đã có tiềm năng phát triển và hoán cải tâm hồn. Chúng ta không cần phải trình bày cách văn hoa hay hùng biện, mà chỉ cần trình bày cách xác thực, chân thành, và đơn giản.

 

1.Là muối, là ánh sáng

(Suy niệm của Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)

Suy Niệm

Anh em là muối cho đời: một định nghĩa tuyệt vời về người Kitô hữu.

Kitô hữu gắn liền với cuộc đời, hòa mình với mọi người, như muối thấm vào thức ăn, giữ cho nó khỏi hư và thêm đậm đà.

Vị mặn của muối là yếu tố quan trọng. Mặn thuộc về bản chất của muối.

Muối nhạt chẳng đáng gọi là muối, vì chẳng ướp được gì.

Khi đánh mất bản chất của mình, nó cũng hoàn toàn trở nên vô dụng.

Anh em là ánh sáng cho trần gian: một định nghĩa kinh khủng về người Kitô hữu, bởi lẽ chỉ Thiên Chúa mới là Ánh Sáng (1Ga 1,5). Chỉ Đức Giêsu mới dám nhận mình là Ánh Sáng (Ga 8,12).

Anh em là ánh sáng vì anh em gần Thầy, gần đèn thì sáng.

Thế giới hôm nay tiến bộ về khoa học kỹ thuật, nhưng lại là một thế giới nhạt nhẽo, mất ý nghĩa, một thế giới tối tăm và vẩn đục. Chúng ta hay phàn nàn về sự xuống cấp, suy đồi, nhưng người Kitô hữu ít khi nhìn nhận phần trách nhiệm của mình trước thực trạng đó.

Vì tôi là muối nhạt nên thế giới này vô vị. Vì tôi là đèn hết dầu, nên thế giới còn nhiều bóng tối.

Thế giới sẽ mang bộ mặt mới, nếu chúng tôi sống đúng định nghĩa của Đức Giêsu.

Khi hoà mình với đời, chúng ta có thể trở thành muối nhạt, ngọn đèn chúng ta có thể bị hết dầu. Cần được ướp lại bằng vị mặn của Đức Giêsu, ngọn đèn cần được nuôi bằng dầu của Người.

Phải liên tục trở lại với Đức Giêsu để đừng đánh mất bản sắc Kitô hữu của mình.

Anh em ở trong thế gian, nhưng không thuộc về thế gian.

Vẫn còn nhiều Kitô hữu, có khả năng nhưng lại rụt rè, đặt ngọn đèn đời mình dưới thùng. Họ không dám dấn thân vào đời, vì sợ nguy hiểm, vì thiếu tự tin vào bản lãnh của mình, hay vì hiểu sai thế nào là khiêm tốn thực sự.

Cần có nhiều Kitô hữu làm băng video, viết kịch, quay phim. Cần nhiều người là văn nghệ sĩ, làm nhà nghiên cứu.

Cuộc sống chúng ta phải tỏa sáng, qua bao điều tốt đẹp, để mọi người nhận ra Thiên Chúa là Nguồn ánh sáng và cất tiếng ngợi ca tôn vinh.

Gợi Ý Chia Sẻ

Bạn biết gì về cha Đắc Lộ, người có công lớn trong việc sáng tạo chữ quốc ngữ của dân tộc Việt Nam?

Nhiều Kitô hữu đã bị biến chất khi dấn thân vào đời. Có cách nào hoà mình mà không đánh mất chính mình?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, tạ ơn Chúa đã cho chúng con ánh sáng mặt trời, mặt trăng, và ánh sáng từ những nguồn năng lượng trên mặt đất.

Tạ ơn Chúa vì Chúa đã gọi chúng con là ánh sáng. Đó là vinh dự và cũng là một trách nhiệm nặng nề.

Xin cho chúng con có khả năng đẩy lui bóng tối của hận thù và bất công, của buồn phiền và thất vọng.

Xin cho chúng con biết gìn giữ ngọn lửa mà Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con, và biết vâng theo những soi sáng của Chúa qua từng phút giây của cuộc sống.

Lạy Chúa Giêsu, cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối vẫn còn tiếp diễn trên thế giới và trong lòng chúng con. Ước gì chúng con đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối, nhưng can đảm thắp lên những ngọn lửa, để cả trái đất ngập tràn ánh sáng Chúa.

 

2.Suy niệm Chúa Nhật 5 Thường Niên

(Suy niệm của Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)

Các nhà thần học có thể đưa ra những định nghĩa về kitô hữu

trong tương quan với Chúa Giê su Kitô.

Nhưng trong bài Tin Mừng hôm nay,

Đức Giêsu cho chúng ta hình ảnh tươi tắn và lạc quan

của một kitô hữu trong tương quan với thế giới.

Đây là điều Ngài nghĩ về các môn đệ ngày xưa và về chúng ta ngày nay:

Anh chị em là “muối cho trái đất”, là “ánh sáng cho thế giới”.

Chỉ trong Tin Mừng Mátthêu, hai định nghĩa này mới được đặt gần nhau,

Để các môn đệ của Đức Giêsu biết rõ căn tính của mình.

Muối là điều “cần thiết cho cuộc sống con người” (Hc 39,26).

Muối bảo quản đồ ăn cho khỏi hư và làm cho thức ăn có vị đậm đà.

Nhưng muối cũng được dùng để “bỏ vào mọi lễ phẩm dâng tiến” (Lv 2,13).’

Chính Đức Giêsu cũng ca ngợi: “Muối thì tốt…

Anh em hãy giữ muối trong lòng anh em…” (Mc 9,50).

Thánh Phaolô cũng khuyên lời nói của người tín hữu nên dễ thương

và mặn mà vì “được nêm bằng muối” (Côlôsê 4,6).

Nói chung muối thường được nhìn dưới cái nhìn tích cực.

Nhưng muối lại không đứng một mình.

Muối đi với một vật, thấm nhập, và biến đổi nó tự bên trong.

Cá không ăn muối cá ươn.

Đức Giêsu không chỉ nói chúng ta là muối,

Ngài nói chúng ta là muối cho trái đất này, nơi loài người đang ở.

Những gì muối làm cho đồ ăn, chúng ta cũng phải làm cho nhân loại.

Trái đất hôm nay với hơn 7 tỷ con người,

Vẫn cần đến muối của các kitô hữu để cuộc sống có ý vị hơn.

Ai cũng muốn ra khỏi cái nhạt nhẽo vô vị hàng ngày:

Bữa ăn nhạt, câu chuyện nhạt, cuộc tình trở nên phai nhạt…

Ai cũng muốn thấy mỗi ngày của đời mình đậm đà ý nghĩa.

Rất tiếc vì lý do nào đó mà muối trở nên nhạt.

Muối nhạt thì không còn là muối nữa, và chẳng muối được ai.

Con người hôm nay chờ các kitô hữu là muối còn vị mặn.

Nếu cuộc sống trên trái đất còn nhạt,

thì các kitô hữu phải xét lại phẩm chất muối của mình.

Anh chị em là “ánh sáng cho thế giới” (Mt 5,14).

Tuyên bố này của Đức Giêsu làm chúng ta ngỡ ngàng,

Vì trong Tin Mừng thứ tư,

ba lần Ngài nhận mình là “ánh sáng cho thế giới” (Ga 8,12; 9,5; 12,46).

Vào thời Đức Giêsu, chưa có điện, nên ánh sáng là điều rất cần.

Người ta vẫn dùng một ngọn đèn dầu để soi sáng cho cả nhà.

Ngọn đèn thật quý, vì là nơi mọi người tụ họp, trò chuyện hay làm việc.

Bản chất của ánh sáng là tỏa sáng cho những gì chung quanh.

Như muối, ánh sáng cũng hiện hữu cho người khác.

Không được che giấu ánh sáng, không được lấy thùng mà úp trên đèn.

Đức Giêsu khẳng định chúng ta là “ánh sáng cho thế giới”.

Chúng ta cần đón nhận sứ mạng lớn lao đó với lòng khiêm nhu.

Chẳng ai dám nhận mình là “ánh sáng cho thế giới”

nếu không nhận được ánh sáng từ Nguồn Sáng là Đức Giêsu.

Vì là ánh sáng, nên kitô hữu tỏa sáng là một điều tự nhiên,

như hoa tự nhiên tỏa hương thơm ngát.

Người kitô hữu không phô trương để câu sự chú ý về mình.

Nhưng họ lại không giấu diếm bản chất thật của họ.

Họ mong mình là muối mặn, là ánh sáng tỏa lan.

Họ cố gắng làm những công việc tốt lành cho thế giới,

với ước mơ làm cho Cha trên trời được tôn vinh.

Người kitô hữu chỉ sợ mình là muối nhạt và đèn đã tắt từ lâu.

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu thương mến,

xin ban cho chúng con

tỏa lan hương thơm của Chúa

đến mọi nơi chúng con đi.

Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con,

bằng Thần khí và sức sống của Chúa.

Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con,

để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.

Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con,

để những người chúng con tiếp xúc

cảm nhận được Chúa

đang hiện diện nơi chúng con.

Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa,

không phải bằng lời nói suông,

nhưng bằng cuộc sống chứng tá,

và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa.

Thánh Têrêsa Calcutta

 

3.Niềm vui của chia sẻ

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)

Trong một xã hội nghèo nàn còn đầy khó khăn về kinh tế và bị ảnh hưởng bởi lối sống ích kỷ như xã hội Việt Nam của chúng ta, khái niệm có nguồn gốc từ Thánh Kinh “cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35) bị coi là lý thuyết suông, là ảo tưởng. Quả thật, xung quanh chúng ta, có nhiều người quá giàu, phung phí tiền bạc vào các cuộc ăn chơi, trong khi có nhiều người rất nghèo, ăn bữa nay lo bữa mai cũng chật vật. Lời Chúa hôm nay kêu gọi thực thi tình liên đới giữa con người với nhau. Theo Giáo lý của Giáo Hội Công giáo, tiền bạc tài sản mà chúng ta đang có đều là sở hữu chung, Chúa trao cho chúng ta quản lý và sinh lợi. Vì thế, người giàu mà không biết sử dụng của cải cho hợp lý sẽ mang tội. Nhân ngày môi trường thế giới 5-6-2013, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tuyên bố: “Lương thực để lãng phí là lương thực ăn cắp của người nghèo” (La nourriture gaspillée est une nourriture volée aux pauvres). Theo Đức Thánh Cha, mỗi người đều phải trân trọng của cải và sử dụng đúng mức, đồng thời phải biết chia sẻ cho những người kém may mắn đang sống xung quanh. Gần đây, một nhóm từ thiện tổ chức quyên góp đồ đã qua sử dụng để tặng cho người có nhu cầu. Họ đã trương khẩu hiệu: “Mọi sự đều là của chung, khác nhau ở chỗ ai dùng mà thôi”. Quả thực, tất cả những gì chúng ta đang sở hữu là do Chúa trao cho chúng ta quản lý. Chúng ta không được phép lãng phí và phải quan tâm đến những người đang có nhu cần, nhất là những người bất hạnh cơ nhỡ.

Chúng ta hãy trở về với Bài đọc I của Chúa nhật hôm nay. Ngôn sứ Isaia đã ca tụng những nghĩa cử chia sẻ liên đới với người nghèo. Đối với những ai biết chia sẻ cảm thông, Chúa sẽ làm cho đời họ bừng lên như ánh sáng lúc rạng đông. Người nào luôn dấn thân phục vụ người nghèo, cởi trói cho người bị gông cùm, nhường miếng ăn cho người đói khát… khi họ kêu cầu với Chúa, Ngài sẽ mau mắn trả lời. Sau này, Chúa Giêsu khẳng định với chúng ta, khi chúng ta giúp đỡ người nghèo là chúng ta giúp đỡ chính Chúa; khi chúng ta nhắm mắt làm ngơ trước nỗi khổ của anh chị em là chúng nhắm mắt làm ngơ với chính Chúa (x. Mt 25, 1-46).  Lòng rộng rãi chia sẻ là lý do để được Chúa chúc phúc. Ai cho đi cách quảng đại, sẽ được Thiên Chúa cho lại.

Như vậy, với ánh sáng của Lời Chúa chúng ta có thể hiểu ý nghĩa của khái niệm được nhắc tới trên đây: cho thì có phúc hơn là nhận. Chắc chắn nhiều người trong chúng ta đã trải nghiệm được niềm vui này. Khi giúp đỡ chia sẻ, chúng ta hy sinh một chút tiền bạc, thời giờ hay sự kiên nhẫn, đổi lại chúng ta sẽ được niềm vui trong tâm hồn vì chúng ta vừa làm một việc tốt. Đó là niềm vui của chia sẻ. Tuy vậy, chúng ta chỉ có được niềm vui khi hành động chia sẻ được thực hiện cách tự nguyện và được thúc đẩy bởi lòng bác ái, chứ không phải vì miễn cưỡng hay vì vụ lợi hoặc nhằm tiếng khen.

Hai chất liệu được Đức Giêsu sử dụng để so sánh với những đức tính của người môn đệ: muối và ánh sáng. Đây là hai yếu tố quan trọng của đời sống con người. Chúa Giêsu mời gọi những ai theo Chúa hãy cố gắng mỗi ngày để đem cho cuộc đời vị mặn của tình thương và ánh sáng của lòng tốt. Trong nghi thức rửa tội trước đây, vị chủ sự đặt một chút muối vào miệng người được rửa tội với lời nguyện xin cho người tín hữu này được sống như muối cho thế gian. Ngày nay, nghi thức chỉ còn giữa lại phần trao cây nến cháy với lời mời gọi người vừa được rửa tội hãy sống như con cái sự sáng.

Cuộc sống này là một cuộc tranh đấu không ngừng giữa sự thiện và sự ác; giữa ánh sáng và tối tăm. Vì thế mà muối có thể bị mất vị mặn, ánh sáng có thể bị che mờ. Vị mặn làm nên giá trị của muối; chiếu soi là vai trò chính của ánh sáng. Mất vị mặn, muối chắng còn là muối; ánh sáng bị che phủ sẽ trở thành vô nghĩa. Đời sống Kitô hữu mà không còn khả năng ướp mặn cuộc đời hay không còn khả năng chiếu soi nhân loại sẽ trở thành hư vô trống rỗng.

Đức Kitô là ánh sáng trần gian. Người đến để soi chiếu nhân loại. Hôm nay Người vẫn hiện diện để tiếp tục soi sáng cho những người đang đi trong tối tăm trên đường lữ hành trần thế. Giáo huấn của Người vẫn là muối ướp cho đời, đem cho cuộc sống này vẻ đẹp và sức sống thần linh. Chúa Giêsu đã đem lại cho con người niềm vui và hạnh phúc bằng cái chết trên thập giá. Điều đó cho thấy, việc thiện chí đem lại niềm vui cho tha nhân bao giờ cũng đòi hỏi sự hy sinh. Có những hy sinh âm thầm, nhưng cũng có những hy sinh đòi hỏi người tín hữu phải cố gắng đến mức anh hùng. Thánh Phaolô đã trải qua kinh nghiệm quý báu này, và ngài quả quyết với chúng ta: “Quả thật, tôi không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô, mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh” (Bài đọc II). Một khi sống tinh thần hy sinh của Đức Giêsu, chắc chắn chúng ta sẽ đạt được niềm vui của chia sẻ”.

Bạn đã bao giờ cảm nghiệm được niềm vui của chia sẻ chưa? Bạn hãy thử đi, chắc chắn Chúa sẽ cho bạn những điều bạn không ngờ tới.

 

4.“Toả sáng giữa đời”

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)

Toả sáng giữa đời, đó là sứ mạng của mỗi chúng ta. “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian”. Đây vừa là lời mời gọi, vừa là một mệnh lệnh mà Chúa Giêsu đưa ra cho các môn đệ.

Sống trên đời, mỗi người chúng ta giống như một ngôi sao trên bầu trời. Triệu triệu ngôi sao trong dải ngân hà, không có hai ngôi sao giống nhau hoàn toàn. Những ngôi sao khác nhau về kích cỡ, về cường độ ánh sáng và về tốc độ vận chuyển. Thiên Chúa là Đấng “ấn định con số các vì sao, và đặt tên cho từng ngôi một” (Tv 147,4). Thiên Chúa cũng biết mỗi người chúng ta, và Ngài khắc tên chúng ta trong bàn tay của Ngài. “Ta đã gọi con bằng chính tên con. Con là của riêng Ta” (Is 43,1).

Chúa Giêsu mời gọi những ai muốn theo Chúa phải toả sáng như những ngôi sao trên bầu trời. Sống trên đời, mỗi người một tên gọi, một khuôn mặt, một cá tính, một nghề nghiệp và một sở thích. Tuy vậy, lý tưởng chung của tất cả đều là sự hoàn thiện, mặc dù khái niệm “hoàn thiện” được hiểu khác nhau.

Toả sáng giữa đời, đó là sứ mạng của mỗi chúng ta. “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian”. Đây vừa là lời mời gọi, vừa là một mệnh lệnh mà Chúa Giêsu đưa ra cho các môn đệ. Chúa Kitô là ánh sáng thế gian. Những ai đi theo Người cũng phải trở nên ánh sáng, vì tin vào Chúa là cố gắng nỗ lực mỗi ngày để trở nên giống như Người. Lệnh truyền này không phải là lý thuyết, nhưng là những đề nghị thực hành cụ thể. Đó là những việc thiện hảo mà người môn đệ thực hiện đối với những người xung quanh. Những việc tốt lành này sẽ giúp người tín hữu toả sáng giữa đời. Những người chưa tin Chúa sẽ nhận ra Người thông qua những cử chỉ tốt lành mà người môn đệ đang làm.

Một cách cụ thể hơn, ngôn sứ Isaia đã diễn giải những việc làm giúp chúng ta toả sáng giữa đời: đó là cảm thông, chia sẻ và giúp đỡ những người cô thế cô thân, những người đau khổ bần hàn. Vị ngôn sứ viết: “Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông, vết thương ngươi sẽ mau lành…”. Những việc làm nhân ái có tác động thật diệu kỳ: khi giúp đỡ ai, thì vết thương nơi mình được chữa lành. Khi thương người nghèo, thì lời cầu nguyện lên Chúa được Ngài nhận lời. Khi cho đi, là khi nhận lãnh. Khi quên mình, thì gặp lại bản thân. Đó là sự kỳ diệu của sẻ chia và phép lạ của lòng nhân ái. “Nếu ngươi nhường miếng ăn cho kẻ đói, làm thoả lòng người bị hạ nhục, thì ánh sáng của người sẽ chiếu toả trong bóng tối, và tối tăm của ngươi chẳng khác nào chính ngọ”. Thiên Chúa là Đấng rộng rãi quảng đại. Ngài sẽ ban lại gấp trăm cho những ai từ tâm chia sẻ với tha nhân.

Tác giả Thánh vịnh cùng chung một cảm nhận: Ánh sáng sẽ bừng lên nơi người từ bi nhân hậu và công chính. Ánh sáng ấy vừa là ánh sáng thần thiêng đến từ Thiên Chúa, vừa là ánh sáng toả lan nơi tâm hồn người thánh thiện. Quả vậy, những ai bao dung quảng đại sẽ cảm nhận được sự an bình và niềm vui đến từ Thiên Chúa.

Nhân loại vừa trải qua thời kỳ khó khăn. Con virus Côrôna nhỏ bé đã làm đảo lộn thế giới. Hệ luỵ của đại dịch Covid-19 sẽ còn tồn tại nhiều năm. Trong những thời khắc của đại dịch, người ta được chứng kiến những nghĩa cử cao đẹp thấm đậm tình người. Cũng trong thời đại dịch, nhiều người lợi dụng để trục lợi trên đau khổ của đồng bào. Họ mượn chức danh của mình để vơ vét không thương tiếc, miễn sao thu lợi thật nhiều. Thế mới thấy, lòng tham của con người là vô đáy, và sự vô cảm của con người thật khủng khiếp. Người ta bất chấp lương tâm, bất chấp sự đau khổ của tha nhân, miễn là thu tích được nhiều tiền cho bản thân và cho gia đình. Những người này, không chỉ bị pháp luật lên án, mà còn bị lương tâm cắn rứt suốt đời vì sự bất công tham lam và ăn chặn của người nghèo.

“Anh em là muối cho đời». Ai trong chúng ta cũng biết tác dụng và ích lợi của muối. Thiếu muối, mọi đồ ăn đều trở nên vô vị. Vào thời Chúa Giêsu, khi chưa có tủ lạnh như hiện nay, muối không chỉ để nêm vào món ăn, mà còn là chất liệu bảo quản thực phẩm. Chúa muốn những ai tin vào Người phải trở nên muối ướp trần gian, tức là làm lan toả xung quanh sự thánh thiện, mặc dù đời còn đầy bóng tối của bất công và ghen ghét hận thù.

Làm sao có thể trở thành muối và ánh sáng giữa một cuộc sống đầy cạnh tranh và mưu mô tính toán. Thánh Phaolô trả lời : nhờ Đức Giêsu Kitô (Bài đọc II). Đối với thánh nhân, Đức Giêsu là lý tưởng duy nhất. Mối bận tâm lớn nhấn của thánh Phaolô là làm sao để trung thành với Đức Giêsu. Trọn cuộc đời của thánh nhân là dành cho Chúa. Dù gông cùm, tù đầy, đòn vọt và sự khi bỉ của người đời, vị Tông đồ dân ngoại vẫn không hề nao núng, vì « chiều cao hay vực thẳm, hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta » (Rm 8,39). Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy cậy dựa vào lẽ khôn ngoan của Thiên Chúa, chứ đừng dựa vào người phàm. Nhờ đó, chúng ta có đức tin chân thật và vững chắc.

Chúng ta đang sống trong những ngày đầu xuân Quý Mão. Nắng ấm của mùa xuân làm cho lòng người ấm áp, cây cối đâm chồi nảy lộc. Xin cho mỗi chúng ta cũng trở nên như nắng xuân, đem sức sống, sự bình yên và niềm vui cho mọi người. Nguyện xin Chúa Xuân chúc phúc cho mỗi chúng ta. Amen.

 

5.Sứ mệnh của Kitô hữu: là muối và ánh sáng

(Suy niệm của Dã Quỳ)

Chủ đề suy niệm từ Lời Chúa hôm nay nói với chúng ta về những thực thể rất đỗi bình thường trong cuộc sống, đó là Muối và Ánh Sáng. Tự bản chất, muối mặn để ướp thức ăn, và ánh sáng để chiếu sáng. Nhưng Chúa Giêsu lại muốn dùng để mời gọi mỗi chúng ta sống trách nhiệm của người Kitô hữu là “Muối cho đời” và là “Ánh sáng cho trần gian.” Lời của Chúa hẳn đã và đang là lời thôi thúc từng người chúng ta sống, thể hiện tinh thần truyền giáo trong mọi nơi, mọi thời và mọi hoàn cảnh cuộc sống. Giữa một xã hội mà người ta chỉ muốn nổi danh về vật chất, sống ích kỷ và sống chủ nghĩa cá nhân, liệu lời gọi mời của Chúa có là điều khó thực hiện và lỗi thời chăng?

“Chính anh em là muối cho đời.” Muối là vật dụng tốt. Không có muối, thức ăn sẽ nhạt nhẽo, không vị ngon. Nhưng với cuộc đời, Chúa muốn chúng ta là muối ngon ướp cho con người đang nhạt niềm tin vào Thiên Chúa. Chính cuộc sống chúng ta hướng trọn về Chúa sẽ như muối tăng thêm hương vị Thiên Chúa vào trung tâm cuộc đời tầm thường này. Muối tình yêu của Chúa đã cho đời vị mặn mà của lòng xót thương. Còn mỗi Kitô hữu, xung quanh chúng ta có được phát triển hơn về lòng nhân hậu, tình yêu, lòng tha thứ…là những vị mặn của Chúa? hay là ta lại trở nên vị đắng đót, tầm thường, nhỏ mọn chẳng mang ích lợi gì cho đời?

Vị mặn là bản chất của muối, thế nên nhạc sĩ Lê Đức Hùng đã tự hỏi: “Muối nếu không mặn nữa, có còn là muối nữa không?” Vậy xin muối mãi là muối mặn nồng nhé! Đời người Kitô hữu cũng vậy, nếu không còn chất mặn của Đức Tin, khi chẳng còn vị nồng của Lòng Mến, hay thiếu vắng thực hành giới răn và các mối phúc, ta sẽ không thể sống chan hòa với anh chị em, ướp mặn cho đời, mang lại niềm vui và thẩm thấu hình ảnh của Thiên Chúa Tình yêu vào cuộc đời của biết bao anh chị em chưa biết Chúa. Vậy, chúng ta cùng cầu xin Thánh Thần Chúa thánh hóa và biến đổi ta nên muối mặn nồng, sống có trách nhiệm như những môn đệ trung tín, đem lại vị mặn tin yêu cho đời, chứ đừng để ta thành vô dụng và bị chà đạp.

“Chính anh em là ánh sáng cho trần gian.” Ánh sáng quan trọng và cần thiết cho cuộc sống. Không ánh sáng, không có vẻ đẹp, chẳng có màu sắc và cũng không thể hoạt động. Chúa Giêsu đã thấy sự lớn lao của ánh sáng và Chúa muốn những ai theo Chúa phải là ánh sáng cho trần gian, có quan điểm rộng lớn và cái nhìn mở rộng. Mỗi chúng ta có được ánh sáng, trở nên ánh sáng và tỏa lan ánh sáng là nhờ chính Chúa Giêsu, Đấng đã tuyên bố “Tôi là ánh sáng thế gian.” Ánh sáng của chúng ta phải phát xuất từ Chúa, đó là nguồn ánh sáng tình yêu, để rồi chúng ta tỏa sáng, thể hiện bằng việc yêu thương tha nhân, chia sẻ tình yêu và cơm áo với anh chị em nghèo đói, khiêm tốn chăm sóc phục vụ và đỡ nâng những ai đau bệnh hay bị bỏ rơi… Vì Chúa mong “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những việc tốt anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em.”

Trần gian ta sống còn đó biết bao tăm tối của lòng ghen tương thù oán, của ích kỷ; sự mù mịt của con người thiếu lương tâm, suy đồi nhân cách và lọc lừa chiếm đoạt…! Vậy người Kitô hữu được Chúa mời gọi hãy là ánh sáng tình yêu, ánh ánh của lòng thánh thiện đạo đức, ánh sáng của sự thật, lòng hy sinh để len lỏi vào mọi ngóc ngách của trần gian, để chiếu giãi vào mọi tâm hồn và cuộc sống, để đẩy lui, xua tan và diệt trừ mọi bóng tối.

Chúa không chỉ mời gọi nhưng Người trao cho chúng ta trọng trách là Muối và Ánh Sáng. Vì nếu ta không còn chất mặn đức tin và sáng lên tình yêu, ta không còn phải là Kitô hữu nữa. Vậy mỗi chúng ta cần ý thức để thực sự trở nên muối mang lại ích lợi cho đời, biết hy sinh, bỏ mình, hòa tan để ướp mặn đời bằng niềm tin trung kiên sắt son vào Chúa; và biết chiếu giãi ánh sáng Tin Mừng, ánh sáng tình yêu Chúa và tình yêu tha nhân trước mặt thiên hạ, để danh Chúa được rạng sáng.

Những gì thế giới chờ đợi chúng ta, những môn đệ của Chúa Giêsu, những Kitô hữu có Chúa và thuộc về Chúa, đó là những hành động chứa đầy sự sống, niềm tin và tình yêu “Những công việc tốt đẹp anh em làm.” Và tất cả những gì ta làm như là thói quen thường ngày trong cuộc sống, ta làm vì Thiên Chúa và Vinh Quang của Ngài. Với từng bậc sống Linh mục,tu sĩ, giáo dân…; từng hoàn cảnh giàu nghèo…; theo từng nghề nghiệp bác sĩ, công nhân, nông dân, tiểu thương… và môi trường sống trong gia đình, nơi công sở hay phố chợ… Uớc mong sao chúng ta hãy biết dấn thân trở nên chứng nhân của Chúa, dẫu cho ta chỉ là hạt muối nhỏ hay ngọn đèn lẻ loi, nhưng hãy giữ chất mặn bền mãi và không bao giờ lịm tắt ánh sáng, để tất cả những ai sống quanh ta đều được sưởi ấm, yêu thương và mặn nồng hương vị Chúa Kitô.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con Thánh Thần Tình Yêu, để Người biến đổi chúng con thực sự trở nên Muối và Ánh Sáng. Nguyện xin Chúa đồng hành và nâng đỡ chúng con qua từng suy nghĩ, lời nói, việc làm trong cuộc sống hằng ngày. Amen.

 

6.Muối và ánh sáng – ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

“Chính anh em là muối cho đời”

“Chính anh em là ánh sáng cho trần gian”.

Chúa Giêsu đề cập đến muối và ánh sáng ngay sau Hiến chương Tám Mối Phúc. Phải chăng Người muốn giải thích tám phúc qua hai hình ảnh cụ thể: Muối và ánh sáng.

Ý nghĩa muối và ánh sáng có vẻ tương phản như kiểu nói: nghèo khổ, sầu đau, bị bách hại lại được phúc. Thực ra, kiểu nói đó không có gì là mâu thuẫn nhưng hoàn toàn ăn khớp với nhau, có sức làm nổi cộm những ý nghĩa sâu sắc như những hình ảnh nổi trên màn ảnh không gian ba chiều, muối như nền không gian ba chiều cho những ánh sáng nổi lên rõ nét.

Chắc chắn Chúa Giêsu không muốn nói đến cấu trúc khoa học của muối và ánh sáng, mà chỉ nêu ra những công dụng rất hữu ích và cần thiết của chúng.

1/ Ai cũng biết công dụng của muối là ướp đồ ăn khỏi hư thối, thêm hương vị đậm đà và dễ tiêu hóa, muối còn được dùng trong nhiều ngành công nghệ để làm chất thanh tẩy trong bột giặt, cho thủy tinh trong suốt, tơ sợi bền dai. Muối rất hữu ích, nhưng tự nó hòa tan dễ dàng. Hòa tan mà vẫn không biến chất: “Hòa nhi bất đồng”. Hòa tan bỏ mình đi để muối có sức thấu nhập tận cốt tủy của đồ ăn, của chất liệu cần dùng nó. Nhờ đó muối bảo tồn, gìn giữ vật khỏi hư thối, nguyên liệu được thanh tẩy, hương vị được thơm ngon đậm đà.

Phải chăng đây là ý nghĩa mà Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh hơn cả, nơi chính mình Người và cho môn đệ Người. Chính Ngài là Thiên Chúa đã từ bỏ địa vị Thiên Chúa vinh quang, hủy mình đi (Semetipsum exinanivit … Phil. 2, 7). Hòa tan vào thân phận nô lệ phàm nhân để thanh tẩy mọi ô uế của phàm nhân, làm cho phàm nhân nên tươi tốt, đậm đà thơm ngát trong tình yêu Thiên Chúa, làm cho phàm nhân nên trong suốt phản chiếu ánh sáng chí thánh của Ngài để tỏa sáng vinh quang Ngài khắp nơi.

Ai tin theo Chúa Kitô cũng phải bỏ mình đi để hòa tan như Thánh Phaolô: “Tôi sống không còn phải là tôi sống, nhưng là chính Chúa Kitô sống trong tôi”.

Tại sao phải hủy mình đi? Bài đọc II cho thấy rõ lý do: “Khi tôi đến với anh em, tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt, run rẩy… nhưng tôi chỉ dựa vào Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào Thập giá… chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thánh thần và quyền năng Thiên Chúa”.

Đức Kitô là muối, Phaolô cũng phải là muối để hòa tan biến đi, từ bỏ mình đi, hạ mình xuống làm nền như tảng đá để xây lên những thành phố cao, để làm chân đế của những ngọn đèn sáng chiếu soi cho mọi người trong nhà và trong khắp thế gian.

