(Trích dẫn từ ‘Manna’)
Suy Niệm
“Hãy đi khắp thế giới, loan báo Tin Mừng…”
Lời Đức Giêsu mời gọi làm chúng ta nhức nhối.
Thế giới chẳng phải ở đâu xa. Thế giới là quê hương tôi với gần 80 triệu dân. Thế giới là những người tôi vẫn gặp, những nơi tôi vẫn sống. Thế giới ấy, chân tôi chưa một lần đi hết, miệng tôi chưa một lần loan báo tin vui.
Tôi có lòng tin không? Tôi có dám tin Lời Chúa không?
Chúa hứa cho những ai tin được khả năng trừ quỷ, nghĩa là giải phóng con người khỏi mọi hình thức nô lệ, khả năng chữa bệnh để xoa dịu nỗi đau của trần gian, khả năng nói những ngôn ngữ mới để đem lại hiệp nhất. Các tông đồ đã tin và thấy Chúa cùng làm việc với mình. Họ chẳng bao giờ cô đơn trên bước đường rao giảng.
Có nhiều cách loan Tin Mừng, nhiều cách truyền giáo.
Cách thứ nhất là bằng chính cuộc sống bản thân. Nếu các Kitô hữu đều siêu thoát danh lợi, sống trung thực, thanh khiết, sống chung thủy, yêu thương… Một Kitô hữu nghèo mà vui tươi, hạnh phúc, thì đó là một lời chứng đáng tin cậy.
Làm cho xã hội được tốt đẹp hơn, đó cũng là một cách loan báo Tin Mừng rất hiệu quả. Kitô giáo phải góp phần xây dựng một thế giới hòa bình và huynh đệ, công bằng và ấm no, nơi nhân phẩm của từng người được tôn trọng, nơi bóng tối của sự ích kỷ tàn nhẫn bị đẩy lui.
Mẹ Têrêxa Calcutta đã âm thầm loan báo Tin Mừng bằng những cử chỉ nhân ái với bao người cùng khổ. Mẹ đã đi nhiều nơi trên thế giới để lập các cộng đoàn.
Còn thánh Têrexa nhỏ đã truyền giáo tại chỗ bằng lời cầu nguyện và những hy sinh nhỏ bé. Chị là nữ tu dòng Kín, sống trong bốn bức tường, nhưng lại được phong làm bổn mạng các xứ truyền giáo. Chị đã đi khắp thế giới, không phải bằng đôi chân, nhưng bằng lòng ước ao của một trái tim cháy bỏng.
Phải sống sao để người ta thắc mắc, đặt câu hỏi. Nhưng cũng phải sẵn sàng trình bày câu trả lời.
Dù bạn chẳng uyên thâm về giáo lý nhưng hãy bập bẹ nói về Chúa bằng kinh nghiệm của bạn.
Truyền giáo là giới thiệu cho người khác Đấng tôi đã quen. Có thể người ấy đã biết Đấng này từ lâu rồi.
Anrê đã gọi Simon, Philipphê đã gọi Nathanaen đến gặp Chúa. Cần tập đến với người khác như Đức Giêsu đã đến với người phụ nữ Samari. Hãy xin nước uống, trước khi nói về Nước Hằng Sống. Hãy tìm hiểu người đối diện trước khi loan báo Tin Mừng. Chúng ta cần thấm nhuần văn hóa dân tộc thì mới biết cách nói về Chúa Cha cho đồng bào mình.
Nếu cả đời, mỗi Kitô hữu mời được một người theo đạo, thì nguyện ước của Đấng Phục Sinh được thành tựu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Thánh Têrêxa nhỏ đã được tôn phong làm tiến sĩ Hội Thánh. Bạn nghĩ gì về kiểu truyền giáo bằng cầu nguyện và hy sinh của chị? Bây giờ có hợp thời không?
Mẹ Têrêxa hiến đời mình cho người cùng khổ, bệnh tật, không phân biệt tôn giáo, màu da… Bạn nghĩ gì về kiểu truyền giáo này? Nó có đánh động trái tim con người hôm nay không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Tình Yêu của con, nếu Hội Thánh được ví như một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau, thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu một chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất. Đó là Trái Tim, một Trái Tim bừng cháy tình yêu.
Chính tình yêu làm cho Hội Thánh hoạt động. Nếu trái tim Hội Thánh vắng bóng tình yêu, thì các tông đồ sẽ ngừng rao giảng, các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình…
Lạy Chúa Giêsu, cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con, ơn gọi của con chính là tình yêu. Con đã tìm thấy chỗ đứng của con trong Hội Thánh: nơi Trái Tim Hội Thánh, con sẽ là tình yêu, và như thế con sẽ là tất cả, vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong Hội Thánh. Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho con, mọi ước mơ của con được thực hiện. (dựa theo lời của thánh Têrêxa)
(Trích dẫn từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Truyền giáo là một mệnh lệnh và cũng là một ước mơ của Chúa Phục Sinh: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ.”
Ngài đòi ta phải ra đi loan báo Tin Mừng, nhưng cuối cùng là phải giúp người khác trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, nghĩa là có tương quan thân thiết với Ngài, dám sống như Ngài, sống cho Cha và con người.
Đấng Phục Sinh nắm quyền trên cả thế giới, nên Ngài sai chúng ta đến với mọi dân tộc. Tin Mừng không còn bị giới hạn trong mảnh đất Israel, nhưng lan rộng khắp trái đất (x. Mt 10,5). Ngày nào còn một người chưa trở thành môn đệ, ngày ấy trách nhiệm chúng ta vẫn còn.
“Bằng cách làm phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Phép Rửa khiến người ta trở thành môn đệ Đức Kitô, và đi vào tương quan với Ba Ngôi Thiên Chúa.
“Bằng cách dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy truyền cho anh em”, như thế các môn đệ thuộc bất cứ thời đại nào đều có một điểm chung, đó là cùng tuân giữ toàn bộ giáo huấn của Chúa.
“Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” Đây không phải là một lời hứa cho tương lai, nhưng là một điều đang xảy ra trong hiện tại. Chúa Giêsu thật là Emmanuel (Mt 1,23), Ngài ở cùng Giáo Hội, ở cùng các môn đệ, Ngài ở bên họ trong mọi bước đường rao giảng (Mc 16,20).
Khi nhìn đến quê hương Việt Nam, chúng ta thấy hơn 70 triệu người chưa biết Chúa. Chúng ta có trách nhiệm loan báo Tin Mừng, có bổn phận nói về Chúa cho họ, nói bằng lời và nói bằng cuộc sống cụ thể. Làm sao qua cuộc sống của tôi: yêu thương, tha thứ, hy sinh phục vụ, bình an vui tươi, người ta gặp được Đấng Vô Hình mà gần gũi? Làm sao tôi có thể trả lời được những câu hỏi, soi sáng được những vấn đề nhức nhối của họ bằng ánh sáng Tin Mừng?
Truyền giáo không phải là tuyên truyền hay mua chuộc, cũng không phải là áp đặt một cách tinh vi, Truyền giáo là hát lên niềm vui chất chứa nơi lòng mình, là tỏa hương tự nhiên như đoá hoa. Truyền giáo là hơi thở của một Giáo Hội đầy sức sống Thánh Thần.
Chúng ta phải biếu Chúa Giêsu cho con người hôm nay. Nhưng trước hết chúng ta phải có Chúa Giêsu, và phải biết lắng nghe con người.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, tại sao ít người Việt Nam theo đạo Công Giáo? Có gì cần sửa đổi để người khác dễ chấp nhận đạo chúng ta hơn không?
Cha Đắc Lộ đã đi truyền giáo ở Việt Nam và đã đóng góp nhiều cho việc hình thành chữ Quốc Ngữ. Theo bạn, người Công Giáo Việt Nam hôm nay có thể làm được điều gì cho quê hương Cha Đắc Lộ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Chúa đã muốn trở nên con của loài người, con của trái đất, con của một dân tộc. Chúa vẫn yêu mến dân tộc của Chúa dù họ từ khước Tin Mừng và đóng đinh Chúa vào thập giá. Xin cho chúng con biết yêu mến quê hương, một quê hương còn nghèo nàn lạc hậu sau những năm dài chiến tranh, một quê hương đang mở ra trước thế giới nhưng lại muốn giữ gìn bản sắc dân tộc và bảo vệ nền đạo lý của cha ông.
Xin cho chúng con đừng nhắm mắt ngủ yên trong sự an toàn và tiện nghi vật chất, nhưng biết trăn trở trước nỗi khổ đau, và làm một điều gì đó thật cụ thể cho những đồng bào quanh chúng con. Ước gì chúng con biết phục vụ đất nước bằng khối óc, quả tim và đôi tay. Và ước gì chúng con biết khiêm tốn cộng tác với muôn người thiện chí.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
“Được rửa tội và được sai đi, Giáo Hội Chúa Kitô thi hành sứ mạng trong thế giới”, đó là chủ đề cho tháng Mười năm nay (10/2019), được Đức Thánh Phanxiccô tuyên bố là “Tháng Truyền Giáo Ngoại Thường”. Mục đích của Tháng truyền giáo ngoại thường là giúp các tín hữu thấy tính thời sự và cấp thiết của công cuộc loan báo Tin Mừng, vì lời Chúa Giêsu sai các tông đồ ra đi loan truyền Tin Mừng vẫn mang tính thời sự. Công đồng Vantican II khẳng định: “Truyền giáo là bản chất của Giáo Hội lữ hành”. Tuy vậy, trong suy tư và thực hành của số đông những người Công giáo, khái niệm “Truyền giáo” thực sự ít được để ý đến. Làm thế nào để hâm nóng nơi mỗi người tín hữu tinh thần truyền giáo, là căn bản của đời sống Kitô hữu? Đó là một trong những băn khoăn của Giáo Hội, của Đức Thánh Cha và của những vị chủ chăn ở mọi cấp độ.
Khái niệm “được sai đi” gắn liền với Bí tích Thanh tẩy. Bởi lẽ Bí tích này trao cho chúng ta ba sứ mạng quan trọng: Ngôn sứ, Tư tế và Vương đế. Chính vì thế, người giáo dân không được giữ lối suy nghĩ cũ kỹ trước đây coi việc truyền giáo là của “nhà tu” hoặc của một số người được tuyển lựa. Mỗi tín hữu đều có bổn phận thực thi sứ mạng này, tùy hoàn cảnh, khả năng và điều kiện của mình. Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu, một nữ tu sống trong Đan viện Các-men, không bao giờ ra ngoài và không tiếp xúc với ai. Tuy vậy, thánh nữ có tinh thần truyền giáo, qua những ước ao cháy bỏng để “đem Thánh giá đi trồng tại mọi miền đất trên thế giới” như lời Thánh nữ đã viết. Vì vậy, Thánh nữ cộng tác vào sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội bằng lời cầu nguyện. Nhiệt huyết truyền giáo được thể hiện qua những lời cầu nguyện sốt sắng và những hy sinh trong cuộc sống hằng ngày. Vì lẽ đó, Thánh Têrêsa được đặt làm Bổn mạng các xứ truyền giáo, ngang hàng với Thánh Phanxicô Xaviê, là người rảo khắp vùng Á châu để rao giảng Tin Mừng. Qua việc chọn Thánh Têrêsa làm Bổn mạng các xứ truyền giáo, Giáo Hội khẳng định với chúng ta: hiệu quả của công cuộc truyền giáo không chỉ đến từ những hoạt động bên ngoài, mà còn đến từ lời cầu nguyện và những thao thức làm cho Chúa Giêsu được mọi người nhận biết.
Nhìn lại thực tế các cộng đoàn tín hữu Công giáo tại Việt Nam, một tác giả đã nhận định: “Giáo dân tự hài lòng và an tâm với những sinh hoạt và tổ chức nội bộ, chưa ý thức vận dụng những thuận lợi sẵn có này cho công cuộc truyền giáo. Các linh mục chuyên chăm việc mục vụ hơn là truyền giáo, ưu tiên lo cho giáo dân hơn là đi tìm lương dân, hoạt động nghiêng về điều hành hơn là mở rộng, quản lý hơn là khám phá, suy nghĩ theo lối mòn hơn là tư duy cải biến, chuộng an thân hơn là dấn thân” (Trích bài viết của Lm G.B Trương Thành Công trong buổi gặp gỡ tại Vinh từ ngày 21-23/8/2019 do UB LBTM của HĐGM VN tổ chức). Quả vậy, hầu hết nơi các cộng đoàn và các cá nhân, chúng ta hài lòng với một tổ chức ổn định trong giáo xứ, nên ít để ý tới việc “đi ra các vùng ngoại biên” như Đức Thánh Cha mời gọi.
“Tháng truyền giáo ngoại thường” đã đến phần cuối và sẽ kết thúc. Tuy vậy tinh thần truyền giáo gắn liền với đời sống đức tin của người Kitô hữu. Cũng trong bài viết được nêu trên đây, tác giả nêu ba bước trong lộ trình truyền giáo cho lương dân: tiếp cận, xây dựng yêu thương và kể lại những điều may lành Chúa làm cho bản thân, như chứng từ chân thực về đức tin và vào sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời. Phương pháp này nhằm tạo sự thân thiện đối với anh chị em không cùng tôn giáo, không mang tính chiêu dụ nhưng khiêm tốn và chân thành trình bày đức tin của mình cho người khác.
Điều cần phải thực hiện trước hết khi nói đến truyền giáo, đó là xây dựng gia đình bền vững trong đức tin và trong tình yêu thương. Một gia đình tốt sẽ có sức lan tỏa sức mạnh truyền giáo đến môi trường xung quanh. Tình nghĩa vợ chồng, mối tương quan hài hòa giữa anh chị em và các thế hệ con cháu… tất cả là một chứng từ hùng hồn và hiệu quả cho đời sống đức tin. Khởi đi từ gia đình, chúng ta liên hệ đến khái niệm “gia đình” rộng lớn hơn, tức là giáo xứ, vì giáo xứ là một gia đình lớn gồm nhiều gia đình nhỏ hợp lại. Tình liên đới hiệp thông nơi cộng đoàn giáo xứ là một trong những điều kiện căn bản để thực thi sứ mạng truyền giáo. Tiếc thay đây đó còn tồn tại những chia rẽ nghiêm trọng nơi các cộng đoàn, như phản chứng của Tin Mừng và làm méo mó hình ảnh của Giáo Hội Chúa Kitô. Những hoạt động từ thiện nhằm giúp những người cơ nhỡ, dù là người đồng đạo hay anh chị em lương dân, đều diễn tả sinh động đức Ái là cốt lõi của Tin Mừng và giúp mọi người nhận ra các tín hữu là con của Cha trên trời.
“Có một thuộc tính không thể thiếu đối với những người bước vào đời sống tông đồ. Một điều tối quan trọng và thiết yếu, đó là họ phải có đời sống thánh thiện, Bởi vì ai rao giảng Thiên Chúa thì bản thân họ phải là một người của Thiên Chúa…” (Maximum Illud, số 26). Sự thánh thiện của mỗi chúng ta là điều cần thiết để Tin Mừng của Chúa được lan tỏa trong cuộc sống hôm nay. Đó cũng là điều mỗi người phải thực hiện trước hết, nếu muốn trở nên tín hữu đích thực và những thừa sai loan báo Tin Mừng.
4.Sứ Điệp cho ngày Thế Giới Truyền Giáo 2019
(Bản dịch Tiếng Việt Lm. Đaminh Ngô Quang Tuyên)
SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ CHO NGÀY THẾ GIỚI TRUYỀN GIÁO 2019
Được Rửa Tội và Được Sai Đi:
Hội Thánh Chúa Kitô thi hành sứ mạng trong thế giới
Anh chị em thân mến,
Hướng đến Tháng Mười 2019, tôi đã xin toàn thể Hội Thánh làm sống lại sự ý thức và dấn thân truyền giáo của Hội Thánh khi chúng ta kỷ niệm một trăm năm Tông Thư Maximum Illud của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XV (30 tháng 11, 1919). Tầm nhìn xa mang tính tiên tri của Tông Thư về hoạt động tông đồ này đã giúp tôi một lần nữa hiểu ra tầm quan trọng của việc đổi mới sự dấn thân truyền giáo của Hội Thánh và tạo sức đẩy Tin Mừng mới cho công cuộc rao giảng và đem cho thế giới ơn cứu độ của Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết và phục sinh.
Tựa đề của Sứ Điệp này cũng y hệt tựa đề của Tháng Mười Đ ặc Biệt Truyền Giáo: Được Rửa Tội và Được Sai Đi: Hội Thánh Chúa Kitô thi hành sứ mạng trong thế giới. Cử hành tháng này sẽ giúp chúng ta trước hết tái khám phá chiều kích truyền giáo của lòng tin của chúng ta vào Đức Giêsu Kitô, một lòng tin đã được Thiên Chúa thương ban cho chúng ta trong phép rửa. Mối quan hệ con thảo của chúng ta với Thiên Chúa không phải chỉ đơn thuần là một cái gì riêng tư, nhưng luôn luôn liên quan đến Hội Thánh. Nhờ mối quan hệ con thảo của chúng ta với Thiên Chúa, Cha, Con và Thánh Thần, chúng ta cùng với rất nhiều anh chị em chúng ta được sinh ra cho đời sống mới. Sự sống thần linh này không phải là sản phẩm để bán-chúng ta không làm chuyện chiêu dụ người ta vào đạo-nhưng là một kho báu để cho tặng, truyền thông và công bố: đó là ý nghĩa của truyền giáo. Chúng ta được cho không mòn quà này và chúng ta cũng đem nó cho không người khác (x. Mt 10:8), không loại trừ một ai. Thiên Chúa muốn mọi n gười được cứu rỗi bằng cách nhận biết chân lý và trải nghiệm lòng thương xót của Người nhờ sứ vụ của Hội Thánh, mầu nhiệm phổ quát của ơn cứu độ (x. 1 Tm 2:4; Lumen Gentium, 48).