2/ “Anh em là ánh sáng cho trần gian”

Ánh sáng soi cho ta thấy mọi vật muôn sắc ngàn màu tươi đẹp. Ánh sáng kích thích cây cối hoa màu sống phát triển mạnh mẽ. Thiếu ánh sáng chúng bị úa, bị chết yểu. Thế kỷ thứ XX mệnh danh là thế kỷ ánh sáng. Biết bao nhiêu phát minh tân kỳ từ đèn điện, bếp điện đến những phát thanh truyền hình, rađa, quang tuyến, siêu âm, vi tính, cáp quang.

Từ những công dụng kỳ diệu của ánh sáng tự nhiên, Chúa Giêsu cho ta thấy một thứ ánh sáng siêu nhiên vô cùng lạ lùng.

Ánh sáng siêu nhiên vô cùng đó phát ra từ chính Thiên Chúa, vì “Thiên Chúa là nguồn sáng” (Tv. 1,1), là Đấng tạo thành ánh sáng mặt trời, mặt trăng và tinh tú (St. 1,16; Tv. 135, 7-9; Ga. 1,17). Cho nên uy linh Ngài như cẩm bào ánh sáng. Ngài hiện xuống núi, đến với dân trong ánh lửa (Xh. 19,12). Làm cho dung nhan Môsê tỏ ánh hào quang (Xh. 34,29). Lời Ngài như tia sấm sét (Xh. 20,18), nhưng thật êm dịu như ánh trăng thanh và dịu ngọt dường bao, hơn mật ong ngậm trong miệng (Tv. 118, 103-105).

Huyền diệu thay! Êm ái ngọt ngào thay! Ánh sáng chính là Ngôi Lời: “Ngôi Lời là Thiên Chúa… là ánh sáng thật đã đến trong thế gian, chiếu soi vào bóng tối cho mọi người… Ngôi Lời đã trở thành người phàm và ở trong chúng ta” (Ga. 1, 1-9).

Ngôi Lời là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta như Người đã xác nhận: “Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo Tôi sẽ không mất đi trong tối tăm, nhưng sẽ được ánh sáng ban sự sống” (Ga. 8, 12) và ban cho chúng ta ánh sáng, Người nói: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian”.

Người đã đến chiếu soi vào bóng tối cho mọi người thế nào?

Thưa Người “loan báo Tin mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố ân xá cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được sáng, trả tự do cho người bị áp bức, công bố năm hồng ân của Chúa”, “Tất cả những ai đau yếu mắc đủ thứ bệnh hoạn đều được Người đặt tay trên từng bệnh nhân và chữa họ lành, quỷ cũng xuất khỏi nhiều người” (Lc. 4, 18-19… 40-41). Người làm nhiều hơn thế: cho kẻ chết sống lại, chính Người đã chịu chết trên Thập giá để soi cho mọi người thấy ánh sáng dẫn tới nguồn sống.

Tất cả những ai đi theo ánh sáng đều phải là ánh sáng chiếu vào bóng tối soi cho mọi người như vậy: “Gần đèn thì rạng” “Hữu xạ tự nhiên hương”. Bài đọc I đã đề ra một số việc cụ thể của con cái ánh sáng phải thi hành là cứu người đói nghèo, đau khổ, bệnh tật, biết chia cơm xẻ áo, tiếp giúp kẻ bơ vơ không nhà, đẩy lùi áp bức, gông cùm.

Có ra sức chiếu sáng như thế mới được Người cho quyền trở nên con cái Thiên Chúa và được lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác từ nguồn sung mãn của Người (Ga. 1, 12… 16).

“Hãy cảm tạ Chúa, vì Người nhân từ:

Cho Thái Dương soi sáng ban ngày,

đặt trăng sao hướng dẫn ban đêm” (Tv. 135, 7-9).

“Cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta. Soi sáng cho những ai ngồi trong tăm tối và bóng tử thần; dẫn ta bước vào nguồn sáng bình an” (Lc. 1, 78-79).

Vậy chúng ta hãy:

“Chúc tụng Chúa đi, các Thiên sứ của Người; muôn ngàn đời hãy chúc tụng suy tôn.

Chúc tụng Chúa đi, mặt trời với mặt trăng.

Chúc tụng Chúa đi, hỡi tinh tú muôn ngàn.

Chúc tụng Chúa đi, kìa hoa lá cỏ cây.

Chúc tụng Chúa đi, hết mọi loài muông thú.

Chúc tụng Chúa đi, tôi tớ phục vụ Người.

Nào chúc tụng Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.

Muôn ngàn đời cùng ca tụng suy tôn”.

 

7.Làm men làm muối

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)

Anh em là ánh sáng cho đời. Vì thế, anh em phải sống sao để người ta nhìn thấy việc tốt anh em làm mà ca tụng Cha trên trời.

1. Anh em là muối đất

Đức Yêsu mời mỗi người nghe Ngài là muối đất, là ánh sáng cho đời. Muối là vật giữ cho những điều khác khỏi hư. Chẳng hạn trong một nơi không có tủ lạnh, nếu không được ướp muối thì cá hoặc thịt một con vật không thể để lâu được, nó sẽ bị ươn thối. Kitô hữu là muối đất, hàm chứa ơn gọi Kitô hữu là sống giữa đời, giữa những người khác, nhưng qua đời sống của họ, làm men làm muối cho đời, giúp thế gian này không bị hư đi.

Khi nói đây là ơn gọi, nghĩa là, Chúa muốn và mời gọi Kitô hữu sống như vậy. Ơn gọi giáo dân là ơn gọi sống giữa đời, làm gương sáng cho đời bằng chính cuộc sống của mình chứ không chủ yếu bằng lời nói. Giáo dân là người cùng chia sẻ thân phận với người đời, gặp những khó khăn như họ, có những thao thức như họ, cũng bị gian truân thử thách như họ mọi đàng. Chỉ khác một điều, Kitô hữu là người tin vào Thiên Chúa, tin vào Đức Yêsu Kitô. Niềm tin vào Thiên Chúa và Đức Kitô, đòi buộc và giúp Kitô hữu sống như con cái Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh.

Khó khăn thì giống nhau nhưng Kitô hữu được gọi sống dựa vào Thiên Chúa Tình Yêu. Khi sống như vậy, Kitô hữu sẽ sống an bình hơn. Chính điều này làm Kitô hữu nên men nên muối cho đời. Ở giữa thế gian, nhưng không thuộc về thế gian. Sống hoà với mọi người, nhưng vẫn khác; sống giống như mọi người, nhưng vẫn khác. “Hoà nhi bất đồng, đồng nhi bất hoà”. Ở giữa thế gian, để thành dấu hỏi cho thế gian, để là chứng nhân của bình an và hy vọng.

2. Diễn tả tình yêu cách cụ thể: chia cơm sẻ áo

Lời Chúa trong sách tiên tri Ysaya khuyên người ta hãy chia cơm bánh cho người đói, cho người bị áp bức và không nhà cửa ở nhờ, cho người trần trụi áo mặc. Làm như vậy, khi cầu nguyện Chúa sẽ nghe, khi bị tai hoạ kêu cầu Chúa sẽ cứu.

Chính khi yêu người khác, giúp đỡ người khác trong nhưng cơn cùng quẫn của họ, làm họ bớt khổ, nâng đỡ họ khỏi sa phải cảnh cùng khổ hơn, giúp họ an bình hạnh phúc hơn, thì mình trở nên đẹp hơn, cao thượng hơn, tuyệt hơn và đáng yêu hơn. Chính khi giúp đỡ người khác, thì mình cũng được giúp đỡ hơn. Chính khi giúp người khác hạnh phúc, thì mình được hạnh phúc hơn. Chính khi giúp người khác triển nở, mình sẽ được triển nở hơn và trưởng thành hơn.

Khi yêu, người ta còn hy vọng, còn chờ còn đợi. Tình yêu với niềm hy vọng, có thể biến đổi con người, và có sức biến đổi lòng người. Trong lịch sử Giáo Hội, thánh Augustinô là một thí dụ. Ngài hoang đàng, nhưng người mẹ tốt lành đạo đức luôn cầu nguyện cho Ngài, và Ngài đã trở lại. Ngài đã được rửa tội, làm linh mục, làm giám mục, làm thánh; và mẹ Ngài cũng là thánh Mônica, vì đã là một người mẹ gương mẫu: thương con. Thiên Chúa vẫn yêu và chờ người tội lỗi sám hối trở lại với Ngài; và chúng ta tin rằng tình yêu của Ngài sẽ chiến thắng.

3. Quyền năng Thiên Chúa tỏ lộ qua những gì yếu đuối tầm thường

Thánh Phaolô nói với dân Corintô rằng, khi Ngài tới với họ, Ngài không biết gì hơn họ ngoài Đức Yêsu Kitô, Đấng chịu đóng đinh. Ngài đến với họ như một người ốm yếu, run rẩy sợ sệt, để sức mạnh của Tin Mừng được tỏ hiện.

Một người có thể được ơn trở lại, không phải vì họ nghe một bài giảng hùng hồn hay bài giảng thuyết cao sâu, nhưng có thể đơn sơ được đánh động bởi một hành vi bác ái của ai đó. Đời sống chan chứa tình bác ái của mẹ Têrêxa thành Calcuta có sức thuyết phục hơn những bài giảng hay rất nhiều.

Không nhất thiết phải học thần học và được đào luyện tại trường lớp mới thành người rao giảng Tin Mừng. Nếu mỗi người chúng ta sống yêu thương, chúng ta trở thành người rao giảng Tin Mừng, trở thành chứng nhân tình yêu- người làm chứng tình yêu của Thiên Chúa cho những người sống xung quanh chúng ta. Hãy sống sao, để những người sống với chúng ta thấy rằng Thiên Chúa yêu thương họ qua chúng ta. Có thế, chúng ta là men là muối, là ánh sáng cho đời, là người mang hạnh phúc cho người khác, và chúng ta cũng được hạnh phúc từng ngày.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Bạn có bí quyết sống hạnh phúc không? Xin bạn chia sẻ.

2. Bạn có kinh nghiệm hạnh phúc khi giúp người khác bớt khổ hoặc hạnh phúc không?

3. Bạn bị phiền gì bởi người sống xung quanh nhất? Có ai sống với bạn cần bạn sửa đổi điều gì để họ được thoải mái hơn không? Bạn có sẵn sàng làm điều đó không?

 

8.Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành

Vào ban tối, cứ mỗi lần bị cúp điện, chúng ta tìm mọi cách để cho có ánh sáng: bấm đèn pin, thắp lên một ngọn nến, thắp lên một ngọn đèn dầu… Những lúc như thế, chúng ta mới thấy sự cần thiết của ánh sáng đối với đời sống con người như thế nào. Đức Giêsu dùng hình ảnh quen thuộc của đời thường này để cho chúng ta biết Ngài chính là ánh sáng và mỗi người chúng ta được mời gọi phản chiếu ánh sáng của Ngài.

1. Đức Giêsu là Ánh Sáng cho thế gian

Thật vậy, Đức Giêsu là ánh sáng thế gian. Chính Ngài đã khẳng định: “Ta là ánh sáng thế gian. Ai theo Ta, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.” (Ga 8,12). Đức Giêsu chính là ánh sáng chiếu soi tâm hồn, để dẫn bước chúng ta trên con đường tìm gặp Chúa. Khi Ngài bắt đầu cuộc sống công khai, Tin mừng đã áp dụng lời tiên tri Isaia sau đây cho Ngài: “Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.” (Mt 4,16).

Ánh sáng đó chính là con người của Ngài: Đó là ánh sáng bao phủ các mục đồng khi sứ thần loan báo tin vui; đó là ánh sáng của ngôi sao lạ chỉ đường cho các nhà đạo sĩ đến gặp Hài Nhi Giêsu; đó là ánh sáng chói lòa bao phủ lấy Ngài trong biến cố biến hình trên núi Taborê; đó là ánh sáng đã quật ngã Phaolô trên đường Đamát, khiến Phaolô từ một người bắt bớ các Kitô hữu đã trở thành người loan báo Tin Mừng.

Ánh sáng đó chính là Lời của Ngài: Lời của Ngài được ghi chép lại trong các sách Tin mừng. Lời đó cũng chính là giáo huấn của Ngài. Thật vậy, Lời của Ngài đã xua trừ ma quỷ. Lời của Ngài đã chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền. Lời của Ngài đã cho kẻ chết sống lại. Lời của Ngài đã biến đổi biết bao tâm hồn từ trong tối tăm của sự chết đến ánh sáng huy hoàng. Lời của Ngài là ngọn đèn soi cho con bước là ánh sáng chỉ đường con đi (x. Tv 119,105). Giải thích Lời Ngài là đem lại ánh sáng cho kẻ đơn sơ thông hiểu am tường (x. Tv 119,130).

Ánh sáng đó chính là hiệu quả các Bí tích mà Ngài đã thiết lập: Bí tích Rửa tội xóa tan tội Nguyên tổ và các tội riêng, giúp con người trở nên con Thiên Chúa; Bí tích Giao hòa, trả lại cho con người tội lỗi trở lại tình trạng nguyên thủy ban đầu; Bí tích Thánh Thể, gia tăng ơn thánh hóa và giúp cho người Kitô hữu đón nhận chính Đức Giêsu…Như vậy, các Bí tích nhằm mục đích giúp con người lãnh nhận thêm ánh sáng của Đức Giêsu.

2. Các con là ánh sáng thế gian

Chúng ta được đón nhận ánh sáng của Đức Giêsu ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Ngọn nến được trao cho chúng ta trong ngày hồng phúc đó chính là hình ảnh Đức Giêsu Kitô. Từ đó, chúng ta tiếp tục đón nhận ánh sáng của Đức Giêsu qua việc lãnh nhận các Bí tích, qua việc đọc và suy gẫm Lời Chúa…Đặc biệt, chúng ta lãnh nhận ánh sáng Chúa Kitô qua đời sống cầu nguyện. Khi cầu nguyện là chúng ta được kết hợp mật thiết với Chúa. Nhờ cầu nguyện chúng ta được thêm sức mạnh, nạp thêm năng lượng thiêng liêng từ Thiên Chúa. Chính Mẹ Têrêxa Calculta đã nói: “Cầu nguyện là công việc nạp bình, còn hoạt động là công việc tỏa sáng.”

Khi đã đón nhận ánh sáng từ Chúa, chúng ta có nhiệm vụ chiếu tỏa ánh sáng đó cho những người chung quanh. Đức Giêsu đã nói “Chính anh em là ánh sáng thế gian.” (Mt 5,14); “Người ta không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt trên giá hầu soi sáng cho mọi người trong nhà. Sự sáng của các con cũng phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con ở trên trời.” (Mt 5,15-16).

Người kitô hữu cần tỏa ánh sáng của đời sống nội tâm. Khi chúng ta biết sống gắn bó với Chúa qua đời sống cầu nguyện, qua việc đọc và suy gẫm Lời Chúa, qua việc lãnh nhận các Bí tích…thì sự thánh thiện sẽ được lan tỏa ra nơi chúng ta để cho người ta thấy, cả những khi chúng ta không nói gì. Ngày kia, thánh Phanxicô Assidi nói với một thầy dòng: “Nào chúng ta cùng đi phố và giảng đạo.” Hai người ra đi, hết con đường trước mặt, quẹo sang đường khác rồi về nhà. Thầy dòng thắc mắc hỏi: “Con nghe ngài nói là mình đi phố và giảng đạo cơ mà!” Thánh Phanxicô đáp: “Chúng ta đã giảng đạo rồi đó! Khi chúng ta đi đường. Mọi người nhìn ta, thấy phong cách của ta, nghĩ về đời sống của ta và rồi họ sẽ thắc mắc về nguồn sống nơi linh hồn của họ. Như thế chẳng phải là ta đã giảng đạo cho họ rồi sao?” Câu trả lời của thánh Phanxicô Assidi thật là chí lý. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói: “Người thời nay tin vào các chứng nhân hơn là thầy dạy, và nếu họ có tin vào thầy dạy là vì các thầy dạy ấy đã là những chứng nhân.”

Người kitô hữu cần tỏa ánh sáng bác ái yêu thương. Bài đọc I, tiên tri Isaia mời gọi chúng ta: “Hãy chia bánh của ngươi cho kẻ đói, hãy tiếp nhận vào nhà ngươi những kẻ bất hạnh không nhà ở; nếu ngươi gặp một người trần truồng, hãy cho họ mặc đồ vào, và đừng khinh bỉ xác thịt của ngươi.” (Is 58,7). Chính Đức Giêsu cũng đã nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận ra các con là môn đệ của Thầy là các con yêu thương nhau.”(Ga 13,35).

Ngoài ra, người kitô hữu cần chiếu tỏa nhiều loại ánh sáng khác nhau để hầu có thể xua tan bóng tối. Bởi vì, chúng ta đang sống trong một xã hội mà bóng tối tội lỗi lan tràn. Chúng ta không thể ngồi đó mà than thân trách phận, nhưng hãy chiếu tỏa ánh sáng, dù là một tia sáng nhỏ bé, như ai đó đã nói: “Thà thắp lên một ngọn nến còn hơn ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối.” Nếu mỗi người chúng ta cố gắng thắp lên một ngọn nến của tình thương và lòng tốt, chắc chắn chúng ta sẽ chiến thắng được bóng tối, sự dữ, oán thù. Ánh sáng sẽ bừng lên. Tiên tri Isaia đã khẳng định: “Nếu ngươi loại bỏ khỏi ngươi xiềng xích, cử chỉ hăm dọa, lời nói xấu xa, khi ngươi hy sinh cho người đói rách, và làm cho những người đau khổ được vui thích thì ánh sáng của ngươi sẽ bừng lên trong bóng tối, và bóng tối sẽ trở thành như giữa ban ngày.”(Is 58, 9-10).

Một buổi tối nọ, ông John Keller, một diễn giả nổi tiếng được mời thuyết trình trước khoảng một trăm ngàn người tại sân vận động trường Los Angeles. Đang diễn thuyết, bỗng ông dừng lại và nói: “Xin các bạn đừng sợ. Tôi sắp cho tắt tất cả đèn trong sân vận động này.”

Đèn tắt, sân vận động chìm sâu trong bóng tối dày đặc. Ông John Keller nói tiếp: “Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm tôi đốt thì hãy kêu lớn lên: “Đã thấy!” Một que diêm được bật lên, cả vận động trường vang lên: “Đã thấy!”

Sau khi đèn được bật sáng, ông John Keller giải thích: “Ánh sáng của một hành động nhân ái nhỏ như một que diêm sẽ chiếu sáng trong đêm tăm tối của nhân loại y như vậy.”

Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại tắt. Một giọng nói vang lên ra lệnh: “Tất cả những ai có mang theo hộp quẹt, xin hãy đốt cháy lên!” Bỗng chốc, cả sân vận động trường rực sáng.

Ông John Kener kết luận: “Tất cả chúng ta hợp lực cùng nhau, có thể chiến thắng bóng tối, sự dữ và oán thù bằng những đốm sáng nhỏ của tình thương và lòng tốt của chúng ta.

Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con luôn trở nên ánh sáng soi chiếu cho những người xung quanh, để qua đó họ nhận biết Chúa là ánh sáng thật, là ánh sáng dẫn đến nguồn ơn cứu độ. Amen.

 

9.Muối và ánh sáng

Muối được dùng để ướp đồ ăn cho khỏi ươn thối còn ánh sáng dùng để soi chiếu. Vì thế muối phải mặn và ánh sáng thì cần phải sáng, bằng không chúng sẽ mất mục đích của mình và lúc bấy giờ sẽ không còn có một giá trị gì nữa.

Trước hết Tin Mừng và những chân lý đức tin chính là muối và ánh sáng. Chúng không thể trở nên lạt lẽo và đen tối. Tuy nhiên, Tin Mừng và những chân lý đức tin chỉ trở nên khả giác, khi đi vào trí khôn và cõi lòng con người. Do đó, những người mang Tin Mừng và chân lý đức tin tới cho kẻ khác cũng phải là muối và ánh sáng trần gian.

Hơn bao giờ hết, ngày hôm nay Giáo Hội phải thấm nhập vào các nền văn minh với những giá trị của Tin Mừng, nhờ đó mà làm cho thế gian khỏi tan rã, thoái hoá và ươn thối, với những chủ thuyết như duy vật, duy sắc dục.

Tuy nhiên cũng có những người quảng đại chiến đấu cho một thế giới công bình hơn, nhưng họ lại không biết bên kia cái cùng đích họ theo đuổi, còn có gì nữa không? Bởi đó, người Kitô hữu phải làm chứng về phẩm giá con người hầu góp phần cứu vớt thế gian. Trong tất cả những lãnh vực như gia đình, xã hội, nghề nghiệp, chính trị, kinh tế, họ phải nghĩ tưởng và hành động theo như niềm tin vào Đức Kitô soi sáng và thúc đẩy. Nếu không có can đảm sống như thế, thì họ sẽ trở nên lạt lẽo và chẳng còn giá trị gì nữa, hay như lời Phúc Âm đã diễn tả: đó là bị ném ra ngoài cho người ta chà đạp dưới chân.

Tiếp đến người Kitô hữu phải là ánh sáng soi chiếu cho trần gian. Vấn đề không phải là phô trương mình ra. Cũng như ánh sáng soi chiếu vì nó sáng, thì người Kitô hữu cũng phải tạo ra ánh sáng Tin Mừng bằng cách sống Tin Mừng, bằng cách trở nên Kitô hữu đích thực, bởi vì chúng ta chỉ có thể cho cái mà chúng ta đã có. Chúng ta chỉ có thể chiếu toả, một khi đời sống chúng ta đã là ánh sáng. Chúng ta làm chứng về Đức Kitô không phải bằng cách khua chiêng gióng trống, nhưng âm thầm bằng chính cuộc sống gương mẫu của chúng ta.

Đúng thế, hãy làm cho cuộc đời mình trở nên tốt hơn. Vì cuộc đời tốt chính là một thứ ánh sáng soi chiếu cho người khác nhận biết Đức Kitô, cũng như Tin Mừng cứu độ của Ngài.

 

10.Chính anh em là muối cho đời

Chúng ta đang sống trong một xã hội phát triển không ngừng về kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật. Đời sống con người được nâng cao về mọi mặt. Chủ nghĩa cá nhân thực dụng và hưởng thụ vật chất đã ảnh hưởng đến đời sống của người Kitô hữu chúng ta. Thế giới mất dần ý thức về tội, niềm tin vào Thiên Chúa suy giảm rất nhiều. Là những Kitô hữu trong xã hội hiện đại chúng ta phải làm sao đây? Vâng, Lời Chúa hôm nay là câu trả lời cho những thao thức đó: “Chính anh em là muối cho đời; anh em là ánh sáng trần gian” (Mt 5,13.15). Hình ảnh muối và ánh sáng thật gần gũi với cuộc sống chúng ta. Vì thế, tôi mời gọi quý ông bà anh chị em cùng tôi suy nghĩ về vai trò làm muối men của người Kitô hữu hôm nay.

Trong cuộc sống hạt muối hiện diện thật nhỏ bé khiêm tốn, chẳng ai để ý đến nó. Người ta chỉ giới thiệu những món ăn ngon, hấp dẫn trong các chương trình ẩm thực chứ không ai giới thiệu hạt muối. Người ta chỉ trưng bày những món ăn đắt tiền, cầu kỳ chứ không ai trưng bày muối. Xét về giá trị hạt muối chẳng đáng là bao. Muối có đó nhưng không ai thấy muối. Tuy nhiên, nếu không có muối thức ăn sẽ nhạt nhẽo, thực phẩm sẽ không giữ được lâu. Muối chấp nhận tan biến đi để giữ cho cuộc sống thêm mặn mà. Đó là sự hiện diện quên mình và rất tích cực. Sự hiện diện âm thầm đó tuy không thấy và không nói ra nhưng ai cũng ngầm hiểu đó chính là nhờ hạt muối.

Cũng như hạt muối, người Kitô hữu trong xã hội Việt Nam chiếm con số rất khiêm tốn chỉ khoảng 6-7% dân số. Sự hiện diện thật bình thường nhưng có không ít người đã dấn thân phục vụ những người cùng khổ ở các trại phong, các trung tâm nuôi dưỡng người già, chăm sóc các bệnh nhân nhiễm HIV, AIDS như: Trung tâm Mai Hòa, trung tâm Trọng Điểm (Bình Phước), trại phong Di Linh… Sự hiện diện đó ít ai biết tới nhưng mỗi ngày vẫn làm cho cộc sống thêm hương vị, xoa dịu những đau khổ kiếp người, giúp cho mọi người nhận ra gương mặt hiền hòa của Đức Kitô. Do đó, chỉ có vị mặn từ tình yêu tha nhân trong Đức Kitô mới thúc đẩy những con người như thế hy sinh phục vụ xã hội, phục vụ con người. Điều mà các tổ chức xã hội khó mà làm được. Chắc hẳn những ‘hạt muối’ đó đã múc lấy vị mặn nơi tình yêu Thiên Chúa để đem đến cho cuộc sống; đã học được sự hiến thân quên mình và âm thầm phục vụ nơi Thầy chí Thánh nên đã góp phần bảo vệ các giá trị cuộc sống và cách nào đó dù không muốn chính họ đã trở nên ánh sáng cho trần gian.

Từ bài học ánh sáng và muối mặn Chúa dạy hôm nay chúng ta hãy tự đặt ra cho mình những câu hỏi: Tôi có là ánh sáng và muối ướp cho đời chưa? Tôi phải làm gì để đem vị mặn Phúc âm và ánh sáng Tin mừng cho thế giới hôm nay? Ước mong những trăn trở đó luôn là động lực để chúng ta trở nên những chứng nhân cho thế giới này.

Lạy Chúa, vì yêu thương Chúa muốn chúng con trở nên muối ướp trần gian, là ánh sáng cho đời. Xin cho chúng con biết múc lấy nơi Chúa vị mặn yêu thương để đem đến cho đời hương vị tình yêu. Amen.

 

11.Muối

Ngày nay có những người thích sưu tầm. Họ sưu tầm đủ mọi thứ lỉnh kỉnh: nào tem thư, nào nút áo, nào giấy kẹo, nào sách hiếm, nào tiền cũ, nào xe hơi… Trong một cuộc triển lãm họ, người ta trưng bày hàng trăm chiếc bình đựng muối. Một ông khách viếng thăm phòng triển lãm, trên tay cầm một chiếc đùi gà quay, vừa đi vừa ăn. Tới phòng trưng bày những chiếc bình đựng muối, ông bỗng cảm thấy như món gà quay của mình có phần nhạt nhẽo. Ông đã mở nắp những chiếc bình ấy nhưng chẳng chiếc nào có được tí muối. Vì thế ông đành phải quay lại quầy hàng bán đồ ăn để xin chút muối.

Hàng trăm chiếc bình đựng muối mà chẳng có được một hạt muối nào, phải chăng đó là một hình ảnh sống động, tượng trưng cho cuộc đời của nhiều người trong chúng ta. Thực vậy, rất nhiều người được coi là có muối, nhưng sự thực lại chẳng hề có. Sự kiện này giúp cho chúng ta dễ dàng hiểu được điều Chúa Giêsu xác quyết: Các con là muối cho đời.

Trong cuộc sống hàng ngày, muối được dùng vào nhiều việc khác nhau. Chẳng hạn muối được dùng như một thứ phân bón để hạ phèn, muối được dùng để làm giảm cơn đau. Một người có nhiều kinh nghiệm sống trong tù cho tôi hay: Sau khi bị tra tấn dã man, người ta thường dùng muối để chà xát lên vết thương và người bị tra tấn sẽ không còn bị đau đớn nhức nhối nữa. Muối được dùng làm chất khử trùng. Khi trộn muối vào đồ ăn, nó sẽ giữ cho đồ ăn khỏi ươn thối. Và sau cùng muối sẽ làm cho đồ ăn tăng thêm hương vị đậm đà. Vậy đâu là sứ điệp Chúa Giêsu muốn gởi đến chúng ta khi xác quyết: Các con là muối cho đời?

Tôi xin thưa chúng ta trở nên muối bằng một đức tin sống động để làm cho cuộc đời có một ý nghĩa, có một hương vị đậm đà. Thực vậy, trong cuộc sống chúng ta đã gặp biết bao nhiêu người kéo lê đời mình một cách buồn tẻ và vô nghĩa, không mục đích, cũng giống như món gà quay nhạt nhẽo vì thiếu muối. Chính nhờ thứ muối đức tin của chúng ta mà họ tìm thấy được hương vị cuộc đời.

Tiếp đến chúng ta trở nên muối bằng chính đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương của chúng ta. Như muối ướp trong đồ ăn và làm cho đồ ăn khỏi hư thối, thì nhờ muối gương sáng của mình, người kitô hữu sẽ giúp cho những kẻ mà họ tiếp xúc thoát khỏi những lầm lạc, những suy đồi, những xuống cấp. Đồng thời nhờ thứ muối của gương sáng này, mà người kitô hữu sẽ dần dần cảm hoá được họ, giúp họ sửa chữa những sai lỗi, những khuyết điểm, cũng như giúp họ tìm thấy nẻo đường trở về cùng Thiên Chúa, bởi vì lời nói thì như gió lung lay, còn việc làm thì như tay lôi kéo. Đời sống gương mẫu của chúng ta sẽ là một bài giảng hùng hồn nhất có sức lôi cuốn và hấp dẫn những người chung quanh.

Bởi đó, bằng đức tin và bằng gương sáng, chúng ta trở nên muối cho bản thân chúng ta và cho những người chung quanh khỏi bị ươn thối và cuộc đời của chúng ta cũng như của những người chung quanh tìm thấy được hương vị đậm đà.

 

12.Muối và đèn sáng

Quan đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ phải trở nên muối ướp và đèn soi. Bằng hai hình ảnh cụ thể này, Ngài phác hoạ một luật sống mà các môn đệ phải tuân theo khi Ngài gởi họ đi vào đời.

Hình ảnh thứ nhất: “Các con là muối ướp thế gian”.

Muối là vật dụng thường thức dùng trong việc nấu nướng. Không có muối, đồ ăn thiếu hương vị và lạt lẽo. Nhưng người Do Thái còn dùng muối làm phân bón. Vì vậy mà Ngài bảo: Các con là muối đất. Trong Kinh Thánh, muối là hình ảnh được nhắc lại nhiều lần. Từ vụ vợ ông Lót nhìn lại đàng sau mà biến thành tượng muối, đến chút muối mà thánh Phaolô căn dặn nên đặt vào trong lời ăn tiếng nói cho có hương vị khi giao tiếp với anh em.

Các con là muối, nghĩa là chúng ta hãy sống đạo dức, thực thi những điều Ngài dạy, để thánh hoá bản thân, nêu gương sáng cho người khác, hâm nóng những cõi lòng đã nguội lạnh. Nếu chúng ta không sống Lời Chúa trọn vẹn, thì chúng ta như muối đã nhạt, không ích lợi gì, chỉ đáng đem đổ ra ngoài đường cho người ta dày đạp. Người Do Thái ngày xưa đổ rác cả ra đường phố cho khách qua lại dẫm lên.

Người ta hỏi ông Ganhdi, nhà ái quốc Ấn Độ, rằng: – Trước thảm hoạ nguyên tử, ông sẽ làm gì?

Ganhdi trả lời:

– Tôi sẽ cầu nguyện.

Và được hỏi thêm:

– Vì sao ông không theo đạo công giáo?

Ông trả lời:

– Phúc Âm của Chúa thì rất tốt lành, nhưng người công giáo đã không sống Phúc Âm, nên không hơn gì chúng tôi.

Câu trả lời này khiến chúng ta nhớ lại lời Chúa: Các con là muối đất, nếu muối đã nhạt đi, thì biết lấy gì mà ướp cho mặn lại. Chỉ còn ném ra ngoài đường cho người ta chà đạp.

Hình ảnh thứ hai là đèn soi.

Có lần Chúa Giêsu đã xác quyết: Ta là ánh sáng thế gian. Ai theo Ta sẽ không đi trong đêm tối, nhưng sẽ có ánh sáng đời đời. Và hôm nay Chúa dạy các môn đệ hãy bắt chước Ngài để trở nên ánh sáng thế gian: Người ta không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt nó trên giá đèn hầu soi sáng cho mọi người trong nhà.