Hội Thánh đang thi hành sứ mạng trên thế giới. Lòng tin vào Đức Giêsu Kitô giúp chúng ta nhìn mọi sự trong viễn cảnh đúng của chúng, khi chúng ta nhìn thế giới bằng con mắt và trái tim của Thiên Chúa. Đức cậy mở lòng chúng ta ra những chân trời vĩnh cửu của sự sống thần linh mà chúng ta được thông phần vào. Đức ái mà chúng ta được nếm cảm trước trong các bí tích và tình yêu thương huynh đệ, thúc đẩy chúng ta đi đến mọi chân trời góc biển (x. Mk 5:4; Mt 28:19; Cv 1:8; Rm 10:18). Một Hội Thánh quyết tiến tới những vùng biên cương xa xôi nhất thì cần có một sự hoán cải truyền giáo kiên trì và liên tục. Biết bao vị thánh, biết bao người nam người nữ giàu đức tin, làm chứng cho sự thật rằng sự mở rộng vô hạn này, sự đi ra trong tình thương xót này quả thật là khả thi và thực tế, vì nó được thúc đẩy bởi tình yêu và ý nghĩa sâu xa nhất của nó như là một quà tặng, một hi sinh và một sự cho không (x. 2 Cr 5:14-21)! Người rao giảng về Thiên Chúa phải là một người của Thiên Chúa (x. Maximum Illud).
Sứ mạng truyền giáo này chạm tới bản thân chúng ta: Tôi là một sứ mạng, luôn luôn; bạn là một sứ mạng, luôn luôn; mỗi người nam người nữ đã chịu phép rửa là một sứ mạng. Những người đang yêu thì không bao giờ ở yên; họ được kéo ra khỏi con người họ; họ được thu hút bởi người khác và họ thu hút người khác; họ hiến mình cho người khác và xây dựng những mối quan hệ trao ban sự sống. Liên quan đến tình yêu của Thiên Chúa, không ai là vô ích hay vô nghĩa. Mỗi người chúng ta là một sứ mạng cho thế giới, vì mỗi chúng ta là kết quả tình yêu của Thiên Chúa. Cho dù những người cha người mẹ có thể phản bội tình yêu của họ bằng sự dối trá, thù hằn và bất trung đi chăng nữa, Thiên Chúa không bao giờ lấy lại món quà sự sống của Người. Từ thuở đời đời Người đã tiền định ch o mỗi con cái của Người được dự phần vào sự sống thần linh vĩnh cửu của Người (x. Ep 1:3-6).
Sự sống này được ban cho chúng ta trong Phép Rửa, ban cho chúng ta ơn đức tin vào Đức Giêsu Kitô, Đấng chiến thắng tội lỗi và sự chết. Phép Rửa tái sinh chúng ta theo hình ảnh Thiên Chúa và giống như Thiên Chúa, và làm chúng ta thành những chi thể của Thân Thể Chúa Kitô, tức là Hội Thánh. Theo nghĩa này, Phép Rửa thực sự cần thiết để được cứu rỗi vì nó bảo đảm rằng , luôn luôn và mọi nơi, chúng ta là những người con trai con gái trong nhà Cha, chứ không bao giờ là những trẻ cô nhi, những người xa lạ hay nô lệ. Thực tại bí tích nơi người Kitô hữu -được hoàn thành trong Thánh Thể-vẫn là ơn gọi và số phận của mọi người nam người nữ đang tìm kiế m ơn hoán cải và ơn cứu độ. Bởi vì Phép Rửa hoàn thành lời hứa về món quà của Thiên Chúa làm cho mọi người trở thành con cái [của Thiên Chúa] trong Chúa Con. Chúng ta là con cái của cha mẹ ruột chúng ta, nhưng trong Phép Rửa chúng ta nhận được nguồn mạch của mọi tình phụ tử và tình mẫu tử đích thực: Không ai có thể có Thiên Chúa là Cha nếu không có Hội Thánh là mẹ (x. Thánh Cyprianô, De Cath. Eccl., 6).
Do đó, sứ mạng của chúng ta bắt nguồn từ tình cha của Thiên Chúa và tình mẹ của Hội Thánh. Sứ vụ Chúa Giêsu Phục Sinh truyền cho các môn đệ vào ngày Phục Sinh là yếu tố nội tại trong Phép Rửa: Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em, đầy tràn Thánh Thần, để thế gian được giao hoà (x. Ga 20:19-23; Mt 28:16-20). Sứ mạng này là phần thiết yếu của căn tính Kitô hữu chúng ta; nó làm chúng ta có trách nhiệm giúp mọi người thể hiện ơn gọi của họ là làm nghĩa tử của Chúa Cha, nhận ra nhân phẩm của mỗi người và quí trọng giá trị nội tại của sự sống con người, từ lúc thụ thai tới lúc chết. Chủ nghĩa thế tục lan rộng ngày nay, khi nó nhất quyết từ chối tình phụ tử chủ động của Thiên Chúa trong lịch sử của chúng ta, nó là một cản trở cho tình huynh đệ đích thực của loài người, được biểu hiện trong sự kính trọng sự sống của người khác. Không có Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, mọi sự khác biệt đều bị coi là một mối đe doạ nguy hại, khiến người ta không thể nào có sự chấp nhận lẫn nhau trong tình huynh đệ chân thành và sự hiệp nhất hiệu quả giữa loài người.
Tính phổ quát của ơn cứu độ được Thiên Chúa ban cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô đã khiến Đức Thánh Cha Bênêđíctô XV kêu gọi chấm dứt mọi hình thức chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa chủng tộc, hay sự xuất hiện của việc rao giảng Tin Mừng nhằm đạt được các lợi kích kinh tế và quân sự của các cường quốc thực dân. Trong Tông Thư Maximum Illud, Đức Giáo Hoàng lưu ý rằng sứ mạng phổ quát của Hội Thánh đòi hỏi phải gạt bỏ các ý tưởng độc quyền về tư cách thành viên của đất nước hay nhóm sắc tộc của mình. Sự cởi mở của nền văn hoá và cộng đồng trước tính mới mẻ cứu độ của Đức Giêsu Kitô đòi hỏi phải bỏ lại đàng sau mọi hình thức tự kỷ về sắc tộc và giáo hội. Hôm nay cũng vậy, Hội Thánh cần những người nam người nữ, mà vì đã lãnh nhận phép rửa, họ quảng đại đáp lại tiếng gọi bỏ lại nhà cửa, gia đình, xứ sở, ngôn ngữ và giáo hội địa phương của họ, để được sai đến với các dân tộc khác, đến với một thế giới chưa được biến đổi nhờ các bí tích của Đức Giêsu Kitô và Hội Thánh Người. Bằng việc rao giảng Lời Chúa, làm ch ứng cho Tin Mừng và cử hành sự sống của Thần Khí, họ kêu gọi người ta hoán cải, họ làm phép rửa và cống hiến ơn cứu độ của Đức Kitô, với sự tôn trọng tự do của mỗi người và đối thoại với các nền văn hoá và tôn giáo của các dân tộc mà họ được gửi đến. Nhờ đ ó, ‘sứ mạng đến với muôn dân’, missio ad gentes, vốn luôn luôn cần thiết cho Hội Thánh, góp phần một cách thiết yếu cho tiến trình hoán cải thường xuyên nơi mọi Kitô hữu. Đức tin vào sự phục sinh của Đức Giêsu; sứ mạng Hội Thánh được lãnh nhận trong phép rửa; sự thoát dính bén địa lý và văn hoá với bản thân mình và gia đình mình; nhu cầu cứu thoát khỏi tội lỗi và giải phóng khỏi sự dữ cá nhân và xã hội: tất cả những điều này đòi hỏi sứ mạng phải đạt đến tận cùng cõi đất.
Sự trùng hợp quan phòng của dịp kỷ niệm một trăm năm này với việc cử hành Thượng Hội Đồng Đặc Biệt về các Giáo Hội Vùng Amazôn cho phép tôi nhấn mạnh rằng sứ mạng mà Đức Giêsu uỷ thác cho chúng ta với ơn Thần Khí của Người cũng đến đúng lúc và cần thiết cho các vùng đất ấy và các dân tộc ấy. Một lễ Hiện Xuống mới đang mở rộng cửa cho Hội Thánh, để không một dân tộc nào bị đóng kín trong chính mình và không dân tộc nào bị cắt đứt khỏi sự hiệp thông phổ quát của đức tin. Không một ai phải bị đóng kín trong tình trạng tự kỷ của mình, trong sự q ui chiếu về tư cách thành viên của sắc tộc và tôn giáo của mình. Biến cố Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô phá vỡ những giới hạn chật hẹp của các thế giới, các tôn giáo và các nền văn hoá, bằng cách kêu gọi họ lớn lên trong sự tôn trọng nhân phẩm của mọi người nam nữ, và hướng tới một sự hoán cải sâu xa để trở về với sự thật của Chúa Phục Sinh, Đấng ban sự sống đích thực cho mọi người.
Ở đây tôi nhớ đến những lời của Đức Bênêđíctô XVI khi ngài khai mạc Hội Nghị các Giám Mục Châu Mỹ Latinh tại Aparecida, Brazil, năm 2007. Tôi muốn lặp lại những lời này và lấy chúng làm những lời của chính tôi: “Nhưng các quốc gia Châu Mỹ Latinh và vùng Caribê đã hiểu việc chấp nhận đức tin Kitô giáo có nghĩa là gì đối với họ? Đối với họ, nó có nghĩa là biết và đón tiếp Đức Kitô, v ị Thiên Chúa vô danh mà các tổ tiên của họ từng tìm kiếm mà không biết, trong các truyền thống tôn giáo phong phú của họ. Đức Kitô là Đấng Cứu Độ mà họ âm thầm khao khát. Nó cũng có nghĩa là họ đã lãnh nhận, trong nước rửa tội, sự sống thần linh làm cho họ trở thành những nghĩa tử của Thiên Chúa; hơn nữa, họ đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, Đấng đã đến để làm cho các nền văn hoá của họ sinh hoa kết quả, bằng cách thanh luyện các nền văn hoá ấy và phát triển nhiều hạt giống mà Lời Nhập Thể đã gieo nơi họ, nhờ đó dẫn họ đi trên những con đường của Tin Mừng. Lời Thiên Chúa, khi trở thành xác thể nơi Đức Giêsu Kitô, cũng trở thành lịch sử và văn hoá. Cái ảo tưởng quay trở lại để thổi hơi thở sự sống vào các nền tôn giáo thời kỳ tiền -Côlombô, ngăn cách họ với Đức Kitô và với Hội Thánh hoàn vũ, sẽ không thể là một bước tiến tới phía trước: thực ra, nó sẽ là một bước giật lùi. Trên thực tế, sẽ là một bước thụt lùi về một giai đoạn lịch sử bám chặt vào quá khứ” ( Bài Diễn từ khai mạc Hội Nghị, 13 tháng 5, 2007: Insegnamenti III, 1 [2007], 855-856).
Chúng ta phó thác sứ mạng của Hội Thánh cho Đức Maria Mẹ chúng ta. Kết hợp với Con của mình từ lúc Nhập Thể, Đức Trinh Nữ Maria đã khởi sự con đường lữ hành của mình. Mẹ hoàn toàn gắn bó với sứ mạng của Đức Giêsu, một sứ mạng đã trở thành sứ mạng của chính Mẹ khi đứng dưới chân Thánh Giá: sứ mạng cộng tác, với tư cách là Mẹ Hội Thánh, trong việc sinh ra những người con trai con gái của Thiên Chúa trong Thần Khí và đức tin.
Tôi muốn kết thúc sứ điệp này với vài lời về các Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo, đã từng được đề nghị trong Maximum Illud như là một nguồn tài nguyên truyền giáo. Các Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo phục vụ tính phổ quát của Hội Thánh như là một mạng lưới toàn cầu để hỗ trợ Đức Giáo Hoàng trong cam kết truyền giáo của ngài bằng cầu nguyện, linh hồn của việc truyền giáo, và bằng các việc quyên góp bác ái từ các Kitô hữu trên khắp thế giới. Các khoản quyên góp của họ giúp Đức Giáo Hoàng trong các cố gắng loan báo Tin Mừng của các Giáo Hội địa phương (Hội Giáo Hoàng Truyền Bá Đức Tin), trong việc đào tạo hàng giáo sĩ địa phương (Hội Giáo Hoàng Thánh Phêrô Tông Đồ), trong việc gây ý thức truyền giáo giữa các nhi đồng (Hội Giáo Hoàng Thiếu Nhi Truyền Giáo), và trong việc khích lệ chiều kích truyền giáo của đức tin Kitô giáo (Hiệp Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo). Trong khi nhắc lại sự ủng hộ của tôi đối với các Hội này, tôi tin tưởng rằng Tháng Mười Đặc Biệt Truyền Giáo 2019 này sẽ góp phần canh tân việc phục vụ truyền giáo của các hội này cho sứ vụ của tôi.
Tôi thân ái gửi phép lành của tôi đến mọi người nam người nữ truyền giáo, và đến tất cả những ai, nhờ Phép Rửa, đang bằ ng cách này hay cách khác tham gia vào việc truyền giáo của Hội Thánh.
Từ Điện Vaticanô, 9 tháng 6, 2019, Đại lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
PHANXICÔ
(Suy niệm của ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống)
“Không biết khi Con Người đến, liệu còn gặp thấy niềm tin trên mặt đất nữa không?”. Trang Tin Mừng hôm nay được kết thúc như thế.
Có thể đó là câu hỏi một thoáng bâng khuâng Chúa Giêsu thốt lên cho riêng mình Người. Cũng có thể đó là câu hỏi dự báo một tình huống không vui Chúa Giêsu cảnh giác cho các môn đệ. Có khi câu hỏi đó đợi chờ một lời đáp tích cực mở ra cho lối sống đức tin lạc quan. Và biết đâu, câu hỏi đó lại chẳng tố giác một thực trạng tiêu cực đang dần dà bào mòn niềm tin tôn giáo?
Nhưng đặt trong bối cảnh của Chúa Nhật cầu cho việc truyền giáo, theo tinh thần của các bài đọc, câu hỏi ấy đã ẩn chứa một lời giải đáp. Đó là: để lòng tin còn mãi trên mặt đất, mọi thành phần của Dân Chúa cần phải sống tinh thần truyền giáo.
1) Tinh thần truyền giáo ấy được nuôi dưỡng bằng sự dung hòa giữa cầu nguyện và hoạt động.
Nói đến truyền giáo người ta thường nghĩ là phải dấn thân làm việc truyền giáo, và ai càng làm được nhiều, người ấy lại càng được xem là nhà truyền giáo lớn. Thực ra, quan niệm ấy cũng đúng, nhưng không đủ, bởi dù không phủ nhận những kết quả lớn lao trong lịch sử Giáo Hội do hoạt động truyền giáo mang lại, nhưng bao giờ cũng thế, bên trong những hoạt động ấy còn là cả một tinh thần cầu nguyện tích cực của bản thân các nhà truyền giáo cũng như của mọi thành phần Dân Chúa.
Thiếu cầu nguyện, hoạt động sẽ không kết quả, hoặc sẽ lái kết quả sang một hướng khác có nguy cơ “sáng danh tôi, tối Danh Chúa”. Vắng cầu nguyện, hoạt động có thể trở thành nguy hại, nó đồng nghĩa với náo động nếu không muốn nói là khua động ầm ĩ hoặc khuấy động ồn ào. Quên cầu nguyện, hoạt động chỉ là hời hợt mang tính phong trào bùng lên đó nhưng rồi cũng lịm tắt đó. Bạo phát bạo tàn, mau xộp mau xẹp! Bỏ cầu nguyện, hoạt động coi chừng chỉ còn là một việc cá nhân, dẫu bỏ ra nhiều công sức, nhưng vẫn không phải là hoạt động của Hội Thánh vốn luôn được nuôi dưỡng phong phú bởi nguồn ơn Chúa Thánh Thần.
Cầu nguyện là linh hồn của hoạt động truyền giáo. Nó đem đến cho những hoạt động một sức sống kín múc tận nguồn sứ mạng.
Bài đọc thứ nhất kể lại một hình ảnh sống động cho thấy mối tương liên không thể tách rời giữa việc Môsê giơ tay cầu nguyện và việc Giosuê đánh bại quân Amalếch. Khi Môsê hạ tay xuống, sức mạnh của ông Giosuê không còn nữa, nhưng khi ông giơ tay lên, phần thắng đã nghiêng về phía Giosuê. Chiến thắng ấy không riêng của Môsê hay riêng của Giosuê, mà là của Môsê cùng với Giosuê, là dung hòa của cầu nguyện và hoạt động, là tổng hợp của ơn thánh Chúa và nỗ lực con người.
Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã được mừng kính vào đầu tháng mười này cũng là một hình ảnh khác minh họa cho sự dung hòa giữa cầu nguyện và hoạt động truyền giáo. Chín năm khuôn mình trong nhà kín Lisieux, chưa hề làm việc truyền giáo bên ngoài, thế nhưng chỉ bằng hy sinh cầu nguyện cho các vị thừa sai và cho công cuộc rao giảng Tin Mừng, thánh nữ đã được Giáo Hội đặt làm Bổn Mạng các xứ truyền giáo, ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê một đời bươn chải giảng giải đạo Chúa đến tận miền xa Châu Á.
Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo, nên có thể nói được rằng không bao giờ Giáo Hội thôi truyền giáo. Bốn phần năm dân số địa cầu chưa biết Chúa, nên Giáo Hội phải truyền giáo đã đành, nhưng ngay cả một phần năm đã biết Chúa, Giáo Hội cũng phải tái truyền giáo nữa. Xem như thế, truyền giáo vừa là sứ mạng, vừa là số mạng, tức là sự sống còn của Giáo Hội. Và tinh thần truyền giáo ấy một khi được hun đúc đều đặn bằng cầu nguyện và hoạt động, ta có quyền hy vọng khi Chúa Kitô đến, Người vẫn thấy niềm tin trên mặt đất.
2) Tinh thần truyền giáo ấy được thể hiện khi thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện.
Được nuôi dưỡng bằng cầu nguyện dung hòa với hoạt động cây truyền giáo nhất định sẽ vươn lên, nhưng không thể không biết đến yếu tố thời tiết, mưa thuận gió hòa, hoặc nắng hạn mưa giông. “Nhất nước nhì phân tam cần tứ giống,” đó là kinh nghiệm trồng cây. Song một cây lành như cây truyền giáo phải biết chứng minh bằng phẩm chất của mình. Nói khác đi, tinh thần truyền giáo cũng phải được chứng minh bằng chí bền sứ mạng, nghĩa là vừa kiên tâm thực hiện những điều tốt, vừa kiên gan chịu đựng ngay cả những điều xấu nữa (thánh Augustinô), phải bền chí khi thuận tiện cũng như khi không thuận tiện.
Khi thuận tiện là khi chí bền truyền giáo giúp ta tỉnh táo đừng để mất mình trong hoạt động đến nỗi quên đi cầu nguyện, giúp ta phân biệt rõ ràng đâu là đóng góp nhỏ nhoi của mình và đâu là ơn ban vô cùng to lớn của Thiên Chúa, và còn mãi giúp ta không chạy theo những thành công trước mắt để sau này khỏi phải trả giá đắng cay trắng tay thất vọng. Trong một chừng mực nào đó, biết đâu lối sống của ông thẩm phán bạo ngược “chẳng kính sợ Thiên Chúa mà cũng chẳng coi ai ra gì” trong bài Phúc Âm lại chẳng có vài tương đồng với quan niệm háo thắng hoặc đắc thắng của cách truyền giáo thời Trung cổ, vốn xem Kitô giới như một xã hội lý tưởng, nên cố mà đưa người ta vào bằng chinh phục (truyền giáo) hoặc gắng mà ép người ta về bằng cả chinh phạt nữa (thập tự chinh)?
Xem ra kiên tâm thực hiện những điều tốt trong truyền giáo vào thời thuận tiện cũng không ít vấn đề.
Khi không thuận tiện là khi chí bền truyền giáo không chỉ giúp ta chịu đựng những khắc nghiệt thường xuyên, mà còn giúp ta biết tận dụng hoàn cảnh để mà thanh luyện tâm hồn. Nếu những hoạt động phải chấp nhận giới hạn ngoài ý muốn, thì chí bền như một mạch điện tự động “kiểm soát lợi suất” sẽ bù lại những giới hạn ấy bằng một thao thức phong phú của lời nguyện cầu. Và nếu như hoàn cảnh cụ thể không cho phép có một hoạt động bên ngoài nào nữa, thì vẫn còn đó mênh mông một phương tiện truyền giáo bằng gương sáng tình mến, bằng chứng tá đức tin và bằng cách sống tốt đẹp đời Kitô của mình.
Điều đáng sợ không phải là hoàn cảnh khắc nghiệt, mà là chính mình không đủ chí bền mà vượt qua những khắc nghiệt ấy. Trong ý tưởng này, có lẽ rất thích hợp khi đặt hình ảnh người đàn bà góa bụa của bài Phúc Âm, nhiều lần đến quấy rầy ông thẩm phán mong được minh xét minh định minh oan, ở đây như một cổ võ sống động cho chí kiên bền.
Và dầu hoàn cảnh thuận tiện hay không (bài đọc thứ hai), chí truyền giáo thiết tưởng cũng là biểu tỏ của niềm hy vọng, là tình mến khởi đi từ một đức tin sống động vào Thiên Chúa là Cha nhân ái luôn muốn sự tốt lành trong ơn cứu độ cho tất cả mọi người. Được như thế, chắc chắn khi Chúa Kitô trở lại vẫn thấy niềm tin còn trên mặt đất trong chí bền của Giáo Hội là thân mình Người.
Ước mong rằng suy nghĩ trên sẽ trở nên ý lực cho cuộc sống và trở nên ý nguyện trong Ngày Thế Giới Truyền Giáo hôm nay.
6.Truyền giáo hay rao giảng Tin Mừng?
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Dầu đã được trực tiếp tham gia vào công tác ‘truyền giáo’ trong thời gian hơn 02 năm tại Mongolia, nhưng khi được nhiều bạn gửi ‘mail’ khuyến khích viết bài suy niệm nhân Khánh Nhật Truyền Giáo, tôi vẫn cảm thấy ngại ngùng. Lý do là vì suy nghĩ của tôi sau thời gian ‘truyền giáo’ trở về đã bị thay đổi nhiều quá; tôi cảm thấy lạc lõng và cô đơn trong suy tư, cũng như hụt hẫng trong truyền đạt về đề tài này. Cuối cùng thì sáng nay trong thánh lễ, sau khi lắng nghe lời chia sẻ của các bạn tập sinh, tôi đã quyết định viết, nhưng không phải cho ai khác mà là cho chính mình.
Tôi nhớ là: vào năm 2003 sau khi kết thúc nhiệm kỳ giám tỉnh cuối cùng, tôi vẫn chưa có một định hướng rõ rệt nào cho tương lai phục vụ của mình. Vì Bề Trên trung ương rộng phép cho tôi được hưởng một năm bồi dưỡng tại bất cứ đâu, nên tôi quyết định xin có được một năm trau dồi thêm kiến thức về tu đức, và nghiên cứu các tôn giáo thế giới tại đại học Berkeley – California (Hoa Kỳ); chính trong thời gian này mà tôi đã đi tới quyết định, xin bề trên cho phép đi truyền giáo tại Mongolia (Mông Cổ), nơi mà tôi đã lui tới nhiều lần trong thời gian – trong tư cách giám tỉnh – tôi thành lập các cơ sở giáo dục và truyền giáo cho anh em tỉnh dòng Don Bosco Việt Nam. Hơn nữa, trước khi lên đường đi Mongolia, tôi còn được tham dự một khóa học ba tháng chuyên đề về truyền giáo học tại đại học Universitá Pontificia Salesiana – Roma… Ấy thế mà khi thực sự tới làm việc trực tiếp tại một nơi truyền giáo ‘Ad Gentes’ thứ thiệt như Mongolia (chưa có ai được rửa tội), cái kinh nghiệm ‘truyền giáo’ tuy còn rất nông cạn và bé nhỏ mà tôi đã thủ đắc được trong thời gian ngằn ngủi này đã đủ để làm đảo lộn (upside down) mọi suy nghĩ trước đó của tôi về lãnh vực này.
Trước hết, tôi thấy mình dị ứng ghê gớm với cái từ ‘truyền giáo’ thông dụng, vì thấy nó quá mập mời dễ gây hiểu lầm. Nếu truyền giáo hàm ý làm cho một người ‘không có đạo’ được rửa tội để gia nhập đạo Công giáo theo nghĩa ‘cải đạo’ (proselytism), thì rõ ràng là ta đã hiểu sai ẩn ý của Đức Ki-tô mất rồi. May mắn thay nội dung này đã chính thức bị Công Đồng Va-ti-can II phế bỏ! ‘Missio’ phải được hiểu là sứ vụ được sai đi (‘thừa sai’) để ‘rao giảng Tin Mừng’ (evangelisare), để loan báo Tin Mừng cứu độ, và để loan truyền tình yêu thương xót của Thiên Chúa đã từng được Đức Ki-tô Giêsu thực hiện trong cuộc sống của Người, đặc biệt qua cái chết thập giá. Quan niệm cho rằng: ai đó phải gia nhập đạo, phải được rửa tội thì mới được hưởng nhờ lòng nhân ái cứu độ của Thiên Chúa là một suy nghĩ hoàn toàn sai lầm. Lòng thương xót và ơn cứu độ đã được Chúa ban cho hết thảy mọi người cách vô điều kiện (xem thư Rô-ma chương 5). Như thế ‘Loan báo Tin Mừng’ không là gì khác hơn: mở mắt cho người ta nhận biết rằng: họ đã được hưởng ơn cứu độ và lòng thương xót, nhờ vào cái chết và phục sinh của Đức Ki-tô Giêsu Và một khi tin nhận điều đó, họ được mời gọi gia nhập cộng đoàn tín hữu để cùng chúng ta dâng lời cảm tạ tri ân lên Thiên Chúa về hồng ân vĩ đại này.
Một suy nghĩ khác mà tôi cảm thấy rất ‘dội’ đó là: nếu không có ai đi truyền giáo thì các dân ngoại sẽ mất linh hồn hết…, rằng: nhà truyền giáo là những người mang ơn cứu độ tới cho kẻ ngoại…, rằng: ơn cứu độ lệ thuộc vào một lối sống được xây dựng trên nền ‘luân lý Ki-tô giáo’ mà ta sẽ mở mắt cho họ được biết, để rồi nhờ nắm giữ cặn kẽ các qui định luật lệ đó, họ sẽ được vào hưởng nước thiên đàng. Thiết tưởng, khi Đức Ki-tô sai các tông đồ đi rao giảng Tin Mừng Người đâu có ám chỉ điều này: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”. Ngay câu nói: ‘Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ” đâu có nghĩa là, chính phép rửa sẽ ban ơn cứu độ! Nhìn vào chính Đức Giêsu ta sẽ thấy: Tin Mừng của lòng thương xót cứu độ vẫn có thể được rao giảng và mời gọi ngay cả một người nữ Sa-ma-ri đang sống chung chạ sau năm đời chồng… Khi còn ở Mongolia, cha sở nhà thờ chính tòa Ulaanbataar, một nhà truyền giáo người Ca-mơ-run thuộc Hội Dòng CICM, xin tôi dạy giáo lý cho một nhóm sinh viên. Ngài muốn tôi dạy theo chương trình giáo lý tân tòng mà ngài đã soạn sẵn, khởi đầu bằng nội dung thập giới của Chúa và lục giới của Hội Thánh… Ngài căn dặn: đó là các điều kiện tiên quyết để gia nhập đạo hầu được rỗi linh hồn… Tôi đã quyết định không áp dụng chương trình đó, xác tín rằng ‘truyền giáo’ tiên quyết phải là rao giảng Tin Mừng, mà Tin Mừng chính là làm cho người ta nhận biết Thiên Chúa xót thương và cứu độ toàn thể nhân loại. Tôi dọn một chương trình riêng, trong đó tôi phân tích cho các sinh viên Mongolia hiểu ra rằng: Thiên Chúa của Đức Giêsu Ki-tô yêu thương họ, không như các thần linh đạo Shaman của người du mục, luôn gieo rắc sợ hãi kinh hoàng khắp nơi. Thế đấy, cái kinh nghiệm rất cụ thể của tôi về sự khác biệt quá lớn giữa ‘truyền giáo’ và ‘loan báo Tin Mừng’ đại loại là như thế.
Từ cái kinh nghiệm ‘thừa sai’ còn rất thô thiển tại Mongolia tôi đã học được một bài học cơ bản: Thiên Chúa không biết từ thuở nào, đã yêu mến và cứu chuộc các người Mông Cổ du mục sinh sống trên vùng thảo nguyên lạnh giá mênh mông tại Trung Á. Cuộc sống du mục nay đây mai đó của họ, với văn hóa và các truyền thống từ bao đời, cho dầu có nhiều điểm khác với nền ‘luân lý Ki-tô giáo’ mang tính định canh định cư của cựu lục địa, vẫn không hề tách họ ra khỏi lịch sử cứu độ mà Thiên Chúa đã và đang chủ động thực hiện nơi họ nhờ Đức Ki-tô Giêsu. Công việc của một ‘thừa sai’ như tôi đích thị phải là rao giảng Tin Mừng, là loan báo cho họ biết rằng Thiên Chúa yêu thương họ trong chính lối sống và văn hóa của họ…, đồng thời mời gọi họ tin vào Đức Ki-tô Giêsu Cứu Chúa…, mời gọi họ lãnh nhận phép thánh tẩy… và gia nhập vào Hội Thánh, là cộng đoàn những người nhận biết Thiên Chúa từ ái và yêu thương, để không ngừng cất cao lời cảm tạ. Và cũng từ đó tôi nghiệm ra một điều còn quan trọng hơn nữa là: một ‘người loan báo Tin Mừng’ trước hết phải chính mình có cảm nghiệm sâu sắc về lòng thương xót cứu độ của Chúa. Cảm nghiệm này chính là nền tảng của việc được sai đi, là sức mạnh trong khiêm tốn phục vụ, là hy vọng không hề suy chuyển trước các khác biệt và thách đố, và là chương trình và hành động trong sứ vụ thừa sai.
Mong rằng những suy nghĩ trên cũng hướng dẫn được một số người, trong khánh nhật truyền giáo hôm nay, biết cất cao lời tri ân Thiên Chúa cách đặc biệt vì ơn gọi Ki-tô Hữu vĩ đại của mình, rồi sau đó loan truyền tin vui đó cho bạn bè và những người sống chung quanh.
Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa đã cho con được tham gia chút ít vào chương trình cứu độ đầy yêu thương của Chúa đối với dân tộc Mongolia. Cảm tạ Chúa đã mở lòng cho con nhận biết Chúa yêu thương họ vô cùng, trước cả khi con được sai tới với họ để nói cho họ biết điều đó. Qua tâm tình tri ân này, xin cho con tiếp tục không ngừng khao khát tuyên xưng niềm tin vào một Thiên Chúa yêu thương và cứu độ, và tìm cách làm chứng cũng như loan truyền điều đó cho mọi người con gặp gỡ và tiếp xúc. Con coi đó chính là công việc ‘truyền giáo = thừa sai’ Chúa đang dành cho con lúc này và trong điều kiện sống cụ thể hôm nay. Amen.
7.Theo Đạo phải chăng là một gánh nặng?
(Suy niệm của Lm. Giuse Lê Danh Tường)
Người bổn đạo gốc sinh ra trong một gia đình Công giáo, được lãnh nhận bí tích Rửa tội từ khi còn nhỏ; lớn lên, học bổn xưng tội lần đầu, chịu phép Thêm sức; rồi khi lập gia đình thì học thêm chút ít về giáo lý hôn nhân. Ta theo đạo là vì gia đình ta có đạo. Ta giữ những luật lệ trong đạo và kể như ta đã là người có đạo. Chính vì thế mà đôi khi đạo trở nên một gánh nặng cho cuộc sống của ta, một cuộc sống vốn đã có quá nhiều khó khăn và nặng nhọc. Nhưng phải chăng theo Đạo là như thế?
Nếu theo đạo mà lại trở nên một gánh nặng thì có lẽ ta nên xem lại. Hoặc là ta đã sai lầm khi theo đạo, hoặc là ta đã sai lầm trong cách sống đạo.
Dù là người có đạo hay không có đạo, ta đều thấy rằng: khi tôi làm điều gì sai trái thì tôi cần được tha thứ, khi ta gặp khó khăn thì ta cần giúp đỡ, khi ta đổ vỡ thì ta cần sự bù đắp. Người ta chạy đến ông thần nọ bà thánh kia là để cầu xin che chở, cầu xin cứu giúp, cầu xin ban ơn, cầu xin chỉ dẫn.
Tìm đến sự trợ giúp của thần thánh là khôn ngoan. Nhưng đâu là nơi ta tìm về, đâu là nơi ta cậy dựa? Đức Giêsu, chính Ngài là Chúa và là người. Chính Ngài là Đấng mà mọi người xưng mình có Đạo đi theo. Chính Ngài là Đạo, là Đường.
Chúa Giêsu là vị thần đích thực, là Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Ngài đã ở với ta để nói cho ta biết Thiên Chúa là thế nào và cũng nói cho ta hay làm người thì phải sống làm sao. Chính Chúa Giêsu, Ngài là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Đạo là đường. Ta theo đạo là đi theo con đường của Chúa Giêsu, sống theo cách sống của Ngài, làm theo cách Ngài đã làm, đối xử với người khác theo cách Ngài đối xử. Và hơn thế nữa, chính Ngài nâng đỡ ta trong mọi cảnh huống của cuộc đời.
Khi bạn lầm lỗi hay khi phạm tội bạn cần được tha thứ, bạn đến với Chúa Giêsu. Ngài luôn sẵn sàng tha thứ cho bạn, đón nhận bạn vào trong vòng tay yêu thương của Ngài. Bạn sẽ được bình an.
Khi bạn bị oan ức, bị sỉ nhục, bạn chạy đến với Chúa Giêsu, bạn sẽ được Ngài đồng cảm với bạn, chia sẻ với bạn. Bởi chính Ngài đã bị người ta sỉ vả, bị hiểu lầm đến độ bị kết án tử hình trên cây thập giá một cách oan uổng.
Bạn bị đổ vỡ cần được hàn gắn, bạn đến với Chúa Giêsu bạn sẽ được Ngài yêu thương vỗ về và hàn gắn vết thương cho bạn. Ngài sẽ làm cho bạn trở nên phong phú hơn bạn tưởng.
Khi bạn có những tâm sự mà không biết nói với ai, bạn đến với Chúa Giêsu, Ngài luôn sẵn sàng lắng nghe bạn và cảm thông với bạn.
Nếu bạn đang lâm cảnh túng bấn, đói khổ, bạn đến với Chúa Giêsu, bạn sẽ gặp Ngài, một Đấng vốn là Thiên Chúa nhưng đã sống một kiếp người nghèo khổ tột cùng: sinh ra trong hang đá bò lừa, sống nơi thôn giã, lang thang không nơi gối đầu và chết nhục nhã, tàn tạ trên cây thập giá. Bạn sẽ nhận thấy giá trị đích thực của cuộc sống và tìm ra lối thoát cho cuộc đời.
Khi bạn bị người mà mình hết mực yêu thương quay lại phản bội bạn, bạn đến với Chúa Giêsu bạn sẽ được Ngài yêu thương và chia sẻ với bạn. Bởi chính Ngài đã yêu thương con người ta, yêu đến tột cùng, yêu đến chết vì người yêu. Thế nhưng biết bao con người đã phản bội lại tình yêu của Ngài, quay lại sỉ vả Ngài thậm tệ.