Chúng ta phải là đèn soi cho kẻ khác bằng lời nói, bằng việc làm và bằng gương sáng. Nếu Phúc Âm không được rao giảng người ta sẽ quên nó. Trái lại, nếu mỗi người chúng ta thắp lên cây đèn nhỏ của mình, thì không những nhà riêng của chúng ta mà cả thế giới sẽ được soi sáng. Sự sáng của các con sẽ chiếu soi trước mặt thiên hạ và mọi người sẽ ngợi khen Thiên Chúa.

Một buổi chiều, Mẹ Têrêsa đi qua một căn nhà ở ngoại ô Calcutta. Căn nhà tối om và có tiếng rên từ bên trong vọng ra. Mẹ đẩy cửa bước vào, sờ soạng đi lại giường một cụ già tiều tuỵ, đau yếu. Mẹ hỏi:

– Nhà của cụ không có đèn đóm gì à?

– Có một chiếc đèn còn tốt nhưng không có dầu.

Mẹ lục lọi tìm chiếc đèn, rồi lau chùi, mua dầu đổ vào và đốt lên. Mặt cụ tươi tỉnh. Ít lâu sau, Mẹ nhận được mấy dòng chữ sau đây: Nụ cười của Mẹ nhu dầu khích lệ, như đèn thắp sáng đời tôi.

Mỗi người chúng ta đều được Chúa kêu mời trở nên muối mặn ướp thế gian, và trở nên đèn thắp sáng cuộc đời mình và cuộc đời người khác.

 

13.Chúa Nhật 5 Thường Niên

(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật V Thường Niên năm A nhấn mạnh sức mạnh của lời chứng: sức mạnh này làm cho người tín hữu trở thành con người của ánh sáng (Bài Đọc I và Tin Mừng) và qua sự yếu đuối của phàm nhân, chứng thực quyền năng Thiên Chúa (Bài Đọc II).

Is 58: 7-10

Bài Đọc I được trích từ phần thứ ba của sách I-sai-a, phần này được biên soạn vào thời hậu lưu đày (sau năm 538 trước Công Nguyên). Vị ngôn sứ khuyên bảo hãy thực thi đức ái huynh đệ, quan tâm đến những người không nơi nương tựa, những người túng thiếu, đó là điều kiện để trở thành một con người chiếu giải ánh sáng Thiên Chúa.

1Cr 2: 1-5

Thánh Phao-lô nhắc cho các tín hữu Cô-rin-tô nhớ rằng khi đến với họ, thánh nhân đã cảm thấy yếu đuối và sợ hãi (thánh nhân vừa mới chịu thất bại ở A-thê-na, ở đó sự khôn ngoan của Tin Mừng đã đụng chạm đến sự khôn ngoan phàm nhân). Nhưng sự yếu đuối này bày tỏ sức mạnh của Thần Khí trong sứ mạng gian khó của ngài là làm chứng cho Đức Ki-tô chịu đóng đinh.

Mt 5: 13-16

Trong Tin Mừng Mát-thêu, Chúa Giê-su khuyên các môn đệ Ngài hãy làm chứng niềm tin của họ: như vậy, họ sẽ đem đến một vị mặn thần linh cho những sự vật trần thế và sẽ trở nên ánh sáng cho thiên hạ.

BÀI ĐỌC I (Is 58: 7-10)

Bản văn tuyệt đẹp này xem ra thuộc vào thời kỳ những người lưu đày ở Ba-by-lon trở về Giê-ru-sa-lem (cuộc hồi hương khoảng năm 538 trước Công Nguyên). Tác giả của nó chắc chắn là một môn đệ của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, ông được gọi dưới biệt danh là ngôn sứ I-sai-a đệ tam.

1. Cách ăn chay mà Chúa ưa thích là thực hành đức ái

Giáo Hội có chủ ý mời gọi chúng ta suy niệm bản văn này để chuẩn bị bước vào Mùa Chay. Quả thật, lời khuyên bảo được gởi đến những tín hữu thực hành chay tịnh và sám hối trong niềm mong chờ Thiên Chúa thi ân giáng phúc.

Vị ngôn sứ vạch cho thấy những khổ chế này chỉ là công việc đạo đức vô giá trị nếu không đi kèm theo việc thực hành đức ái. Cách ăn chay mà Thiên Chúa ưa thích:

“Chẳng phải là chia cơm cho người đói,

rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ;

thấy ai mình trần thì cho áo che thân,

không ngoảnh mặt làm ngơ trước những anh em cốt nhục?” (Is 58: 7)

2. “Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông”

Vị ngôn sứ sánh ví những thành quả của đức ái với ánh mặt trời vào lúc rạng đông. Trong những xứ sở Cận Đông ánh bình minh là một yếu tố thiết yếu của cuộc sống thường ngày. Ánh bình minh đồng nghĩa với hạnh phúc, niềm vui, thịnh vượng.

“Bấy giờ, ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông,

vết thương ngươi sẽ mau lành” (58: 8a)

Đây sẽ là một ngày mới, một cuộc tái sinh thực sự không chỉ về phương diện luân lý nhưng còn cả về thể xác nữa vì sức lực sẽ được phục hồi mau chóng.

3. “Đức Công chính ngươi sẽ mở đường phía trước”

“Đức công chính sẽ mở đường phía trước,

vinh quang Đức Chúa bao bọc phía sau ngươi” (58: 8b)

Trong vế thứ nhất của câu này, từ Híp-ri được dịch “đức công chính”, theo văn mạch cũng có nghĩa “chiến thắng”. Chắc chắn sắc thái ngữ nghĩa này phải được hiểu ở đây. Đức công chính mà người tín hữu thực hành được sánh ví với những chiến lợi phẩm sẽ mở đường phía trước người chiến thắng.

Vế thứ hai được dịch sát chữ: “Vinh Quang Thiên Chúa sẽ là hậu quân của ngươi”. Đây là hình ảnh của đám rước khải hoàn.

4. Thiên Chúa lắng nghe và đáp trả

Nhịp tăng dần của nhà thơ còn đi xa hơn khi tác giả khẳng định rằng Thiên Chúa lắng nghe và đáp trả người thực hành đức ái. Đây là cách thức diễn tả cuộc đối thoại thường hằng giữa Thiên Chúa và người công chính.

“Bấy giờ, ngươi kêu lên, Đức Chúa sẽ nhận lời,

ngươi cầu cứu, Người liền đáp lại: ‘Có Ta đây!” (58: 9)

Vị ngôn sứ một lần nữa liệt kê những cử chỉ bác ái và một lần nữa sánh ví thành quả của chúng với thành quả của ánh sáng, nhưng lần này với ánh sáng nội tâm. Sự rực sáng của thiện nhân chẳng khác nào sự chiếu sáng vinh quang của Thiên Chúa:

“Nếu ngươi nhường miếng ăn cho kẻ đói,

làm thỏa lòng người bị hạ nhục,

thì ánh sáng ngươi sẽ chiếu tỏa trong bóng tối,

và tối tăm của ngươi chẳng khác nào chính ngọ” (58: 10).

BÀI ĐỌC II (1Cr 2: 1-5)

Trong đoạn trích thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô này, thánh Phao-lô tiếp tục biện luận về sự khôn ngoan Thiên Chúa và sự khôn ngoan phàm nhân. Thánh nhân giải thích cho các tín hữu Cô-rin-tô hiểu rằng sự khôn ngoan Thiên Chúa được bày tỏ qua những người khiêm hạ, điều này được kiểm chứng bởi muôn ân sủng mà họ nhận được.

1. Quyền năng Thiên Chúa được bày tỏ ở nơi sự yếu đuối

Bản thân thánh nhân là một trong những ví dụ đó. Khi đến với họ, thánh nhân đã cảm thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy, và chẳng có lời lẽ hùng biện. Chẳng phải sự hùng biện phải câm nín khi loan báo một Đức Ki-tô chịu đóng đinh sao? Thánh Phao-lô thích nhấn mạnh sự tương phản giữa sự yếu đuối của ngài, sự bé nhỏ của những phương tiện ngài sử dụng và ảnh hưởng của lời ngài rao giảng. Thánh nhân muốn công bố rằng “quyền năng Thiên Chúa được thực hiện ở nơi sự yếu đuối” (2Cr 12).

Đừng hiểu “sợ sệt và run rẩy” theo nghĩa đen, đây là một thành ngữ. Chúng ta gặp lại thành ngữ này trong thư thứ hai của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô khi thánh nhân gợi lên việc các tín hữu này đã đón tiếp nồng hậu người cộng tác viên của ngài là ông Ti-tô: “Lòng anh ấy càng tha thiết quý mến anh em, khi nhớ lại anh em đã vâng lời, đã kính sợ và run rẩy đón tiếp anh” (2Cr 7: 15). Đây là cách diễn tả thái độ khiêm tốn và kính trọng, dẫu rằng vào lúc đó thánh nhân có nhiều lý do để lo lắng: những vết thương do việc đánh đòn mà thánh nhân đã chịu ở Phi-líp-phê chưa lành hẳn; những quấy nhiễu của người Do thái ở Thê-xa-lô-ni-ca đã buộc thánh nhân phải trốn chạy; mới đây, cách tiếp đón lạnh nhạt của dân thành A-thê-na.

2. Hậu cảnh: cuộc thất bại ở A-thê-na

Thánh Phao-lô đã đến Cô-rin-tô vào năm 50 từ A-thê-na ở đó thánh nhân đã nếm mùi thất bại. Ở nơi đỉnh cao của sự khôn ngoan và triết học, thánh nhân đã không được hiểu. Sứ điệp của Đức Ki-tô đã không dễ dàng hòa nhập vào giữa những suy luận ngoại giáo, thậm chí bởi những lời lẽ hùng biện. Vì thế, ở Cô-rin-tô, thánh nhân sử dụng một phương pháp khác. Thánh nhân không dùng “lời lẽ khôn ngoan để thuyết phục”, nhưng để cho Thần Khí hoạt động qua những lời đơn sơ giản dị của mình và cách hành xử khiêm hạ của mình.

Đừng nghĩ rằng thánh nhân kết án sự hùng biện, vì lẽ thánh nhân mượn ở nơi nghệ thuật này biết bao điều tốt đẹp, cũng không sự khôn ngoan phàm nhân, vì lẽ thánh nhân ca ngợi đức điều độ của người Hy-lạp. Nhưng thánh nhân kết án sự khôn ngoan khi mà nó tự phụ áp dụng những tiêu chuẩn của mình vào một sứ điệp vượt quá nó. Đây là điều mà những người Hy lạp này với tinh thần tinh tế xem ra cư xử Tin Mừng như một sự chọn lựa khôn ngoan hay lời dạy của nhà hùng biện.

TIN MỪNG (Mt 5: 13-16)

Bản văn này được trích từ Bài Giảng Trên Núi của thánh Mát-thêu và trực tiếp kết nối với các “Mối Phúc” (5: 3-12) qua trung gian của các câu 11-12 với cách xưng hô ở ngôi thứ hai số nhiều: “Anh em”. Bản văn này được gởi đến không phải cho những người môn đệ đặc biệt, nhưng cho tất cả những ai tự nhận mình là môn đệ của Chúa Giê-su. Qua bản văn này, cộng đoàn Ki-tô hữu được nhắc nhớ đến bổn phận truyền giáo. Khi đề cập đến sứ mạng của người môn đệ “trong thế gian”, Đức Giê-su khuyên các môn đệ Ngài hãy làm chứng niềm tin của họ, như vậy họ sẽ đem đến một bản sắc mặn mà thần linh cho những sự vật trần thế và sẽ trở nên ánh sáng chiếu soi thiên hạ.

1. Muối cho đời (5: 13)

Đây không là một gợi ý hay một lời đề nghị về một lý tưởng nên theo, nhưng là một lời khẳng định về cách sống, một ơn gọi: “Chính anh em là muối cho đời”. Kiểu nói này có mối liên hệ với Xh 19: 6: “Còn các ngươi, các ngươi sẽ là một vương quốc tư tế cho Ta và một dân thánh”. Như Đức Chúa đã chọn dân Ngài giữa chư dân và xác định cách sống của họ, Đức Giê-su cũng chọn các môn đệ giữa loài người và giờ đây xác định sứ mạng của họ phải là “muối cho đời”. Với hình ảnh này, Đức Giê-su muốn nói lên điều gì?

Trước hết, muối là một thứ gia vị đem lại vị mặn mà cho thức ăn, muốn được như thế, muối phải hòa tan vào thức ăn. Như muối chấp nhận hòa tan vào thức ăn để đem lại vị mặn mà cho thức ăn như thế nào, thì người Ki-tô hữu là “muối cho đời” cũng phải chấp nhận hòa tan vào trần gian để đem lại vị mặn nồng cho những người chung quanh như vậy.

Thứ nữa, muối còn có công dụng là bảo tồn thức ăn cho khỏi hư, như ca dao Việt Nam đã nói: “Cá không ăn muối, cá ươn”. Từ đó, muối ám chỉ đặc tính “lâu bền” của một khế ước như Thánh Kinh nói: “giao ước muối”, nghĩa là một Giao Ước bền vững (Ds 18: 19; Lv 2: 13; 2Sb 13: 5). Thánh Mác-cô gợi lên biểu tượng này của muối: “Anh em hãy giữ muối trong lòng mình, và sống hòa thuận với nhau” (Mc 9: 50). Dâng hiến “bánh và muối”, chính là đề nghị tình bạn, ký kết một giao ước. Vì thế, với tư cách là “muối cho đời” người Ki-tô hữu có sứ mạng bảo tồn cho trần gian khỏi hư hỏng.

Ngoài ra, diễn ngữ: “muối cho đời” được dịch sát từ: “muối của đất”, để nói lên công dụng khác nữa của muối là làm phân bón cho đất thêm tốt. Ngày xưa, tại Ai-cập và tại Pa-lét-tin, nhà nông cho muối vào phân để phân tốt, nhờ đó đất sẽ phì nhiêu hơn, như thánh Lu-ca gợi lên công dụng này của muối: muối mà nhạt đi thì “dùng nó để bón ruộng hay trộn phân đều không thích hợp” (Lc 14: 34-35). Vậy khi Đức Giê-su nói: “Anh em là muối của đất”, Ngài muốn nói rằng người Ki-tô hữu phải làm sao cho thiên hạ được tốt, tốt mãi, tốt hơn.

Điều cốt yếu chính là muối vẫn là muối, thì mới giữ được giá trị và tính hữu hiệu của mình. Nếu muối mất đi vị mặn của mình thì trở nên vô ích, cũng vậy nếu cuộc đời của người Ki-tô hữu bị biến chất, mất đi tinh thần Bát Phúc thì chẳng còn có giá trị gì: “Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại?”.

Nói cho cùng, khi khẳng định các môn đệ là “muối cho đời”, Đức Giê-su cho hiểu rằng mỗi người Ki-tô hữu không chỉ nổ lực thánh hóa bản thân, nhưng cũng phải thánh hóa tha nhân. Khi khẳng định sứ mạng của người Ki-tô hữu là “muối cho đời”, Đức Giê-su nghĩ đến khía cạnh tiểu số của những người Ki-tô hữu. Trong đống bột nhân loại bao la, những Ki-tô hữu phải là một nhúm muối đem lại vị mặn mà của Thiên Chúa. Họ là những sứ giả của Tin Mừng, Tin Mừng không xuất phát từ thế giới này.

2. Ánh Sáng cho trần gian (5: 14-16)

Kiểu sánh ví người môn đệ với ánh sáng là kiểu nói quen thuộc của Kinh Thánh: xưa kia, vua Đa-vít là ánh sáng cho dân Ít-ra-en (2Sm 21: 17), người Tôi Trung của Đức Chúa là ánh sáng cho chư dân (Is 42: 6; 49: 6) và dân Ít-ra-en là ánh sáng cho muôn dân nước để họ biết đường về cùng Thiên Chúa chân thật (Is 60). Kiểu nói này được dịch sát từ: “Ánh sáng của trần gian”, có nghĩa người môn đệ Chúa Ki-tô phải chấp nhận dấn thân vào trần gian như một công dân của trần thế để từ đó mới có thể làm cho thế gian rực sáng các mối Phúc. Khi nói: “Một thành xây trên núi”, Chúa Giê-su chắc chắn ám chỉ thành Giê-ru-sa-lem vào ngày Đấng Cứu Độ đến, như lời loan báo của I-sai-a (Is 2: 2-4). Thế thì, ngày cánh chung, Giê-ru-sa-lem, tức là Giáo Hội, sẽ chiếu tỏa xuống chư dân, vì chính tại Giê-ru-sa-lem, chư dân học biết Luật Chúa (Is 2: 3).

Chúa Giê-su dùng một hình ảnh rất thân quen: “Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lại đặt dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế”. Trong mỗi căn nhà của người Do thái, người ta thường gặp thấy một cái đấu có dung tích khoảng mười hai lít ngũ cốc. Nhiều người nghèo dùng cái đấu này làm đế đèn. Công dụng của “đèn thắp sáng” là chiếu sáng cho mọi người trong nhà: “Đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà”. Cũng vậy, do ơn gọi, người Ki-tô hữu phải thông chia ánh sáng cho người khác. Chính họ không được để mình thiếu ánh sáng và không được thiếu trách nhiệm vì không tạo được ảnh hưởng cho môi trường sống chung quanh.

Đây không phải là sự phô trương mà Chúa Giê-su đòi hỏi ở nơi các môn đệ Ngài; nhưng họ phải chiếu giải ánh sáng của Thiên Chúa bằng những công việc tốt đẹp họ làm: “Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ”. Lúc đó, những ai nhìn thấy ánh sáng “sẽ tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời”. Những lời này loan báo kinh Lạy Cha, chẳng bao lâu sẽ được Ngài dạy cho các môn đệ Ngài. Bản chất của ánh sáng chính là “những công việc tốt đẹp anh em làm”, hay chính xác hơn, “những việc thiện”. Những việc thiện là hoa trái của đức ái, đó là yêu thương tha nhân như Chúa yêu thương chúng ta (x. Ga 15: 12).

Công Đồng Vatican II nhấn mạnh bổn phận của người Ki-tô hữu là làm tông đồ: “Giáo dân làm tông đồ là thông phần vào chính sứ mệnh cứu độ của Giáo Hội: để lãnh nhận Phép Rửa và Thêm sức, mỗi tín hữu đều được Chúa đề cử làm tông đồ: đàng khác các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể, thông phần và nuôi dưỡng trong họ đức ái đối với Thiên Chúa và đối với loài người, nhân đức này là linh hồn của mọi hoạt động tông đồ. Nhưng giáo dân được đặc biệt kêu mời làm cho Giáo Hội hiện diện và hoạt động nơi và trong những hoàn cảnh mà nếu không có họ, thì Giáo Hội sẽ không là muối của thế gian. Như thế, vì những ân huệ đã lãnh nhận, mọi giáo dân vừa là chứng nhân vừa là dụng cụ sống động cho chính sứ mệnh Giáo Hội, ‘tùy theo độ lượng ân sủng Chúa Ki-tô ban cho’ (Ep 4: 7)… Bởi vậy, nhiệm vụ cao cả của mọi giáo dân là làm cho ý định cứu độ của Thiên Chúa ngày càng lan tới tất cả mọi người ở mọi nơi và mọi thời đại” (Hiến Chế Giáo Hội, 33).

 

14.Suy niệm Chúa Nhật 5 TN

Bài Phúc Âm (Mt 5, 13- 16) hôm nay, Chúa Giêsu đưa ra hai hình ảnh rất cụ thể để định nghĩa cho đời sống Ki-tô-hữu, sống nên ánh sáng và muối ướp cho đời: “Các con là muối cho đời, là ánh sáng cho trần gian”. Vậy thì muối và ánh sáng có ý nghĩa gì?

Trong cuộc sống, muối và ánh sáng rất cần thiết cho nhu cầu sinh hoạt hằng ngày. Muối là một loại vật chất cần thiết cho nhu cầu con người trong nhiều lãnh vực. Thời xưa, Người HyLạp coi muối như thần linh. Trong một câu ngạn ngữ bằng tiếng La-tinh: “Nil utilius sole et sale” (Không có gì hữu ích hơn là mặt trời và muối). Vào thời Chúa Giêsu, muối được nối kết với ba đức tính cao quý của con người: sự thanh khiết, bảo trì, và khẩu vị. Thật thế, Người La Mã nghĩ rằng muối là vật thanh khiết vì nó đến từ sự thanh khiết nhất đó là mặt trời và biển cả. Do đó muối là của lễ đầu tiên được dâng cúng cho các thần, và khi kết thúc một ngày, những lễ vật của người DoThái được dâng lên với muối. Nếu người Kitô hữu là muối, ắt hẳn phải là một gương mẫu của sự thanh khiết.

Thời cổ xưa, muối là một phương tiện phổ thông nhất để giữ gìn cho đồ ăn khỏi bị hư thối, muối bảo trì và giữ nó tươi. Muối khi dùng để ướp thực phẩm sẽ giúp cho khỏi bị ung thối, làm tăng thêm hương vị, và tẩy sạch mùi hôi. Nếu người Kitô hữu là muối, ắt phải có một ảnh hưởng chống lại những điều độc hại giống như vi trùng trong cuộc sống. Những đặc tính vĩ đại và hiển nhiên nhất của muối là làm cho món ăn đậm đà và ngon miệng, đồ ăn thiếu muối sẽ trở nên nhạt nhẽo. Giống như muối làm cho lương thực trở nên ngon, người Kitô hữu cũng tạo nên khẩu vị thơm ngon cho cuộc đời.

Muối cũng được dùng để đốt lửa cho hiệu quả hơn. Thời đó muối còn dùng để giúp cho sự đốt cháy. Ở vài nơi trên thế giới, các thiếu nữ trộn muối vào phân lừa và phân lạc đà và đóng thành từng bánh tròn, phơi khô và dùng để đun lò. Người ta đun lò đất bằng cách chất những bánh phân khô trên một lớp muối. Khi đốt lò, muối sẽ giúp đốt cháy những bánh phân. Khi muối mất vị mặn sẽ không còn giúp đốt cháy nữa và sẽ bị đổ đi. Hình ảnh của muối đùng để đốt cháy liên kết với hình ảnh của lửa chiếu sáng thế gian… Muối còn được dùng để trị bệnh trong y học dân gian: muối sát trùng, đắp vào chỗ bong gân, ngăn ngừa bệnh tật; muối để giúp tiêu hóa,… Ngoài ra, muối còn có nhiều công dụng khác nữa, kể cả cho các loài động và thực vật.

Về ánh sáng. Là một loại vật chất mà nhờ nó, người nhận thấy các sự vật xung quanh mình. Ở những nơi tối, người ta càng cần đến ánh sáng và càng nhận thức rằng ánh sáng rất cần cho cuộc sống. Có thể nói: không có ánh sáng thì không thể có sự sống.

Sau khi so sánh các muôn đệ của mình với muối, Chúa Giêsu lại dùng một hình ảnh ánh sáng cụ thể để nói về vai trò của họ: “Các con là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,14). Chúa Giêsu nói về chính mình: “Ta là ánh sáng thế gian” (Ga 8, 12). “Bao lâu Chúa Giêsu còn ở thế gian, Ngài là ánh sáng thế gian” (Ga 9, 5). Bao lâu thân xác Ngài còn đang hiện diện nơi trần thế, chính Ngài là ánh sáng thế gian. Nhưng khi cuộc đời trần thế của Ngài không còn nữa, các môn đệ của Ngài phải đóng vài trò ánh sáng thế gian. Vì họ đã được hấp thụ bởi chính nguồn ánh sáng là Đức Kitô, nên phải phản chiếu lại ánh sáng đó (Ga 13,15). Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta, những Ki-tô hữu hãy sống như con cái sự sáng, hãy tỏa ánh sáng Chúa Ki-tô, tỏa hương thơm tốt lành là những việc thiện để người đời nhận biết Chúa Ki-tô, Ánh Sáng của Muôn Dân và Đấng Cứu Độ duy nhất của trần gian.

Ngày chịu phép rửa tội, mỗi người chúngta đã đón nhận cây nến được đốt lên từ ánh sáng Chúa Kitô. Qua lời hứa của cha mẹ đỡ đầu, chúng ta chấp nhậ phản chiếu ánh sáng Đức Kitô đó bằng chính đời sống Kitô hữu của mình. Ánh sáng của cây nến là biểu tượng của Đức Tin trong đời sống Kitô hữu.

Sách giáo lý công giáo số 1216 xác định rằng: Trong phép rửa tội, người được rửa tội nhận lầy Ngôi Lời là “ánh sáng đích thực soi sáng mọi người” (Ga 1, 9) và sau khi được soi sáng như thế họ trở nên “con của sự sáng” (1Tx 5, 5) và chính bản thân họ là “ánh sáng” (Ep 5, 8).

Công Đồng Vatican II khuyên như sau: “Người giáo dân có rất nhiều cơ hội làm việc tông đồ: rao giảng Phúc Âm và thánh hoá. Chính đời sống Kitô hữu và những việc lành được làm với Thiên Chúa, vì Chúa phán: “Sự sáng của các con phải soi trước mắt người ta, như vậy để họ xem thấy việc lành các con mà ngợi khen Cha các con ở trên trời” (Mt 5, 16) (Apostolicam Actuositatem, đoạn 6).

Như vậy, bản chất của muối là mặn. Cũng thế, bản chất của người môn đệ Chúa Ki-tô là rao giảng Tin Mừng, là con cái Thiên Chúa, là giữ gìn cho thế gian khỏi phải hư đi.Tôi là một Ki-tô-hữu, vậy tôi phải có “vị mặn Ki-tô”. Nếu tôi không có “vị mặn Ki-tô” thì tôi không giúp gì cho thế gian cả. Như chúng ta đã biết muối được dùng để bảo quản thức ăn và đem lại hương vị đậm đà. Thế nhưng, nếu một khi muối đã lạt, nó sẽ chẳng còn giá trị nữa. Lúc đó nó sẽ bị vứt ra ngoài đường và bị chà đạp dưới chân. Cũng thế, người Kitô hữu sống giữa lòng cuộc đời phải là như muối mặn, đem lại tình thương, niềm vui mừng và hy vọng cho mọi người. Hơn nữa, người Kitô hữu sống giữa lòng cuộc đời phải là như ánh sáng chiếu trong u tối, soi đường dẫn lối cho người khác tìm gặp Đức Kitô. Để thực hiện được điều này, chúng ta xin ơn Chúa trợ giúp để ta có ý chí mà thi hành. Trong giây phút này, mỗi người hãy nhìn vào cuộc sống để xem mình đã thực sự trở thành muối, cũng như đã trở thành ánh sáng của Đức Kitô hay chưa?

Ước gì trong cuộc đời người Kitô hữu, chúng ta ý thức được vai trò làm muối và ánh sáng như lời Chúa dạy trong bài Phúc Âm hôm nay. Để chu toàn trách nhiệm này, xin Chúa cho chúng ta tình yêu của Chúa để chúng ta can đảm làm theo điều Chúa muốn.

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết gìn giữ ngọn lửa mà Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con, để chúng con can đảm sống chứng nhân là muối là ánh sáng cho trần gian trong tình yêu và lời mời gọi của Chúa. Amen.

 

15.Muối và Ánh Sáng

(Suy niệm của Lm Trầm Phúc)

Lời Chúa hôm nay chúng ta đã nghe đi nghe lại nhiều lần. Chúng ta cảm thấy như quen thuộc và không còn chú ý. Hôm nay, chúng ta hãy dừng lại suy nghĩ vì lời Chúa không bao giờ cũ mà luôn luôn mới, chỉ có chúng ta lơ đảng thôi.

Chúa nói: “Anh em là muối đất”. “Anh em là ánh sáng thế gian”. Chúa không nói: Anh em là cái gì có muối, mặn như muối, anh em là mặt trời, sáng như mặt trời mà nói: “Anh em là muối, là ánh sáng” . Từ Là nầy nói cho chúng ta biết bản chất chúng ta là muối, là ánh sáng. Muối được nhiều tác giả giải thích bằng nhiều cách, nhưng chúng ta hãy hiểu theo nghĩa đen là chất để ướp mặn, là chất để giữ cho thức ăn khỏi hư thối, là một chất thiết yếu cho cuộc sống con người. Ánh sáng cũng thế. Không có ánh sáng, chúng ta không thể sống được.

Chúa Giêsu dùng một hình ảnh cụ thể để giúp chúng ta hiểu vai trò thiết yếu của chúng ta trong thế giới nầy. Chúa Giêsu giao cho chúng ta, những kẻ tin, thế giới nầy, giữ cho nó đừng thối rữa, làm cho nó sáng rực lên.Nhưng hình như chúng ta đã để cho thế giới hôm nay thành một bãi tha ma kinh khiếp, và ánh sáng đã bị bóng tối của tội lỗi và gian ác che khuất mất rồi. Hãy nhìn xem thế  giới hôm nay như thế nào! Thật đáng buồn! Một thế giới đã băng hoại gãy đổ, hỗn loạn, không còn gì là tươi sáng mà thê lương ảm đạm. Con người ngày hôm nay mất phẩm chất, đang tiêu diệt lẫn nhau, không thương tiếc. Vậy thì muối ở đâu? Ánh sáng đã chiếu vào đâu?

Chúa Giêsu nói: “Nếu muối lạt đi, thì còn dùng để làm gì?” Thực ra muối không lạt được, vì bản chất của nó không thể mất đi, nhưng nó có thể bị tiêu hao và không còn ảnh hưởng. Muối không thể mất chất, nhưng nó có thể bị loãng đi trong nước. Nếu nước quá nhiều thì muối không còn gì nữa. Lúc ấy muối đã hết công dụng. “Anh em là muối đất”. Chúng ta đã bị pha loãng quá nhiều rồi. Chúng ta bị chìm ngập trong một đại dương vô đạo và vô nhân đạo, thì chúng ta còn ích lợi gì cho ai? Đó là thảm trạng của chúng ta hôm nay.Người Công giáo đã bị tan biến trong thế giới, không còn tác dụng, không còn là muối nữa. Chúng ta bị người đời khinh chê là phải vì chúng ta không còn xứng đáng nữa. Chúa Giêsu không còn hiển hiện trong chúng ta, thì chúng ta còn là gì? Chúng ta có thể làm nhân chứng không?

Chúa nói: “Anh  em là ánh sáng thế gian”, cũng như Chúa là ánh sáng thế gian. Chúng ta trở nên như Chúa, chúng ta phải là hiện thân của Chúa. Điều nầy đã dược nhắc đến nhiều lần và sinh ra nhàm chán, nhưng nó không thể hiện bằng thực tế nữa. Chúng ta không là ánh sáng nữa mà chính sự tối tăm đã che khuất ánh sáng. Tội ác như những núi lửa phun khói bao trùm cả thế giới làm ô nhiễm các linh hồn. Thảm trạng của thế giới hôm nay là do lỗi của chúng ta, những Kitô hữu. Người ta không còn thấy ánh sáng của Chúa nữa, người ta đã tạo nên thứ ánh sáng khác. Ban đêm, các thành phố sáng rực ánh đèn, không phải để soi sáng những gì khả ái tốt đẹp mà để  phơi bày những sự sang trọng trần thế, sự sang trọng của một số người; để soi sáng những nơi ăn chơi nhảy múa; để phơi bày sự ích kỷ dã man của con người. Đang lúc những người nghèo khổ tàn tật chui rút trong bóng tối vô tâm của người giàu có, đang che khuất nỗi khổ của họ.Chúng ta là ánh sáng thế gian ư?

Đức Bênêđictô 16 đã viết trong Tự Sắc CỬA ĐỨC TIN: “Chúng ta không thể để cho muối lạt đi và ánh sáng bị che phủ”. Vậy phải làm gì? Chúng ta ngồi khoanh tay để cho thủy triều tội ác cuốn trôi tất cả hay sao?

Thứ nhất, phải tìm về bản thân chúng ta. Chúng ta đã là ánh sáng chưa, hay chúng ta đã trở thành bóng tối? Muốn là ánh sáng, theo Đức Bênêđictô, phải trở về với Lời Hằng Sống. Phải nuôi dưỡng chính mình bằng của ăn thiết yếu là Lời Chúa và Mình Thánh Chúa. Đức Bênêđictô đã nói: “Chúng ta phải tìm lại sở thích nuôi dưỡng mình bằng Lời Chúa và Bánh Hằng Sống”. Chúng ta đã như dân Do thái trong sa mạc ngày nào đã nói với ông Môsê: “Chúng tôi đã quá nhàm chán thứ của ăn nầy rồi”. Hay chúng ta ăn mà không biết mình ăn gì? Chúng ta không muốn ăn thứ Bánh Hằng Sống mà chỉ muốn lương thực trần gian.

Ăn lấy Ngài chúng ta sẽ là một với Ngài, chúng ta mới có thề là muối và ánh sáng như Ngài. Ngài đã nói rất rõ: “Anh em LÀ muối đất, LÀ ánh sáng trần gian”. Chỉ khi nào chúng ta là một với Ngài, chúng ta mới là muối và là ánh sáng.

Là muối đất?

Chúng ta có chấp nhận tan rã trong cuộc sống như muối tan rã trong đồ ăn không? Có tan ra, muối mới có thể thấm vào đồ ăn. Nơi khác Chúa Giêsu cũng nói với chúng ta: “Hạt lúa mì gieo vào lòng đất mà không thối đi, nó sẽ trơ trọi nằm đó mà không thể nẩy mầm, sinh hạt”. Muối cũng thế, phải tan ra, quên mình để thấm vào cuộc sống tha nhân mới có thể sinh bông hạt, mới giữ được đồ ăn và làm cho nó có vị ngon.

Thân phận chúng ta là muối như Chúa Giêsu. Ngài đã tan nát ra cho chúng ta, chúng ta phải tan ra cho mọi người. Xã hội đang tan rữa vì chúng ta không là muối. Cô Madeleine Delbrel viết: “Một khi chúng ta biết được Lời Chúa, chúng ta không có quyền từ chối không đón nhận. Một khi chúng ta  đã đón nhận, chúng ta không có quyền ngăn không cho nó nhập thể trong chúng ta. Một khi nó đã nhập thể vào trong ta rồi, chúng ta không có quyền giữ nó cho riêng mình; khi ấy, chúng ta thuộc về những người đang mong chờ nó”. Theo Chúa và cho không cuộc đời mới có thể là người Công giáo đích thực.

Là ánh sáng?

Khi xưa, Chúa đã dạy dân Do thái qua miệng tiên tri Isaia: “Ngươi hãy chia cơm  cho người đói…thấy ai mình trần thì cho áo che thân…làm thỏa lòng người bị hạ nhục… thì ánh sáng ngươi sẽ chiếu tỏa trong bóng tối, và tối tăm của ngươi chẳng khác nào chính ngọ”. Ánh sáng đó không le lói như mặt trời, nhưng sẽ đem lại niềm vui và hạnh phúc. Ánh sáng chính là yêu thương, là chia sẻ, là cảm thông.

Chúng ta đang sống trong một xã hội không có tình thương, không có cảm thông. Bóng tối của hận thù, ích kỷ, dã man đang bao trùm thế giới và  che khuất ánh sáng. Ánh sáng của chúng ta ở đâu khi mọi sự chìm ngập trong bóng tối sự chết? “Chúng ta không thể để cho ánh sáng bị che khuất”. Đó là điệp khúc mỗi ngày. Hãy sống như ánh sáng là cho không, là quên mình, không tính toán. Chúng ta đã làm được gì cho người anh em gần bên chúng ta? Chúng ta đừng mơ mộng dù là những mơ mộng lành thánh. Hãy sống hôm nay, trong thực tế hằng ngày, với quyết tâm làm cho mọi sự sáng lên trong yêu thương, trong phục vụ.

Sau khi lãnh nhận Mình Thánh Chúa, Tấm Bánh Tình Yêu, chúng ta sẽ làm gì hôm nay cho ánh sáng bừng lên trong u tối của cuộc sống hôm nay. Chúa Giêsu đã nói rõ ràng: “Anh em hãy làm việc lành để mọi người thấy việc lành của anh em mà ngợi khen Cha trên trời”.

 

16.Chấn hưng đạo đức

(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)

Vấn đề suy thoái đạo đức nghiêm trọng trên đất nước chúng ta là mối ưu tư, trăn trở lớn nhất của nhiều người tâm huyết trong xã hội.

Nhận định về vấn đề này, Giáo sư Tiến sĩ Lê Thị Quý, Viện trưởng Viện Nghiên cứu giới và phát triển cho rằng: “Đạo đức xuống cấp ở mức đáng báo động! [1]”

Còn Tiến sĩ Khoa học Phan Hồng Giang thì nhận định rằng: “Thực trạng xuống cấp của văn hóa, đạo đức xã hội đã ở mức độ nguy hiểm [2]”

“Đạo đức xã hội xuống cấp còn thể hiện ở những hành vi bạo lực trong nhiều lĩnh vực khác nhau, từ bạo lực gia đình, bạo lực học đường… đến bạo lực nơi công cộng… Thói tham lam, ích kỷ, thói vô cảm lan rộng gây nhiều tác hại cho cộng đồng… Một số người đã tôn sùng đồng tiền một cách mù quáng, coi “tiền là trên hết” và tìm mọi thủ đoạn để có nhiều tiền… Khi đồng tiền lên ngôi cũng chính là lúc đạo đức xuống cấp.[3]”

Trước nguy cơ đáng lo ngại này, nhiều bậc trí giả lên tiếng kêu gọi phải chấn hưng đạo đức như là một ưu tiên hàng đầu.

Tuy nhiên, công cuộc chấn hưng đạo đức không chỉ là trách nhiệm riêng của các nhà lãnh đạo, các nhà giáo dục, các tôn giáo, nhưng trước hết, đó là bổn phận của mỗi người chúng ta.

Muốn giữ cho cá khỏi ươn, người ta cần dùng muối để ướp mặn nó. Vậy muốn cho con người khỏi hỏng, cũng cần một thứ muối khác để bảo toàn. Chúa Giê-su mời gọi chúng ta trở nên thứ muối nầy.

Qua Tin mừng Mát-thêu chương 5, câu 13, Chúa Giê-su mời gọi chúng ta: “Chính anh em là muối cho đời.”

Vậy chúng ta phải thực hiện sứ mạng làm muối ướp mặn đời như thế nào đây?

Bắt đầu với một người

Một ít muối không thể ướp mặn cả thùng cá. Một cá nhân khó có thể cảm hoá được nhiều người. Tuy nhiên, mỗi một người có thể giữ cho một người khác khỏi hư.

Vì thế, để thực hành sứ mạng làm “muối cho đời” mà Chúa truyền dạy, trước tiên, mỗi người chúng ta hãy bắt đầu thực hiện với một người, bằng cách kết thân với một cá nhân trên đà hư hỏng, dành nhiều tình yêu và lòng quý trọng cho người bạn đó – chỉ có tình yêu và lòng quý trọng mới có thể cảm hoá tâm hồn – rồi dần dà giúp cho người đó bỏ đi những thói hư tật xấu.

Rồi sau khi đã thành công với người thứ nhất, ta sẽ “làm muối ướp mặn” thêm một người khác nữa. Cứ thế, hết người nầy đến người khác, dần hồi, chúng ta sẽ giúp cho khá nhiều người khỏi hư hỏng. Đó là một sự nghiệp cao đẹp tuyệt vời, góp phần chấn hưng đạo đức xã hội.

“Ướp mặn” người khác cách nào?

Trước hết là bằng đời sống gương mẫu, nói khác đi, là hãy trở nên đèn sáng. Người ta thường nói: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng.” Hãy nêu cao gương sáng cho người chung quanh như Chúa Giê-su kêu mời: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian… Chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5, 15-16).

Tiếp theo là bằng những lời khuyên đượm tình yêu thương.

Chỉ làm gương sáng mà thôi không đủ, cần có những lời khuyên nhủ, động viên, nhắc nhở đượm tình yêu thương kèm theo.

Nhắc nhở khuyên can mà không có tình yêu thương sẽ làm người khác xa lánh ta nên không đem lại hiệu quả. Khuyên lơn, động viên trong tình yêu thương và lòng tôn trọng sẽ cảm hóa được lòng người và giúp người khác khỏi sa vào đường hư vong.

Lạy Chúa Giê-su,

Chúa yêu thương trân trọng từng người và Chúa không muốn bất cứ một ai phải hư mất. “Chúa không bẻ gãy cây sậy đã giập, không dập tắt tim đèn còn khói…” (Mt 12, 20).

Xin cho chúng con biết trân trọng yêu quý những anh chị em đang vướng mắc những thói hư tật xấu và cố gắng giúp cho những người nầy đứng vững trước những thử thách, cám dỗ trong cuộc đời.

Có như thế, chúng con mới có thể chu toàn trách nhiệm làm muối và ánh sáng mà Chúa đã trao phó cho chúng con.

—————–

[1] GS. TS. Lê Thị Quý (Viện trưởng Viện Nghiên cứu giới và phát triển), trả lời phỏng vấn báo Quân đội Nhân dân Cuối tuần, số ra ngày 14-7-2019.

[2] Ý kiến của TSKH. Phan Hồng Giang, báo Quân đội Nhân dân Cuối tuần, số ra ngày 14-7-2019.

[3] Nguồn: Trương Nguyên Tuệ, http://tuyengiao.vn/van-hoa-xa-hoi/van-hoa/suy-nghi-ve-thuc-trang-dao-duc-xa-hoi-hien-nay-124824)

 

17.Thắp sáng cuộc đời – R. Veritas

(Trích từ ‘Sống Tin Mừng’)

Khi tìm một bài hát về thánh Phêrô và Chúa Giêsu, tôi đã gặp được một bài rất ý nghĩa mà trước đó không hề biết đến. Đó là bài hát có tựa đề: “Con Là Đá”. Người quen thuộc bài hát “Con Là Đá” này cũng nên tìm đọc qua một bài hát tương tự khác có tựa đề “Con Không Là Đá”. Bởi một sự tình cờ và với sự tò mò thôi thúc, tôi có dịp nghe qua bài hát này và kể từ đó tôi cảm thấy rất thích bài hát nói về Phêrô: “Con Không Là Đá” đó, tác giả đã diễn tả ý nghĩa sâu xa của Lời Chúa Giêsu nói cho Phêrô: “Con là Đá”.

Qua lời ca của bài hát, “Con Không Là Đá”, Chúa Giêsu nói với Phêrô, theo ý của tác giả, thì “con chỉ là Đá khi con nương tựa vào Chúa, sống kết hiệp với Thiên Chúa. Trước mặt Thiên Chúa, thật sự con chỉ là cát bụi; con chỉ có thể là Đá trên Thiên Chúa là Viên Đá Thật”.

Kể từ đó, bài hát nói về Phêrô “Con Không Là Đá” đã thấm nhập vào tâm hồn tôi, và hôm nay, khi đọc lại bài Phúc Âm thánh Mátthêu (Mt 5,13-19), nhắc lại lời Chúa Giêsu: “Chúng con là ánh sáng thế gian”, tôi lại nhớ đến bài hát nói về Phêrô “Con Không Là Đá”. Tôi có thể chia sẻ với anh chị em rằng, tất cả chúng ta phải là ánh sáng mà Chúa Giêsu Kitô nói, Ngài là ánh sáng thật đã đến trần gian, đã soi chiếu cho mọi người và chúng ta chỉ là ánh sáng trong Chúa Kitô là ánh sáng thật.

Chúng ta chỉ là ánh sáng thế gian trong mức độ khi chúng ta để Chúa Kitô biến đổi cuộc sống mình, để cho ánh sáng của Chúa biến đổi cuộc đời chúng ta trở thành cuộc đời của Chúa. Lời Chúa phán: “Chúng con là ánh sáng”, không là một lời khoe khoang để chúng ta hãnh diện, tự kiêu, nhưng là một mệnh lệnh, một đòi hỏi, mỗi người phải là một Chúa Kitô khác, hãy sống sự sống của Chúa, hành động như Chúa để trở thành một Chúa Kitô khác.

Nhân dịp này, chúng ta tự suy nghĩ lại câu nói chúng ta thường nghe qua: “Tốt đời đẹp đạo”. Người ta đến với đạo qua hành động, việc làm đời thường của chúng ta, họ muốn nhìn thấy việc làm tốt của chúng ta để đến với Đạo, để sống theo như lời Chúa nói: “Để ngợi khen Cha chúng con Đấng ngự trên trời”. Đó là cái nhìn của người ngoài từ đời đến đạo, và cái nhìn này có thể hiểu lệch lạc đến độ lấy đời làm méo mó đạo để thỏa mãn yêu cầu không đạo đức của đời. Là người Kitô, chúng ta hãy nhìn từ một quan niệm mới không phải từ đời đến đạo mà phải bắt đầu từ đạo đến đời. Tôi muốn nói từ đời sống đạo của mỗi người chúng ta, đời sống như Chúa Kitô đã sống để rồi chúng ta lan tỏa cho đời. Chúng ta phải là người đồ đệ đích thực của Chúa, sống đức tin chân chính, sống đức bác ái của Chúa, sống như Chúa sống, sống sức mạnh của Chúa Thánh Thần và như thánh Phaolô Tông đồ diễn tả trong bài đọc hai: “Tôi sống nhưng không phải là tôi mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”.

Thánh Phaolô đã để cho ánh sáng của Chúa được hiện diện trong cuộc đời của ngài, biến cuộc đời của ngài trở thành ánh sáng cho muôn dân. Chúng ta cần sống trọn vẹn Tin Mừng của Chúa, sống như Chúa đã sống, sống sức sống của Chúa, lãnh nhận ánh sáng của Chúa. Để làm tốt cho đời, chúng ta cần lấy Đạo Chúa mà chúng ta có để làm cho đời được tươi đẹp, như thế tốt đời mới đẹp đạo của Người, đó là đối với chúng ta phải tốt đạo để đẹp đời, chúng ta phải sống trọn vẹn đức tin của mình, phải thực hiện đức bác ái của mình cách hoàn hảo.

Bài đọc thứ nhất từ sách tiên tri Isaia hôm nay, là một bản kê khai những việc làm tốt mà chúng ta, những đồ đệ của Chúa cần phải biến đổi để trở thành ánh sáng, để mang ánh sáng của Chúa đến cho anh chị em. Chúng ta không phải là Ánh Sáng; chúng ta là ánh sáng thế gian khi nào chúng ta sống kết hợp với Chúa là Ánh Sáng Thật.

Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được lớn lên, được trưởng thành trong đức tin, được vững mạnh trong đức ái, để chúng ta sống trọn vẹn đức tin của chúng ta, sống tốt đạo của chúng ta để chúng ta làm đẹp cho đời.

 

18.Sống có ích cho tha nhân – Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

(Trích từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)

Người ta kể đoạn kết của bộ phim Tôn Ngộ Không như sau: Vào đêm trước khi thầy trò Tam Tạng bước vào cửa Phật. Thầy trò ngủ chung với nhau, nhưng lòng bồi hồi xao xuyến không sao ngủ được. Ngộ Không thấy Thầy mình nằm trăn trở hết nghiêng bên này, lại nghiêng bên kia. Bèn quay sang nói với Thầy: “Ngày mai chúng ta vào cõi Phật rồi, sao Thầy không vui?”. Thầy Tam Tạng thở dài nói rằng: “Ngộ Không con ơi, con là khỉ, cả đời con theo Thầy chỉ mong thành người. Còn Thầy đã là Người, lại bỏ kiếp người vào cõi Phật. Biết có hay không! Làm người mà chưa giúp gì cho đời, liệu thành Phật, Thầy còn có cơ hội cứu đời cứu người nữa hay không?”.

Thực vậy Tôn Ngộ Không, khi theo thầy đi Thỉnh kinh đã mang hoài bão trở thành một con người nhưng Ngộ Không đã không có cơ hội thay đổi bản chất của mình, vì khỉ vẫn là khỉ, cho dù có 72 phép thần thông cũng không thay đổi phận số của mình. Còn chúng ta là người, nhưng sống cho trọn kiếp người, cho xứng với bản chất và phẩm giá làm người đôi khi chúng ta vẫn chưa thực sự nên người. Có một nhà tu đức nói rằng: Bạn muốn là một người kytô hữu tốt trước hết bạn hãy là một con người tốtBạn muốn là một vị thánh, thì bạn phải là một người kytô hữu tốt. Dù chúng ta có muốn làm thánh làm phật, dù chúng ta có muốn trở thành những con người siêu phàm làm được nhiều chuyện lớn lao, phi thường nhưng trước hết và trên hết chúng ta phải là một con người hoàn hảo, một con người biết sống đúng bổn phận của mình. “Tu thân tích đức – tề gia – trị quốc – bình thiên hạ”. Một em học sinh muốn trở thành những nhà bác học lừng danh, thì trước hết, tuổi thơ của em phải là những học sinh gương mẫu, em phải biết chu toàn tốt bổn phận học trò của mình mới mong lập được công trạng cho gia đình và xã hội. Hơn nữa, người có tài nhưng không sống đúng bản chất con người là “nhân chi sơ tính bản thiện” thì cũng chỉ là kẻ gieo vãi sự chết chóc nơi nhân thế thay vì dùng tài năng để phục vụ cho đời.

Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy bản chất của người kytô hữu không phải là những gì cao xa nhưng chỉ là những hạt muối bé nhỏ hay chỉ là một chút ánh sáng lẻ loi. Thật bình thường và cũng thật tầm thường nhưng lại thật hữu ích cho đời sống con người. Không có muối làm sao có những bữa tiệc thơm ngon mặn mà. Không có ánh sáng làm sao con người có thể nhìn ngắm những vẻ đẹp muôn màu của vũ trụ mà Thiên Chúa đã dựng nên.

Các con là muối cho đời – là ánh sáng cho trần gian. Muối thì thấp hèn, âm thầm và khiêm tốn. Nhưng muối làm cho người phụ nữ nội trợ thêm rạng rỡ niềm vui, cho bữa cơm gia đình thơm ngon đậm đà.

– Ánh sáng thì rực rỡ, huy hoàng. Ánh sáng soi cho người ta thấy rõ đường đi, cho con người nhận ra nhau, cho quan hệ giữa người với người thêm trong sáng chân thành. Mọi mối quan hệ còn ở trong bóng tối, thì đó chỉ là những mối quan hệ bất chính và tội lỗi.

Nhưng thân phận cả hai đều phải chịu hao mòn hy sinh thì mới thực sự có ích cho đời: muối tan dần đi, ngọn đèn ngày càng lụn xuống. Lý do tồn tại của cả hai là để gây tác động tốt: nếu muối không mặn và đèn không sáng thì không có ích gì nữa, chỉ nên vất ra đường phố cho người ta chà đạp và khinh bỉ.

Thân phận và hoàn cảnh của mỗi kitô hữu khác nhau: có người âm thầm hèn mọn như hạt muối, có người rực rỡ huy hoàng như ánh sáng. Nhưng mọi người đều có sứ mạng phải tác động tốt lên môi trường mình sống. Không tác động tốt thì không còn là kitô hữu nữa.

Là muối đất, là ánh sáng thế gian, hơn ai hết, kitô hữu chúng ta cần phải thắp sáng lên niềm hy vọng bằng cuộc sống tỏa lan tình người. Dù chỉ là một ngọn đèn mù mờ giữa biển khơi, cho dù phải đương đầu với biết bao sống gió nhưng vẫn phải giữ cho ngọn đèn đó cháy sáng, vì biết đâu xa xa ngoài khơi vẫn còn có ai đó đang cần một chút ánh sáng để định hướng vào bờ.

Ngược dòng lịch sử 600 năm trước Chúa Giáng Sinh, tiên tri Isaia đã dạy chúng ta phương thế để trở thành ánh sáng cho đời:

Về mặt tiêu cực: đừng bao giờ khinh bỉ người khác, phải loại bỏ những tranh chấp, hăm dọa, nói xấu anh chị em mình; Về mặt tích cực là chia cơm cho kẻ đói, chia áo cho người nghèo, làm cho người đau khổ được hạnh phúc…

Và “Như thế, sự sáng của ngươi sẽ tỏa rạng như hừng đông, ánh sáng của ngươi sẽ bừng lên trong đêm tối và bóng tối sẽ trở thành như giữa ban ngày”.

Một buổi chiều, Mẹ Têrêsa đi qua một căn nhà ngoại ô ở Calcutta. Nhà tối om và có tiếng rên từ bên trong vọng ra. Mẹ đẩy cửa bước vào, sờ soạng, đi lại giường một cụ già tiều tụy đau yếu, Mẹ hỏi: Nhà cụ không có đèn đóm gì ư?-Có một chiếc đèn còn tốt, nhưng không có dầu. Vả lại có ai đến thăm tôi đâu mà phải đèn với đóm! Mẹ lục lọi tìm ra chiếc đèn, lau chùi, mua dầu cho vào và đốt lên. Mặt cụ tươi tỉnh lên. Ít lâu sau Mẹ nhận được một lá thơ với mấy dòng chữ: “Nụ cười vui tươi của Mẹ, như dầu khích lệ, như đèn đốt sáng đời tôi, mỗi khi chiều về”.

Mỗi người chúng ta cũng được Chúa mời gọi để thắp sáng cuộc đời kẻ khác. Mỗi người đều có một khả năng cá biệt để thắp sáng niềm tin cho anh chị em chúng ta và ướp mặn trần gian bằng tình yêu thương bác ái và cảm thông. Vì:

“Làm thân cây nến vào đời

Càng tiêu hao cháy, càng ngời vinh quang”

Nhưng tiếc thay, vì lười, vì ích kỷ, vì hèn nhát, ngọn đèn của chúng ta lu mờ dần đi và có khi tắt ngấm. Vì thiếu bác ái, thiếu lòng nhân từ nên những ai tiếp xúc với chúng ta đều cảm thấy mặn chát, khô cằn thiếu sức sống vui tươi. Xin Chúa giúp chúng ta dám hy sinh và từ bỏ mình mỗi ngày để trở nên ánh sáng và muối men cho đời. Amen.

 

19.Dụ ngôn hạt muối – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền

Hạt muối Bé nói với hạt muối To: “Em đến chia tay chị, em sắp được hòa trong đại dương”. Muối To trố mắt: “Em dại quá, sao lại để đánh mất mình như thế. Em muốn thì em cứ làm, chị không điên!“.

Muối To thu mình co quắp lại, nhất định không để biển hòa tan. Muối To lên bờ, sống trong vuông muối. Nó vẫn ngạo nghễ, to cứng và nhìn chúng bạn bé tí ti đầy khinh khỉnh. Thu hoạch, nông dân gạt nó ra ngoài, xếp vào loại phế phẩm, còn những hạt muối tinh trắng kia được đội lên đầu, hay bê bên lưng rồi đóng vào bao sạch đẹp… Lần đầu tiên nó thấy mình bị xúc phạm!

Sau một thời gian lăn lóc hết xó chợ này đến xó chợ khác, cuối cùng người ta cho nó vào nồi cám heo. Phải hóa thân phục vụ cho lũ heo dơ bẩn này ư? Nó tủi nhục ê chề! Lòng kiêu hãnh không cho phép nó “tế thân” cho lũ heo hạ tiện. Nó thu mình co cứng hơn mặc cho nước sôi trăm độ cũng không lấy được, dù là cái vảy da của nó.

Khi rửa máng heo, người ta phát hiện nó, và chẳng cần nghĩ suy, ném nó ra đường lộ. Người người qua lại đạp lên nó!

Hạt muối là để hòa tan. Hạt Muối phải chịu tan biến chính mình mới thể hiện giá trị đích thực của hạt muối. Muối đã lạt và không còn khả năng hòa tan thì cũng bị quên lãng hay vứt bỏ ta đường cho người qua lại dẫm đạp mà thôi!

Con người không được sống cho chính mình. Con người phải biết dấn thân, hòa nhập với xã hội mới thể hiện vai trò giá trị của mình trong cộng đồng. Nhân loại cũng bỏ rơi những con người lười biếng, vô dụng, thiếu trách nhiệm với gia đình và xã hội. Muối đã lạt thì vứt đi. Con người lạt tình người, lạt trách nhiệm sẽ trở nên vô dụng và bị bị lãng quên.

Chúa Giêsu mời gọi người tín hữu phải biết hòa tan trong cuộc đời. Như hạt muối hòa tan trong môi trường để ướp mặn cuộc đời. Như ánh sáng hòa tan trong không gian để xua tan bóng tối. Muối và ánh sáng đều phải chịu tan biến mới sinh ích cho con người. Là người ky-tô hữu cũng phải hòa tan cuộc đời mình trong dòng chảy tình yêu để mang lại sức sống cho con người.

Chính Chúa Giêsu đã chấp nhận hòa tan chính mình trong dòng chảy của cuộc đời. Ngài đã trở nên mọi sự cho mọi người. Ngài đã sống để dâng hiến và phục vụ con người trong yêu thương hết mình như thánh Gioan đã nói: “Ngài đã yêu thì yêu cho đến cùng”. Đỉnh cao của hòa tan là chấp nhận tiêu hao chính mình “như hạt lúa chịu mục nát để sinh nhiều bông trái”.

Năm nay Giáo hội mời gọi chúng ta “Phúc âm hóa” là dịp nhắc lại vai trò của người tín hữu giữa dòng đời. Là người tín hữu phải đem muối Phúc âm thẩm thấu vào trong thế gian. Là người tín hữu phải đem ánh sáng của Phúc âm dẫn dắt con người hôm nay đi trong chân lý. Thế nhưng, ở đâu dó vẫn có những tín hữu thiếu gia vị của tình yêu, thiếu cả gương sáng gây ô uế môi trường và gây gương xấu cho tha nhân. Ở đâu đó vẫn có những nhóm giáo dân thường co cụm chính mình mà ít cởi mở, thân thiện với tha nhân. Đó là lý do mà Giáo hội không thực sự có gía trị trong cộng đồng nhân loại. Làm sao Giáo hội có thể phúc âm hóa môi trường khi mà người tín hữu để muối đã lạt qua cách sống đạo hời hợt, đôi khi còn thiếu gia vị của tình yêu? Làm sao mà Giáo hội có thể Phúc âm hóa khi mà chính người ky-tô hữu vẫn còn làm gương xấu của gian dâm, của cờ bạc, rượu chè . . .

Ước gì đời sống của chúng ta luôn là lời ngợi ca và tôn vinh Chúa. Một đời sống thấm nhuần lời Chúa để đem tin mừng thẩm thấu vào trong thế gian. Một đời sống công bình bác ái như những ngọn đèn hải đăng thắp sáng trong bóng đêm của xã hội đầy bất công và hận thù. Một cuộc sống đi vào lòng nhân thế để phủ đầy ánh sáng của Phúc âm và hơi ấm của Tin mừng.

Xin Chúa giúp chúng ta luôn hoàn thành đời mình như muối mặn, như ánh sáng hòa tan cho thế gian sức nóng và tràn ngập ánh sáng của Tin mừng. Amen.

 

20.Chúng con là ánh sáng trần gian

(Suy niệm của Lm Giuse Đỗ Văn Thụy)

Tin mừng Mt 5: 13-16: Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói: Các con là ánh sáng trần gian…Sự sáng của các con phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ…

Lobsang Rampa là một thiền sư Tây Tạng nổi tiếng trên thế giới với tác phẩm “Con mắt thứ ba” (Le troisème oeil). Viện văn hóa nghệ thuật Việt nam đã dịch nó thành “Các Lạt Ma hóa thân”. Ở trang 11-12 (Bản Việt ngữ) viết rằng:

“Theo khoa học huyền môn, thể xác con người chỉ là một lớp vỏ, một áo khoác bên ngoài của một linh hồn hay “Chân ngã”… Quanh con người có một vầng hào quang thô thiển phản ánh nguồn sinh lực bên trong. Một người thánh thiện hay khỏe mạnh thì hào quang sáng rõ, vươn ra cách thể xác vài phân. Một người tội lỗi hay yếu đuối thì hào quang mờ tối, thu sát vào thân xác.

Khai mở Thần Nhãn để quan sát vầng hào quang này, ta có thể biết được chân tướng mọi người mọi vật hay tình trạng sức khỏe của một người để chữa bệnh.

Lobsang Rampa kể tiếp:

Đúng thời kỳ sinh nhật thứ 9 của ông, ông được đưa vào một căn phòng đặc biệt. Bốn vị Lạt ma Trưởng Lão trong đó có sư phụ ông cũng đến đó truyền dạy cho ông những phép bí truyền để khai mở Thần Nhãn…Sau 9 tháng công phu luyện tập, ông đã thành công… Lần đầu tiên ông mở mắt ra quan sát chung quanh, một kinh nghiệm lạ lùng xẩy ra khiến ông xúc động.

Ông thấy có 4 vị Lạt Ma Trưởng Lão đều được bao phủ quanh mình bởi một hào quang chói lọi như ánh lửa.

Về sau ông hiểu rằng các vị Trưởng Lão có một đời sống rất tinh khiết mới có được hào quang như vậy. Khi ông khai mở Thần Nhãn, ông phát hiện những rung động khác nữa, xuất phát từ cái trung tâm hào quang đó.  Nhờ đó ông có thể đoán biết tình trạng sức khỏe của một người ra sao. Cũng như thế, bằng cách xem sự thay đổi mầu sắc của hào quang, ông có thể đoán biết kẻ đó nói dối hay nói thật.[1]

Trong bài  Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói: Các con là ánh sáng trần gian…Sự sáng của các con phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con ở trên trời.

Các con là ánh sáng trần gian.

“Theo khoa học huyền môn, thể xác con người chỉ là một lớp vỏ, một áo khoác bên ngoài của một linh hồn.Quanh con người có một vầng hào quang phản ánh nguồn sinh lực bên trong. Một người thánh thiện thì hào quang sáng rõ, vươn ra cách thể xác vài phân.

Sau 9 tháng luyện tập, Lobsang Rampa thấy có 4 vị Lạt Ma Trưởng Lão đều được bao phủ quanh mình bởi một hào quang chói lọi như ánh lửa. Và ông nói rằng các vị Trưởng Lão có một đời sống rất tinh khiết nên mới có được hào quang tỏa sáng như vậy. Điều này cho thấy, nếu chúng ta sống thánh thiện, thì chính con người chúng ta sẽ tỏa sáng. Có lẽ chính vì thế mà chúng ta thấy trong hình các thánh nhân thường có hào quang tỏa sáng trên đầu.Tuy nhiên, nếu chúng ta chưa tu luyện được như các thiền sư hay các thánh, thì chúng ta có thể tỏa sáng bằng chính những công việc tốt lành của chúng ta.

Một hôm thánh Phanxicô Assisi gọi một thầy dòng lên dặn:

– Con lo sửa soạn chiều nay chúng ta phải đi giảng.

Đến giờ phải đi, hai cha con ra khỏi nhà đi một vòng quanh thành phố rồi trở về nhà.  Thầy dòng lấy làm lạ hỏi:

– Cha bảo cha đi giảng, sao chưa giảng mà cha đã về?

Thánh Phanxicô nghiêm trang đáp:

– Như vậy đã là giảng rồi đó.

Thánh Phanxicô có ý nói: đi một vòng nghiêm trang nết na cho người ta thấy, đó cũng là một bài giảng, bài giảng bằng gương sáng.

Gương sáng là một cách thuyết phục và thánh hóa người khác mau lẹ nhất

Chính vì vậy Chúa bảo chúng ta: Các con là ánh sáng trần gian. Các con hãy là chứng nhân của Thầy.

Là ánh sáng tức là làm chứng nhân của Chúa.Làm chứng bằng chính cuộc sống của mình, nhưng nhiều khi chúng ta vô tình hay hữu ý đã trở thành phản chứng, làm méo mó khuôn mặt của Đức Kitô, khiến người ta không nhận ra Chúa,khiến người ta không muốn theo Chúa.