Bạn đang cần sự chỉ dẫn, bạn đến với Chúa Giêsu, Ngài sẽ chỉ dẫn cho bạn. Hơn nữa, Ngài còn tìm cách giúp đỡ bạn, tiếp sức cho bạn để bạn đạt đến điều Ngài chỉ dẫn. Nếu cần một bằng chứng để chứng minh cho sự thật mà Ngài chỉ dẫn thì Chúa Giêsu đã lấy cái chết của mình, lấy chính mạng sống mình để làm chứng cho sự thật ấy.
Theo đạo là thế, là đi theo Đức Giêsu, là gặp gỡ Ngài, là sống với Ngài, là chia sẻ với Ngài, là kết hiệp với Ngài mọi nơi mọi lúc trong cuộc sống của ta, chứ không phải chỉ trong nhà thờ lúc đi lễ mà thôi. Theo đạo không phải chỉ để giữ một số luật lệ trong đạo cho qua. Nhưng theo đạo là sống một cuộc sống gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu.
Thế nhưng, ta thử nhìn xem đã có bao nhiều người gặp gỡ Chúa Giêsu, bao nhiêu người sống gắn bó với Chúa Giêsu. Xung quanh ta còn hàng vạn hàng vạn người chưa được biết về Chúa Giêsu. Nếu ta đã nhận biết Chúa Giêsu mà ta không giới thiệu Ngài cho những người đang sống xung quanh ta thì ta đã sống quá ích kỷ chăng: thấy hay, thấy tốt mà chỉ biết khư khư giữ cho mình.
Trong những câu chuyện hàng ngày với hàng xóm, trong những giờ giải lao nơi công sở với đồng nghiệp, trong những giờ ra chơi với các bạn cùng lớp tại sao lại không nói về Chúa Giêsu? Việc nhận biết Chúa Giêsu sẽ đưa ta đến sự nhận biết nhau là anh em con một Cha trên Trời. Đẹp làm sao khi mọi người cùng sống yêu thương, đùm bọc nhau theo gương Chúa Giêsu, trong tình yêu của Chúa Giêsu. Truyền giáo là ra đi giới thiệu cho người khác biết về Chúa Giêsu để mọi người cùng trở về đón nhận nguồn ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã thực hiện cho ta.
Lạy Chúa Giêsu, xung quanh chúng con còn hàng vạn, hàng triệu người chưa được biết đến Chúa. Xin Chúa hun đúc tâm hồn chúng con để chúng con biết can đảm nói về Ngài cho mọi người đang sống xung quanh chúng con.
8.Loan báo Tin Mừng – Gioan Văn Huy
Vì yêu thương, Thiên Chúa đã tạo nên con người và muốn cho tất cả mọi người tham dự vào sự sống của Ngài. Ngài còn muốn liên kết mọi mỗi người thành một đoàn chiên duy nhất.[1] Thật vậy, Chúa Giêsu được Chúa Cha sai đến không chỉ với những con chiên lạc nhà Israel, mà Ngài còn hoà giải cả vũ trụ với Thiên Chúa (x.Cl 1,18-20 ), với dân ngoại, dẹp tan các mối thù địch để tạo ra một nhân loại mới (x.Ep 2,13-18).
Ơn cứu độ của Thiên Chúa mang tính phổ quát (x.Lc 2,30). Máu của Đức Giêsu đổ ra đem lại ơn cứu độ cho muôn người (x.Mc 10,45). Vì vậy, sứ mệnh của Giáo hội được nối kết với sứ mệnh của Chúa Giêsu: “Như Cha đã sai Thầy đến thế gian, thì Thầy cũng sai anh em” (Ga 20,21). Cho nên, sứ vụ truyền giáo là “bổn phận của toàn thể Giáo hội”, vốn “tự bản chất là thừa sai.”[2] Việc loan báo Tin mừng sẽ không trọn vẹn nếu không quan tâm đến mối quan hệ giữa Tin mừng và cuộc sống: cá nhân và xã hội của con người, công lý, hoà bình, phát triển và việc giải phóng con người thoát khỏi nghèo đói, bệnh tật và những bất công.[3] Giáo hội xem lời của Thánh Phaolô như sứ điệp của mình: “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Phúc âm” (1Cr 9,16).
Trước khi về trời, Đức Giêsu đã truyền lại cho các môn đệ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19-20). Lệnh đó đã được tiếp diễn trong suốt chiều dài lịch sử từ thời các Tông đồ cho đến ngày nay và muôn đời sau. Trải qua thời gian, Giáo hội không ngừng ban hành các Tông thư, Tông huấn về truyền giáo, để các tín hữu hiểu rõ hơn và ý thức nhiệm vụ cấp bách này. Qua những dẫn chứng trên, người viết muốn trình bày ba điểm về việc truyền giáo, đó là: Ý thức, thao thức, cách thức truyền giáo.
Thứ nhất: Ý thức việc truyền giáo:
Lời kêu gọi của Chúa Giêsu vẫn còn vang vọng và thúc đẩy chúng ta. Thế nhưng, không ít người Kitô hữu vẫn còn bàng quan cho yên phận, thay vì làm chứng cho Chúa thì chỉ lo giữ đạo, giữ đức tin cho vững là đủ. Là “men”, là “muối”, Giáo hội luôn mang trong mình một “nội lực” nhận lãnh từ Chúa Thánh Thần để tiếp tục biến đổi sao cho phù hợp với sự phát triển không ngừng của thế giới về mọi lãnh vực khoa học kỹ thuật cũng như xã hội nhân văn. Ý thức về sứ vụ của mình, Giáo hội tại Việt Nam cũng đã minh định qua Thư chung của Hậu Đại Hội Dân Chúa 2010: “Thay vì coi truyền giáo chỉ như một trong những hoạt động của Giáo hội, thì nay cần nhìn sứ mệnh truyền giáo như nắm men thấm nhập, khơi dậy và chi phối mọi khía cạnh đời sống Giáo hội. Do đó, cần dành mọi nỗ lực và hoạt động, từ vật chất đến thiêng liêng và mục vụ, cho mục tiêu này.”[4] Công đồng Vatican II đã mời gọi: “Mọi tín hữu đều có bổn phận rất cao cả là hoạt động để mọi người trên khắp hoàn cầu nhận biết và đón nhận Phúc âm cứu độ của Chúa.”[5] Thật vậy, “Tự bản tính, Giáo hội lữ hành là truyền giáo.”[6] Cho nên, ta phải ý thức trách nhiệm phận vụ của mình.
Thứ hai: Thao thức truyền giáo:
Dù muốn dù không, mỗi Kitô hữu đều là tông đồ của Đức Giêsu ngay từ ngày lãnh Bí tích Rửa tội. Bí tích này làm cho chúng ta trở thành chi thể của Chúa Giêsu, thông phần vào vai trò ngôn sứ của Ngài, nên chúng ta phải đảm nhận trách nhiệm loan Tin mừng cứu độ của Thiên Chúa. Truyền giáo là một công việc đòi hỏi kiên nhẫn. Thánh Phaolô khuyên chúng ta: “Hãy rao giảng Lời Chúa. Hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” (2Tm 4,2). Chúa vẫn luôn mời chúng hãy “ra khơi thả lưới” như các môn đệ xưa kia, vì cánh đồng truyền giáo vẫn còn bát ngát bao la. Muốn vậy, chúng ta phải biết sống tinh thần truyền giáo khởi đi từ lòng mến Chúa và yêu người. Chúng ta mến Chúa và yêu mến tha nhân, nên chúng ta muốn chia sẻ niềm vui và hy vọng với tha nhân. Tình yêu mến mời gọi chúng ta dấn thân một cách quảng đại để đem tình yêu Chúa nối kết tình người, đưa con người đến cùng Thiên Chúa và giúp con người xích lại gần nhau hơn. Được kêu gọi trở nên hạt giống hy vọng, bổn phận của chúng ta là tiếp nối sứ vụ của Chúa Kitô trong thế giới. Phạm vi sứ mạng và việc phục vụ của Giáo hội không thuộc lãnh vực vật chất, hay cả những nhu cầu tinh thần giới hạn nơi cuộc sống trần thế, nhưng là ơn cứu độ siêu việt, được hoàn tất trong Nước Thiên Chúa.[7] Sống tinh thần Kitô giáo, nghĩa là không “đóng kín cửa lòng”, mà phải mở ra để trao tặng cho nhân loại ân ban mà ta đã nhận từ Chúa Kitô.
Thứ ba: Cách thức truyền giáo:
Có nhiều cách thức truyền giáo, nhưng sau đây là những cách mà người viết nghĩ có thể thể mang lại hiệu quả cao, đó là: Cầu nguyện, sống gương mẫu, bác ái, tiếp xúc các nhân và đối thoại.
Cầu nguyện: Công trình cứu độ là của Thiên Chúa. Chúng ta chỉ là người cộng tác vào công trình ấy. Thật vậy, “nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công” (Tv 126,1). Chính Thiên Chúa mới làm cho công cuộc truyền giáo sinh hoa kết quả (x.1Cr 3,6-7). Thánh Phaolô cũng nói: “Trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin, và tạ ơn mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện” (Pl 4,6). Bởi vậy, cầu nguyện cho việc truyền giáo là cách thức rất quan trọng: cầu nguyện cho những người đi truyền giáo, cầu nguyện cho mọi người mở rộng lòng sẵn sàng đón nhận ơn Chúa, Lời Chúa. Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, cả đời không đi đâu truyền giáo, chỉ ở trong bốn bức tường dòng kín cầu nguyện cho việc truyền giáo. Thế mà Giáo hội đã tôn phong ngài là quan thầy các nơi truyền giáo, ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê.
Sống gương mẫu: Truyền giáo tốt nhất và có hiệu quả nhất là đời sống gương mẫu. Nếu chúng ta sống thực sự yêu thương thì không ai đánh giá sai lầm về đạo, như lời căn dặn của Chúa Giêsu: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35). Thật vậy, không ai có thể loan báo Tin mừng cho người khác, nếu tâm hồn chưa được Phúc âm biến đổi, hay “không ai có thể làm chứng cho Chúa nếu không phản chiếu hình ảnh của Ngài.”[8] Kinh nghiệm của các tín hữu sơ khai cho thấy, đời sống tu đức là căn bản, và là nguồn sinh lực của việc truyền giáo. Mặc dù thiếu thốn và nhiều khốn đốn (1Cr 1,23), nhưng các tín hữu vẫn luôn đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện và siêng năng trong nghi lễ bẻ bánh. Họ sống tình yêu thương chan hòa trong sự chia sẻ với nhau, và nêu cao phẩm chất của đời sống Kitô hữu. Do vậy, họ “được toàn dân thương mến” (Cv 2,46). Nhờ đời sống thánh thiện của các cộng đoàn sơ khai, Tin mừng đã lan tràn khắp nơi.
Bởi vậy, đời sống chứng nhân tốt là cách thức truyền giáo hữu hiệu. Việc làm cụ thể và thiết thực đi kèm với lời nói (rao giảng) mới đủ sức thuyết phục con người thời nay và mới chứng minh được những điều được chúng ta rao giảng là chân thật. Đời sống chứng nhân không chỉ là của các cá nhân, mà còn phải là chứng tá của cả gia đình, cộng đoàn của giáo xứ. Muốn vậy, chúng ta phải sống gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu và với Chúa Thánh Thần như cành nho gắn liền với thân nho (x.Ga 15,1-8), vì không có đời sống siêu nhiên và ơn sủng của Thiên Chúa chúng ta không thể làm được điều gì tốt lành. Sự thánh thiện là dấu chỉ đời sống chứng tá hữu hiệu nhất trong việc truyền giáo. Đức Phaolô VI đã nói: “Người đương thời sẵn sàng lắng nghe những nhân chứng hơn là những thầy dạy, hoặc nếu họ có nghe thầy dạy, thì bởi vì chính thầy dạy cũng là những nhân chứng.”[9] Kitô hữu là người được Chúa Kitô “chiếm đoạt” (x.Pl 3,12). Một khi được Ngài chiếm đoạt, Chúa Thánh Thần sẽ thúc đẩy làm chứng nhân cho Chúa.
Sống bác ái: Hoạt động tông đồ của Giáo hội phải khởi đi từ đức ái, bởi vì đức ái, theo thánh Phaolô, là một điều gì đó còn lớn lao hơn là một hoạt động: “Giả như tôi có đem hết tài sản mà bố thí, hay nộp thân thể tôi để chịu thiêu đốt, mà không có lòng mến, thì cũng không ích gì cho tôi” (1Cr 13,3). Cũng vậy, thánh Matthêu cho biết: “Anh sáng của anh em phải chiếu toả trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
Mục đích của truyền giáo không dừng lại ở việc “cứu các linh hồn”, nhưng đúng hơn là sống đời sống của một Kitô hữu, sống theo Tin mừng và dấn thân làm cho thế giới trở thành một ngôi nhà chung: “Sự hiện diện của các Kitô hữu giữa các nhóm người phải được sống động bằng chính tình bác ái mà Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta và muốn chúng ta cũng yêu thương nhau bằng tình bác ái đó. Bác ái Kitô giáo thực sự lan tràn tới mọi người không phân biệt chủng tộc, hoàn cảnh xã hội hay tôn giáo.”[10] Dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu (x.Lc 10,25-37) mang đến cho chúng ta tiêu chuẩn để đo lường lòng bác ái. Giới răn yêu thương phải vượt qua những ranh giới địa lý vùng miền, để mở rộng ra cho tất cả những ai cần đến sự trợ giúp của chúng ta. Giáo hội muốn mọi người biết thế giới thật sự là một ‘ngôi làng chung’, ở đó người ta cảm nhận được mình là thành phần của gia đình nhân loại. Với gia đình này người ta chia sẻ với nhau những niềm vui và những đau khổ, những hy vọng và thử thách. Thật vậy, Giáo hội là cộng đoàn chỉ có một nền tảng duy nhất đó là tình yêu, tình yêu là nội dung và là phương thức về sự hiện diện và sứ vụ của Giáo hội. “Thiên Chúa là tình yêu. Nơi đó, chân lý này có thể được nhìn ngắm như lời Đức Bênêđíctô XVI đã nói: “Việc bảo vệ Thiên Chúa và con người cách tốt nhất nằm ngay trong tình yêu.”[11]
Tiếp xúc cá nhân: Chúng ta không được diễm phúc như các Tông đồ là rao giảng lời Chúa một cách hùng hồn và làm nhiều phép lạ. Sống trong thời đại ngày nay, chúng ta chỉ có thể loan báo Tin mừng cho người khác bằng tiếp xúc cá nhân qua đời sống hằng ngày. Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Samari (Ga 4,1-42) là một minh chứng. Việc Đức Giêsu muốn làm là xây dựng lòng tin tưởng. Tin nhau mới có thể cộng tác với nhau, mới có thể chia sẻ mọi sự cho nhau. Một trong những cách Đức Giêsu xây dựng lòng tin nơi người khác là thể hiện sự quan tâm. Đức Giêsu quan tâm đến chị, thấu hiểu hoàn cảnh của chị và cảm thông với nỗi khổ tâm của chị. Thật vậy, một khi người khác lấy được niềm tin nơi chúng ta, lúc ấy chúng ta sẵn sàng chia sẻ niềm tin và hy vọng của chúng ta nơi Đức Kitô. Muốn cho việc tiếp xúc cá nhân đạt được thành quả, điều cốt yếu là sự cầu nguyện và hi sinh. Ta nói với Chúa về người bạn trước khi nói với bạn về Chúa. Sự học hỏi trau dồi kiến thức thần học giáo dân là một khía cạnh cần cố gắng. Thái độ khiêm cung, nhã nhặn, lịch thiệp, vồn vã và chân tình là những đức tính cần có của chúng ta mỗi khi giao tiếp, để qua đó, mọi người cùng nắm tay nhau phục vụ anh chị em và phụng sự Chúa. Thánh Phaolô đã nói: “Tôi trồng, anh Apôlô tưới, nhưng Thiên Chúa mới cho lớn lên” (1Cr 3,6). Chúng ta hãy gieo niềm tin và hy vọng nơi những người mà chúng ta gặp gỡ, việc còn lại, hãy để Chúa Thánh Thần tác động nơi họ. Muốn thế, ta phải biết cách đối thoại.
Đối thoại: Đối thoại là một phần thiết yếu trong sứ mạng của Giáo hội, “vì nó xuất phát từ chính sự đối thoại yêu thương ban ơn cứu độ của Chúa Cha với nhân loại qua Chúa Con và trong quyền năng của Chúa Thánh Thần.”[12] Đối thoại là để mở lòng, đón nhận, sống với, phục vụ mọi người bằng tình yêu thương theo gương Chúa Giêsu. Đó là ơn gọi của mỗi Kitô hữu, một ơn mời gọi phải tích cực đi đến với mọi anh chị em để lắng nghe, chia sẻ, hiểu biết, cảm thông, và loan báo Tin mừng bằng chính đời sống mình. Đức Phanxicô kêu gọi: “Tôi muốn thấy một Giáo hội bị bầm giập, tổn thương và lấm lem trên đường dấn thân, chứ không phải là một Giáo hội ‘xanh xao vàng vọt’ vì sống đóng khung và bám víu vào chu vi hàng rào an toàn của riêng mình…”[13] Đối thoại là khiêm tốn nhận ra sự hiện diện kín đáo của Thiên Chúa trong cuộc tranh đấu của người nghèo, trong sự phong phú về văn hóa, trong sự đa dạng về truyền thống tôn giáo và trong thẳm sâu cõi lòng mỗi người. Ðối thoại như thế là lối sống và phương cách truyền giáo của chúng ta. Ðối thoại trở thành nền tảng cho nền linh đạo hiệp thông nhằm canh tân sứ giả Tin mừng.[14]
Tóm lại, lời kêu gọi của Đức Giêsu: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho muôn loài thọ tạo” (Mc 16,15) đang thúc bách chúng ta. Nhìn cánh đồng truyền giáo vẫn còn bát ngát bao la đang chờ đợi mỗi người chúng ta. Vì vậy, chúng ta phải thao thức, ý thức và tìm cách cách thức truyền giáo là bổn phận và nghĩa vụ của của chúng ta. Chúng ta phải tận dụng mọi cơ hội, trong mọi hoàn cảnh để đưa Tin mừng của Chúa đến cho mọi người. Sứ mạng truyền giáo là nhiệm vụ ưu tiên của Giáo hội, như lời Đức Gioan Phaolô II đã nói: “Nhìn vào số đông nhân loại chưa biết Chúa cũng đủ cho thấy rằng sứ mệnh này mới chỉ đang ở những bước đầu tiên và chúng ta còn cần phải dồn hết mọi nỗ lực của mình cho công trình này.”[15] Vì vậy, lòng nhiệt thành truyền giáo luôn là dấu chỉ sức sống của các Giáo hội chúng ta.