Ta hãy nghe Mahatma Gandhi – được Ấn độ xem như là một vị thánh  trong Ấn Độ Giáo – nói về cách sống đạo của những Kitô hữu trong xã hội của ông.Ông đã lên tiếng, có vẻ như thách thức người Kitô hữu: Nếu những người Kitô hữu ở Ấn Độ thật sự sống đúng tinh thần của Đức Kitô, thì họ chẳng cần mất công rao giảng, toàn Ấn  Độ sẽ trở thành Kitô hữu hết.

Lạy Chúa xin cho chúng con suy gẫm Lời Chúa và thực hành Lời Chúa dạy trong bài Tin Mừng hôm nay: Các con là ánh sáng trần gian…Sự sáng của các con phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con ở trên trời. Amen.

——————–

[1] Giuse Đinh Lập Liễm, CN 5A TN

 

21.Giác ngộ – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

1. Sự giác ngộ

Nghe từ Giác Ngộ xem ra có vẻ nhuốn chút suy tư đạo lý của Phật Giáo. Tôi thích từ Giác Ngộ, đồng nghĩa với từ Thức Tỉnh (to awake, awaken). Mấy năm trước đây, tôi vẫn thường gặp và thăm hỏi thầy Thích Thiện Chí. Có một lần, thầy tâm sự rằng thầy mới được giác ngộ. Thầy kể rằng một ngày kia khi đang tụng kinh, thầy cảm thấy như có một lóe sáng trong đầu và từ giây phút đó thầy bắt đầu thao thao giảng dạy và chia sẻ những gì mà trước đây thầy không thể làm được. Thầy Thích Thiện Chí rất khiêm nhu và hiền lành. Thời gian trước thầy trụ trì tại Chùa Thập Phương nay đổi sang phục vụ tại Chùa Chiếu Kiến ở vùng Bronx, Nữu Ước.

Giác ngộ chính là được thức tỉnh. Mỗi người đều có những khoảnh khắc tự giác và nhận thức. Trước đó không bao giờ nhận ra dù có kinh qua bao nhiêu ngày sống. Giây phút giác ngộ hay thức tỉnh là một khởi đầu rất qúy báu. Có những vị thánh đã được thức tỉnh qua lời Chúa trong Kinh Thánh như thánh Antôn, Tu Viện Trưởng. Một ngày kia, Antôn ghé vào nhà thờ vừa khi bài Phúc âm đang đọc nói về người giầu có: Đức Giêsu đáp: “Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.”(Mt. 19, 21). Ngay lập tức, Antôn rời nhà thờ và về làng quê bán hết của hồi môn và 200 mẫu đất, rồi đem phân phát cho người nghèo. Lần kế tiếp, ngài vào nhà thờ nghe bài phúc âm khác: Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy (Mt. 6,34). Không do dự, ngài dâng biếu tất cả những của cải còn lại cho người nghèo. Sau đó, Antôn vào ẩn tu và tự tay lao động nuôi thân cùng giúp đỡ người khác. Đây chính là sự giác ngộ thực sự. Giác ngộ và tiếp tục sống ơn soi sáng thúc đẩy để thánh hóa cuộc đời.

2. Sống thức tỉnh

Giây phút ánh sáng chói lòa biến đổi cuộc đời. Saulô đang trên đường đi ruồng bách những tín hữu của Chúa Kitô, đã bị luồng ánh sáng đánh ngã ngựa và làm lòa mắt. Saulô không còn thấy đường đi mà phải nhờ người dẫn dắt. Saulô được chính Chúa Giêsu, nguồn ánh sáng chọn, gọi và cải đổi đời sống. Chúa Kitô đã biến đổi một Saulô đang ruồng rẫy bách hại các Kitô hữu trở thành Phaolô nhiệt thành rao giảng tin mừng Nước Chúa. Phaolô đã trở nên muối, nên men và ánh sáng cho mọi người, nhất là các dân ngoại. Thánh Phaolô đã mang ánh sáng tin mừng của Chúa đi cùng khắp. Ngài đã là chứng nhân đích thực và là đèn sáng để trên giá cao soi cho mọi người ở mọi thời, mọi nơi.

Giác ngộ như Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị trong lễ đăng quang nhận chức vị chủ chăn của Giáo Hội ngày 22 tháng 10 năm 1978. Câu đầu tiên trong bài giảng khai mạc là: Anh chị em đừng sợ. Ngài được linh hứng qua lời Chúa, trong Thánh Kinh đã có trên 100 lần nhắc đến từ “Đừng Sợ”. Đừng sợ khi phải đối diện với những nghi nan, khó khăn hay thách thức. Đức Giáo Hoàng đã nỗ lực vượt ra ngoài tiền lệ đã gặp gỡ nhiều người, đi tới nhiều nơi và nhiều nước. Ngài đã hòa giải và xin lỗi toàn nhân loại vì những lỗi lầm của Giáo Hội trong quá khứ. Ngài chính là muối ướp mặn và là ánh sáng thế gian. Ngài đã đến với giới trẻ để ướp thêm vị mặn cho khỏi bị nhiễm mùi thế tục. Ngài đã sống chứng nhân đích thực của Chúa Kitô cho đến hơi thở cuối cùng.

Thức tỉnh như Đức Cố Hồng Y Phanxicô Nguyễn văn Thuận trong những ngày lao tù đầy khổ sở tại Vĩnh Phú. Nơi đây đa số tù nhân là những người không thuộc Đạo Công Giáo. Trong lúc cô đơn, buồn chán, thất vọng và nhớ nhung những sinh hoạt của giáo phận. Ngài kiên tâm cầu nguyện và được ơn soi sáng từ đáy tâm hồn mời gọi và đã thức tỉnh ngài là “Hãy chọn Chúa, chứ không phải là công việc của Chúa”(Escoge a Dios y no las obras de Dios). Nhận thức Chọn Chúa, ngài đã mở ra Con Đường Hy Vọng. Đức Cố Hồng Y Phanxicô là đèn sáng soi rọi gian trần. Ánh sáng cuộc sống của ngài đã lan tỏa từ trong ngục tù tối tăm, lạnh vắng đến kinh thành Rôma ánh sáng, trung tâm của Giáo Hội. Đèn vẫn cứ cháy sáng cho dù với chỉ một người lính canh hay cả ngàn ngàn người tụ họp bên ngài. Nơi ngài tỏa sáng niềm tin hy vọng vào Chúa Kitô. Ánh sáng của Chúa Kitô được phản ảnh qua đời sống đạo hạnh của ngài. Ngài là ánh sáng cho trần gian.

3. Nhận thức

Trong cuộc đời, ai trong chúng ta cũng có những giây phút hay khoảnh khắc thức tỉnh, giác ngộ hay lóe sáng tâm linh. Có nhiều khía cạnh và nhiều thể loại thức tỉnh khác nhau tùy theo mức độ nhận thức. Nhận thức từ những vật thể tới cảm xúc và tinh thần. Có những vật quý giá bao năm bị bỏ quên lãng, đột nhiên một ngày chúng ta nhận ra giá trị và sự tuyệt đẹp của nó. Có khi bao năm chúng ta bị nghiện ngập sống trong trụy lạc, bài bạc, rượu chè và khói thuốc, vào một ngày tự nhiên chúng ta phát hiện sự nguy hại và rồi chúng ta dứt bỏ nó. Có khi người bạn hiện diện ngay bên mà không nhận ra, cho đến lúc được thức tỉnh trong tình yêu, người ta gọi là tiếng sét ái tình. Hoặc khi trải qua những tại họa thương đau mất mát, chúng ta mới chợt tỉnh thức tiếc nuối những gì đã qua và bắt đầu lại. Có những thức tỉnh trong tâm hồn nhờ một biến cố, một lời linh ứng, một phát hiện hay một thúc đẩy từ đáy tâm hồn. Sự giác ngộ hay thức tỉnh đây mới chỉ là một khởi đầu trong cảm xúc, chúng ta phải phấn đấu và sống với tia sáng soi dọi đó bằng ý chí và cả cuộc đời. Sự giác ngộ mới có ý nghĩa và mang lại hoa qủa đích thực.

Không khi nào trễ, nếu chúng ta biết bắt lại từ đầu. Chúng ta biết rằng vạn sự khởi đầu nan. Giây phút khởi đầu bất cứ một việc gì cũng rất quan trọng. Người ta nói: Xảy một li, đi một dặm. Trong kinh nghiệm cuộc sống, chúng ta có nhiều cơ hội may mắn xảy đến trong đời. Nếu ai biết chộp bắt cơ hội, họ có thể làm giầu, thành công và đạt thắng lợi. Về đời sống tinh thần cũng thế, đến một lúc nào đó, chúng ta cảm nhận được sự an vui khi lòng mình ở ra và con tim thắp sáng lên niềm tin yêu hy vọng. Chúng ta hãy kiên tâm học hỏi, tìm hiểu và cầu nguyện, chúng ta sẽ không bị thất vọng. Chúa Giêsu đã hứa: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho (Mt. 7,7).

4. Muối và Ánh Sáng

Lời Chúa Giêsu xác tín rằng anh em là muối và là ánh sáng. Muối mặn để ướp đời. Ánh sáng trên giá soi sáng cho mọi người. Mỗi người chúng ta được chịu phép rửa trong Chúa Kitô và được trao nến sáng. Chúng ta đều mang danh là Kitô hữu, có nghĩa là chúng ta thuộc về Chúa Kitô. Thuộc về Chúa Kitô thì đương nhiên chúng ta phải là muối và ánh sáng. Mỗi lời nói, cử chỉ và việc hành xử của chúng ta đều mang danh là Kitô hữu. Mọi việc chúng ta thực hiện tốt hay xấu cũng đều mang danh là người công giáo. Người công giáo phải là muối, là men và là ánh sáng. Muối thì phải có chất mặn. Chất mặn sẽ ướp đời khỏi ôi rữa hay hôi thối. Người Kitô hữu có sứ mệnh nên gương cho mọi người trong môi trường sinh sống của mình. Chúa Giêsu đã phán: “Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi (Mt. 5, 13).

Cây tốt thì sẽ sinh trái tốt. Con người tốt sẽ phát huy những việc tốt.Trong thực tế lại không luôn là thế, người tốt vẫn có thể sai lầm, sa ngã và phạm tội. Thánh Phaolô khuyên dạy: Bởi vậy, ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã (1Tm.10,12). Cây cối sinh chồi nẩy lộc và hoa trái theo mùa tự nhiên, nhưng con người có ý chí tự do và chọn lựa cách sống. Sinh hoa trái tốt lành đạo đức là một ân huệ và sự cố gắng. Muốn được giác ngộ trong ơn gọi của mình, chúng ta cần sự kiên nhẫn cầu nguyện và ý thức về việc làm của mình. Chúa Giêsu tin tưởng truyền dạy rằng:”Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được (Mt. 5,14). Chúng ta phải là ánh sáng soi cho mình trước khi dọi sáng cho người khác. Thường thì chúng ta thích soi mói và nghe truyện người, hơn là nhớ truyện mình. Đèn của mình đã tắt mà lại muốn soi lối chỉ đường cho người khác. Mỗi người chúng ta cần tự giác và tỉnh thức luôn, đừng để mình bị rơi vào sự mù lòa trong tăm tối. Chúng ta nhớ lời Chúa Giêsu: “Mù mà lại dắt mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố? (Lc. 6,39).

5. Nhân chứng

Chúa Kitô chính là nguồn và là ánh sáng đến trong trần gian. Ánh sáng của Chúa được tiếp nối qua đời sống của người tín hữu. Chúng ta không thể chối từ trách nhiệm là đèn sáng soi vào bóng tối. Cuộc sống con người đang dần bị tục hóa qua các trào lưu hưởng thụ và chạy đua với các nhu cầu đòi hỏi. Thế giới đang cần các ngọn hải đăng chiếu sáng. Mỗi Kitô hữu hãy khơi dậy ngọn đèn cháy sáng để đẩy lùi bóng tối. Chúng ta hãy thắp đèn và đặt trên giá để soi cho mọi người chung quanh. Nhân loại đang cần vị mặn của muối để thanh tẩy, cần ngọn lửa để sưởi ấm và cần những gương sáng để soi đường.

Mỗi người đều được mời ra đi làm nhân chứng tùy theo ơn gọi của mình. Có người sống trong bậc gia đình, người sống độc thân và người sống đời dâng hiến trong chức vụ linh mục, tu sĩ … ai ai cũng có thể trở thành ánh sáng soi lối cho tha nhân. Giáo sư, thầy cô giáo, sinh viên, học sinh hãy nên muối, nên men giữa môi trường lớp học. Các kỹ sư, công nhân, chuyên viên, thợ máy hãy nên ánh sáng tại các công xưởng. Các thương gia, người buôn kẻ bán, các chủ tiệm, người làm công đều được mời gọi nên gương mẫu của sự công bằng và bác ái. Các bác sĩ, y sĩ, y tá, nhân viên nên gương tận tâm phục vụ như đèn sáng nơi nhà thương bệnh xá. Các chính khách, quân nhân, cảnh sát, công chức và các nhân viên phục vụ công quyền phải nên gương sáng trong khi thi hành chức vụ. Các nhà truyền thông, báo chí, văn nhân thi sĩ, kịch sĩ, ca sĩ, nghệ sĩ… cần dùng khả năng chuyên nghiệp của mình truyền rao chân, thiện, mỹ cho cuộc sống. Các tu sĩ, thiện nguyện viên, linh mục, phụ huynh hãy nên muối men phục vụ tại gia đình, cộng đoàn và giáo xứ. Chúng ta đừng dấu đèn sáng sau lưng, đừng bưng bít hoặc tắt đèn để được tự do hòa chung vào những cách sống không xứng danh là Kitô hữu. Là Kitô hữu, đừng sợ, chúng ta hãy tiên phong sống gương mẫu và là chứng nhân cho sự sáng và sự sống giữa dòng đời. Chúa Giêsu đã khuyến khích:”Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em”(Lc. 12,32).

Tóm lại, ước chi ánh sáng của ngọn nến mà chúng ta đã lãnh nhận trong ngày lãnh Bí Tích Rửa Tội được cháy sáng mãi. Ngọn nến của niềm tin và niềm hy vọng vào Chúa Kitô phục sinh. Mỗi người tự vấn lương tâm, chúng ta đã góp được gì để xây dựng đời sống của Giáo Hội. Chúng ta đã làm được những lợi ích gì qua những ân huệ, khả năng và thời gian Chúa ban cho chúng ta trong cuộc sống? Chúng ta đừng cất giữ muối và ánh sáng cho riêng mình, hãy để muối ướp mặn đời và ánh sáng dọi chiếu muôn nơi. Xin Chúa là nguồn ánh sáng vĩnh cửu sưởi ấm và đốt lửa mến yêu trong tâm hồn chúng con, để chúng con tiếp tục truyền rao lời chân lý của Chúa.

 

22.Sự sáng – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Ngày kia trong lớp giáo lý, cô giáo lý viên nói với các em học sinh về đề tài ‘Chúa Giêsu’. Hôm nay, cô muốn nói với các em về một người mà các em sẽ gặp. Người đó yêu thương và chăm sóc các em hơn cả chính gia đình, cha mẹ, anh chị em và bạn bè của các em. Người đó hảo tâm hơn bất cứ người hảo tâm nào mà các em biết. Người đó tha thứ tội lỗi cho các em bất kể các em đã làm sai lỗi, nếu biết sám hối. Cô giáo để ý có một em nhỏ trai rất chú ý lắng nghe khi cô giảng. Đột nhiên, em không thể giữ im lặng được nữa. Em giơ tay phát biểu: Em biết người mà cô đang nói tới. Người đó sống ngay bên góc đường. Kitô hữu là người tỏ bày cho người khác những điều mà Chúa Giêsu yêu thích.

Từ thời rất xa xưa, trong cuộc sống xã hội đã luôn xuất hiện kẻ nghèo, người giầu. Thiên Chúa an bài trao ban cho mỗi cá nhân những khả năng chuyên môn tiềm ẩn và số mệnh riêng. Sự sống là một mầu nhiệm vô biên, mỗi người được chia sẻ một tí chút khả năng. Hiện hữu trên trần gian, không ai giống ai hoàn toàn và cũng không có sự đồng đều giữa mọi người. Có người được sinh ra trong nhung lụa ấm êm, có người vào đời có đủ ăn đủ mặc và có kẻ được sinh ra trong đói nghèo khổ sở. Giầu có hay nghèo đói mời gọi sự hỗ tương chia sẻ để đạt hạnh phúc đời này và đời sau. Người nghèo nương tựa người giầu và người giầu chia sẻ cho người nghèo. Mọi khả năng tiềm ẩn có được đều là món qùa nhưng không của Thượng Đế ban. Chẳng có điều gì chúng ta có, mà không bởi trên ban cho. Chúng ta nhận lãnh nhưng không thì cũng hãy chia sẻ nhưng không. Tiên tri Isaia mời gọi: Hãy chia sẻ của ngươi cho kẻ đói, hãy tiếp nhận vào nhà ngươi những kẻ bất hạnh không nhà ở; nếu ngươi gặp một người trần truồng, hãy cho họ mặc đồ vào và đừng khinh bỉ xác thịt của ngươi (Is 58, 7).

Giống như thời tiên tri Isaia của hơn 2,500 năm trước, thế giới hiện nay cũng thế, có biết bao nhiêu người nghèo, đói ăn và cùng khổ. Xã hội thời nào cũng có người giầu kẻ nghèo. Nghèo không phải là cái tội. Đôi khi họ nghèo tiền bạc, nhưng giầu lòng nhân ái. Chúa đã dựng nên mỗi người một cách đặc biệt không ai giống ai. Chúa dựng nên con người và chúc phúc cho loài người được sinh xôi nẩy nở đầy mặt đất. Con người có gia đình, xã hội và cộng đồng để cùng nâng đỡ chia sẻ với nhau trong tất cả mọi khía cạnh của cuộc sống. Mỗi người đóng góp chút khả năng đặc biệt để cùng vun đắp và xây dựng một thế giới văn minh và tiến bộ. Hãy ngắm nhìn thế giới đa dạng chung quanh có muôn mầu, muôn sắc tuyệt vời.

Mỗi loài thụ tạo hay mỗi con người đều là một kỳ công của tạo hóa. Tạo hóa đã đặt để trong mỗi sinh vật một sứ mệnh riêng biệt. Các loài thụ tạo liên đới hài hòa để tiếp tục sinh tồn. Con người là thụ tạo cao quý được Thiên Chúa yêu thương ban cho nhiều khả năng. Tuy con người hiện hữu trong trần gian giới hạn, nhưng có ước vọng cao vời và vượt trên các loài. Con người được sinh ra trong thời gian hữu hạn, nhưng lại ngưỡng vọng cuộc sống vĩnh cửu. Bởi thế, loài người có sứ mệnh cao cả là phải luôn học hỏi, nghiên cứu và suy tìm để nhận biết, chúc tụng, cảm tạ và tôn vinh Đấng Tạo Hóa.

Truyện kể: Vào một ngày nọ, khi thầy dòng ẩn tu đang cầu nguyện thì chợt trông thấy một người ăn xin tật nguyền, đó là người mẹ nghèo đang đi xin thức ăn cho con nhỏ bệnh hoạn. Nhìn thấy thế, vị ẩn tu thân thưa với Thiên Chúa rằng: Lạy Thiên Chúa tốt lành, làm sao Chúa lại để sự khổ đau xảy ra mà Chúa không can thiệp chi? Trong tận đáy lòng, vị ẩn sĩ nghe Chúa đáp lời: Ta đã thực hiện một số việc. Ta đã dựng nên con. Chúng ta là tác phẩm tuyệt với của Thiên Chúa. Chúa Giêsu phán: Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che dấu được (Mt 5, 14). Anh em là ánh sáng soi dọi cho trần gian. Ánh sáng của cuộc sống tỏa chiếu qua nhiều cách thế cả tinh thần lẫn thể chất. Có thể chiếu tỏa qua gương sáng đạo đức, qua lòng bác ái vị tha, qua trái tim từ bi hỉ xả và qua các nhân đức tin, cậy và mến. Ánh sáng có thể diễn tả qua lời nói dịu dàng, cử chỉ thân mật, khuôn mặt tươi vui, hy sinh phục vụ và sự ân cần giúp đỡ.

Chúa Giêsu ước muốn mỗi người chúng ta hãy góp phần làm vinh danh Chúa Cha: Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời (Mt 5, 16). Kitô hữu là muối ướp mặn đời và ánh sáng dọi chiếu muôn nơi để mọi người, mọi nơi được ánh lên vinh quang Thiên Chúa. Thực hành các nhân đức sống động trong môi trường chung quanh bằng việc tốt lành. Gieo nhân tốt thì sẽ phát sinh hoa trái tốt. Một suy nghĩ tốt, một lời nói tốt, một cử chỉ tốt và một hành động tốt sẽ sinh muôn vàn hương hoa tốt lành. Người tốt và việc tốt sẽ chiếu dãi tấm guơng tốt. Hữu xạ tự nhiên hương. Thiên Chúa tạo dựng mong muốn mọi loài chia phần vinh phúc và chiếu tỏa vinh quang Chúa khắp nơi hoàn cầu.

Sau khi trở thành tông đồ của Chúa Kitô, Phaolô đã dành cả cuộc đời còn lại để rao truyền danh thánh Chúa, bất chấp mọi khó khăn cản trở. Phaolô lên tiếng: Phần tôi, khi tôi đến với anh em, tôi không đến với uy thế của tài hùng biện hoặc của sự khôn ngoan, tôi đến công bố bằng chứng của Thiên Chúa (1Cor 2,1). Không dựa vào sự khôn ngoan hiểu biết của thế trần, Phaolô được chính Chúa Giêsu soi sáng thúc đẩy từ nội tâm. Ngài đã cố gắng rao giảng chân lý với lòng nhiệt thành nóng bỏng. Ngài thuyết phục mọi người hãy đặt niềm tin vào Chúa Kitô phục sinh, nguồn ơn cứu độ. Chân lý cứu độ hoàn toàn không do sự nhận biết suy nghĩ khôn ngoan của người phàm mà do chính Chúa Giêsu mạc khải: Có vậy, đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan của người phàm, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa (1Cor 2, 5). Chúa Kitô là nguồn sáng thật đã chiếu sáng vào tâm trí chúng ta sự sáng thật. Sự sáng tinh tuyền của ơn cứu độ giải thoát.

Ánh sáng có thể len lỏi vào mọi nơi, mọi chỗ để đẩy lùi bóng đêm. Đêm tối là do thiếu ánh sáng. Khi mặt trời khuất bóng, màn đêm buông xuống. Con người khuất phục bóng đêm bằng các nguồn sáng hạt nhân, điện lực, động cơ và các nhu liệu. Ánh sáng mặt trời giúp mọi loài phát triển không ngừng trong thiên nhiên. Con người đã biết lợi dụng nguồn năng lượng để đưa vào cuộc sống. Ánh sáng văn minh mở rộng biên cương và kéo dài thời khắc làm việc và vui sống. Nhưng xã hội rất cần những ánh sáng thật chiếu dãi vào trong tâm hồn con người. Con người cần sự ấm áp của tình yêu thương, sự cảm thông, lòng thương xót và liên kết tình người. Một trái tim cô đơn có thể được sưởi ấm giữa mùa sương tuyết lạnh. Ánh sáng của những việc từ thiện và quan tâm cần thiết soi dọi vào giữa cuộc sống đầy vô cảm này.

Thánh Phaolô đã tâm sự: Vì thế, khi đến với anh em, tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy (1Cor 2, 3). Biết mình yếu kém vì đã từng đi bách hại các Kitô hữu thuở ban đầu, khi luồng sáng đánh ngã ngựa, Saul bị mù lòa bước đi trong đêm tối của sự sợ hãi cho tới khi nhận được ánh sáng của Chúa Kitô. Phaolô can đảm nói lên sự thật về Chúa Kitô phục sinh. Ông đã bước đi trong sự sáng và chiếu dãi ánh sáng đó cho nhiều người và nhiều cộng đoàn tiên khởi. Khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội, mỗi người chúng ta cũng đón nhận ánh nến đức tin được đốt từ cây Nến Phục Sinh, chúng ta trở nên ánh sáng Chúa Kitô. Chúng ta hãy sống như con cái sự sáng luôn sẵn sàng đèn nến thắp sáng để ra đón Chúa Kitô.

Lạy Chúa, Chúa là ánh sáng và là sự sống. Xin ánh sáng của Chúa dẫn dắt chúng con ra khỏi bóng tối của sự dữ và sự dối trá. Xưa Chúa đã đem lửa xuống thế gian và mong cho lửa ấy cháy lên sưởi ấm mọi tâm hồn. Xin cho chúng con biết khơi dậy ngọn lửa yêu mến để nhiệt tâm sống chứng nhân cho tình yêu.

 

23.Muối và ánh sáng

(Tổng hợp từ R.Veritas)

Sau một thời gian dài học hỏi và tu luyện, người học trò mới cất tiếng hỏi thầy mình:

– Thưa thầy, đâu là sự khác biệt giữa kiến thức và giác ngộ?

Thầy mỉm cười và ôn tồn giải thích:

– Khi có kiến thức, giống như con có “ánh sáng” soi đường con đi. Nhưng khi con giác ngộ, chính con sẽ trở thành “ánh sáng” soi đường cho người khác.

Bạn thân mến!

Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cũng mời gọi ta trở nên “Ánh Sáng và Muối Đất”. Đó cũng là lệnh truyền cấp bách mà Chúa Giêsu gởi đến mỗi người chúng ta hôm nay.

“Chính anh em là muối cho đời”. (Mt. 5,13) Muối là một sản phẩm không thể thiếu trong đời sống con người. Muối vừa làm phân bón cho đất đai màu mỡ; vừa làm gia vị cho các món ăn thêm thơm ngon đậm đà; vừa bảo quản thực phẩm cho khỏi hư thối. Khi muối muốn ướp cho “mặn đời”, muối phải biết chấp nhận hòa tan, phải biết “mất đi” cho chính mình để hoá thân trong chất mặn, để hiến dâng cho đời hương vị thơm ngon, mặn nồng của quảng đại, của yêu thương và tha thứ …

“Chính anh em là ánh sáng cho trần gian”(Mt.5:13). Đây là lời mời gọi tuyệt vời dành cho người Kitô, bởi lẽ chỉ Thiên Chúa mới là Ánh Sáng (1Ga.1:5). Chỉ Đức Giêsu mới dám nhận mình là Ánh Sáng (Ga.8:12). Vậy ta muốn trở thành ánh sáng như Đức Giêsu, ta phải ở gần Ngài: gần đèn thì ta được toả sáng.

Ánh sáng không thiên vị một ai, không thích người này và cũng không chê người kia. Ánh sáng của mặt trời lan tỏa khắp nơi, chiếu sáng mọi người và mọi nhà. Ánh sáng của người Kitô cũng vậy,“ánh sáng của anh em phải ở trên cao, vượt trên mọi danh vọng, tiền tài, lạc thú. Không phải để khoe khoang, tự kiêu, nhưng là để tôn vinh Cha, Đấng ngự trên trời” (Mt.5:16).

Ánh sáng của cây nến tuy nhỏ bé nhưng cũng đủ toả sáng cả một căn phòng, làm cho bóng tối phải lùi bước. Một khi ánh sáng của ngọn nến bừng lên, đó cũng là lúc ngọn nến bị đốt cháy, bị tan biến đi. Người Kitô cũng vậy, phải mất đi cho chính mình, phải tan biến đi để “Ánh Sáng Chúa Kitô“ được loan toả khắp nơi, khắp mọi nhà, khắp mọi tâm hồn.

Khi bị đốt cháy, ngọn nến nhận sức nóng từ ngọn lửa và cho đi ánh sáng. Người Kitô trong thế giới hôm nay cũng phải giống như vậy. Nhưng trong suy tư thinh lặng, tôi tự hỏi lòng mình: “Tôi đang nhận điều gì trong cuộc sống hôm nay? Và tôi sẽ cho đi những gì cho người anh em xung quanh tôi?”

***

Vì tôi là muối nhạt nên thế giới này vô vị.

Vì tôi là đèn hết dầu, nên thế giới còn nhiều bóng tối.

Thế giới này sẽ mang bộ mặt mới nếu tôi thực thi lời mời gọi của Chúa Giêsu trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay: “Anh em là muối cho đời …Anh em là ánh sáng cho trần gian ”.

Lạy Chúa Giêsu!

Xin giúp con lắng nghe tiếng Chúa

và nỗ lực thực thi Lời Ngài trong cuộc sống của con hôm nay. Amen!

 

24.Ánh sáng và muối men cho đời

(Suy niệm của Lm JB. Lê Ngọc Dũng)

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta, các môn đệ của ngài: Các con là ánh sáng cho trần gian, là muối men cho đời.

Chúa Giêsu trao cho chúng ta một sứ vụ cao cả: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giải trước mặt thiên hạ để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên Trời” (Mt 5,16).

Sứ vụ đó thật cao cả vì nâng phẩm giá con người chúng ta lên mức con cái Thiên Chúa, vì Chúa Giêsu nói Thiên Chúa là “Cha của anh em”.

Chúng ta hãy thử suy nghĩ, làm sao có thể thực hiện được lời mời gọi đón nhận sứ vụ cao cả này, vì chúng ta thấy mình còn yếu đuối, tội lỗi; thấy mình đâu có hơn gì người khác! Nhưng đồng thời, chúng ta cũng phải nhận ra mình là con cái của Cha trên trời.

Các nhà tu đức khuyên rằng “Thà thắp lên một ngọn nến nhỏ còn hơn là ngồi nguyền rủa bóng tối”.

Vậy thì, giữa bóng tối của thế gian, chúng ta hãy thôi lên án tố cáo; thôi tố cáo rằng họ lừa dối, gian tham, giết người cướp của; thôi tố cáo những vụ hối lộ, lường gạt với những con số hàng trăm, hàng ngàn tỷ đồng; thôi tố cáo người làm những miếng thịt ôi thối thành miếng thịt tươi bằng tẩm ướp hóa chất; thôi tố cáo hàng giả, hàng độc hại…

Thà thắp lên một ngọn nến nhỏ, chứ đừng ngồi đó mà tố cáo thế gian! Hãy như những hạt muối nhỏ, giúp thực phẩm khỏi ôi thối, hay thành một tý muối nhỏ để cho thức ăn được có hương vị ngọt ngào, để thực hiện Lời Chúa Giêsu dạy: Các con là muối men cho đời.

Trên tuần báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật (số tháng 9/1997), tác giả Đăng Quang có ghi lại một cảnh đời như sau:

Ghé vào một tiệm bên đường Trần Huy Liệu để sửa chữa chiếc đồng hồ đeo tay, trong khi đứng chờ, tôi thấy có một người đàn ông trạc 50 tuổi, mình trần, bước vào hỏi mượn người thợ sửa đồng hồ chiếc kềm. Trên tay ông cầm một thanh sắt nhỏ bằng hai ngón tay, cổ đeo một dây to, để thòng xuống ngực một Thánh Giá. Khi thấy ông ta cầm chiếc kềm cố bẻ thanh sắt ra ba hướng, tôi tò mò hỏi người thợ sửa đồng hồ: …để làm gì vậy? Người thợ sửa đồng hồ lắc đầu nói: “Để vứt xuống đường cho xe đạp cán, ông ta vá ép mà”. Nhìn thanh sắt trên tay ông, tôi bổng thấy hơi sờ sợ. Bẻ xong thanh sắt, ông bước ra sát lề đường, đi tới một đoạn rồi vứt thanh sắt xuống lòng đường, và điềm nhiên quay trở lại nơi có chiếc thùng sắt, có chiếc bơm hơi, ngồi trên chiếc ghế gỗ ung dung chờ đợi.