________________________
[1] Cf. Ad Gentes, số 2 trong Công đồng Vaticanô II, (Phân Khoa Thần Học Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X, 1972 – Đà Lạt dịch). [2] Ad Gentes, op. cit., 2. [3] Cf. Paul VI, Apostolic Exhortation Evangelii Nuntiandi, no. 29-38 (8 December 1975). [4] Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Thư chung Hậu Đại Hội Dân Chúa 2010, số 31. [5] Apostolicam Actuositatem, số 3 trong Công đồng Vaticanô II, (Phân Khoa Thần Học Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X, 1972 – Đà Lạt dịch). [6] Ad Gentes, op. cit., 2. [7] Cf. Paul VI, Apostolic Exhortation Evangelii Nuntiandi, op. cit., 27. [8] John Paul II, Encyclical Letter Redemptoris Missio, op. cit., 87. [9] Francis, Evangelii Nuntiandi, op. cit., 41. [10] Ad Gentes, op. cit., 12. [11] Benedict XVI, Encyclical Letter Deus Caritas Est, no. 31 (December 25, 2005): AAS 98 (2006), 245. [12] John Paul II, Ecclessia in Assia, op. cit., 29. [13] Francis, Apostolic Exhortation Evangelii Gaudium, no. 49 (24 November 2013): AAS 105 (2013). [14] Cf. Sứ điệp Hội nghị toàn thể lần thứ X của Liên Hội đồng giám mục Á châu, số 5. [15] John Paul II, Encyclical Letter Redemptoris Missio, op. cit., 1.
9.Khánh Nhật truyền giáo – Lm. GB. Trần Văn Hào
Trong cuộc tông du tại Hoa Kỳ năm 2015, , Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự Thánh lễ ngày 23 tháng Chín tại Đền Thánh Đức Mẹ Vô nhiễm ở Washington DC để tuyên thánh cho Cha Junipero Serra, một vị thừa sai dòng Phanxicô gốc Tây Ban Nha. Vị Thánh đã đến Châu Mỹ làm việc cho thổ dân da đỏ và đã đón nhận cái chết tử đạo để minh chứng đức tin. Trong bài giảng, Đức Thánh Cha nhắc lại câu châm ngôn của vị thánh, là “Hãy luôn tiến lên phía trước để rao giảng Tin mừng”. Đức Thánh Cha cũng gợi lại tư tưởng mà Ngài đã viết trong Tông huấn ‘Niềm vui của Tin mừng’ (Gaudium Evangelii): “ Từ sâu tận tâm hồn, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy ra đi. Đừng ở lỳ một chỗ để an hưởng một cuộc sống nhàn hạ. Đức Giêsu nói với các Tông đồ: Hãy đi rao giảng. Niềm vui Tin mừng là điều chúng ta phải trải nghiệm cách cụ thể. Chúng ta không có niềm vui đó nếu chúng ta không biết xả thân và trao ban”. Đây cũng là sứ điệp Giáo hội gửi trao đến chúng ta trong ngày Chúa nhật truyền giáo hôm nay.
Truyền giáo là lên đường.
Trong thư gửi giáo đoàn Ephêsô, Thánh Phaolô đã nói đến bốn phần vụ trong Giáo hội để xây dựng nhiệm thể Đức Kitô, đó là: làm tông đồ, làm ngôn sứ, làm người loan báo Tin mừng, làm người coi sóc và dạy dỗ (Eph 4, 11). Trong bốn chức năng đó, trở thành người loan báo Tin mừng đòi hỏi sự hy sinh và dấn thân hơn cả, bởi vì người đó phải ra đi và lên đường. Người đi rao giảng Tin mừng phải rời bỏ tất cả: từ gia đình, quê hương, đến nơi ăn chốn ở và mọi dính bén khác. Căn gốc của sự ra đi chính là từ bỏ chính mình. Khi sai các học trò đi thực tập truyền giáo, Chúa Giêsu chỉ trang bị cho các ông một món hành trang duy nhất, đó là ‘năng quyền trừ quỷ và chữa lành các bệnh tật’, ngoài ra không tiền bạc, không bao bị, không mặc hai áo, không giầy dép..( Lc 9,3). Vì vậy, truyền giáo trước hết là phải sẵn sàng lên đường và ra đi đến mọi ngõ ngách của thế giới, đặc biệt đến những vùng ven (peripheries) như lời Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi. Cuộc ra đi như vậy đòi hỏi phải chấp nhận phiêu lưu cách mạo hiểm, và cao điểm của cuộc hành trình liều lĩnh là chấp nhận cái chết như Đức Kitô trên Thập giá. Khi phong Thánh cho Cha Serra cuối tháng Chín năm 2015, Đức Thánh Cha đã nhắc lại đôi nét về sự ra đi của Ngài. Vị Thánh đã quảng đại từ khước địa vị danh giá là ghế giáo sư đại học ở Tây Ban Nha để lên đường sang Tân thế giới, phục vụ cho Tin mừng và ơn cứu độ. Cuộc mạo hiểm của Ngài đã phải trả giá, nhưng là cái giá của vinh thắng. Vừa khi mới đặt chân đến Mexicô, chân của Ngài đã bị sưng tấy vì dị ứng và đau đớn tột cùng, giống như bị ung thư hay bị nhện rừng cắn. Cao điểm của cuộc phiêu lưu này là Ngài đã bị giết chết, để bảo vệ các thổ dân. Một thi sỹ đã viết: “ Ra đi là chết trong lòng một ít”. Nhưng sự ra đi trong hành trình truyền giáo là sao chép lại tận căn chính cái chết của Đức Giêsu, vị truyền giáo đầu tiên, và cũng là nguyên mẫu cho chúng ta trong việc thực thi sứ mệnh rao giảng Tin mừng.
Đức Giêsu, nguyên mẫu của ơn gọi truyền giáo.
Năm mươi năm trước, Công đồng Vaticanô 2 đã ban hành sắc lệnh về truyền giáo ‘Ad Gentes’. Ngay từ chương đầu tiên của giáo huấn này, Giáo hội mời gọi chúng ta nhìn về Đức Kitô như là nguyên mẫu. Công đồng đưa dẫn nhiều trích đoạn kinh thánh để cho chúng ta thấy Đức Kitô là Đấng được Chúa Cha sai đến trần gian hầu thực hiện sứ mạng cứu thế ( Col 1, 13; Cv 10, 38; 2C 8, 9..). Vì vậy khi nhìn vào Đức Giêsu, chúng ta có thể nghiệm ra rằng, 2000 năm trước Ngài đã đi vào trần thế không phải để sáng lập một tôn giáo, cũng như không phải để quảng bá một học thuyết chính trị. Ngài đến chỉ với sứ mạng duy nhất là công bố cho chúng ta một Tin mừng, đó là Tin mừng về lòng thương xót của Thiên Chúa đối với con người. Đức Giêsu đã lập đi lập lại sứ điệp này trong suốt ba năm rao giảng công khai, và cái chết của Ngài trên Thập giá chính là đỉnh điểm của lời công bố Tin mừng vĩ đại ấy. Vì vậy, để sống tinh thần truyền giáo, chúng ta phải học nơi Thập giá Đức Giêsu. Ngài chính là vị truyền giáo đầu tiên, và là mẫu gương trọn hảo cho tất cả chúng ta (Tông huấn Evangelii Nuntiandi số 7). Trong các đợt xuất phát truyền giáo, các hội dòng thường trao cho các vị thừa sai Thánh giá truyền giáo cũng với hướng đích này.
Truyền giáo là bản chất của Giáo hội
Trong các phiên họp khoáng đại của công đồng chung Vaticanô 2, Đức Thánh Cha Phaolô đệ lục có nêu ra một câu hỏi rất giản đơn cho các nghị phụ: “ Ta sống ở đời này để làm gì?” Đây cũng là câu hỏi đầu tiên trong các sách giáo lý căn bản mà chúng ta đều biết cũng như đã thuộc lòng câu trả lời, đó là:‘Ta sống ở đời này để nhận biết và kính mến Chúa, cho ngày sau được hưởng hạnh phúc đời đời’. Các nghị phụ cũng trả lời như thế. Nhưng Đức Thánh Cha nói rằng câu trả lời còn thiếu. Ngài cắt nghĩa: “ Ta sống ở đời này để nhận biết và yêu mến Chúa, cho ngày sau được cứu rỗi, nhưng chúng ta cũng sống ở trần gian này còn để giúp người khác yêu mến và nhận biết Thiên Chúa, để họ cũng được ơn cứu độ như chúng ta”. Cha Thomas Merton, một tu sỹ dòng Trappist ở Hoa Kỳ có viết một tác phẩm tựa đề: ‘Không ai là một hòn đảo’. Tư tưởng của Ngài rất thâm thúy, và trong dịp viếng thăm Hoa Kỳ, khi đọc diễn văn tại lưỡng viện quốc hội, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng gợi nhắc khuôn mặt tiêu biểu này. Cha Thomas Merton lý luận rằng, không ai trong chúng ta có thể sống cô lẻ một mình như một ốc đảo. Khi sống hiệp thông trong Hội thánh, chúng ta liên đới với anh chị em mình trong sự thánh thiện cũng như cả trong tội lỗi. Vì vậy không ai trong chúng ta sẽ lên thiên đàng một mình hoặc cũng không ai xuống hỏa ngục một mình. Chúng ta nên thánh bằng cách giúp người khác nên thánh, và đây cũng là ý nghĩa của sứ mệnh truyền giáo. Sứ mệnh này thuộc bản chất của Giáo hội, gắn liền với Giáo hội và cũng là bổn phận của mọi Kitô hữu. Trước khi Chúa Giêsu về trời, Ngài đã chuyển giao sứ mạng cứu thế cho Giáo hội bằng mệnh lệnh: “ Anh em hãy đi rao giảng Tin mừng cho muôn dân” (Mc 16,15). ‘Cho muôn dân’ tức “ ad gentes”, cũng chính là tựa đề của sắc lệnh về truyền giáo mà công đồng Vaticanô 2 đã để lại cho chúng ta.
Chứng nhân hơn là thầy dạy
Trong một sứ điệp ngày truyền giáo, Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 cũng viết: “ Truyền giáo là thước đo đức tin của mọi tín hữu”. Lời khẳng định này cũng tương hợp với giáo huấn của Thánh Giacôbê tông đồ khi Ngài viết: “ Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Việc làm đó được thực hiện rõ nét nhất qua sứ vụ truyền giáo. Rao giảng Tin mừng là một bổn phận của những ai thuộc về Đức Kitô và được Chúa mời gọi trở nên môn đệ Ngài. Thánh Phaolô xác tín mạnh mẽ bổn phận ấy nên Ngài nói: “ Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng”(1Cr 9,16). Nhưng, cách thái rao giảng Tin mừng để đạt hiệu quả mới là điều quan trọng mà chúng ta cần phải lưu tâm.
Có lần, một số các vị truyền giáo đang làm việc ở Ấn Độ đến gặp ông Mahatma Gandhi và hỏi ông bí quyết làm sao để có thể truyền giáo cho người dân Hindu ở đây. Ông Gandhi mời gọi các vị truyền giáo hãy suy nghiệm bí quyết từ cánh hoa hồng. Người ta thích hoa hồng không phải chỉ vì vẻ đẹp bên ngoài mà còn vì mùi hương quyến rũ từ bên trong tỏa ra. Ông kết luận, muốn truyền giáo thành công, phải học bí quyết ấy, tức là rao giảng không phải bằng lý thuyết xuông nhưng bằng gương sáng cụ thể của cuộc sống. Điều ông ta nói tới cũng giống như giáo huấn của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 khi Ngài diễn tả: “ Ngày nay, Giáo hội cần những chứng nhân hơn là những thầy dạy.”
Kết luận: Chứng tá Tin mừng
Sau biến cố 30 tháng 04 năm 1975, một cán bộ nhà nước thuộc dạng cao cấp có hỏi một anh em tu sĩ dòng Tên ở Thủ Đức: “ Các anh là những người theo tôn giáo, chắc các anh rất sợ chúng tôi là những người vô thần?”. Vị tu sĩ đó bình thản trả lời: “Vâng thưa ông, chúng tôi rất sợ những người vô thần. Nhưng nếu các ông là những người vô thần thực sự và sống đúng với lý tưởng của các ông, thì chẳng có gì đáng sợ cả. Xin chúc mừng, nếu các ông thật sự cảm thấy hạnh phúc trong sự xác tín lý tưởng của mình. Nhưng ngược lại, chúng tôi rất sợ những người vô thần trong thực hành. Họ mang danh là Kitô hữu, nhưng lại sống như những người vô thần thực sự và còn tệ hơn cả những con người công khai chối bỏ Thiên Chúa. Bởi vì, cuộc sống của họ đang tàn phá Giáo hội, làm lung lạc đức tin người khác và làm cho Giáo hội của chúng tôi ngày càng suy yếu.”
Nếp sống vô thần trong thực hành như thế chính là một lối sống phản chứng tá. Thay vì rao giảng Tin mừng, thì cuộc sống như vậy lại cản che và bóp chết hạt giống Lời Chúa trong những sỏi đá và gai góc nơi chính tâm hồn họ. Trong ngày khánh nhật truyền giáo hôm nay, chúng ta hãy nhìn lại cuộc sống chính mình để duyệt xét xem chúng ta đã thực thi bổn phận quan trọng ấy như thế nào.
10.Rao Giảng Tin Mừng với Lòng Thương Xót
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Suy niệm Khánh nhật Truyền giáo (Is 1, 1-5; 1 Tm 2, 4 – 6; Lc 24,44-53)
Tháng 10, tháng truyền giáo
Tháng 10 tháng Mân Côi, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy khám phá lại nét đẹp của lời kinh này và siêng năng đọc kinh Mân Côi cho cầu thế giới được hoà bình. Tháng 10 còn là tháng truyền giáo. Giáo hội cũng kêu gọi con cái mình dấn thân cho những công cuộc truyền giáo, bước theo Chúa Giêsu trong cuộc hành trình Ðức Tin, và có Mẹ Maria Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi Mân Côi và là Nữ Vương truyền giáo đi đầu dẫn đưa tất cả chúng ta đến với Chúa Kitô, và dạy chúng ta mang Chúa đến cho tha nhân.
Giáo hội tự bản chất là truyền giáo.
Nếu như Isaia con trai Amót được thị kiến: “Các dân nước sẽ đổ xô về núi Chúa… trong ngày sau hết” (x. Is 1, 1-5). Thánh Phaolô cho người con tình thần của mình biết rằng: “Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu rỗi” (x.1 Tm 2, 4 – 6). Cả bốn sách Tin Mừng đều nêu bật ý nghĩa của việc truyền giáo. Nội dung sứ vụ mà Chúa Giêsu trao cho Giáo hội, chứng tỏ bản chất của Giáo hội là truyền giáo. Chính Chúa Giêsu Phục sinh đã nói với các tông đồ nơi Phòng Tiệc Ly như sau: “Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con” (Ga 20,21). Đến lượt Chúa Con cũng sai Giáo hội ra đi cho đến tận cùng trái đất. Ðây là một sứ mạng duy nhất, một sứ điệp duy nhất, phát xuất từ Thiên Chúa và được gửi đến cho mọi người, ngõ hầu họ được cứu chuộc và trở nên con cái Thiên Chúa.
“Chúa Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thư ba, từ cõi chết sống lại và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân. Chính anh em là chứng nhân về những điều ấy” (Lc 24, 46-48).
Nhân dịp Đại Năm Thánh 2000, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Sứ mạng của Giáo Hội kéo dài sứ mạng của Chúa Kitô. Giáo Hội không ngừng rao giảng cho thế giới Tình Phụ Tử của Thiên Chúa, bằng việc rao giảng và bằng chứng tá của những con cái mình…nhờ việc thực hành mệnh lệnh tình thương đối với Thiên Chúa và đối với anh chị em”. (Huấn Đức ngày 22 tháng 10/2000, tại Roma).
Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã nhấn mạnh: Sứ vụ truyền giáo là bổn phận của toàn thể Giáo hội, vốn bởi bản chất là thừa sai (x.Ad gentes, số 2). Trích dẫn lời Chân phước Phaolô VI, ngài tiếp: “Giáo Hội hiện hữu để truyền giáo, để giảng thuyết và giáo huấn, để làm máng chuyển quà tặng của các ân sủng, để hoà giải các tội nhân với Thiên Chúa, để trường tồn hy lễ của Chúa Kitô trong Thánh Lễ, đó là việc tưởng niệm cuộc tử nạn và phục sinh vinh hiển của Người.”
Lòng thương xót là linh hồn của truyền giáo
Thánh Phaolô viết: “Tình Yêu Chúa Kitô thôi thúc tôi” (2 Cr 5, 14). Đức Kitô thúc bách những người đã chịu phép Rửa tội nam phụ cũng như lão ấu, kể cả người đau yếu lẫn người nghèo, khi đã đón nhận tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, có sứ mạng rao giảng và mang tình yêu cho hết mọi người, bằng lời nói và chứng tá cụ thể của Lòng Thương Xót. Truyền giáo là gì gì nếu không phải là loan báo Tin Mừng về tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa như chính Chúa Giêsu đã làm. Ngài không những đã hăng say loan báo tình yêu của Thiên Chúa cho mọi người, Ngài còn xót thương đến thí mạng để làm chứng cho tình yêu đó. Hơn thế nữa, Ngài mạc khải và nhập thể tình yêu đó nơi chính bản thân mình. Ngài là hiện thân của Lòng Thương Xót Chúa. Nơi Ngài, tình yêu và lòng thương xót chiến thắng tội lỗi và sự chết. Vì thế, sứ điệp Tin Mừng Nước Thiên Chúa trở thành Tin Mừng Phục Sinh, Niềm Hy Vọng cho toàn thế giới.