Tôi định đến nói với ông ta một điều gì đó, nhưng chưa kịp thì đã nghe tiếng bánh xe xì. Nhìn ra tôi thấy một chiếc xe xích lô đang chở một bà mẹ và hai đứa con nhỏ. Người đạp xích lô xuống xe nhìn vào chiếc bánh xe xẹp lép, những giọt mồ hôi từ mặt nhỏ xuống, anh ta đưa tay gạt lia lịa, lưng áo ướt đẵm, anh tìm quanh bánh xe và phát hiện ra thanh sắt găm vào vỏ xe, anh cố rút thanh sắt ra, anh chưởi lầm bầm trong miệng và rồi vứt thanh sắt ra bên lề đường. Người đàn ông ở trần, ngực đeo Thánh giá vẫn ngồi yên chờ đợi, ông chắc thế nào người đạp xích lô cũng đưa xe vào vá. Nhưng không, anh xích lô vô tình đẩy chiếc xe nặng nhọc đó đi. Khi chiếc xích lô đi khỏi, người đàn ông ở trần đánh tiếng chưởi thề, đưa mắt nhìn thanh sắt chĩa nhọn, có lẽ ông ta muốn nhặt lại và làm lại từ đầu. Nhưng ngay lúc đó tôi thấy một bà cụ chậm rãi đi qua đường, thấy thanh sắt, bà cúi xuống nhặt lấy bỏ vào chiếc túi ni lông bà đang xách trên tay.

Cảnh đời trên không chỉ có người đàn ông vá ép uốn thanh sắt chĩa ba của mình và đặt trên lòng được, gây hại cho người ta để mình được lợi lộc, gây ra cái ác cho cuộc sống. Cảnh đời còn có một bà cụ già với chiếc túi ni lông để nhặt thanh sắt chĩa ba hầu cất đi những cái ác nho nhỏ trong cuộc đời. Chỉ cần một cử chỉ nhỏ ấy của bà cụ cũng đủ để làm cho cảnh đời thấy như đen tối, được sáng đẹp hẳn lên.

Niềm hy vọng của người Kitô giáo không cho phép chúng ta thua cuộc trong việc đem lại ánh sáng cho thế gian, làm muối men cho đời. Dù chỉ là những việc nho nhỏ, như nhường nhịn người hàng xóm một câu khích bác; như người chồng thay vì chê nấu canh mặn thì khen vợ nấu món cá ngon; như người vợ âm thầm hy sinh phục vụ chồng con… Cuộc sống gia đình sẽ trở nên tươi sáng với những cử chỉ nho nhỏ yêu thương. Cuộc đời sẽ đen tối dường nào nếu không có những việc thiện nhỏ, bác ái, âm thầm từng ngày ấy.

Lệnh truyền phải trở nên ánh sáng và muối men cho đời của Chúa Giêsu làm cho chúng ta tin tưởng vào giá trị của từng công việc tốt nho nhỏ, chứ chưa cần đến những việc lớn lao. Những việc tốt nho nhỏ đó sẽ tháp nhập vào hy sinh thập giá của Đức Kitô.

Bóng tối của thế gian tưởng như đã thắng, nhưng Ngài đã thắng bóng tối thế gian, bằng hy sinh thập giá của Ngài. Ngày nay, đôi khi ta tưởng như cái ác của thế gian đang thắng thế, nhưng Thập giá hy sinh của Chúa Giêsu vẫn tiếp tục hằng ngày để chiến thắng.

Ngài mời gọi chúng ta đóng góp vào cuộc chiến của thập giá đó, bằng những hy sinh phục vụ nho nhỏ, bằng những việc tốt nho nhỏ, như những ngọn đèn nho nhỏ, những hạt muối nho nhỏ, của từng ngày trong cuộc sống. Qua những ngọn đèn, những hạt muối nho nhỏ đó, như Chúa Giêsu dạy: “Thế gian sẽ tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên Trời” (Mt 5,16).

 

25.Vì đời và cho đời – Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng

Muối

Muối rất cần để bảo vệ thực phẩm. Và hình ảnh ấy cũng nói đến những con người đóng vai trò giáo dục, có bổn phận và trách nhiệm “bảo vệ và gìn giữ” những vẻ đẹp cao quý, thiêng liêng, những giá trị đạo đức nhân phẩm để con người sống “nên người”, sống “cho ra người” hơn. Ca dao Việt Nam có câu: “Cá không ăn muối cá ươn. Con cãi cha mẹ trăm đường con hư”.

Muối là gia vị làm cho thức ăn được ngon miệng, mặn mà. Từ đó nó gợi cho con người hình ảnh tình nghĩa đậm đà mà con người cần phải có để cuộc đời thêm đẹp, thêm ấm áp. Nếu không tình đời sẽ “lạt như nước ốc, bạc nhơ vôi”.

Ánh Sáng

Ánh sáng chiếu soi vạn vật, nhờ ánh sáng con người chiêm ngưỡng được vẻ đẹp cảnh vật quanh ta.

Nhờ ánh sáng, con người định hướng được hướng đi của đời mình. Nhờ ánh sáng con người vượt qua được nguy hiểm, tiếp tục cuộc hành trình an toàn, và đến bến bờ hạnh phúc. Như ánh sáng Hải Đăng cần thiết cho những cuộc hành trình ở Đại Dương bao la.

Ánh sáng thiên nhiên gợi cho ta hiểu ánh sáng tâm hồn. Đôi mắt mùa lòa làm cho con người đau khổ vì sống trong tăm tối, nhưng đôi mắt tâm hồn “mùa lòa” sẽ dẫn con người đến sự sụp đổ hoàn toàn. Mùa Xuân thiên nhiên có thể không đến với những con người mà đôi mắt đã bị cướp đi ánh sáng, nhưng nếu tâm hồn họ đã vươn lên được niềm hạnh phúc cao cả, nếu đôi mắt tâm hồn của họ đã nhìn xuyên thấu những giá trị cao quý của đời người, dù sống trong tăm tối, tâm hồn họ vẫn rực sáng với muôn điều hạnh phúc kỳ diệu sẽ đến trong thế giới nhiệm mầu của riêng họ.

Điểm chung của muối và ánh sáng

Muối và ánh sáng đều đem lại sự an bình. Không hư hao, và tránh những điều xấu có thể đến.

Muối và ánh sáng đem lại cho đời những điều tốt đẹp hơn. Mặn mà và tươi sáng.

Muối và ánh sáng đều chịu hao mòn. Tan biến và dần dần tự hủy đi tạo ra muôn thứ tốt đẹp và hữu ích. Những hạt muối hòa tan và mất đi để có những bữa ăn ngon. Những cây nến hao mòn và mất đi để cho đời ánh sáng. Mặt trời một ngày nào đó cũng tắt khi nguồn năng lượng cạn kiệt.

Muối và ánh sáng đều thầm lặng hy sinh. Khi dùng những món ăn ngon, người ta khen thịt, cá, rau, quả…không ai khen muối. Khi ngắm cảnh đẹp, người ta khen núi, sông, hoa, lá, mây trời… không ai khen ánh sáng.

Vì đời và cho đời

Muối thì phải mặn. Nếu muối mà không mặn thì có còn là muối không?

Ánh sáng thì phải chiếu sáng. Nếu ánh sáng mà không chiếu sáng, thì có còn là ánh sáng không?

Môn đệ thì phải theo gương thầy. Môn đệ mà không giống thầy, thì có còn là môn đệ thầy không?

Chúa Giêsu, Thiên-Chúa-làm-người. Ngài dành cả cuộc đời ở trần thế nầy để “vì đời và cho đời”.

Vì đời và cho đời như “muối và ánh sáng”.

Hãy nhìn vào cuộc đời của Đức Ki-tô, Đấng Cứu Thế, từ Bê-lem đến đỉnh Can-vê! Còn ai “vì đời và cho đời” hơn như thế không?

Nên môn đệ Chúa Giêsu phải là “muối” và “ánh sáng” theo gương của Thầy Chí Thánh của mình là Chúa Giêsu.

Chính anh em là muối cho đời (Mt.5,13).

Chính anh em là ánh sáng cho trần gian (Mt.5,14).

“Muối và ánh sáng vì đời và cho đời”.

Và tất cả múc nguồn từ Chúa Giêsu Ki-tô.

Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. (Ga.1,14).

Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi. (Tv 119,105).

“Muối và ánh sáng vì đời và cho đời”, để đời có Niềm Tin, Hy Vọng và Vui Sống. Để đời biết sống đúng ý nghĩa kiếp người và tìm về bến bờ hạnh phúc vĩnh cửu trong Tình Yêu Thiên Chúa.

“Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga.14,6).

Lạy Chúa,

Xin dạy cho con,

và soi sáng cho con,

biết suy nghĩ và hành động,

theo thánh ý Chúa. Amen.

 

26.Muối cho đời – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Trong những dịp cuối năm, các bản tổng kết tình hình đều đánh giá cao những đóng góp của Giáo hội đặc biệt trong lãnh vực giữ gìn đạo đức xã hội. Nơi nào có đồng bào Công giáo sinh sống, tệ nạn xã hội không có hoặc có rất ít. Nghe những nhận định trên, tôi rất vui vì thấy anh chị em tín hữu đang sống đúng tinh thần trở thành muối cho đời như lời Chúa dạy trong bài Tin Mừng hôm nay.

Khi nói đến muối Chúa Giêsu có ý dạy các môn đệ về cách thế hiện diện trong xã hội.

Đó là một hiẹn diện khiêm nhường

Hạt muối thật bé nhỏ. Chẳng ai chú ý tới sự hiện diện của nó. Bên cạnh thịt, cá, rau cỏ, muối chỉ đóng vai phụ. Người ta trưng bày những món ăn đắt tiền. Người ta giới thiệu những món ăn cầu kỳ. Không thấy ai trưng bày muối. Chẳng có ai giới thiệu muối trong bữa tiệc lớn. Xét về giá trị kinh tế, muối chẳng đáng giá bao nhiêu. Đó là một hiện diện quên mình.

Muối có đó nhưng không ai thấy muối. Không chỉ vì muối bé nhỏ khiêm nhường mà vì muối phải tan biến đi. Phải tan biến đi muối mới có tác dụng. Muối ướp vào thịt cá mà không tan đi thì không thấm được vào thớ thịt, thớ cá, không giữ cho thịt tươi cá tốt được. Muối gia giảm vào cá kho, thịt rim, nước canh mà không tan đi thì khi ăn phải, người ta sẽ nhăn mặt bỏ đi. Chỉ khi tan biến đi, hoà tan vào thịt, cá, rau cỏ, muối mới có ích lợi. Muối phải hiện diện nhưng lại phải tiêu huỷ đi thì mới có ích.

Đó là một hiện diện tích cực.

Tuy bé nhỏ khiêm nhường và vắng mặt, nhưng hiện diện của muối là một hiện diện tích cực. Tích cực vì góp phần bảo trì thực phẩm khỏi hư thối, vì nâng phẩm chất món ăn. Tích cực vì là một thành phần hầu như không thể thiếu trong các món ăn. Tuy không thấy và không nói ra, nhưng ai cũng ngầm hiểu trong mỗi món ăn đều có muối.

Khi dùng muối làm hình ảnh minh hoạ, chắc chắn Chúa Giêsu cũng muốn cho các môn đệ của Người có những đặc tính của muối.

Người muốn các môn đệ của Người sống giữa nhân loại như muối ở trong thức ăn. Người muốn các môn đệ của Người hiện diện thật kiêm nhường như những hạt muối bé nhỏ. Người muốn các môn đệ của Người hiến thân mình cho nhân loại như những hạt muối hòa tan trong thực phẩm.

Nhưng để sự hiện diện bé nhỏ khiêm nhường mang yếu tố tích cực, các môn đệ phải giữ được vị mặn của muối.

Vị mặn, đó là lòng yêu mến Chúa mặn nồng, là tình yêu tha nhân mặn mà, là sống tinh thần Tám Mối Phúc như Chúa dạy trong bài Tin Mừng tuần trước.

Giữ được vị mặn của Phúc Âm và hiện diện âm thầm trong phục vụ quên mình, người môn đệ Chúa sẽ thực sự góp phần bảo vệ nền đạo đức của xã hội. Dù không muốn, họ vẫn trở thành ánh sáng soi trần gian.

Lạy Chúa, Chúa tin tưởng con, nên đã gọi con là muối trần gian. Xin cho lòng con yêu mến Chúa tha thiết, để đem cho đời hương vị tình yêu. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Bạn nghĩ gì về hình ảnh hạt muối?

2- Làm muối, dễ hay khó?

3- Bạn đã bao giờ cảm thấy niềm vui được chìm đi để anh em được nổi nang chưa?

 

27.Có can đảm sống trung thực theo con người mình

(Trích từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)

Chân lý, nhất là chân lý do đức tin mang tới, là muối và ánh sáng. Chân lý, tự nó, không thể nên lạt lẽo và tối mờ. Nhưng thực tế thì chân lý trở nên “khả giác” khi đi vào trí khôn và cõi lòng con người. Chính những con người mang chân lý và đức tin, là muối và ánh sáng gian trần. Bởi vì nhà ở của chân lý và đức tin là con người với tất cả sự phức tạp của nó, bản năng, sở thích của nó, cho nên sự biến chất lạt lẽo và tình cảnh bị bóp nghẹt vẫn là những mối đe doạ thường xuyên. Chúa nói với môn đệ rằng họ là muối và ánh sáng mà không để cho bị lạt lẽo và che mờ đi.

Muối được dùng nhiều trong các nghi thức tôn giáo, hẳn là vì nó chữa lành, không bị hư thối, vì nó cho hương vị. Sách Lêvi (2,13) nói đến muối của Giao Ước để chỉ rằng Giao Ước phải bền vững, không thể hư hỏng. Tiên tri Êlisê “tẩy sạch” một giòng suối bằng cách bỏ vào muối vào. (2V 2,21). Ánh sáng là để soi chiếu. Để rọi chiếu, ánh sáng chỉ cần là ánh sáng. Bài Phúc Âm nói tới cái thùng, có lẽ gợi lại tục lệ của mấy người nghèo thường đặt đèn trên một cái thúng lật ngược. Nếu lấy thùng chụp đèn lại, người ta giam hãm ánh sáng và làm nó phải tắt.

– Để suy niệm, chúng ta sẽ hiểu muối và ánh sáng như những biểu tượng của người Kitô hữu.

1) Người Kitô hữu phải là muối thế gian. Ngày nay hơn bao giờ Giáo Hội phải thâm nhập vào nền văn minh với những giá trị của đức tin, hầu cho thế gian khỏi tan rã và thoái hoá trong bạo lực. Người ta nói nhiều đến thuyết duy vật, thuyết duy sắc dục… Lắm người quảng đại chiến đấu cho một thế giới công bình hơn, nhưng không biết bên kia cái cùng đích họ theo đuổi còn có gì… Nếu bị bỏ mặc cho mình, thì thế giới sẽ nên hủ bại. Người Kitô hữu phải làm chứng về phẩm giá, và số mệnh con người, để góp phần cứu vớt thế gian. Trong tất cả đời sống xã hội, gia đình, nghề nghiệp, chính trị kinh tế, họ phải nghĩ tưởng và hành động theo như lòng tin nơi Đức Giêsu Kitô soi sáng thúc đẩy họ. Nếu không có can đảm làm như thế, nếu trở nên lạt lẽo, thì nó sẽ không chu toàn sứ mệnh và thế gian có thể lôi kéo họ vào sự ghê tởm. Bị ném ra ngoài cho người ta dày đạp dưới chân. Phúc Âm nói thế.

2) Người Kitô hữu phải là ánh sáng gian trần. Vấn đề không phải là phô trương mình ra. Những cũng là ánh sáng soi chiêu vì nó là nó, thì người Kitô hữu cũng phải toả ánh sáng Tin Mừng bằng cách là người Kitô hữu đích thực, thế thôi. Một điểm đáng cho ta lưu ý. Khi hoạt động với tư cách Kitô hữu, có nên che dấu “sự quy chiếu” của mình về Chúa Kitô và đặc nó dưới thùng hay không? Nói cách khác, ánh sáng mà người tin Chúa mang trong mình không phải loan báo Đức Giêsu Kitô hay sao? Trả lời thực tế cho câu hỏi này không đơn giản đâu. Dù sao, theo Phúc Âm dạy thì hành động được thực hiện trong ánh sáng, phải dẫn đưa con người tới chỗ ngợi khen Cha trên trời.

 

28.Suy niệm của Lm Stêphanô Bùi Thượng Lưu

Bài Tin Mừng Chúa nhật thứ 5 mùa thường niên theo thánh sử Matthêu gồm hai ý tưởng chính yếu: môn đệ Chúa Kitô là “Muối cho đời” và “Ánh sáng cho trần gian”. Trong bài suy niệm này, chỉ xin được ngẫm suy về muối.

Ngay từ tấm bé, ai trong chúng ta cũng thuộc nằm lòng câu tục ngữ Việt Nam:

“Cá không ăn muối cá ươn.

Con cưỡng cha mẹ trăm đường con hư”.

Ông bà tổ tiên mình đã dùng kiểu nói ví von dễ hiểu để dậy con cháu những bài học đạo đức luân lý cụ thể. Qua câu tục ngữ đó, ai trong chúng ta cũng hiểu rằng chất mặn của muối ướp cá cho khỏi ươn khỏi thối. Muối ở đây là lòng kính thảo cha mẹ, biết vâng lời, biết nghe và sống theo những lời dậy bảo của các bậc sinh thành. Những lời dạy bảo của cha của mẹ là khuôn vàng thước ngọc, giúp cho con cái trưởng thành khôn lớn, để trở thành người có ích cho gia đình xã hội mai sau. Đứa con nào bỏ ngoài tai lời cha mẹ khuyên răn, chắc sẽ khó tránh khỏi tính hư tật xấu.

Muối còn là gia vị cần thiết cho sự sống: muối mang lại dinh dưỡng cơ thể và bảo vệ sức khoẻ. Nấu nướng mà không có “mắm muối”, đồ ăn sẽ nhạt nhẽo, không mặn mà. Trong đời sống vợ chồng, muối là tượng trưng cho những gì thắm thiết “mặn nồng”, nhờ đó đôi vợ chồng gắn bó chung thủy với nhau đến “đầu bạc răng long”:

“Tay bưng đĩa muối chấm gừng,

Gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau.”

Chúa Giêsu cũng dùng hình ảnh cụ thể của muối để giáo huấn các môn đệ. Đa số các Ông là dân thuyền chài, sinh sống bằng kéo chài thả lưới, trước khi bỏ “mọi sự” mà theo Chúa, để trở thành “những kẻ chài người”. Hơn ai hết, các Ông hiểu ngay Chúa Giêsu muốn dậy các ông gì khi Ngài nói: “Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi.”

Qua lời của Chúa Giêsu, các môn đệ hiểu rất rõ rằng: họ được mời gọi là “muối” cho đời. Bản chất của muối là mặn. Giá trị của muối cũng là chất mặn. Bên bờ hồ Galilê hay bên hồ Giênêgiarét xưa, đã nhiều lần chính các ông đã dùng muối để ướp cá trên thuyền. Nay giữa cuộc đời bon chen, đầy sa đọa, môn đệ Chúa Giêsu phải là “muối” ướp mặn thế gian, làm cho đời khỏi ươn, khỏi thối. Theo lối giải thích của thánh sử Matthêu, các môn đệ phải là “muối cho đời” (Mt 5:13), nghĩa là phải gìn giữ và làm cho thế gian thêm mặn nồng trong giao ước với Thiên Chúa. Nếu không “nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi” (Lc 14:35).

Bản chất của muối là mặn. Bản chất của người môn đệ Chúa là được Chúa kêu gọi lên thánh, để “thánh hoá” bản thân, gia đình và xã hội. Trong Bí tích Thánh tẩy xưa kia, có nghi thức linh mục cho em bé hoặc người tân tòng nếm chút muối. Vì muối được ghi nhận trong Cựu Ước như “muối giao ước của Thiên Chúa” và Muối có công dụng thanh tẩy, cũng như ngôn sứ Êlisê đã dùng muối để tẩy rửa “nước độc” (2 V 2:19-22), vì thế, xát muối vào trẻ con (Ez 16:4), là dấu chỉ người Kitô hữu được kêu gọi nên thánh, để “thánh hóa” đời.

Trong Tân Ước, muối còn là hình ảnh của sự khôn ngoan và sự tinh ròng về luân lý. Đó là điều Đức Giêsu chờ đợi nơi người môn đệ (c.13). Nếu muốn “muối” đời khỏi ươn khỏi thối, người Kitô hữu phải nhất quyết từ bỏ “tội lỗi”, cải chừa tính mê, để mặc lấy sự công chính, tức là mặc lấy chính Chúa Kitô, Đấng là “Đường, Sự Thật và Sự Sống”. Làm sao có thể “ướp cho đời khỏi hư thối” khi chính mình không phải là “muối mặn”. Cha mẹ làm sao dạy bảo được con cái: “Cá không ăn muối cá ươn, Con cưỡng cha mẹ trăm đường con hư”, khi chính đời sống của cha của mẹ chẳng gương mẫu gì! Vợ chồng công giáo mà “chồng ăn chả, vợ ăn nem”, tối ngày chỉ lo làm giầu, cãi vã nhau như cơm bữa, thì làm sao ướp cho tình yêu lứa đôi khỏi hư thối. Trong Tin mừng theo thánh sử Marcô (Mc 9:50), Đức Giêsu cũng dạy: “Muối là cái gì tốt. Nhưng muối mà hết mặn, thì anh em sẽ lấy gì ướp cho mặn lại? Anh em hãy giữ muối trong lòng anh em và sống hòa thuận với nhau.” Ở đây muối chính là những giọt mồ hôi và lao công xây đắp cuộc sống, những hy sinh và từ bỏ mình để duy trì mối hòa thuận thương yêu (x Lc 14:34tt). Thánh Phaolô mời gọi các tín hữu “lời nói phải đi đôi với việc làm”: “Chớ gì ngôn ngữ anh em luôn dịu dàng, ướp đầy muối mặn để biết trả lời hợp với mọi người”.

Câu chuyện “Những Lọ Đựng Muối Tiêu” sau đây, trích từ “những câu chuyện tu đức hằng ngày” của chương trình phát thanh Việt ngữ đài Chân lý phải làm mỗi tín hữu Chúa Kitô phải bóp trán suy nghĩ:

Sưu tầm là một giải trí rất phổ thông hiện nay. Người ta sưu tầm tem, nhãn hiệu, lon bia, chai lọ, sách quý… và lâu lâu đem triển lãm.

Tại một nhà thờ nọ tại Chicago bên Hoa Kỳ, trong một cuộc triển lãm các vật sưu tầm, người ta thấy có cả một khu dùng để triển lãm các lọ đựng muối tiêu. Một ông khách nọ vừa bước vào, sau khi mua một cái bánh Hamburger ở của vào, đã vội vã đi một vòng quan sát. Khi tới khu triển lãm các lọ đựng muối tiêu, ông mới sực nhớ ra cái Hamburger của mình nhạt quá. Thế là ông đã cầm lấy một lọ muối và xốc nhiều lần. Nhưng xốc đến lọ thứ mười hai mà ông vẫn chưa thấy muối. Ông đành phải trở lại cửa xin người bán hàng cho ít muối và phàn nàn: “Gần hai trăm cái lọ muối thế kia mà không có lấy một hột muối”.

Đó là hình ảnh của cuộc đời Kitô chúng ta. Mang lấy danh hiệu là muối đất, nhưng lắn lúc chúng ta chỉ là những lọ trống không. Muối dùng để ướp đồ ăn cho khỏi ươn thối. Muối dùng để sát trùng, chữa những vết thương. Muối dùng để nêm cho thức ăn được thêm đậm đà…

Trong một xã hội đang thối rữa vì những tệ đoan, người Kitô cần phải là muối để thanh tẩy và đem lại cho cuộc sống thêm đậm đà hương vị. Một lời nói, một hành động của chúng ta, nếu có chút muối của Đức Tin, Đức Ái sẽ mang lại cho những người xung quanh niềm vui và sức sống.

 

29.Chiếu ánh sáng của chúng ta khi cần.

(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)

Trong một cuộc phỏng vấn Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, một phóng viên đã hỏi ngài: “Đức Thánh Cha cầu nguyện cho những ai và cho điều gì?” Đức Thánh Cha trả lời bằng việc trích dẫn đoạn văn mở đầu trong Hiến Chế về Giáo Hội trong thế giới ngày nay của Công đồng Vatican II. Đoạn văn ấy như sau: “Sự vui mừng và hy vọng, đau buồn và lo âu của con người thời đại này, đặc biệt là những người nghèo hay những người bị bách hại, cách nào đó là niềm vui và hy vọng, đau buồn và lo âu của những người theo Chúa Kitô” (Bước qua ngưỡng cửa hy vọng, số 20).

Thật ra Đức Thánh Cha đã trả lời câu hỏi không chỉ như ngài là một Giáo Hoàng mà với tư cách là một người Công giáo, một người theo Chúa Kitô, giống như mọi người chúng ta. Chắc chắn những lời cầu nguyện của Đức Thánh Cha cũng sẽ là của chúng ta nữa. Dĩ nhiên cầu nguyện phải dẫn tới hành động và hành động tương quan với tha nhân nữa.

Biến lời cầu nguyện thành hành động là giáo huấn của tiên tri Isaia trong Thánh Lễ hôm nay: “Hãy chia bánh với người đói, cung cấp chỗ cư trú cho kẻ bị áp bức và không nhà. Mặc quần áo cho kẻ mình trần khi thấy họ, đừng xoay lưng lại với những khốn khổ đang xảy ra”. Những lời cảm động này muốn nói tới những người Do Thái bị lưu đày, họ trở về sau khi thoát ách nô lệ ở Babylon. Họ tìm thấy quê hương họ đã bị xâm chiếm bởi một dân tộc khác, một dân không chia sẻ cùng một tôn giáo hay nền luân lý của họ. Họ cảm thấy mình như là một dân tộc thiểu số trong một khu vực thù địch.

Chúng ta không giống như họ nơi xã hội của chúng ta, những người Công Giáo không phải là một nhóm người thiểu số, nhưng một số người đang lớn dần lên chung quanh chúng ta có vẻ như trái tim họ bị xơ cứng trước những nhu cầu của người anh em, ví dụ như những người đói khát, những dân nhập cư, những người không nhà, những người nhận trợ cấp xã hội. Các nhu cầu giúp đỡ sẵn sàng bị loại bỏ như là việc vô giá trị và không đáng được phục vụ. Ở một số nơi, tinh thần này đã thay thế cho sự thương xót. Những người Công Giáo chúng ta không thoát khỏi ảnh hưởng của những biến chứng này. Đôi khi những hiệu quả thì rất tinh tế mà chúng ta không hề ý thức đên chúng.

Ngày nay, một số người nghèo khổ và thích cuộn mình nằm nơi góc tối, nơi đó họ không bị nhìn thấy. Nhưng Chúa Giêsu đã dạy chúng ta rằng chúng ta phải chiếu sáng sự tốt lành của chúng ta trên những người có nhu cầu để họ không bị quên lãng, tiên tri Isaia đã giúp chúng ta hiểu những gì Chúa Giêsu muốn nói bằng việc nói với chúng ta: “Nếu các người rời khỏi nơi áp bức, sự kết án gian dối và những bài giảng ác tâm, nếu các ngươi cho những kẻ đó bánh ăn, an ủi những kẻ ưu phiền, thì ánh sáng sẽ bùng lên ngay giữa nơi tối tăm của các ngươi”.

Chúng ta có thể cần tự nhủ phải trở lại với lối suy nghĩ của người Công Giáo và hành động theo Đức Kitô, những người mà niềm vui hay những đau thương, nhu cầu và những lo âu của họ trong thời đại này, đặc biệt là của những người nghèo khó hoặc những người đau khổ là những người có liên quan đến chúng ta.

Thật ra, tất cả chúng ta đều có những nhu cầu lớn lao, không có mức độ tài chánh nào có thể đáp ứng cho đủ cả. Chúng ta cần Thiên Chúa và ân sủng của Người. Thiên Chúa không hề quay mặt đi khỏi chúng ta. Người hằng nhìn xem chúng ta và đáp trả những lời cầu xin của chúng ta cách quảng đại, đặc biệt là lời cầu trong Thánh Lễ. Người gọi chúng ta ra khỏi tình trạng không nhà của thế giới trần tục để vào trong nhà của Người là Giáo Hội. Ở đây, Người tiếp đón chúng ta bằng những lời êm dịu và yêu thương trong Thánh Kinh, nuôi dưỡng chúng ta bằng Thịt và Máu Con của Người. Có phải chúng ta xứng đáng với tất cả chuyện đó chứ? Chúng ta làm gì để xứng đáng với điều đó? Chắc chắn những hồng ân quảng đại của Thiên Chúa hằng ban xuống trên chúng ta, sẽ khiến chúng ta đi theo sự hướng dẫn của Đức Thánh Cha và làm cho những nhu cầu của tha nhân thật sự trở nên của chính mình.

 

30.Ánh sáng và bóng tối

Ngày kia, các môn đệ của thầy Haxiđich bên Ấn Độ đến than phiền với thầy về ảnh hưởng xấu của ma quỷ trên thế gian. Họ hỏi thầy phải làm thế nào để có thể xua đuổi ma quỷ?

Thầy Haxiđich đề nghị trước hết hãy lấy chổi bắt đầu quét bóng tối khỏi căn phòng nhỏ dưới hầm. Các môn sinh ngạc nhiên trước lời dạy bảo đó. Nhưng họ cũng đành lòng vâng theo.

Sau nhiều giờ mệt nhoài, mồ hôi nhễ nhãi, nhưng họ vẫn không đuổi được bóng tối ra khỏi căn phòng nhỏ.

Thầy Haxiđich bảo các môn sinh lấy gậy đập bóng tối để đuổi ma quỷ ra khỏi phòng. Nhưng vẫn uổng công vô ích. Lần thứ ba, thầy bảo các môn sinh hãy xuống hầm gào thét nguyền rủa bóng tối. Họ đã khan cổ, mất tiếng mà vẫn không sáng thêm được chút nào.

Sau cùng thầy bảo các môn sinh:

– Hỡi các con, mỗi người trong các con hãy đương đầu với thách đố của bóng tối bằng cách đốt lên một cây nến.

Họ thi hành theo lời thầy. Và kìa, lập tức bóng tối đã bị đuổi đi. căn hầm tối tăm lạnh lẽo bỗng trở nên sáng rực và ấm cúng.

Anh chị em thân mến,

Văn sĩ Locke, người Anh, cũng nói: “Thà bật lên một que diêm còn hơn ngồi nguyền rủa bóng tối”. Và trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã khẳng định: “Chính anh em là muối cho đời, là ánh sáng cho người”.

Bóng tối của tà thần vây phủ khắp nơi bằng nhiều hình thức: gian dối, hận thù, chiến tranh, bất công, bóc lột, tệ nạn xã hội, sách báo tranh ảnh đồi truỵ… Người ta đã tốn biết bao công sức, đổ biết bao mồ hôi, đã quá mệt mỏi. Tất cả hầu như đã không được gì. Bóng tối vẫn là bóng tối vây phủ con người. Ngoài ánh sáng ra, có gì xua đuổi được bóng tối? Nỗ lực trong bóng tối thì bóng tối vẫn cứ tối mãi. Cần phải khơi dậy nguồn sáng. Mỗi con người là một cây đèn, cần phải được thắp sáng lên. Mỗi người cần phải tự mình thắp sáng lên cây đèn của mình. Một ngọn đèn cháy sáng, rồi hai, rồi ba, rồi hàng trăm, hàng ngàn ngọn đèn cháy sáng, thế giới tối tăm này sẽ bớt tối đi. Tất cả mọi người đều thắp sáng ngọn đèn của mình, cuộc đời này sẽ sáng rực lên nguồn sống mới, vui tươi và ấm cúng biết chừng nào?