Trong sứ điệp nhân ngày thế giới truyền giáo lần thứ 90 với chủ đề “Giáo hội thừa sai, chứng nhân lòng thương xót”, Đức Thánh Cha Phanxicô viết: “Khi đón nhận và theo Chúa Giêsu qua Tin Mừng và các bí tích, nhờ tác động của Chúa Thánh Linh, chúng ta có thể trở nên người có lòng thương xót như Cha chúng ta trên trời, học yêu thương như Chúa yêu thương chúng ta và biến cuộc sống chúng ta trở thành một món quà nhưng không, dấu chỉ lòng nhân lành của Ngài” (Misericordiae Vultus 3).
Nhân dịp Năm Thánh Lòng Thương Xót, Đức Thánh Cha Phanxicô đề cao vai trò của phụ nữ và các gia đình trong việc biểu lộ lòng thương xót của Thiên Chúa rằng “Có bao nhiêu người nam nữ thuộc mọi lứa tuổi và giai tầng xã hội, đã và đang làm chứng về tình yêu thương xót của Chúa, như trong thời kỳ đầu qua kinh nghiệm của Giáo Hội. Dấu chỉ hùng hồn về tình yêu thương từ mẫu của Thiên Chúa là sự hiện diện gia tăng đáng kể của nữ giới trong thế giới truyền giáo, bên cạnh sự hiện diện của nam giới. Các phụ nữ, nữ giáo dân và các người nữ thánh hiến, và ngày nay cũng có nhiều gia đình, đang thực thi ơn gọi truyền giáo của họ dưới nhiều hình thức khác nhau: từ việc trực tiếp rao giảng Tin Mừng cho đến các dịch vụ bác ái.”
Đức Thánh Cha thêm: “Bên cạnh hoạt động loan báo Tin Mừng và cử hành các bí tích do các nam thừa sai đảm nhận, cũng có các phụ nữ và các gia đình hiểu biết một cách thích hợp hơn các vấn đề của dân chúng và biết đương đầu với các vấn đề ấy một cách thích hợp, và đôi khi một cách ”chưa từng có”: qua sự chăm sóc cuộc sống, đặc biết chú ý đến con người hơn là các cơ cấu, tận dụng mọi tài nguyên nhân bản và tinh thần để xây dựng sự hòa hợp, các quan hệ, hòa bình, liên đới, cộng tác và tình huynh đệ, trong lãnh vực các tương quan giữa con người với nhau, cũng như trong lãnh vực rộng hơn lớn của đời sống xã hội và văn hóa, nhất là việc chăm sóc người nghèo”.
Nhờ lời chuyển cầu của thánh Phanxicô Xaviê, thánh nữ Têrêsa Hài Ðồng Giêsu là quan thầy các xứ truyền giáo, nhất là của Mẹ Maria Ngôi Sao truyền giáo, mẫu gương loan báo Tin Mừng, cầu thay nguyện giúp cho Hội Thánh trở nên một mái nhà của tình yêu và thương xót mọi người; một người mẹ xót thương cho mọi dân tộc và là nguồn suối tái sinh cho thế giới chúng ta. Amen.
(Suy niệm của ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
(Bài giảng Lễ Khánh nhật truyền giáo của ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Chúa nhật hôm nay là ngày thế giới cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo trong Giáo Hội. Bí tích Thanh Tẩy trao cho mỗi Kitô hữu sứ vụ loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu cho anh em đồng loại của mình.
Chúa nhật hôm nay là ngày thế giới cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo trong Giáo Hội. Bí tích Thanh Tẩy trao cho mỗi Kitô hữu sứ vụ loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu cho anh em đồng loại của mình. Sau mỗi Thánh lễ, vị chủ tế tuyên bố với cộng đoàn tham dự: “Lễ xong, chúc anh em đi bình an!”. Đây không chỉ là lời chào tạm biệt trước lúc chia tay. Đây chính là lời sai đi, mang nội dung và ý nghĩa như lời Chúa nói với các tông đồ trước khi về trời: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo…” (Mc 16,15). Như vậy, vào lúc thánh lễ trong phụng vụ kết thúc, cũng là lúc khởi đầu cho một cuộc lên đường mới để loan báo Tin Mừng của Đức Giêsu.
Hội đồng Giám mục Việt Nam vừa tổ chức Đại hội tại Trung tâm Mục vụ Sài-gòn từ ngày 7 đến ngày 12 tháng 10-2013. Trong Thư Chung gửi cho cộng đoàn Dân Chúa, các Giám mục đã chọn đề tài Tân Phúc-Âm-Hóa như một định hướng cho Giáo Hội công giáo tại Việt Nam. Đó cũng là thao thức của các vị Giáo Hoàng trong thời hiện đại này. Có một nghịch lý hiện nay, đó là ngày càng có nhiều hiệp hội truyền giáo ở cấp quốc tế cũng như cấp địa phương, nhưng số tín hữu công giáo thực hành Đức tin lại ngày càng giảm. Phải chăng đó là hậu quả của não trạng cho rằng việc truyền giáo là của các linh mục và tu sĩ. Chính vì vậy, Giáo Hội luôn khích lệ người tín hữu tham gia cộng tác trong sứ vụ cao cả này, với hy vọng công cuộc truyền giáo sẽ đem lại nhiều kết quả tích cực.
Thế nào là Phúc-Âm-hóa? Đó là “mang Tin Mừng đến mọi môi trường nhân loại và, nhờ sự tác động này, làm biến đổi từ bên trong, đổi mới chính nhân loại: ”Này đây Ta đổi mới mọi sự” (Kh 21,5; ĐGH Phaolô VI,Tônghuấn Loan Báo Tin Mừng, 18). Phúc-Âm-Hóa là làm cho tinh thần của Phúc Âm được thấm nhuần trong mọi lãnh vực của cuộc sống, từ việc giải trí đến việc lao động; từ đời sống gia đình đến xã hội; từ người già đến người trẻ… Tân Phúc-Âm-Hóa là một cách thức canh tân để loan báo Phúc Âm có hiệu quả hơn. Đức Chân phước Gioan Phao-lô II đã giải thích khái niệm Tân Phúc-Âm-hóa trong bài diễn từ tại Đại hội lần thứ 19 của HĐGM Mỹ Châu năm 1983: “Tân Phúc-Âm-Hóa không phải là loan báo một Phúc Âm mới, nhưng là mới trong nhiệt thành, trong phương cách, trong cách diễn đạt”’. Như thế, mọi thành phần Dân Chúa, từ giáo sĩ đến giáo dân phải kiểm điểm lại cách thức truyền giáo của mình. Phải chăng phương pháp truyền giáo của chúng ta không còn hợp thời, hoặc thiếu lửa truyền giáo nên không đem lại những kết quả như chúng ta mong muốn.
Trong nhiều định nghĩa về truyền giáo, chúng ta thường hay nghe nói đến một khái niệm: truyền giáo là làm chứng cho Chúa. Chúng ta dành ít phút để suy tư về khái niệm này.
“Làm chứng” chính là lệnh truyền của Chúa Giêsu trước khi Chúa về trời: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Trong cuộc sống đời thường, nhiều khi chúng ta đã được mời làm chứng về một vụ việc xảy ra hoặc một tranh chấp quan trọng. Người làm chứng là nhân vật trung gian giữa hai bên. Muốn làm chứng, chúng ta phải biết rõ nội dung vụ việc đã xảy ra, với những chi tiết quan trọng có liên quan. Người làm chứng cũng phải là người có cuộc sống tốt, có uy tín, đáng tin đối với cả hai bên đang tranh chấp.
Truyền giáo là làm chứng cho Chúa. Để làm chứng cho Chúa, trước hết chúng ta phải hiểu Chúa, biết Chúa và tin vào Chúa. Một người không tin Chúa hoặc có một đức tin sơ sài thì không thể “kể về Chúa” được. Tiếp đến, người làm chứng phải có một cuộc sống tốt lành thì chứng của người đó mới đáng tin và có giá trị thuyết phục người khác. Một người nói về Chúa mà chính bản thân họ không sống những lời Chúa dạy thì không thể thuyết phục người khác theo Chúa, thậm chí họ còn làm biến dạng giáo huấn của Chúa và giáo lý của Giáo Hội.
Trở lại với Thư Chung của Hội đồng Giám mục Việt Nam. Các Giám mục kêu mời các thành phần Dân Chúa, nhất là các linh mục, cộng tác nhiệt thành để truyền giáo theo những sáng kiến và phương pháp hợp với thời đại, được thúc đẩy bởi nhiệt tình mới, nhờ đó, chúng ta hy vọng sẽ đem đến cho Giáo Hội Việt Nam những mùa lúa chín dồi dào. Một cách cụ thể, trong năm 2014 sắp tới, các vị chủ chăn mong muốn chúng ta dành thời giờ và tâm huyết cho việc “Phúc-Âm-hóa gia đình”, tức là việc học giáo lý hôn nhân đối với các bạn trẻ; là trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái; là việc cầu nguyện chung thường xuyên trong gia đình. Những việc làm đó nhằm củng cố tình yêu gia đình và giáo dục Đức tin cho các thế hệ tương lai.
12.Liên lỉ quấy rầy – JM. Lam Thy ĐVD.
Trước đây, Đức Ki-tô đã kể dụ ngôn “Người bạn quấy rầy” (Lc 11, 1-13) nói về một người bạn đến xin bạn bánh vào nửa đêm. Trong bài Tin Mừng hôm nay (CN.XXIX/TN-C – Lc 18, 1-8), Người lại kể một dụ ngôn về “quấy rầy”. Chuyện lần này không phải là bạn bè ngang vai phải lứa quấy rầy nhau, mà là chuyện một bà goá quấy rầy một ông quan toà. Quan hệ hai bên là quan hệ giai cấp, giữa một bên là giai cấp thống trị và bên kia là giai cấp bị trị. Không có chuyện bạn bè nể tình nhau, và đối tượng bị quấy rầy lại là kẻ “chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì” (Lc 8, 2). Vậy mà cuối cùng cũng đành thua cái đức “lì” của bà goá.
Trong xã hội Do thái thời đó, các bà goá thường bị xã hội đối xử bất công, bị ức hiếp, bóc lột tàn tệ. Chạy đến với quan toà vì bà nghĩ quan toà là những người chuyên xử án công minh và sẵn sàng bênh vực những kẻ cô thế, cô thân. Nhờ niềm tin ấy, bà hy vọng sẽ đạt được ước nguyện, vì thế, bà kiên trì đến cầu xin người mà bà tin sẽ cứu giúp mình. Bà đã thành công nhờ đã hết lòng tin tưởng vào quan toà và liên lỉ “quấy rầy”. Mấu chốt vấn đề chính ở điểm này: Với một quan phụ mẫu bất lương như thế, nhưng nhờ lòng tin và nhất là sự bền lòng liên tục “quấy rầy” của bà goá, việc bà kêu xin rốt lại cũng được giải quyết. Ngụ ý trong dụ ngôn này đã nổi bật: “Anh em nghe quan toà bất chính ấy nói đó! Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao?” (Lc 18, 6-7).
Cả hai dụ ngôn (“Người bạn quấy rầy” và “Quan toà bất chính và bà goá quấy rầy”) đều ngụ ý răn dạy: “Cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra cho” (Mt 7, 7-8). Quả thật, khi xin ai một điều gì thì phải biết nhìn lại mình xem có thực sự là thiếu thốn, nghèo đói hay không và nhất là có thực sự tin tưởng vào người mà mình muốn cầu xin hay không. Một cách cụ thể khi cất tiếng cầu xin Thiên Chúa thì không những cần phải có đức tin vững mạnh, mà đồng thời còn phải biết nhìn lại con người tội lỗi, bất toàn của mình, mà cầu xin ơn tha thứ trước khi xin những ơn khác. Ấy là chưa kể khi cầu xin thì không chỉ cầu xin cho bản thân mà còn phải biết cầu cả cho những “người thân cận” trong khắp tứ phương thiên hạ.
Nói cầu xin Thiên Chúa tức là nói đến cầu nguỵên. Thật vậy, phải hết lòng tin tưởng vào Đấng Công Chính mới liên lỉ cầu nguỵên. Dạy môn đệ phương cách kiên trì cầu nguyện, nhưng đến câu kết thúc, Đức Giêsu lại nói: “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18, 8). Thật chua xót khi Người nói câu này lại là Người hiện diện trên mặt đất với mục đích thắp sáng lại niềm tin đã bị lu mờ của nhân loại. Con Người ấy, từ cuộc sống vật chất đạm bạc nơi một làng quê hẻo lánh, đến cuộc sống tinh thần vô vàn phong phú bởi những Lời giảng dạy, những câu chuyện kể, những việc làm, thậm chí đến hy sinh cả tính mạng, chỉ nhằm mục đích củng cố lại niềm tin cho loài người để tiến tới mục đích tối hậu là cứu độ nhân loại cho khỏi sự chết đời đời. Con Người kỳ vĩ ấy chính là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật, đã đến thực thi sứ mệnh như vậy đó, nhưng những người được gặp, được tiếp xúc, được dạy dỗ… đã đón tiếp như thế nào, để đến độ Người phải thốt lên câu nói chua xót như vậy? Và quả nhiên đó là một lời tiên tri, bởi cho đến ngày hôm nay, số người được nghe lời chân lý vẫn chỉ là một thiểu số khiêm nhường so với con số người chưa được nghe rao giảng. Ngay trong số những người đã được nghe, được biết Tin Mừng cứu độ, thì chẳng hiểu những người thực lòng tin tưởng có được là bao nhiêu phần trăm?
Rõ ràng, Đức Giêsu Ki-tô đã dùng những hình ảnh thật quen thuộc, thật gần gũi và rất hiện thực trong cuộc sống đời thường để dạy dỗ các tín hữu, nên mới nói đến sự quấy rầy khi cầu xin để đạt hiệu quả. Thiên Chúa không phải là người bị quấy rầy trong dụ ngôn “người bạn quấy rầy”, lại càng không phải là nhân vật quan toà bị quấy rầy trong dụ ngôn “quan toà bất chính và bà goá quấy rầy”. Tấm lòng Người Cha Nhân Hậu luôn rộng mở đối với con cái, chưa cần nghe lời cầu xin thì Người đã sẵn lòng minh xét, ban phát ân huệ. Thật vậy, “Người không coi thường lời khấn nguyện của kẻ mồ côi, hay tiếng than van của người goá bụa” (Hc 35, 14).
Duy chỉ có một điều là con cái tội lỗi, bất toàn, có thực lòng ăn năn, thực lòng tin, thực lòng cầu xin hay không, mà thôi. Lời dạy “kiên trì quấy rầy” của Người là muốn các tín hữu kiên trung trong đức tin và liên lỉ trong việc “nâng tâm hồn và trí khôn lên với Thiên Chúa” (cầu nguỵên). Bởi cuộc sống trần thế có muôn vàn khó khăn, thử thách lòng tin của con người, nên phải vững vàng trong đức tin trước đã, nhiên hậu mới nói đến kiên trì cầu nguyện. Và như thế thì còn lo gì “Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao?” (Lc 18, 7), chẳng lẽ con cái lâm cảnh khốn cùng đến cầu xin mà Người Cha Nhân Hậu lại ngoảnh mặt làm ngơ không ban những của tốt lành sao? (Lc 11, 13).
Bài học về “kiên nhẫn cầu xin” đã sáng tỏ, nhưng còn vấn đề tại sao Giáo Hội lại để bài Tin Mừng này vào Chúa nhật Truyền Giáo? Cũng đã có những ý kiến cho rằng không lẽ Truyền Giáo lại là đi cầu xin những người “chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì” (Lc 8, 2) sao? Mới nghe qua vấn nạn này thì thấy có lý, nhưng suy nghĩ cho thấu đáo thì sẽ thấy ngụ ý trong dụ ngôn hôm nay mới thực sự là vấn đề cốt tuỷ của Truyền Giáo. Truyền giáo ư? Chắc cũng không cần phải định nghĩa lại việc truyền giáo, vì nó là sứ vụ duy nhất, nhất quán của Giáo Hội, của mỗi Ki-tô hữu (“Hoạt động truyền giáo không gì khác hơn, cũng không gì kém hơn là biểu lộ hoặc bày tỏ ý định của Thiên Chúa và hoàn tất ý định đó nơi trần thế và trong lịch sử thế trần, chính trong lịch sử này mà Thiên Chúa hoàn thành lịch sử cứu rỗi một cách rõ rệt nhờ việc truyền giáo.” – Sắc lệnh “Truyền Giáo”, số 9)
Sứ vụ chỉ có một, nhưng thể hiện ra bằng việc làm, bằng hành động thì muôn màu muôn vẻ, không nhất thiết phải cứ thế này hay thế khác. Hoạt động truyền giáo không chỉ giới hạn trong việc “giảng đạo” (như trước đây ở Việt Nam vẫn có quan niệm như vậy, và do đó mà cho rằng chỉ có các linh mục, tu sĩ, các vị thừa sai… mới được giảng đạo, còn giáo dân thì chỉ việc nghe và chấp hành). Công việc truyền giáo cũng ví như các cành nho (Ki-tô hữu) hút nhựa từ thân cây nho (Đức Giêsu Ki-tô) và có bổn phận phải trổ sinh hoa trái. Chính vị sứ giả truyền giáo vĩ đại Giêsu Ki-tô cũng nhiều lần răn dạy môn đệ: “Thầy là cây nho, anh em là cành” (Ga 15, 5), “Chính anh em là muối cho đời… Chính anh em là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5, 13-14). Là cành nho mà không trổ sinh hoa trái, là muối mà nhạt nhẽo, là ành sáng mà lu mờ (như “đèn để trong thùng”), thì liệu công việc có đạt hiệu quả không?