Tuy nhiên, thưa anh chị em, có người đã tự hỏi: “Tại sao tôi lại phải là muối cho đời và ánh sáng cho người?”. Tôi chỉ muốn sống bình thường như mọi người, muốn đi lẫn vào đám đông chứ không muốn đi đầu như một người lãnh đạo. Tôi không muốn chơi nổi, không muốn chường mặt ra cho mọi người nhìn vào như ngọn đèn trên giá hay ngọn đèn đường trên cao nơi góc phố. Trở thành muối, thành ánh sáng có lẽ là nhiệm vụ của linh mục, tu sĩ hãy một số người đặc biệt nào đó chứ không phải là tôi.

Chúng ta được quyền tự hỏi như thế khi ý thức mình chỉ là con người tội lỗi, yếu đuối như mọi người. Nhưng Chúa Giêsu hôm nay không muốn chúng ta từ chối nhiệm vụ này, khi Ngài nói: “Chính anh em là muối cho đời, là ánh sáng cho người”. Người Kitô hữu là muối cho đời, là ánh sáng cho trần gian, không có nghĩa là phải có thái độ cha chú, lên mặt dạy đời, tự phụ phô trương quảng cáo như kiểu bọn Biệt phái Pharisêu giả hình. Trái lại, là muối, là ánh sáng, người Kitô hữu phải có cung cách khiêm tốn, tan biến, lắng chìm giữa lòng đời, như hạt muối thấm vào thức ăn, như ánh sáng chan hoà trong không khí, và có như thế thì món ăn mới thêm đậm đà, không gian mới xinh đẹp, tươi vui.

Lẽ tất nhiên, muối phải luôn mặn từ bên trong, và đèn phải chiếu sáng từ trên cao. Bằng không, chúng sẽ trở thành đồ vô dụng, đồ phế thải, bỏ đi… Vậy, người Kitô hữu phải luôn sống đức tin của mình, phải thực thi Tin Mừng của Chúa Kitô ngay giữa các môi trường mình đang sinh sống hằng ngày. Trái lại, nếu sống bê tha, bất công, gian ác, thì sẽ trở thành bóng tối, sẽ bôi nhọ khuôn mặt của Chúa Kitô, của Giáo Hội: Muối đã biến chất, nhạt nhẽo, vô vị. Đèn đã cạn dầu, tắt ngúm, đứt bóng, còn ích gì?

Ngôn sứ Isaia trong Bài đọc 1 hôm nay đã kê khai cách tỉ mỉ những việc cần làm để cho “ánh sáng chúng ta bừng lên trong bóng tối và bóng tối sẽ trở thành như giữa ban ngày”, đó là hãy chia cơm, sẻ áo cho người đói rách, tiếp nhận người không cửa không nhà. Đó là loại bỏ những xiềng xích bất công, cử chỉ hăm doạ, lời nói xấu (x. Bài đọc 1). Chúa đã ban cho chúng ta thời giờ, sức lực và phương tiện đủ để chúng ta ướp mặn và soi sáng, nhưng nhiều người chúng ta bỏ quên, không sử dụng những ân huệ này.

Anh chị em thân mến, hơn ai hết, Kitô hữu chúng ta phải là những cây đèn đặt trên giá đèn để xua tan bóng tối và chiếu sáng cả nhà. Căn nhà thế giới, căn nhà Giáo Hội, căn nhà của mỗi gia đình chúng ta cần thứ ánh sáng ấy biết bao!

Là môn đệ chân chính của Chúa Kitô, chúng ta không thể quên lời Ngài đã quả quyết: “Chính anh em là muối cho đời, là ánh sáng cho người”. Xác tín vào Lời Chúa, chúng ta sẽ gắng công dùng mọi khả năng tự nhiên và siêu nhiên Chúa ban để ướp mặn đời, để toả sáng cho mọi người bằng một cuộc sống thánh thiện xứng đáng với tư cách là những người con của Cha trên trời.

Nếu mỗi người chúng ta đều thấm nhập chất mặn của Tin Mừng và phản chiếu ánh sáng của Chúa Kitô, thì thế giới này làm sao còn bóng tối, cuộc đời này làm sao không rực sáng lên hy vọng và nguồn vui sống? Được Lời Chúa soi sáng, được Thánh Thể bồi dưỡng, chúng ta hãy sống gắn bó với Chúa, thấm nhập tinh thần của Ngài để rồi hoàn thành sứ mạng Chúa đã trao phó cho chúng ta hôm nay, đó là làm muối cho đời, làm ánh sáng cho người.

 

31.Suy niệm của Lm. Phaolô Trịnh Duy Ri

Khi người ta hỏi ông Gandhi, một người rất nổi tiếng đấu tranh dành độc lập cho dân tộc Ấn-độ, về việc phải làm thế nào để cho ngày càng có nhiều người biết chấp nhận và tuân giữ giáo lý khôn ngoan của Chúa, ông đã trả lời: “Các bạn hãy nghĩ về bí quyết của những bông hồng. Mọi người đều thích chúng vì ngoài vẻ đẹp và màu sắc sặc sỡ, hoa còn tỏa một mùi thơm kỳ diệu. Vậy, các bạn hãy “tỏa hương thơm”. Không chỉ tỏa hương thơm mà thôi, Lời Chúa hôm nay nhắn nhủ chúng ta hãy là muối đất và ánh sáng cho thế gian.

Là muối đất, vì muối mang lại hương vị cho thức ăn, giữ cho thực phẩm khỏi hư thối hoặc sát trùng chữa lành những gì hư hại… thì cách sống của chúng ta cũng phải có tác dụng tương tự với xã hội, nghĩa là phải nói năng, cư xử, hành động thế nào để cứu chữa thế gian này khỏi những gì xấu xa, khỏi hư thối vì tội lỗi và ngày càng trở nên tốt đẹp hơn.

Là ánh sáng cho đời vì nhiệm vụ của ánh sáng là soi chiếu đêm đen. Cũng giống như Chúa Kitô là Ánh sáng thế gian, chũng ta phải trở nên đèn sáng, những hướng đạo soi đường chỉ lối cho mọi người khỏi tối tăm lầm lạc để biết tìm đến quê trời, tìm đến với Chúa là nguồn sống muôn đời.

Khi dạy chúng ta phải trở nên muối ướp thế gian, Chúa Giêsu đã muốn chỉ vẽ cho chúng ta một thái độ sống cụ thể nhằm áp dụng tinh thần 8 mối phúc thật vào cuộc đời chúng ta. Như vậy, chúng ta có sứ mệnh cứu vớt loài người khỏi cảnh sa đọa tối tăm và có bổn phận luôn là muối mặn và là ánh sáng cho đời.

Nói một cách khác, để giữ mãi vị mặn của muối và ánh sáng của đèn, chúng ta phải từ bỏ những gì là tội lỗi xấu xa và thực hành các nhân đức như thương xót, từ bi, nhân hậu, công bình, quảng đại và bác ái với mọi người như được mô tả trong bài đọc I mà chúng ta vừa nghe.

Khi biết sống đạo giữa đời như thế, chứ không phải chỉ trong 4 bức tường của nhà thờ, chúng ta trở thành muối đất đèn đời và phản ảnh được tấm lòng đầy yêu thương nhân hậu của Chúa chúng ta. Được như thế, sự sáng của chúng ta mới “bừng lên trong bóng tối và tỏ rạng như hừng đông”. Khi nhìn vào những việc lành công bình bác ái chúng ta làm, người khác sẽ có cảm tình với đạo Chúa và sẽ tin thờ Chúa với chúng ta.

Người ta kể rằng thời xưa mỗi lần ra khỏi nhà trong đêm tối, người Nhật thường dùng những chiếc lồng đèn. Có một người mù nhớ đường rất giỏi, anh ta có thể đi trong đêm tối chỉ với cây gậy mà không cần dùng đến đèn. Đêm kia, anh ta đến thăm nhà một người bạn. Khi trở về, thấy anh đi tay không, người bạn mới lấy một chiếc lồng đèn trao cho anh, nhưng người mù từ chối và nói: “Đối với tôi thì cầm chiếc lồng đèn để làm gì vì bóng đêm hay ánh sáng đều như nhau”.

Người bạn trả lời: “Tôi vẫn biết như thế, nhưng nếu anh không cầm đèn trong tay, kẻ khác sẽ không thấy anh và như vậy họ có thể đụng vào anh”.

Nghe thế, người mù đành cầm lấy lồng đèn ra về, nhưng đi được một đoạn đường, bất ngờ anh bị một người khác tông vào. Tức giận quá đỗi, anh quát tháo inh ỏi: “Bộ đui hay sao? Không thấy chiếc đèn tôi đang cầm hay sao?”.

Người kia mới xin lỗi và phân trần: “Ông ơi, đúng là ông đang cầm chiếc lồng đèn, nhưng ngọn nến bên trong đã tắt từ lúc nào rồi!”.

Vì thế, nếu cuộc sống đạo của chúng ta không chiếu sáng bằng một đức tin vững mạnh và bằng những việc lành cụ thể là bác ái yêu thương thì chằng khác nào một ngọn nến đã tắt ngúm trong chiếc lồng đèn và có thể sẽ gặp tai họa. Tai họa cho tha nhân, cho đạo Chúa và còn là tai họa cho chính bản thân chúng ta. Tha nhân mất đi một điểm tựa cho cuộc sống, Giáo hội Chúa mất đi những vẻ đẹp sáng ngời, mà chính chúng ta cũng tự đày đọa mình vào trong bóng tối tội lỗi.

Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết trờ nên muối đất đèn đời để thiên hạ xem thấy những việc lành chúng con làm mà nhận biết và ngợi khen Chúa muôn đời. Amen.

 

32.Ánh sáng rạng tỏ cho mọi quốc gia

Thiên Chúa đã kêu gọi dân tộc Isarel làm “Dân Riêng của Ngài”, đây không có nghĩa là họ hơn những người khác nhưng là họ mang một trách nhiệm. Thực tế, họ đã tự cho mình là tâm điểm, tự hào là Dân Tuyển Chọn. Sau khi Chúa đưa họ qua Biển Đỏ sau cơn tù đầy, thì niềm hân hoan tự hào đó lại càng dâng cao: “Này hãy nhìn xem Thiên Chúa đã làm gì cho chúng ta là dân Ngài tuyển chọn. Chúng ta hãy mở hội ăn mừng!” Thế rồi cái lòng hân hoan đó cứ thế truyền từ đời này đến đời kia trong lòng dân tộc Israel, để sau cùng họ không còn nhớ gì đến trách nhiệm của Dân được Tuyển chọn nữa.

Có hai học sinh trung học nói với nhau về chuyện phiếu điểm của họ. Người kia hỏi: “Điểm của mày toàn là F, vậy mày có bị ba má mày la rầy gì không?” Người kia trả lời: “Ba má tao có nói gì đâu. Họ chỉ lo cãi nhau xem tao thuộc về bên nào của họ”. Điều này cũng tương tợ như dân Israel vậy. Bất cứ điều gì xảy ra, tốt hay xấu, họ đều đoán xét theo lòng tự kiêu và điều cần thiết của riêng họ. Họ quên mất rằng Thiên Chúa trào ban ơn lành trên họ là để họ chia sẻ với người khác nữa. Đó là lý do 600 năm trước Chúa giáng sinh, Thánh Kinh đã ghi lại là họ đã bị quở trách vì sự tự cao tự đại của họ. Có vị tiên tri nói với họ rằng Thiên Chúa không thích lối trưng bày lòng sùng đạo ra bên ngoài của họ, Ngài chẳng ưng nhận lối ăn chay, cúi đầu, mặc áo nhặm, và rắc tro trên mình; nhưng điều Ngài muốn họ làm là:

“Chia của ăn uống với người đói khát, cho người bị áp bức và vô gia cư trọ nhờ. Cho người trần trụi áo mặc… Thời sự sáng của ngươi sẽ rạng tỏ… khi ngươi kêu cầu Thiên Chúa sẽ trả lời ngươi… khi ngươi kêu cứu Ngài sẽ trả lời: Này Ta đây!” (Is 58:7-9).

Chúng ta thấy vấn đề này đã chạm đến chót điểm cho dân Tuyển Chọn khi Đấng Thiên Sai đến và kêu gọi họ theo Ngài vô điều kiện trong việc rao truyền tình yêu, nhưng Hội Đồng Do Thái Giáo đã giết Ngài.

Nếu đời sống bạn bị sa lầy, mọi điều xem như thất bại, tinh thần như đen tối, và bản thân bạn như ngừng lại thì đó không phải tại Thiên Chúa không ban ánh sáng cho bạn, mà do bạn đã giấu nó dưới đáy thùng như Chúa Giêsu đã nói.

Trong vở kịch của Tennessee Williams đóng nhan đề “Chiếc Xe Tên Ước Muốn”, Blanche là người mang tâm trạng tan nát sầu thương. Cô ta đang tìm kiếm một chỗ đứng chắc chắn, một điểm tựa cho tâm hồn cô. Cô ta đang thèm khát được yêu. Song khổ nỗi, cô ta thuộc loại người chuyên dối quanh những điều mình ước muốn, những điều làm người khác hiểu và yêu cô ta. Cứ thế bóng tối cứ bao phủ đời Blanche cho tới khi cô ta gặp Mitch. Anh ta cũng là người đang gặp khó khăn đối với xã hội. Anh ta bị bịnh mập phì và luôn luôn bị đổ mồ hôi theo như anh ta nói với Blanche. Mitch rất cô đơn và hằng ao ước có người thương anh. Thế rồi vở kịch diễn tới hồi Blanche có thể tâm sự và tự chia sẻ với Mitch về những nỗi sầu muộn của đời cô đang phải đối đầu trong cuộc sống. Khi cô tâm sự xong, Mitch nắm lấy tay cô rồi nói: “Cả hai chúng ta đang cần đến một người nào đó hiện diện trong đời sống chúng ta. Blanche, có thể là hai chúng ta hiện diện trên cõi nhân sinh này là để cho nhau không?” Nhìn thẳng vào đôi mắt của Mitch và những giọt lệ từ từ lăn trên má, thế rồi Blanche tự ngả mình vào vòng tay của Mitch. Trong những tiếng nức nở nghẹn ngào ngọt lịm, Blanche nói một câu tuyệt vời: “Đôi lúc Thiên Chúa xuất hiện thật quá mau”, và sân khấu hạ màn.

Đó cũng là điều không phải ít trong chúng ta đã từng cảm nghiệm. Đôi khi trong cuộc sống, lúc mà chúng ta cần nhất, khi mà nỗi kinh hoàng của bóng tối bao phủ thì Thiên Chúa xuất hiện thật mau lẹ, rõ ràng, và chữa lành mọi nỗi. Nhưng có điều buồn là sự ấy thường tiêu tan, biến mất, ra đi, không gốc rễ! Nó không có tiếp tục, hay có thể nối dài sự cứu giúp. Lý do không phải tại Chúa lấy ánh sáng khỏi chúng ta mà do chúng ta để nó lu mờ trong chúng ta. Cũng tựa như vấn đề Blanche phải đương đầu trong vở kịch kể trên thì nó cũng xảy ra thường xuyên cho chúng ta. Đời sống chúng ta không thể sinh động lớn mạnh có thể là do ta không chia sẻ, cởi mở với người khác. Chúa ban cho chúng ta ánh sáng không riêng cho chúng ta mà Ngài còn muốn chúng ta chia sẻ ánh sáng đó cho mọi người khác nữa; bởi Thiên Chúa yêu chúng ta và hết mọi người!

Trong ánh sáng chúng ta thấy rõ những ung nhọt, phản đối xảy ra trong Giáo Hội qua những năm vừa qua. Không ít người đã từ bỏ Hội Thánh, và nếu chúng ta nhìn lại, chúng ta sẽ thấy rằng chúng ta đã và đang là những người được Tuyển Chọn. Tân Ước đã nói rõ ràng về điều ấy! Thiên Chúa hành động trong cộng đoàn Dân Chúa cách triệt để và đầy ý nghĩa. Trong lòng Giáo Hội, Thiên Chúa dùng để bày tỏ chính Mình Ngài, Sự Sống Ngài, Sức Mạnh Ngài, và Ánh Sáng Ngài. Song khổ nỗi chúng ta đã tự xây tường bao quanh chúng ta và không chia sẻ sự sống Thiên Chúa cho thế nhân. Chúng ta “chưa là ánh sáng và chưa là muối ướp trần gian” (Mt 5:13-14).

Chúng ta là Dân Tuyển Chọn, chúng ta cùng làm việc thờ phượng không những để nhận được một điều gì đó (điều này đương nhiên rất quan trọng), nhưng còn phải sửa soạn cho chúng ta những điều cần thiết cho công cuộc truyền rao sự sống và ánh sáng. Chúng ta sẽ không trở nên những phần tử đích thực của Giáo Hội bao lâu những đòi hỏi lớn lao này của Tin Mừng chưa thật sự bao trùm chúng ta. “Các con là muối đất… các con là ánh sáng thế gian… ánh sáng của các con phải rạng soi trước mọi dân tộc” (Mt 5:14-16). Đấy chính là trách nhiệm của Dân Chúa Tuyển Chọn, và đó cũng là lý do chúng ta được Tuyển Chọn.

 

33.Suy niệm của Lm Phạm Quốc Hưng

“Các ngươi là muối cho đời… là ánh sáng cho thế gian”.

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng ba hình ảnh rất gần gũi để gọi các môn đệ của Người: muối cho đời, ánh sáng cho thế gian, và cái thành tọa lạc đầu non.

Muối được dùng để khử trùng, để gìn giữ thức ăn cho khỏi hư thối, và để nêm vào các món ăn cho thêm hương vị đậm đà.

Ánh sáng giúp người ta nhận biết, phân biệt và chiêm ngắm sự vật.

Thành phố trên núi thường được dùng làm điểm qui chiếu để người ta định hướng.

Theo đó, cả ba hình ảnh này đều giống nhau ở điểm là chúng không hiện hữu cho riêng mình, nhưng hiện hữu để góp phần gìn giữ, tô bồi hay xây dựng cho một đối tượng khác.

Đó chính là bản chất cuộc sống của Chúa Kitô như chính Người đã tự xưng: “Sự sáng thế gian chính là Ta” (Jn 8:12).

Thực vậy, Chúa Giêsu đã đến trong thế gian để cứu chuộc nhân loại, để làm cho cuộc sống con người thêm sung mãn tràn đầy, để dẫn con người hướng về Thiên Chúa là Nguồn Chân-Thiện-Mỹ và đạt được hạnh phúc đời đời.

Khi gọi các môn đệ là “muối cho đời”, là “ánh sáng cho thế gian”, là “cái thành tọa lạc đầu non”, Chúa Giêsu muốn nói họ phải trở nên giống Người, nên những “Chúa Kitô khác”, những con người biết hy sinh quên mình để sống cho người khác và góp phần làm đẹp cuộc sống cho người và cho đời.

Như Chúa Giêsu đã cứu chuộc nhân loại bằng việc sống trung thực với địa vị của Người là Con Thiên Chúa, người môn đệ của Chúa cũng chỉ có thể trở thành men nồng, muối mặn, và ánh sáng của trần gian để góp phần làm đẹp cuộc sống của tha nhân khi họ trung thành sống đúng bản chất và ơn gọi Kitô hữu của mình.

Một khi đánh mất “tính chất Kitô” của mình, nghĩa là không sống xả kỷ vị tha như Chúa Giêsu đã sống, nguời tín hữu sẽ giống như muốn đã đánh mất vị mặn và trở nên vô dụng chỉ đáng vất bỏ. Chúa Giêsu đã cảnh cáo các môn đệ về điều này như sau: “Nếu muối ra dại, thì lấy gì muối nó lại? Không còn ích gì, chỉ có việc đổ ra ngoài cho người ta dẫm đạp đi thôi” (Mt 5:13)

Sự sa đọa đồi bại về luân lý của xã hội Âu Mỹ ngày nay phải chăng là hậu quả tất yếu của việc rất nhiều người mang danh là tín hữu Chúa Kitô nhưng lại sống phản nghịch với các đòi hỏi của Phúc âm và giáo huấn chân thực của Hội thánh?

Chúng ta phải sống thế nào để nên “muối cho đời” và “ánh sáng cho thế gian” như lời Chúa truyền dạy?

Những lời trích sách tiên tri Isaia trong bài đọc thứ nhất của Phụng vụ hôm nay đã vạch ra một cách cụ thể lối sống của những người thực sự đặt niềm tin vào Chúa và phần phước của họ như sau: “Há lại không phải là bẻ bánh với người đói, dẫn trọ nhà kẻ vô gia cư?

Thấy ai mình trần, ngươi cho áo che thân, ngươi sẽ không tránh né một người cũng là cốt nhục của ngươi.

Bấy giờ ánh sáng của ngươi tung tóe như rạng đông, da non thương tích ngươi sẽ mau líp lại, phúc đức của ngươi sẽ cầm đầu đi trước, và binh bọc hậu là vinh quang của Đức Yavê.

Bấy giờ ngươi khẩn cầu và Yavê sẽ đáp lại, ngươi kêu cứu và Người sẽ phán: Này Ta đây!

Nếu ngươi loại khỏi nơi ngươi cùm ách, việc trỏ tay và lời rủa độc, và điều ngươi sở nguyện, ngươi cấp cho kẻ đói, và cho người đói khó no lòng ấm cật, ánh sáng của ngươi sẽ rạng giữa tối tăm, và mù tối của ngươi cũng như chính ngọ”

(Is 58:7-10)

Đó chính là lối sống yêu thương, tha thứ, chia sẻ và phục vụ như đã được gặp thấy nơi cuộc sống của chính Chúa Giêsu.

Và đó là cũng là lối sống mà các thánh – những người môn đệ thập toàn của Chúa Giêsu – đã, đang và sẽ thực hiện trong lịch sử Giáo hội qua mọi thời đại. Thực vậy, người ta đã thấy một Gioan Bosco tận tâm chăm sóc giáo dục giới trẻ bị bỏ rơi; một Damien dấn thân phục vụ những người bị phong hủi tại đảo Molokai; một Maximilian Kolbe thí mạng cho người bạn tù được sống; một Têrêsa Calcutta tìm đến với những người cùng khổ để phục vụ họ, để chia sẻ chính sự cùng khổ của họ. Các ngài là những người đã nỗ lực sống như những hạt muối mặn ướp đời, những luồng ánh sáng soi tỏ và sưởi ấm thế gian theo gương Chúa Giêsu.

Với bản tính tự nhiên vốn ích kỷ hẹp hòi, sợ khổ sợ khó, cũng như với những cảm nghĩ và tính toán theo sự khôn ngoan thế gian, chúng ta thường cảm thấy khó khăn e ngại khi phải sống theo các đòi hỏi của Tin mừng Chúa Kitô.

Vì thế, như lời thánh Phaolô trong bài đọc 2 của Phụng vụ hôm nay, chúng ta cần được củng cố bằng sức mạnh của “Thần khí và quyền phép của Thiên Chúa” và phải quyết định “không muốn biết gì ngoài Đức Kitô Giêsu, và là (Đức Kitô Giêsu) bị đóng đinh Thập giá” (1 Cor 2:5).

Nhờ năng cầu nguyện, gắng hy sinh, chuyên cần suy gẫm Lời Chúa và cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, nhất là biết luôn kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu Thánh Thể là Nguồn Ánh Sáng và Năng Lực của người Kitô hữu, noi gương xả kỷ vị tha của Mẹ Maria và các thánh cũng như trông cậy ở lời chuyển cầu của các ngài, chắc chắn chúng ta sẽ được ướp bằng vị mặn của Chúa Kitô và được sưởi ấm và soi sáng bằng ánh sáng của chính Người. Và nhờ vậy, chính chúng ta sẽ được Chúa Kitô biến đổi để được trở thành “muối cho đời” và “ánh sáng cho thế gian” đúng như ơn gọi Kitô hữu của mình, ơn gọi sống cho người và cho đời như Chúa Kitô đã sống.

 

34.Ướp mặn đời và toả sáng trần gian

Chúa Giêsu đưa ra hai hình ảnh để định nghĩa cho Đời Sống Tông Đồ, đời sống Kitô-hữu. Là một Kitô-hữu, tôi phải sống thế nào? Chúa Giêsu dạy tôi: “Chính con là muối cho đời, là ánh sáng cho trần gian”.

Muối là một loại vật chất khá cần thiết cho mọi người trong nhiều lãnh vực. Muối bảo quản thức ăn, cũng là gia vị cho thức ăn – thức uống. Muối còn được dùng để trị bệnh: đắp vào chỗ trặc gân, bong gân; muối sát trùng, để giúp tiêu hóa, để lưu giữ và chuyển tải I-ốt, ngăn ngừa bệnh tật… Muối cũng có nhiều công dụng khác nữa, kể cả cho các loài động và thực vật.

Nhờ vào tính chất nào của muối mà nó hữu ích cho cuộc sống chúng ta như vậy? Chắc chắn câu trả lời – ai cũng biết – là vị mặn của muối. Nhưng giả như muối mà không mặn, thì chắc là không còn hữu dụng nữa. Những viên muối không mặn, người ta không đem ướp cá mắm gì được, không sát trùng được, không làm phân được,… và có thể nói: người ta cũng không muốn trải trên đường đi? vì giẫm lên làm đau chân.

Như vậy, bản chất của muối là mặn. Cũng thế, bản chất của người môn đệ Chúa Kitô là rao giảng Tin Mừng, là con cái Thiên Chúa, là giữ gìn cho thế gian khỏi phải hư đi.

“Cá không ăn muối – cá ươn” “Con cãi cha mẹ – trăm đường con hư”

Thế gian không sống Tông Đồ, không sống đời Kitô hữu, thế gian phải chết!

Tôi là một Kitô hữu, vậy tôi phải có “vị mặn Kitô”. Nếu tôi không có “vị mặn Kitô” thì tôi không giúp gì cho thế gian cả. Lạy Chúa, xin Chúa hãy “ướp” con bằng chính cái bản chất Kitô của Chúa, xin cho con luôn được kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô trong tư tưởng, lời nói, việc làm – để con thực sự là môn đệ của Chúa, là muối cho đời.

Ánh sáng. Là một loại vật chất mà nhờ nó, người nhận thấy các sự vật xung quanh mình. Ở những nơi tối, người ta càng cần đến ánh sáng và càng nhận thức rằng ánh sáng rất cần cho cuộc sống. Có thể nói: không có ánh sáng – không thể có sự sống. Ngày thứ nhất trong công trình sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên ánh sáng trước hết.

Khi có ánh sáng, người ta không thể che giấu được vật gì, tốt cũng như xấu. Để diễn tả điều này, Chúa Giêsu nói: “Một thành phố xây dựng trên núi, không tài nào che giấu được”. Một sự kiện lớn khi được ánh sáng chiếu vào, thì không ai là không thấy. Ơn Cứu Độ của Chúa phổ quát, sức sống của Hội Thánh mãnh liệt như vậy, không thể không được mọi người biết đến.

Chúa Giêsu chính là ánh sáng cho muôn dân (Lễ Nến vừa qua, ngày 2.2) đã tác động vào Hội Thánh, làm cho Hội Thánh cũng trở nên ánh sáng cho muôn dân; Chúa nói: “Chính các con là ánh sáng cho trần gian”. Cũng như “hữu xạ tự nhiên hương”, Chúa đã thắp sáng trần gian bằng chiếc đèn Hội Thánh, thì lẽ đương nhiên trần gian nhờ Hội Thánh mà thấy được Ơn Cứu Độ cho mình, nhờ Hội Thánh mà phân biệt tốt xấu, mà nhận biết việc phải làm, nhận biết con đường dẫn tới hạnh phúc viên mãn.

Chúa Giêsu dùng sự kiện thắp đèn để khẳng định điều này: “Không ai thắp đèn rồi lấy thúng úp lại”. Chúa muốn chúng ta, những Kitô hữu hãy sống như con cái sự sáng, hãy tỏa ánh sáng Chúa Kitô, tỏa hương thơm tốt lành là những việc thiện để người đời nhận biết Chúa Kitô, Ánh Sáng của Muôn Dân và Đấng Cứu Độ duy nhất của trần gian.

Cuối cùng, với câu nói định nghĩa của Chúa Giêsu: “Chính anh em là muối cho đời, chính anh em là ánh sáng cho trần gian”, chúng ta đã biết Chúa muốn nói với chúng ta rằng: Hãy dùng đời sống mình mà sinh lợi Nước Trời cho trần gian. Mỗi người chúng ta có một hoàn cảnh sinh sống khác nhau, hãy dùng nó để phục vụ anh em đón nhận Tin Mừng. Xin được mượn lời bài hát “Tâm tình hiến dâng” của cha Oanh Sông Lam để cảm tạ Chúa và quyết tâm sống như người môn đệ Chúa Kitô.

“Biết lấy gì cảm mến, biết lấy chi báo đền, hồng ân Chúa cao vời Chúa đã làm cho con.

Thương con tự ngàn xưa, một tình yêu chan chứa, và chọn con đi làm đuốc sáng chiếu soi trần gian. Cho con say tình mến, và này con xin đến: một đời trung trinh làm muối đất ướp cho mặn đời.

Trao cho con Lời Chúa, dù đời con hoen úa, nguyện đời con đem Lời Chân lý đền cho mọi nơi. Ra đi đầy nguyện ước, và này con gieo bước, nguyện đời con đem nguồn yêu mến đến cho mọi người…”

 

35.Ánh sáng trần gian

Qua bài đọc thứ nhất, tiên tri Isaia đã xác quyết với dân chúng:

– Việc chay tịnh làm đẹp lòng Thiên Chúa hơn cả hệ tại sự siêu thoát đối với tiền bạc vật chất: cho kẻ đói được ăn, cho kẻ trần trụi được mặc và cho kẻ bơ vơ vất vưởng được có nơi nương tựa.

Tất cả những hành động kể trên là như một thứ ánh sáng bừng lên trong đêm tối, khiến cho đêm tối trở nên chói lọi như ban ngày.

Cũng trong chiều hướng ấy, Chúa Giêsu muốn nhắn gửi cho các môn đệ của Ngài, cũng như cho tất cả những ai muốn bước theo Ngài:

– Các con là muối, các con là ánh sáng trần gian.

Ai trong chúng ta cũng đã biết muối được dùng để ướp thức ăn cho khỏi ươn thối và đem lại một hương vị đậm đà. Thế nhưng, một khi muối đã ra nhạt, nó sẽ chẳng còn được dùng vào việc chi nữa. Lúc đó người ta sẽ vứt nó ra ngoài đường và chà đạp nó dưới chân.

Cũng thế, người Kitô hữu sống giữa lòng cuộc đời phải là như muối mặn, đem lại tình thương, niềm vui mừng và hy vọng cho mọi người, bằng không, họ sẽ chẳng được dùng vào việc gì, mà hơn thế nữa còn tác hại đến những người chung quanh bằng chính gương mù gương xấu của họ.

Người Kitô hữu sống giữa lòng cuộc đời phải là như ánh sáng chiếu trong u tối, soi đường dẫn lối cho người khác tìm gặp Đức Kitô, bằng không đêm đen sẽ bao phủ trái đất này.

Tuy nhiên, một câu hỏi được đặt ra, đó là trong thời buổi hiện nay liệu có còn tìm thấy những Kitô hữu đích thật nữa không? Những Kitô hữu nắm giữ vai trò là muốn mặn ướp cho đời, là ánh sáng chiếu soi trần gian. Một mẫu người như thế, phải chăng chỉ là một giấc mơ, một huyền thoại, một câu chuyện hoang đường cổ tích?

Câu hỏi này đã được Đức thánh cha Phaolô VI trả lời vào ngày thứ tư tuần thánh năm 1971 như sau:

– Trong thời buổi hiện nay, chúng ta vẫn có thể và phải trở nên những Kitô hữu đích thực, những Kitô hữu can đảm, những Kitô tốt lành, những Kitô hữu trung thành, hay nói cách khác, những Kitô hữu thánh thiện. Tôi xin nhắc lại một lần nữa, đó không phải chỉ là một việc có thể, mà còn là một việc tương đối dễ dàng.

Vậy chúng ta sẽ thực hiện lý tưởng ấy như thế nào?