Với nhãn quan truyền giáo đó, nhìn lại dụ ngôn “Quan toà bất chính và bà goá quấy rầy” sẽ thấy nổi bật 2 điểm: Kiên trì cầu nguyện và khiêm nhường chịu lụy. Cầu nguyện là nâng tâm hồn và trí khôn lên với Thiên Chúa (“tâm hồn” chính là tấm lòng “mến Chúa yêu người”, còn “trí khôn” là phải xét xem mình sẽ xin những gì, những điều xin ấy có lợi cho riêng mình đã đành, nhưng có mưu ích cho người khác hay lại làm hại người khác (“ích kỷ hại nhân”)? Ngoài ra, nếu đời sống tâm linh của người truyền giáo được cắm rễ sâu trong hoạt động cầu nguyện hy sinh (khiêm nhường chịu luỵ), thì mọi việc làm đều có giá trị truyền giáo, đều có khả năng làm cho người khác nhận biết Chúa và đem lại rất nhiều lợi ích cho các linh hồn. Nhờ thế, nhìn thấy gương cầu nguyện, gương hy sinh của những người truyền giáo, người ta sẽ được đánh động, được cảm hoá.
Cứ nhìn lại gương các Tông đồ trong Giáo Hội tiên khởi thì đủ rõ. Trước ngày lễ Ngũ Tuần, hoạt động truyền giáo của các ngài vẫn chưa thật sự thăng hoa. Sau khi Chúa về Trời, “Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giêsu, và với anh em của Đức Giêsu.” (Cv 1, 14), và đến ngày Lễ Ngũ Tuần thì Thần Khí Chúa hiện xuống và kết quả là các ngài đã trở thành những nhà Truyền Giáo kiệt xuất. Các ngài không chỉ trở nên những người loan báo Tin Mừng Cứu Độ bằng phong cách rao giảng tuyệt vời, mà còn bằng cuộc sống khiêm nhường chịu luỵ đến độ hy sinh cả tính mạng mình làm chứng nhân anh hùng cho Cứu Chúa Giêsu Ki-tô Phục Sinh.
Trên cánh đồng Truyền Giáotoàn cầu, các Tông đồ tiên khởi đã minh chứng rõ ràng đức tính căn bản của truyền giáo là kiên trì cầu nguỵên và khiêm nhường nhẫn nhục. Cách riêng, trải dài theo lịch sử Giáo Hội Việt Nam, các giáo sĩ và giáo dân trong vai trò rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, đã gặp không ít những đối tượng cỡ như viên quan toà “chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì”. Nếu các ngài không kiên trì nhẫn nhục, thì liệu có được cánh đồng màu mỡ như ngày nay không? Nếu các ngài không liên lỉ cầu nguyện và hy sinh thì có được kết quả 130.000 anh hùng tử vì đạo với 117 vị được tuyên phong hiển thánh hay không?
Tóm lại, tính chất “duy nhất, thánh thiện và tông truyền” của Giáo Hội Công Giáo đã có được vì noi gương truyền thống các Tông đồ tiên khởi (TÔNG TRUYỀN) sống hịêp thông (DUY NHẤT) trong tôn chỉ cầu nguyện (THÁNH THIỆN), nên có thể khẳng định Giáo Hội là “một-cộng-đồng-hiệp-thông-và-truyền-giáo”, vì “Sự hiệp thông và việc truyền giáo gắn liền với nhau, xâm nhập và quấn quít nhau và đã trở nên như nguồn mạch, và là hoa trái của việc truyền giáo. Hiệp thông là truyền giáo, và truyền giáo có mục đích thể hiện sự hiệp thông. Chính một Chúa Thánh Thần kêu gọi và hiệp nhất Giáo Hội và sai Giáo Hội đi rao giảng Phúc âm “khắp trên mặt đất” (Acts. 1, 8).” (Tông Huấn “Ki-tô hữu Giáo dân” – Ch. III, số 32).
Ôi! Lạy Chúa Ki-tô! Xin cho con trưởng thành trong việc cầu nguyện. Xin đừng để đời sống tâm linh của con bị xói mòn, kém phát triển vì cách cầu nguyện ấu trĩ và nhất là đầy ích kỷ của con. Xin dạy con biết cầu nguyện, biết sống khiêm nhường nhẫn nhục trước mọi nghịch cảnh như những thử thách trui rèn cho sứ vụ Truyền Giáo mà Chúa đã trao cho con khi con được nhận lãnh Bí tích Thánh Tẩy (tham dự vào 3 chức vụ của Chúa: “ngôn sứ, tư tế, vương giả”). Ôi! Lạy Chúa!
Cúi xin Chúa ban Thần Khí Tình Yêu cho con để con không chỉ cầu nguỵên cho riêng mình, mà là cầu cho cả những “người thân cận” của con trên khắp năm châu bốn biển, như xưa Chúa đã dạy con cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha. Amen.
13.Truyền lửa yêu thương – Mt 28, 16-20
Thông thường khi cầu xin bất cứ ân huệ gì, chúng ta tha thiết cầu xin cho bản thân, cho gia đình mình trước. Thế nhưng, khi đất nước lâm nguy, cần có người ra biên thuỳ bảo vệ, thì người ta lại sốt sắng cầu xin cho người khác, ngoại trừ bản thân, được can đảm xông ra chiến trường bảo vệ giang sơn. Nếu ai cũng cầu như thế và những lời cầu kiểu nầy được chấp nhận, thì làm gì còn Tổ Quốc!
Trong việc cầu cho công cuộc truyền giáo cũng vậy, chúng ta thường cầu với Chúa rằng: “Lạy Chúa, xin cho có đông người, ngoại trừ con, biết quảng đại lên đường đi khắp muôn phương loan báo Tin Mừng cứu độ.” Nhưng thử hỏi: nếu ai cũng cầu xin thế nầy, thì cánh đồng truyền giáo sẽ vắng bóng thợ gặt, tìm đâu ra người đi loan báo Tin Mừng.
Vậy thì lời cầu nguyện thiết thực nhất mà mỗi người chúng ta phải dâng lên Chúa là: “Lạy Chúa, tuy con bất xứng, nhưng xin hãy sai con đi làm thợ gặt cho Chúa ngay hôm nay.”
Dù muốn dù không, chúng ta cũng là ngôn sứ của Chúa ngay từ ngày lãnh bí tích thánh tẩy. Bí Tích Thánh Tẩy làm cho chúng ta trở thành chi thể Chúa Giêsu, cho thông dự vào vai trò ngôn sứ của Người, nên chúng ta phải đảm nhận trách nhiệm loan Tin Mừng cứu độ của Người.
Chính vì thế, trước khi về trời, Chúa Giêsu long trọng chuyển trao cho chúng ta, là môn đệ Người, tiếp tục thi hành sứ vụ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, …dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.” (Mt 28, 19-20)
Vậy thì sứ mạng loan Tin Mừng là một bổn phận phải làm chứ không phải là việc tuỳ thích. Thánh Phao-lô thú nhận: “Đối với tôi rao giảng Tin mừng không phải là lý do để tự hào, nhưng là một sự cần thiết buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng.” (1 Cr 9,16).
Vì đây là bổn phận của mọi chi thể Chúa Giêsu nên chỉ khi nào chúng ta tự tách lìa mình ra khỏi Hội Thánh là Thân Thể Chúa, thì chúng ta mới có thể cho phép mình ngừng loan báo Tin Mừng.
Truyền giáo là truyền lửa yêu thương
Trong đêm Vọng Phục Sinh, lòng nhà thờ hoàn toàn chìm trong bóng tối. Thế rồi, từ cuối nhà thờ, Nến Phục Sinh được thắp sáng lên và được long trọng rước lên cung thánh. Linh mục chủ sự lấy lửa từ Nến Phục Sinh thắp lên cho một vài cây nến nhỏ bé khác trên tay vài người. Những người nầy lại đem lửa phục sinh thắp lên cho người bên cạnh và cứ tiếp tục như thế, chẳng mấy chốc, cả ngàn cây nến nhỏ của các tín hữu tham dự đều được thắp lên.
Loan Tin Mừng cũng là thắp lên lửa yêu thương cho người quanh ta. Lửa đức tin, lửa yêu thương đã được Chúa Giêsu thắp lên trong ta, thì đến lượt mỗi chúng ta cũng hãy thắp lửa đức tin, lửa yêu thương ấy cho người bên cạnh và công việc truyền lửa nầy cần phải được tiếp nối không ngừng.
Thánh Têrêxa Calcutta cũng cho rằng truyền giáo là chia sẻ tình thương. Mẹ không rao giảng Phúc Âm bằng lời nhưng bằng những tâm tình và cử chỉ yêu thương cụ thể. Mẹ cũng chẳng chủ trương yêu thương đại chúng cách chung chung, nhưng là yêu thương từng người đang đối diện.
Mẹ nói: “Đối với chúng tôi, điều quan trọng là từng người một. Để thương yêu một người thì phải đến gần người ấy… Tôi chủ trương một người đến với một người. Mỗi một người đều là hiện thân của Đức Ki-tô… Người đó phải là người duy nhất trên thế gian (mà ta cần yêu thương trọn vẹn) trong giây phút đó.”
Với tâm tình nầy, Mẹ Tê-rê-xa đã thu phục nhân tâm nhiều người trên thế giới. Cũng bằng phương thức nầy, Giáo Hội công giáo Hàn Quốc đã làm gia tăng gấp đôi số tín hữu chỉ trong vòng mươi năm!
Theo gương Mẹ Tê-rê-xa, mỗi một người công giáo nên kết thân với một người lương, coi người đó như anh em ruột thịt và đem hết lòng yêu thương người đó.
Mỗi gia đình công giáo nên kết thân với một gia đình lương dân, coi họ như thân quyến của mình, sẵn sàng chia ngọt sẻ bùi; khi có kỵ giỗ, cưới xin hay lễ lạc gì trong gia đình, hãy mời họ cùng thông hiệp. Nhờ đó hai bên thắt chặt mối giây thân ái và qua tình thân nầy, Tin Mừng của Chúa Ki-tô sẽ được lan toả như ánh nến đêm Vọng Phục Sinh.
14.Suy niệm của Lm Ga Nguyễn Văn Ty
(Mc 16, 15-20)
TRUYỀN GIÁO HAY RAO GIẢNG TIN MỪNG?
Dầu đã được trực tiếp tham gia vào công tác ‘truyền giáo’ trong thời gian 02 năm tại Mongolia, khi được nhiều bạn gửi mail khuyến khích viết bài suy niệm nhân Khánh Nhật Truyền Giáo, tôi vẫn cảm thấy ngại ngùng. Lý do là vì suy nghĩ của tôi sau thời gian ‘truyền giáo’ trở về đã bị thay đổi nhiều quá; tôi cảm thấy lạc lõng và cô đơn trong suy tư, hụt hẫng trong truyền đạt về đề tài này. Cuối cùng thì sáng nay, sau thánh lễ và chia sẻ của các tập sinh, tôi đã quyết định viết, không phải cho các bạn đâu, mà là cho chính tôi đấy.
Tôi nhớ là năm 2003, sau khi kết thúc nhiệm kỳ giám tỉnh cuối cùng, tôi vẫn chưa có định hướng nào rõ rệt cho tương lai phục vụ của mình. Bề trên Trung Ương đã rộng phép cho tôi có một năm bồi dưỡng bất kỳ ở đâu…; và tôi đã quyết định xin có một năm để trau dồi tu đức và học hỏi về các tôn giáo thế giới tại đại học Berkeley – California (Hoa Kỳ). Chính trong thời gian này mà tôi đi tới quyết định xin bề trên cho đi truyền giáo Mongolia, nơi mà tôi đã lui tới nhiều lần trong thời gian thành lập các cơ sở truyền giáo cho anh em Don Bosco Việt Nam. Ngay trước khi lên đường đi Mongolia, tôi còn được tham dự một khóa học chuyên đề về truyền giáo tại đại học Universitá Pontificia Salesiana – Roma. Ấy thế mà khi thực sự tới và làm việc trực tiếp tại một nơi truyền giáo thứ thiệt như Mongolia, cái kinh nghiệm ‘truyền giáo’ nông cạn và bé nhỏ tôi có được đã đủ để làm đảo lộn (upside down) mọi suy nghĩ trước đó của tôi về lãnh vực này.
Trước hết tôi thấy mình dị ứng ghê gớm với từ ‘truyền giáo’ vì thấy nó dễ gây hiểu lầm quá. Nếu truyền giáo hàm ý làm cho một người ‘không có đạo’ được rửa tội để gia nhập đạo Công giáo theo nghĩa ‘proselytism’ thì rõ ràng ta đã hiểu sai ý Đức Ki-tô rồi. May mắn thay nội dung này đã chính thức bị phế bỏ kể từ sau Công Đồng Va-ti-ca-nô II. ‘Truyền giáo’ phải được hiểu là ‘rao giảng Tin Mừng’, là loan báo tin vui cứu độ, là loan truyền tình yêu thương xót của Thiên Chúa đã được Đức Ki-tô Giêsu thực hiện trên thập giá. Quan niệm cho rằng ai đó phải gia nhập đạo, phải được rửa tội, thì mới được hưởng nhờ lòng nhân ái cứu độ của Thiên Chúa là một sai lầm to lớn. Lòng thương xót và ơn cứu độ đã được Chúa ban cho hết thảy mọi người cách vô điều kiện (xem thư Rô-ma chương 5). ‘Loan báo Tin Mừng’ không làm gì hơn là mở mắt cho người ta nhận biết rằng họ đã được hưởng ơn cứu độ và lòng thương xót nhờ sự chết và phục sinh của Đức Ki-tô Giêsu, và rồi mời gọi họ gia nhập cộng đoàn tín hữu để cùng chúng ta dâng lời cảm tạ tri ân.
Một suy nghĩ khác mà tôi cảm thấy rất dội đó là: nếu không có ai đi truyền giáo thì các dân ngoại sẽ mất linh hồn hết… rằng nhà truyền giáo là những người mang ơn cứu độ tới cho kẻ ngoại… rằng ơn cứu độ lệ thuộc vào một lối sống được xây dựng trên nền ‘luân lý Ki-tô giáo’… để rồi chỉ những người có đạo nắm giữ cặn kẽ các qui định này mới được vào thiên đường. Thiết tưởng khi Đức Ki-tô sai các tông đồ đi rao giảng Tin Mừng, Người đâu có ám chỉ điều này. “Anh em hãy đi khắp từ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”. ‘Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ” đâu có ý nghĩa phép rửa sẽ ban ơn cứu độ. Tin Mừng của lòng thương xót cứu độ vẫn có thể được rao giảng và mời gọi ngay cả một người nữ Sa-ma-ri sống chung chạ sau năm đời chồng. Khi còn ở Mongolia, cha sở nhà thờ chính tòa Ulaanbataar, một nhà truyền giáo người Ca-mơ-run, xin tôi dạy giáo lý cho một nhóm sinh viên. Ngài muốn tôi dạy theo chương trình giáo lý tân tòng mà ngài đã soạn, khởi đầu bằng nội dung thập giới của Chúa và lục giới của Hội Thánh… Ngài căn dặn: đó là các điều kiện tiên quyết để gia nhập đạo và được rỗi linh hồn… Tôi đã không áp dụng chương trình đó, xác tín rằng ‘truyền giáo’ tiên quyết phải là rao giảng Tin Mừng, mà Tin Mừng chính là cho mọi người nhận biết Thiên Chúa xót thương và cứu độ toàn thể nhân loại. Trường hợp cụ thể của tôi là phân tích cho những sinh viên Mongolia hiểu ra rằng Thiên Chúa của Đức Giêsu Ki-tô yêu thương họ, không như các thần linh đạo Shaman của người du mục luôn gieo rắc sợ hãi kinh hoàng. Thế đấy, cái kinh nghiệm rất cụ thể của tôi về sự khác biệt quá lớn giữa ‘truyền giáo’ và ‘loan báo Tin Mừng’ là như thế.
Từ cái kinh nghiệm truyền giáo còn rất thô thiển tại Mongolia tôi đã học được bài học cơ bản: Thiên Chúa không biết từ thuở nào đã yêu mến và cứu chuộc các người Mông Cổ du mục sinh sống trên vùng thảo nguyên lạnh giá mênh mông tại Trung Á. Cuộc sống du mục nay đây mai đó của họ, với văn hóa và các truyền thống từ bao đời, cho dầu có nhiều điểm khác xa nền ‘luân lý Ki-tô giáo’, vẫn không hề tách họ khỏi lịch sử cứu độ mà Thiên Chúa đã chủ động thực hiện nhờ Đức Ki-tô Giêsu. Công việc của nhà truyền giáo như tôi đích thị phải là rao giảng Tin Mừng, là loan báo cho họ biết rằng Thiên Chúa yêu thương họ trong chính lối sống và văn hóa của họ…; đồng thời mời gọi họ tin vào Đức Ki-tô Cứu Chúa… đón nhận phép thánh tẩy… và gia nhập vào Hội Thánh là cộng đoàn những người nhận biết Thiên Chúa từ ái và yêu thương để không ngừng cao cao lời cảm tạ. Và cũng từ đó tôi nghiệm ra một điều tối quan trọng là… một ‘người loan báo Tin Mừng’ trước hết phải chính mình có cảm nghiệm sâu sắc về lòng thương xót cứu độ của Chúa. Cảm nghiệm này chính là nền tảng của việc được sai đi, là sức mạnh trong khiêm tốn phục vụ, là hy vọng không hề suy chuyển trước các khác biệt và thách đố, và là chương trình và hành động trong rao giảng.
Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đã cho con được tham gia chút chút vào chương trình cứu độ đầy yêu thương của Chúa đối với dân tộc Mongolia. Cảm tạ Chúa đã mở lòng cho con nhận biết Chúa yêu thương họ vô cùng, trước cả khi con được sai tới với họ để nói cho họ biết điều đó. Qua tâm tình tri ân này, xin cho con tiếp tục không ngừng khao khát tuyên xưng niềm tin vào một Thiên Chúa yêu thương và cứu độ, và tìm cách làm chứng cũng như loan truyền điều đó cho mọi người con gặp gỡ và tiếp xúc hàng ngày. Amen.