Để thực hiện được lý tưởng ấy, chúng ta cần đến hai nguồn nghị lực trợ giúp.

Nguồn nghị lực thứ nhát đó là ơn Chúa. Thực vậy, nếu biết cậy nhờ vào ơn Chúa, chúng ta sẽ cản thấy việc nên thánh không phải là một gánh nặng vượt ngoài khả năng của chúng ta, như lời Chúa đã phán:

– Ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng.

Nguồn nghị lực thứ hai đó là ý chí của mỗi người chúng ta. Thực vậy, ý chí của mỗi người chúng ta phải có đủ can đảm và cương quyết. Muốn được như vậy, chúng ta phải có lòng yêu mến, bởi vì lòng yêu mến chất khích thích làm cho tất cả được trở nên dễ dàng.

Hãy nhìn vào đời sống của các thánh và chúng ta sẽ biết được thế nào là một người Kitô hữu đích thật.

Chẳng hạn thánh nữ Catarina luôn sống và thực hiện khẩu hiệu sau đây:

– Làm tất cả để vinh danh Chúa, cứu rỗi các linh hồn, chăm sóc kẻ bất hạnh và đem lại cho Giáo hội sự tự do và niềm vinh hạnh.

Trong giây phút này, mỗi người hãy nhìn vào cuộc sống để xem mình đã thực sự trở thành muối, cũng như đã trở thành ánh sáng của Đức Kitô hay chưa?

 

36.Ướp đời – Lm Vũ Đình Tường

Muối và lửa có bà con, họ hàng thân thiết với nhau từ trong bếp lên đến nhà và có mặt cạnh mâm cơm. Bữa cơm tối nơi đồng quê thường có ánh đèn dầu dù lu mờ vẫn soi đủ sáng cho bữa ăn thanh đạm. Nơi phố thị đôi khi ánh đèn cầy lấp lánh thay thế ánh đèn điện tạo nên khung cảnh tình tứ, thơ mộng. Muối và lửa ưa sống gần nhau, cả hai cần cho việc bếp núc, hỗ trợ nhau về phương diện thực phẩm. Muối có khả năng cầm giữ cho thực phẩm lâu hư. Lửa cũng có tác dụng không kém.Thực phẩm nấu chín giữ được lâu hơn là để sống. Kết hợp giữa muối và lửa là cách giữ thực phẩm an toàn và lâu nhất. Có loại thực phẩm nấu gần chín trước khi bỏ muối. Lại cũng có loại thực phẩm cần ướp muối cho thấm trước khi nấu. Biết gia giảm hài hoà giữa muối và lửa là tài nghệ riêng của đầu bếp trứ danh. Họ biết khi nào phải bỏ muối, khi nào phải tăng giảm lửa. ‘Cơm sôi bé lửa chẳng khê khắm gì’ là lời khuyên căn bản trong việc bếp núc.

Công dụng của muối

Muối cần thiết cho cơ thể. Thiếu muối cơ thể sinh hoạt bất thường. Quá nhiều muối làm cao máu. Nước biển có muối mặn, vì thế có thể tắm lâu trong nước biển; trong khi tắm lâu trong sông, rạch, hồ, ao, da bị nhăn, gọi là thiu tay chân. Muối và ánh sáng ngoài công dụng cầm giữ thực phẩm lâu hư còn có khả năng khử trùng. Muối làm tăng vị, giúp ăn ngon miệng. Lạt quá mất ngon, mặn quá không thưởng thức được. Ánh sáng cũng tác dụng không kém, nhờ ánh sáng kích thích tâm lí khiến cho tâm hồn thoải mái, khung cảnh hài hoà làm cho thực phẩm thú vị hơn. Xem thế muối lợi về phương diện thể lí; ánh sáng lợi về phương diện tâm lí.

Bản chất của muối là mặn, không mất vị mặn ngay cả khi để trong kho lâu ngày, muối vẫn giữ vị mặn nguyên chất. Cách duy nhất có thể làm nhạt muối khi trộn muối chung với thứ khác như pha trong nước, trong bột hoặc dùng lửa đốt muối cháy thành than. Sức nóng không tiêu huỷ hết chất mặn trong muối mà chỉ làm thay đổi vị mặn của muối. Muối và lửa, tuỳ vào công dụng mà được phân chia thành nhiều loại khác nhau. Phúc âm xác định rõ ràng khi đề cập đến muối và ánh sáng: Chính anh em là muối cho đời…. là ánh sáng cho trần gian.

Muối ướp đời

Đức Kitô nói rõ chính anh em là muối cho đời. Ánh sáng cho trần gian. Ngài không nói là nên như muối hay học từ muối mà nói: chính anh em là muối cho đời. Như thế nhiệm vụ chính của người Kitô hữu là sống mang lại lợi ích cho đời. Cuộc sống chứng nhân cho Chúa giữa trần gian. Sống để làm sáng danh Chúa và mang lại niềm vui, hy vọng cho mình và cho xã hội loài người. Kitô hữu cần mang sức sống an lành vào nơi bất an. Mang tin yêu, hy vọng vào nơi thất vọng. Sống tinh thần Kinh Hoà Bình của thánh Phanxicô. Cho đời lên hương. Nhiệm vụ của Kitô hữu là muối cho mọi người, giúp họ trở thành người tốt bằng cách chính mình sống đời sống tốt, để lời nói, hành động của mình trở thành muối cho đời.

Là ánh sáng chiếu dọi khắp gian trần, không phải chỉ chiếu sáng một vùng trời mà cho cả gian trần. Ý tưởng trên có tham lam quá chăng? Thưa không bởi vì Kitô hữu không làm việc tuỳ hứng, cá nhân, đơn độc nhưng làm việc theo tinh thần chung. Tinh thần Kitô hữu là tinh thần cộng đoàn, tập thể, đại gia đình Chúa. Mọi người là anh chị em, cùng chung một Cha. Tinh thần cùng làm lợi cho nước trời, không phải cho cá nhân mình mà cho Nước Cha trị đến. Cho í Cha được thể hiện dưới đất cũng như trên trời theo tinh thần Kinh Lậy Cha.

Phản ứng

Là ánh sáng chiếu soi gian trần, là muối ướp đời nên cuộc sống người Kitô hữu luôn phấn đấu giữa tích cực và tiêu cực. Xã hội đời có phản ứng tích cực bằng cách chấp nhận chào đón, để cho lối sống của người Kitô hữu ảnh hưởng trên xã hội, thay đổi lối sống xã hội. Phản ứng tiêu cực là chống lại, từ chối hay loại trừ những gì trái với bản chất, khuynh hướng xã hội ưa thích. Đời sống Kitô hữu chắc chắn sẽ gặp đối kháng, phê bình, chỉ trích và ngay cả bị bách hại, tù đầy là điều không thể tránh. Ánh sáng và muối Kitô hữu ướp đời không khéo sẽ bị muối đời, bóng tối xã hội bao phủ, tấn công và lui vào thế mất phẩm chất.

Người Kitô hữu tốt không để cho văn hoá hưởng thụ, văn hoá sự chết, văn hoá khoái lạc, pha trộn làm giảm giá trị hay mất phẩm chất muối đời mình. Muối Kitô hữu mất phẩm chất khi nó tự tin vào khả năng riêng của nó, khi thiếu khiêm nhường, khi một mình xông pha vào cuộc sống mà thiếu sự cộng tác thành tâm, với lòng mến của các Kitô hữu khác. Nhất là thiếu niềm tin vào Thiên Chúa. Lúc đó muối người Kitô bị pha trộn quá nhiều loại văn hoá sự chết, sa đoạ. Ánh sáng Phúc âm không toả sáng giúp đời mà trái lại bị bóng tối gian trần bao phủ, làm giảm hiệu năng. Muối bị hoá chất. Muối bị đời thoái hoá không thể ướp được đời. Loại muối khác là giữ kín trong kho, lợi ích của muối bị giam kín trong bao, bị, ích chi cho đời, ngoại trừ chủ nó cất kĩ làm của hồi môn. Loại ánh sáng bị che phủ làm giảm mức sáng. Phúc Âm giải thích loại muối và ánh sáng trên có cũng như không, khác chi vô dụng.

Ánh sáng

Ánh sáng và bóng tối luôn đố kị nhau. Ánh sáng mạnh sẽ phá tan bóng tối. Bóng tối dầy đặc sẽ ngăn cản ánh sáng. Nhờ bước đi trong ánh sáng mà ánh sáng soi đường đi. Đi trong ánh sáng ít bị vấp té. Nếu bóng tối là dấu chỉ của thất vọng, tuyệt vọng thì ánh sáng trái lại là dấu chỉ của hy vọng, dấu chỉ của sự sống. Bởi vì nơi đâu có hy vọng nơi đó có sự sống, có mầm sống mới.

Hãy đặt trọn niềm tin vào ánh sáng Đức Kitô là ánh sáng không bao giờ tàn lụi, không bóng tối nào che khuất được.

 

37.Bảo vệ căn tính – Lm Vũ Đình Tường

Khi lẩn vào đám đông chúng ta bị mất hút trong đám đông. Càng đông người thì việc nhận diện người thân quen càng khó, ngoại trừ người đó có đặc điểm. Khó nhận bởi vỉ người giống người. Khó nhận bởi tầm nhìn bị hạn chế. Khó nhìn xa vì vật gần bắt mắt.

Để tránh bị đám đông thu hút Đức Kitô khuyên chúng ta cần phải bảo vệ căn tính. Một khi bị đám đông thu hút căn tính là bị lạc vào rừng người, rừng tư tưởng. Sức quyến rũ của đám đông thường mạnh hơn sức đối kháng cá nhân nên chiều theo số đông là bị cuốn theo chiều gió. Bị đám đông quyến hút căn tính bị lung lay, trật gốc thế là bị đám đông đồng hoá. Đồng hoá trong lòng đám đông và đồng hoá xảy ra trong cõi lòng mình. Bị đám đông đồng hoá cách suy nghĩ, lối sống thì căn tính Kitô hữu bị thay đổi. Đức Kitô dùng hai hình ảnh quen thuộc giúp ta bảo vệ căn tính Kitô hữu. Muối giúp thực phẩm lâu hư nát. Muối có tác dụng diệt trùng, bảo vệ và thẩm thấu. Đây là những đức tính người Kitô hữu cần có để thanh tẩy và triệt tiêu tư tưởng sai lầm để bảo vệ chính mình và bảo vệ người. Đồng thời giúp tình yêu Chúa thấm nhập vào lòng mình và lòng người. Bởi vì căn tính đó mà tình yêu Kitô hữu đi đến bất cứ đâu cũng luôn gặp hai trường hợp. Sẽ có những người vui mừng hoan hỉ đón nhận tình yêu Đức Kitô; lại cũng có nhóm người chống báng, ra mặt đối nghịch tình yêu Đức Kitô do các sứ giả Tin Mừng mang lại. Họ không chỉ chống lại tình yêu Chúa mà còn chống lại mọi biểu hiệu diễn tả tình yêu Chúa. Vì thế cầm giữ bảo vệ căn tính Kitô hữu và làm cho căn tính đó sống động là điều tối quan trọng trong việc làm nhân chứng Tin Mừng cho muôn dân. Nếu không là chứng nhân đích thực sẽ trở thành chứng nhân giả tạo. Giả tạo bởi vì thay vì là muối ướp đời lại bị muối đời hoà tan mất trong lòng đời. Vì thế chúng ta thấy rất nhiều Kitô hữu có danh mà không có thực chất căn tính, không thể hiện tình yêu Chúa trong cuộc sống, trong cách giao tế hàng ngày. Họ là Kitô hữu biến thể, Kitô hữu lí thuyết còn thực hành tình yêu Chúa thì không, trái lại họ sống theo đường lối trần thế. Nói cách khác chứng nhân bị mất căn tính thì lời chứng thiếu yếu tố tín trung.

Một hình ảnh quen thuộc khác là ánh sáng. Thiếu ánh sáng mắt sẽ bị quáng gà nên chúng ta thường nghe ví ‘nhìn gà hoá quốc’. Thực ra việc chủ trương làm trong bóng tối thường có kết quả xấu. Vì thế tội phạm thường mượn bóng tối để thi hành điều ám muội.

Ánh sáng soi sáng sự vật làm cho sự vật trở nên tốt lành, sáng láng hơn. Nhìn cầu vồng vắt ngang trời ta thấy bầu trời đẹp hơn. Ánh sáng chiếu trên sóng biển óng ánh giúp tâm hồn trải rộng, thảnh thơi, thoải mái. Ánh sáng chiếu trên giọt sương mai làm cho buổi sáng tươi mát, mang hy vọng một ngày vui. Xem thế ánh sáng không phải chỉ chiếu dọi vẻ đẹp bề ngoài mà còn khơi dậy, làm sống lại cái đẹp trong tâm hồn. Thánh vịnh 36,9 diễn tả ánh sáng Chúa dẫn ta nhận ra sự tốt lành của Thiên Chúa và thánh vịnh 119,105 nhắc đến ánh sáng Chúa soi đường cho con bước đi.

Ân sủng Chúa đong đầy lòng ta làm cho tâm hồn vui trong an bình, nội tâm thanh thản và nơi nào có tình yêu Chúa tràn đầy bóng tối sẽ bị đẩy lui, tiêu diệt. Ánh sáng Chúa chiếu dọi tâm hồn các tín hữu và giúp họ cảm nhận tình yêu tuyệt vời trong nước Chúa. Đức Kitô từng tuyên bố không có gì che dấu mãi mà không bị lộ ra ngoài. Chúng ta thường hiểu là điều xấu chúng ta muốn che dấu nhưng không thể dối mình mãi và dối Thiên Chúa. Hơn nữa những điều tốt lành cũng bị che dấu khỏi tầm nhìn của những tâm hồn hững hờ, dửng dưng với tình yêu Chúa. Họ nhìn mà không thấy nhưng tâm hồn công chính, ước ao tìm kiếm sự thật sẽ nhận ra sự tốt lành, trọn hảo của tình yêu Chúa.

Tâm hồn khiêm nhượng vui mừng đón nhận muối và ánh sáng Đức Kitô ban cho sẽ được Ngài ban cho muối công chính ướp đời tươi sáng và ánh sáng Ngài soi đường cho ta bước vì thế sẽ không sợ vấp ngã vì có ánh sáng Chúa soi đường và tình yêu Chúa đồng hành trong cuộc sống. Những tâm hồn đó cầm giữ được căn tính Kitô hữu bởi tình yêu Chúa luôn đồng hành với họ.

 

38.Muối cho đời và ánh sáng cho trần gian

(Suy niệm của Lm. Munachi E. Ezeogu, CSSP – Thanh Tuyền OP, chuyển ngữ từ http://www.munachi.com)

Tại đất nước chúng ta, chướng ngại nào là lớn nhất cho Kitô giáo? Đây là câu hỏi mà chắc chắn sẽ có rất nhiều câu trả lời khác nhau, tùy vào đối tượng chúng ta hỏi. Câu trả lời có thể là: truyền thông đại chúng, văn hóa toàn cầu, chủ nghĩa vật chất, chính sách nhà nước tồi bại, những tôn giáo khác… Nhân dịp gặp cố lãnh tụ vĩ đại Mahatma Gandi, một nhà truyền giáo đã đặt câu hỏi: “Chướng ngại lớn nhất cho Kitô giáo tại Ấn Độ là gì vậy, thưa ngài?” Nhanh nhẩu và dứt khoát, vị lãnh tụ đáp: “là những Kitô hữu.”

Người ta cho rằng, thế giới ngày hôm nay sẽ là nơi đượm chất Kitô giáo hơn nhiều nếu Kitô giáo không chỉ dành riêng cho các Kitô hữu. Như vậy, tự các Kitô hữu đang tạo nên chướng ngại cho chính tôn giáo mà mình đang theo, vì thế đây là những tín hữu không đúng nghĩa và không biết dấn thân. Dĩ nhiên, họ có mang danh Kitô hữu đó, thế mà qua cung cách nói chuyện hay thái độ hành xử nơi họ, ai ai cũng thấy rõ một điều, rằng họ chẳng có dính dáng gì với con người Đức Kitô cả.

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với các môn đệ mình: “Anh em là ánh sáng thế gian” (Mt 5,14). Nhưng ở đoạn khác trong Ga 8,12, Chúa Giêsu lại nói về chính mình, “Thầy là ánh sáng thế gian.” Vậy thì, ai là ánh sáng thế gian? Chúa Giêsu hay các môn đệ? Thật là mâu thuẫn! nhưng mâu thuẫn này sẽ được giải đáp trong Ga 9,5, Chúa Giêsu đã tuyên bố nhẹ hơn về chính mình, đó là: ” Bao lâu Thầy còn ở trong thế gian, Thầy là ánh sáng của thế gian.” Câu này cho thấy Chúa Giêsu đang nói về ánh sáng được cụ thể hóa qua thịt và máu Ngài. Bao lâu Ngài còn tồn tại về mặt thể lý trong thế gian, thì bấy lâu Ngài là ánh sáng của thế gian, thế nhưng khi Ngài không hiện hữu về mặt thể lý nữa, thì chính là lúc mà các môn đệ theo Ngài sẽ gánh vác vai trò làm ánh sáng cho thế gian.

Vai trò của Kitô hữu trong thế gian này sẽ được định nghĩa qua hai từ mà Tin Mừng hôm nay đã đề cập: muối và ánh sáng (salt and light). Thế thì ngày hôm nay, hai từ này sẽ mang nghĩa gì? Bạn có biết rằng “đường” (sugar) không bao giờ thấy xuất hiện trong Kinh Thánh không? Vào thời cổ đại, muối chính là gia vị duy nhất quyết định cho thức ăn thêm đậm đà. Không muối, có nghĩa là thức ăn sẽ ra nhạt nhẽo. Chúa Giêsu đã nói muối (hoặc đường nếu bạn muốn) dùng để ướp thức ăn, vì vậy, Kitô hữu cũng phải là tác nhân làm đậm đà thế gian. Kitô hữu hiện diện trong thế gian để làm cho thế gian trở thành chốn thêm dịu ngọt hơn. Vậy thì chúng ta sẽ làm thế nào để cho thế gian này thêm dịu ngọt? Chúng ta sẽ tìm thấy câu giải đáp trong đoạn Tin Mừng tương tự theo Mác-cô: ” Anh em hãy giữ muối trong lòng anh em và sống hoà thuận với nhau.”

Cũng như muối, chúng ta đều được mời gọi trở thành những môn đệ ngọt ngào, thân thiện và tử tế, sống thuận hòa với mọi người. Cũng như ánh sáng, chúng ta được mời gọi để chỉ đường. Không có ánh sáng, chúng ta sẽ đâm vào nhau và té nhào xuống hố. Nhưng ánh sáng sẽ bảo cho biết: “Con đường đi đây này, hãy đi đi; Còn kia là con đường nguy đấy, hãy tránh ra.” Không ánh sáng, không muối, hình dáng thế gian này sẽ rất ghê tởm, nó sẽ trở thành nơi thật nhàm chán và chẳng ai có thể sống được. Thế nhưng, có ánh sáng, có muối, thế gian này sẽ trở thành một nơi an toàn hơn và đẹp hơn. Đây chính là bổn phận của Kitô hữu chúng ta, là làm cho thế giới này trở thành một nơi tốt đẹp hơn.

Nhưng làm bằng cách nào? Cũng như muối và ánh sáng, chúng đã làm bổn phận của mình.

Trước hết, muối phải là chất khác hẳn với thức ăn trước khi nó được mang vào sử dụng. Một khi muối đã mất vị mặn của nó, nó trở nên nhạt, vì thế nó chẳng còn thực hiện sự khác biệt gì nữa. Ánh sáng phải khác biệt với bóng tối thì ánh sáng mới hữu ích. Một đèn pin mà hết pin thì đèn pin ấy cũng là vô ích vì nó chẳng soi gì được cho người đang ở trong bóng tối. Vì thế, trở nên muối và ánh sáng của thế gian nghĩa là phải trở nên khác với thế gian. Một khi người-tin chẳng khác gì với kẻ không-tin, cũng giống như muối đã mất vị mặn nơi chính nó, nên nó cũng chẳng làm nên cái khác biệt nào cả. Vậy, điều để làm chúng ta khác với người không-tin (hay chưa-tin) chẳng phải nơi lời ăn tiếng nói, nơi những huy hiệu, hoặc những đèn pin mà chúng ta đang mang, nhưng chính là cuộc sống mà chúng ta sống. Như Chúa Giêsu nói trong đoạn Ga 13,35, “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau.” Lòng yêu thương chính là dấu đặc biệt mà qua đó bạn có thể biết được đâu là Kitô hữu thật và đâu là Kitô hữu giả.

Thứ hai, cả muối và ánh sáng đều hoạt động bằng cách kết hợp vào cái mà chúng muốn thay đổi. Muối chẳng thể nào làm đậm đà thức ăn nếu mà nó không thẩm thấu và làm thay đổi tận bên trong thức ăn. Ánh sáng chẳng thể nào chỉ ra con đường đi nếu ánh sáng ấy không tiếp cận với chính đêm tối. Đôi khi một số Kitô hữu nghĩ rằng, con đường mình đi phải là con đường tránh khỏi mọi dính dáng đến xã hội và văn hóa toàn cầu. Nhưng một khi chúng ta xa lánh mọi thực tại của xã hội và thế gian, có nghĩa là chúng ta đang thực sự lấy hũ đậy lên đèn của mình. Để thực hiện sự khác biệt, chúng ta cần đứng lên và dấn thân vào cuộc đời.

Đoạn Tin Mừng hôm nay làm chúng ta hoảng. Vâng! qua đoạn Tin Mừng, cho biết rằng, nếu trong thế giới ngày nay đang còn quá nhiều đêm tối và đắng cay, đó là do những Kitô hữu chúng ta đã thất bại trong công việc của mình, là không trở nên muối và ánh sáng trong thế gian. Nhưng không sao, từ bây giờ, chúng ta có thể quyết định để thực hiện sự khác biệt. Chúng ta có thể quyết định thắp lên một ngọn nến, còn hơn là ngồi mà cứ mãi nguyền rủa bóng đêm. Hãy cứ thắp, cho dù với một cây nến nhỏ bé nhất, vẫn là hữu ích, trong một thế giới đang ngập tràn tăm tối.

 

39.Muối

Mahatma Gandhi (1869-1948), vị thánh của những người Ấn giáo, đã đấu tranh giành lại độc lập và tự do cho Ấn Độ bằng đường lối ôn hòa bất bạo động, đã nói: “Nếu tôi đã hân hạnh gặp được một người nào là Kitô hữu chân thực, có lẽ tôi đã trở nên một người Kitô hữu ngay lập tức”. Nếu mẹ Têrêsa đã sống vào thời Gandhi, ông đã trông thấy mẹ ở thành phố Calcutta, và có lẽ ông đã trở thành một người Công giáo. Một vị thánh giống như Mẹ Têrêsa là một người có đời sống làm cho người khác phải tin vào Thiên Chúa. Chính mẹ Têrêsa đã sống và đã định nghĩa: “Kitô hữu là người trao ban chính bản thân mình”.

Hôm nay trong bài Phúc âm, vai trò của người Kitô hữu trên trần thế được Chúa Giêsu định nghĩa bởi hai tiếng: Muối và Ánh sáng. “Các con là muối đất cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại?… Các con là ánh sáng cho trần gian, một thành xây trên núi không tài nào giấu được”.

Theo William Barclay, khi Chúa Giêsu nói: “Các con là muối cho đời”, Ngài đã sử dụng một lối diễn tả đặc biệt bằng cách ca ngợi sự vĩ đại nhất dành cho một con người. Đó là nhấn mạnh đến sự hữu ích và phẩm giá của một người. Thời xưa muối rất có giá trị. Người Hy Lạp coi muối như thần linh. Trong một câu ngạn ngữ bằng tiếng Latinh, người Lamã đã nói: “Nil utilius sole et sale” – “Không có gì hữu ích hơn là mặt trời và muối”. Trong thời Chúa Giêsu, muối được nối kết với ba đức tính cao quí của con người: sự thanh khiết, bảo trì, và khẩu vị.

Người Lamã nghĩ rằng muối là vật thanh khiết vì nó đến từ sự thanh khiết nhất đó là mặt trời và biển cả. Do đó muối là của lễ đầu tiên được dâng cúng cho các thần, và khi kết thúc một ngày, những lễ vật của người Do Thái được dâng lên với muối. Nếu người Kitô hữu là muối, ắt hẳn phải là một gương mẫu của sự thanh khiết.

Thời cổ xưa, muối là một phương tiện phổ thông nhất để giữ cho đồ ăn khỏi bị hư thối. Plutarch đã dùng một lối diễn tả lạ lùng khi nói rằng thịt là một xác chết. Xác chết đó sẽ thối, nếu để nó y như vậy. Nhưng muối bảo trì và giữ nó tươi. Do đó muối giống như một linh hồn mới được đưa vào trong một thân xác đã chết. Muối giữ cho thịt khỏi bị mục rữa. Nếu người Kitô hữu là muối, ắt hẳn phải có một ảnh hưởng chống lại những điều độc hại giống như vi trùng trong cuộc sống.

Nhưng đặc tính vĩ đại và hiển nhiên nhất của muối là làm cho món ăn đậm đà và ngon miệng. Đồ ăn thiếu muối sẽ trở nên nhạt nhẽo. Giống như muối làm cho lương thực trở nên ngon, người Kitô hữu cũng tạo nên khẩu vị thơm ngon cho cuộc đời.

Thế nhưng điều trái ngược đã xảy ra trong lịch sử. Người ta đã đổ lỗi cho Kitô giáo đã làm mất hương vị của cuộc sống. Ngay sau khi hoàng đế Constantine trở lại đạo và biến Kitô giáo thành tôn giáo của đế quốc Lamã, đến thời hoàng đế Julian lên ngôi, ông lại muốn đưa các thần linh xưa kia trở lại, và phàn nàn rằng: “Các bạn có nhìn kỹ vào những người Kitô hữu này chưa? Con mắt lõm sâu, đôi má tái mét nhợt nhạt, bộ ngực xẹp lép; chúng ủ ê một cuộc sống vô hồn, chẳng ồn ào tham vọng: mặt trời chiếu rọi cho họ, nhưng họ không nhìn thấy; trái đất cống hiến đầy đủ cho họ, nhưng họ chẳng ước muốn gì; tất cả những điều mong muốn của họ là từ bỏ mọi sự và chấp nhận đau khổ cho đến chết”.

Thực ra không phải vì Kitô giáo đã trở nên bi quan yếm thế, làm mất đi sự sinh động của cuộc đời, nhưng bởi hoàng đế Julian quá dính bén với cuộc sống trần thế vật chất này và đã trở nên sa đọa!

Theo các nhà chú giải Thánh Kinh, người Do Thái dùng muối được lấy ra từ hai nguồn cung cấp. Một là từ các bờ biển sản xuất muối có chất lượng cao cho việc nấu nướng đồ ăn, gọi là muối biển. Người đầu bếp chỉ việc ném cục muối to vào nồi đồ ăn, rồi nếm thử, nếu đã vừa miệng thì lấy cục muối ra. Nó có thể được sử dụng vài lần, từ từ sẽ trở nên lạt, và giảm dần sự mặn mà.

Nguồn cung cấp muối thứ hai đến từ Biển Chết – biển mặn nhất trên trái đất. Nhưng muối lấy từ Biển Chết có pha trộn nhiều khoáng chất hỗn hợp khác. Khi phần muối đã tan ra, nó không còn là cục muối nữa, mà chỉ là một cục khoáng chất vô dụng. Sau cùng chỉ ném ra ngoài đường “cho người ta chà đạp dưới chân”.

 

40.Ánh sáng

Chúa Giêsu dùng một hình ảnh cụ thể khác để nói về vai trò của các môn đệ: “Các con là ánh sáng cho trần gian”. Ở một chỗ khác, Chúa Giêsu nói về chính Ngài rằng: “Ta là ánh sáng thế gian”. Vậy ai là ánh sáng thế gian, Chúa Giêsu hay các môn đệ?

Điều có vẻ mâu thuẫn này được giải quyết khi Chúa Giêsu nói về chính mình như sau: “Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian”. Bao lâu thân xác Ngài còn đang hiện diện nơi trần thế, chính Ngài là ánh sáng thế gian. Nhưng khi cuộc đời trần thế của Ngài không còn nữa, các môn đệ của Ngài phải đóng vai trò ánh sáng thế gian. Vì họ đã được hấp thụ bởi chính nguồn ánh sáng là Đức Kitô, nên phải phản ảnh lại ánh sáng đó.

Xưa kia, có một người đàn ông mua được một hộp nữ trang mà người bán hàng hứa rằng nó sẽ chiếu sáng lóng lánh trong đêm tối. Đêm đó ông đặt hộp nữ trang trên bàn và bật đèn sáng lên xem. Nhưng quá thất vọng vì hộp nữ trang đã không chiếu tỏa ra ánh sáng trong đêm tối như người bán hàng đã hứa. Tình cờ vợ của ông nghe biết được câu chuyện. Ngày hôm sau, bà đặt hộp nữ trang dưới ánh sáng mặt trời, đến tối nó tỏa ra ánh sáng lung linh rực rỡ. Thấy thế bà vợ mới cắt nghĩa cho chồng như sau: “Anh đã quên làm theo những lời hướng dẫn trong cái hộp này: “Hãy đặt tôi dưới ánh mặt trời ban ngày, và ban đêm tôi sẽ chiếu ánh sáng cho bạn”. Hộp nữ trang đó đã không tỏa ra ánh sáng vì nó đã không hấp thụ được ánh mặt trời ban ngày. Nó phải nhận được ánh sáng thì mới phát ra ánh sáng được.

Trong bài đọc thứ 2, thánh Phaolô chỉ cho chúng ta nơi chốn để lấy được năng lực và sản xuất ánh sáng. Đó là từ thập giá của Đức Kitô. Thánh Phaolô nói rõ ràng là nhiều vị giảng thuyết tài ba đã đến với dân thành Côrintô, kẻ thì dựa trên học vấn lỗi lạc, người thì dựa vào tài hùng biện, ăn nói khéo léo, kẻ khác dựa trên các đức tính cá nhân của họ. Còn ngài, thánh Phaolô đã dựa trên: “Tôi xác định rằng hồi còn ở với anh em, tôi đã không rao giảng điều gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô, mà chính Ngài đã chịu đóng đinh vào thập giá”.

Ngày chịu phép rửa tội, mỗi người chúng ta đã đón nhận cây nến được đốt lên từ ánh sáng Chúa Kitô. Qua lời hứa của cha mẹ đỡ đầu, chúng ta chấp nhận phản chiếu ánh sáng Chúa Kitô đó bằng chính đời sống Kitô hữu của mình. Ánh sáng của cây nến là biểu tượng của đức tin trong đời sống Kitô hữu.

Sách Giáo lý Công giáo số 1216 xác định rằng: “Trong phép Rửa tội, người được rửa tội nhận lấy Ngôi Lời là “ánh sáng đích thực soi sáng mọi người”, và “sau khi được soi sáng như thế”, họ trở nên “con của sự sáng” và chính bãn thân họ là “ánh sáng”.

Công đồng Vatican II khuyên như sau: “Người giáo dân có rất nhiều cơ hội làm việc tông đồ: rao giảng Phúc âm và thánh hóa. Chính chứng tá của đời sống Kitô và những việc lành được làm với tinh thần siêu nhiên có sức lôi kéo người ta đến đức tin và đến với Thiên Chúa, vì Chúa phán: “Sự sáng của các con phải soi trước mắt người ta, như vậy để họ xem thấy việc lành các con mà ngợi khen Cha các con ở trên trời”.

Ước gì trong cuộc đời Kitô hữu, chúng ta ý thức được vai trò làm muối và ánh sáng như lời Chúa dạy trong bài Phúc âm hôm nay. Để chu toàn trách nhiệm này, xin Chúa “thắp sáng lên trong con tình yêu của Chúa”. Nếu không có tình yêu và ân sủng của Chúa, chúng ta chẳng là gì cả.