15.Đừng trở thành chi thể bất động trong thân thể Chúa
(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
Thiên Chúa là người Cha giàu lòng yêu thương, hết sức trân quý loài người là đoàn con chí ái mà Ngài đã sinh ra và ấp ủ bằng tình yêu thương thắm thiết. Tiếc thay, hàng tỷ người trên mặt đất hiện nay không nhận ra Ngài là Cha yêu thương, chưa biết mọi người chung quanh là anh chị em ruột thịt con cùng Cha trên trời… Vì thế, họ quay lưng lại với Cha trên trời, họ sống thù nghịch với nhau, gây cho nhau vô vàn đau thương khốn khổ suốt dòng lịch sử loài người.
Trước thảm cảnh này, Thiên Chúa đau lòng vô hạn và Ngài khao khát, khao khát biết bao cho muôn dân nhận biết Ngài là Cha, nhìn nhận nhau là anh chị em một nhà, nhờ đó mới có thể chấm dứt bao cảnh huynh đệ tương tàn, để cùng nhau xây dựng cuộc sống hạnh phúc trong đại gia đình Thiên Chúa.
“Cơn khát” này đã dày vò Thiên Chúa triền miên qua bao thời đại. Để xoa dịu, để giải tỏa “cơn khát” mãnh liệt này, Thiên Chúa không ngừng thôi thúc chúng ta là những đứa con trong nhà hãy lên đường dẫn đưa các anh chị em chưa biết Cha về đoàn tụ.
Lời thôi thúc mời gọi của Thiên Chúa
Rất nhiều lần, lời mời gọi của Chúa Giêsu vang dội trong tâm hồn chúng ta:
“Hãy chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá (Lc 5,4)”…
“Các con hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần (Mt 28,19)”…
“Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy các con hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Lc 10,2)…
Gần đây, qua Đức thánh Cha Phan-xi-cô, Thiên Chúa tiếp tục thúc giục chúng ta cách quyết liệt và khẩn thiết:
“Tôi thà có một Hội thánh bị bầm dập, mang thương tích và lem luốc vì phải lên đường, hơn là một Hội thánh ốm yếu vì bị giam hãm và bám víu vào sự an toàn của mình” (Tông huấn Niềm vui Tin mừng số 49).
Thế nhưng những lời thôi thúc mời gọi đó vẫn chưa lay động con tim vô cảm của chúng ta, vẫn chưa khơi lên được ngọn lửa truyền giáo đã tắt ngúm trong tâm hồn chúng ta, mà chỉ như một làn gió thoảng qua rồi tan biến.
Thiên Chúa làm thế nào để đưa những đứa con chưa biết Cha về đoàn tụ?
Để đưa những đứa con chưa biết Cha về đoàn tụ, Thiên Chúa trao cho chúng ta hai nhiệm vụ sau đây:
– Thứ nhất, Ngài muốn chúng ta trở nên môi miệng Ngài để loan báo cho muôn người nhận biết họ có một Người Cha tuyệt vời là Thiên Chúa và mọi người là anh chị em ruột thịt con cùng Cha, để cùng nhau vui sống trong đoàn kết yêu thương.
– Thứ hai, Thiên Chúa muốn dùng chúng ta là những bàn tay của Ngài, phải đưa ra để dẫn dắt anh chị em lưu lạc về với Ngài.
Khi tôi khát nước khô cổ, cháy họng, tôi muốn giơ tay ra để bưng ly nước lên nhưng tay tôi bại xụi, không giơ ra được, không cầm ly nước đưa lên môi được… thì thật khốn khổ cho tôi! Khát lắm… nước sẵn đó, ngay trong tầm tay mà không với tới để uống được, buồn lắm thay!
Hôm nay, Chúa Giêsu đang khao khát đoàn con chưa nhận biết Cha quay về sum vầy đoàn tụ và Ngài muốn dùng chúng ta như đôi tay của Ngài để dẫn đưa những anh chị em này về với Chúa.
Như vậy, nếu chúng ta làm ngơ trước “cơn khát” của Chúa Giêsu. Nếu chúng ta cứ trơ trơ, im lìm, bất động… không đáp ứng nguyện vọng tha thiết của Ngài, cứ để mặc Ngài bị cơn khát hành hạ… thì vô tình, chúng ta trở thành bàn tay bại xụi của Chúa, không đáp ứng “cơn khát” của Ngài! Như thế, chúng ta có xứng đáng là chi thể của Ngài nữa không?
Tự vấn
Giờ đây, xin mời mỗi người trong chúng ta hãy tự hỏi mình:
– Chúa muốn dùng tôi là môi miệng Chúa để loan báo Tin mừng, tôi đã loan Tin mừng cho ai chưa? Và nếu chưa thì chờ đến bao giờ tôi mới bắt đầu?
– Chúa muốn dùng tôi như bàn tay của Chúa để dẫn đưa anh chị em chưa nhận biết về với Chúa, tôi đã làm chưa? Nếu chưa thì đợi đến bao giờ tôi mới khởi sự?
Lạy Chúa Giêsu,
Từ thân phận bụi đất thấp hèn, Chúa đã đoái thương nâng chúng con lên làm chi thể Chúa và cho tham dự vào vai trò ngôn sứ của Chúa để loan Tin mừng cứu độ cho muôn dân.
Xin cho chúng con không bao giờ là bàn tay tê bại, nhưng luôn là bàn tay hoạt động thật nhiệt thành để Chúa sử dụng mà đưa nhiều người về đoàn tụ trong nhà Cha.
16.Đừng trở thành bàn tay bại xụi của Chúa
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Khi tôi muốn dùng tay để gắp thức ăn mà cánh tay bị bại xụi, không gắp được thức ăn cho mình, thì thật là điều đáng buồn.
Khi anh hay chị muốn viết một lá thư thăm người bạn xa cách lâu ngày, mà tay bị tê bại, nắm bút lên thì bút lại rơi xuống, cầm tờ giấy lên, giấy cũng rơi xuống luôn, thì cũng thật đáng buồn.
Khi người mẹ muốn đưa tay ra ẵm lấy đứa con thơ rất yêu quý, rất dễ thương, nhưng đôi tay của bà bị bại xụi, nên không ẵm được cháu như ý muốn thì thật là đau lòng.
Thiên Chúa cũng phải chịu một cảnh đau lòng như thế, hết thời này qua thời khác, vì có nhiều “phần thân thể” của Ngài bị bại, bị liệt nên không hoạt động được như ý Ngài mong muốn.
Khao khát mãnh liệt nhất của Thiên Chúa là đưa muôn vàn đứa con yêu quý của Ngài tản mác khắp nơi về đoàn tụ dưới mái nhà chung. Vì lòng khao khát cháy bỏng nầy, vì ước vọng tha thiết nầy, Thiên Chúa đã dùng nhiều cách để đưa loài người về với Ngài.
Thứ nhất: Ngài dùng các ngôn sứ mà phán dạy.
Trước hết, Thiên Chúa dùng các ngôn sứ thời Cựu Ước như Mô-sê, I-sai-a, Ê-li-a, Giê-rê-mi-a, Gioan Tẩy Giả… để giảng dạy cho dân Do-thái nhận biết, tôn thờ Ngài và trở về với Ngài. Nhưng đa số đã không đón nhận các ngôn sứ Chúa gửi đến, lại còn lên án các vị nầy.
Thứ hai: Thiên Chúa sai Người Con Một.
Sau thất bại thứ nhất, Thiên Chúa cho Người Con một xuống thế làm người, trực tiếp dạy dỗ loài người, nộp mình chịu chết để cứu độ loài người. Thư Do-thái viết về sự kiện nầy như sau: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết nầy, Thiên Chúa phán dạy chúng ta qua Người Con.” (Dt 1,1-2)
Thứ ba: Trao cho mỗi người chúng ta tiếp nối sứ mạng của Chúa cứu thế.
Sau 33 năm sống trên dương thế dùng nhiều cách để bày tỏ cho nhân loại nhận biết Thiên Chúa Cha và nộp mình chịu chết đền tội cho loài người, Chúa Giêsu lên trời và chuyển giao công trình cứu độ của Ngài cho Hội Thánh tiếp nối.
Để thực hiện việc nầy, Chúa Giêsu lập bí tích Thánh Tẩy để nối kết chúng ta vào thân mình Ngài như cành nho liền với thân nho, như cánh tay nối liền cơ thể. Nhờ đó, chúng ta với Chúa Giêsu không còn là hai mà chỉ là một. Thế là từ đây, Chúa Giêsu tiếp tục công cuộc cứu độ của Ngài qua chúng ta là chi thể, là thân mình Ngài.
Đừng để cho đôi tay Chúa bị tê liệt
Thiên Chúa có một đoàn con đông đảo tản mác khắp nơi nhưng chưa hề biết mặt Cha mình là Thiên Chúa Cha, chưa từng quen biết Anh Cả của mình là Chúa Giêsu, không được chung sống và nuôi dưỡng trong gia đình Thiên Chúa. Họ là những anh chị em lương dân đang sống chung quanh chúng ta.
Chúa Giêsu khao khát ngày đêm dẫn dắt đoàn con lưu lạc nầy về đoàn tụ trong gia đình Hội Thánh. Ngài nhờ chúng ta là những bàn tay của Ngài chịu khó đưa ra để dẫn đưa họ về sum họp trong gia đình Thiên Chúa… Nếu chúng ta không chịu làm theo ý Ngài, thì đoàn con của Thiên Chúa là những anh chị em lương dân vẫn còn phải sống xa Cha Mẹ của mình là Thiên Chúa như những đứa con lưu lạc xa nhà. Như thế thì Thiên Chúa phải vô cùng đau khổ và chúng ta vô tình trở thành bàn tay bại xụi của Chúa Giêsu vì không “cử động được” như ý Ngài muốn.
Chúa Giêsu mong muốn ẵm lấy những anh chị em lương dân khắp nơi như người mẹ ẵm lấy những người con bé bỏng dễ thương vào lòng. Ngài nhờ đến chúng ta là đôi cánh tay của Ngài vươn ra, ẵm lấy những anh chị em đó, nhưng chúng ta không thực hiện ý Ngài. Như thế, anh chị em lương dân vẫn còn là những đứa con xa mẹ. Như thế, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục phải đau khổ vì không được bồng ẵm chăm sóc đoàn con; còn chúng ta, chúng ta vô tình trở thành đôi tay bại liệt của Chúa Giêsu, không cho Ngài thực hiện được ước vọng của Ngài qua chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa là Đầu, chúng con là chi thể, là chân tay của Chúa; xin đừng để chúng con trở thành đôi tay bại liệt, chẳng chịu “cử động” theo lệnh truyền của Chúa.
Xin cho chúng con mau mắn đáp lời mời gọi của Chúa, sẵn sàng lên đường, sẵn sàng hy sinh, sẵn sàng phục vụ để đem Tin Mừng của Chúa đến với anh chị em lương dân, để dẫn đưa đoàn con lưu lạc của Chúa về đoàn tụ trong gia đình Chúa.
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Cách chung con người ngày hôm nay thường nóng vội, hấp tấp, làm đại. Nghịch lý ở chỗ thích hoành tránh nhưng lại đòi phải nhanh, phải gọn. Họ chỉ thích làm những chuyện lớn mà bỏ qua chuyện nhỏ. Họ luôn xem việc nhỏ là tầm thường mà quên rằng việc lớn là do tích tiểu thành đại. Không kiên nhẫn trong việc nhỏ thế nên, họ cũng bỏ lỡ cơ hội làm những chuyện lớn lao.
Điển hình là xã hội hôm nay không có những công trình thế kỷ mà chỉ có những kiến thiết hợp thời, model nhưng mau qua. Về sự học dường như học sinh không thể ngồi yên để thuộc một câu thơ hay một bài lịch sử mà chỉ học trên net, trên Iphone…
Người ta kể rằng: Thời Đông hán có một thiếu niên tên Trần Phiên. Hắn cho mình bất phàm nên chỉ làm chuyện lớn mà thôi. Một hôm người bạn tới thăm thấy nhà hắn bẩn thỉu liền nói: Nho tử sao không quét nhà để tiếp đón khách?
Trần Phiên trả lời: Đại trượng phu xử thế. Nên quét thiên hạ sao lo một nhà?
Người bạn đáp lại: Một nhà không quét, sao có thể quét thiên hạ.
Trần Phiên ngộ ra không nói được lời nào.
Xem ra muốn xây dựng giang sơn thì phải xây dựng từ gia đình mình. Muốn làm những điều cống hiến cho đời thì phải rèn luyện mình thành người tốt. Phải khởi đi từ việc nhỏ mới mong làm chuyện đại sự to tát hơn. Muốn canh tân xã hội phải có một kế sách lâu dài và phải khởi đi từ những việc nhỏ nhất mới mong thành đại sự.
Phải chăng Giáo hội hôm nay cũng bị cuốn vào trào lưu thích hoành tráng, rầm rộ? Thích phô trương đánh trống hơn là sống đạo mến yêu? Các lễ nghi, lễ hội thật nhiều nhưng điều đó không quan trọng bằng việc ra đi đến với người nghèo, người già yếu, bệnh tật…?
Giáo hội luôn nói mình có sứ mạng truyền giáo và mời gọi các tín hữu tham gia vào công cuộc truyền giáo, nhưng xem ra chẳng có kết quả, bởi vì ai cũng muốn làm việc lớn nhưng những việc bình thường là canh tân đời sống bản thân, là sống công bình bác ái, là phục vụ yêu thương khởi đi từ gia đình lại bị xem thường.
Thực vậy, làm sao có thể truyền giáo khi chưa tề gia để mang lại cho gia đạo êm ấm thuận hòa?
Làm sao có thể truyền giáo khi bản thân còn nhiều tính hư nết xấu, đôi khi còn trở thành gương mù gương xấu cho tha nhân?
Truyền giáo không phải là một lễ hội để đánh trống khua chiêng. Truyền giáo là đem đạo vào đời qua muôn nẻo đường trần thế. Thế nên, truyền giáo đòi hỏi từng người phải biết sống trở thành nhân chứng cho Chúa, phải mang tin mừng thẩm thấu vào trong trái tim và trao tặng cho anh em, cho bạn bè. Truyền giáo phải như chút muối làm cho thế gian nồng thắm Tin mừng. Truyền giáo phải như chút men làm cho Tin mừng hòa vào thế gian.
Trong bài hát “Một chút” thôi của Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống dường như cũng nói những điều thật đơn giản ấy.
Một chút những viên đá nhỏ hợp thành ngọn núi lớn
Một chút những bước chân đi xa về muôn lối
Một chút những phút ủi an dịu xoa ngàn nỗi sầu
Chỉ một chút khởi đầu tương lai sẽ đẹp màu
ĐK – Một chút trong đời chỉ một chút chút xíu thôi
Nhiều chút chút bé nhỏ mà làm cho đời thêm mới
Một chút trong đời trở thành một chút thật tuyệt vời.
Chắt chiu từng chút ấy cho đời này thêm sáng tươi.
Hôm nay ngày khánh nhật truyền giáo, ước gì chúng ta hãy từng chút một chắt chiu những việc làm tốt để sáng danh Chúa, có như vậy chúng ta mới gom thành một làn sóng yêu thương mang tin mừng lan tỏa khắp nơi. Xin Chúa giúp chúng ta biết truyền giáo khởi đi từ việc nhỏ nhất trong đời thường bằng việc nêu gương sáng cho tha nhân trong bổn phận và trong việc bác ái dấn thân xây dựng thế giới ngày một tốt đẹp hơn.
18.Kitô hữu, chứng nhân truyền giáo
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
“Anh chị em đi khắp thế giới, loan báo Tin Mừng cho muôn dân”. Thưa anh chị em, đó là mệnh lệnh cuối cùng của Chúa Giêsu. Giáo Hội từ thời các Tông đồ trải qua các thời đại cuối cùng của Chúa, bất chấp mọi trở ngại.
Thế nhưng, qua 20 thế kỷ truyền giáo, số người tin theo Chúa Kitô vẫn là một thiểu số đáng lo ngại so với dân số thế giới ngày càng gia tăng. Hiện nay, dân số thế giới đã lên đến trên 5 tỷ người, thế mà số tín hữu công giáo chỉ được 900 triệu, nhưng 50 phần trăm là ở Nam Mỹ, còn triệu kia rải rác ở Châu Âu, Bắc Mỹ, Châu Á, Châu Úc và Châu Phi.
Riêng tại Châu Á của chúng ta, một lục địa với hơn 3 tỷ người, trong số đó chỉ có 3% là người Công giáo. Tại Trung Quốc chỉ có 4 triệu người Công giáo giữa một tỷ dân. Tại Nhật Bản có lối 500 ngàn người Công giáo giữa 123 triệu dân. Ở Nam Triều Tiên, 5 triệu người Công giáo trên 42 triệu dân. Tại đất nước Việt Nam chúng ta chỉ có hơn 4 triệu rưỡi người Công giáo trên 72 triệu dân, tỷ lệ hơn 6%. Tại TP. Hồ Chí Minh chúng ta có khoảng hơn 450 ngàn (485.584) người Công giáo trên hơn 5 triệu dân, tỷ lệ 13%. (Tại Hạt Tân Định, có 41.105 người Công giáo trên 266,000 dân). Đó là những con số trên giấy tờ, trong sổ Rửa Tội, còn trên thực tế, họ có sống đạo hay không là chuyện khác.
Như chúng ta được biết, ở những miền có đông giáo dân Công Giáo- ở Nam Mỹ chẳng hạn- đời sống dân chúng ở đó lại nghèo đói và thiếu linh mục.Ở Braxil, một nước lớn nhất Nam Mỹ, dân số 107 triệu, đại đa số là Công giáo. Thế mà gần đây người Công giáo đã bỏ Giáo Hội để sang Hội Thánh Tin Lành tính ra có trên 17 triệu người (lý do có lẽ là để được hưởng trợ cấp). Trái lại, ở các nước giàu có, phồn thịnh về vật chất- như ở Châu Âu và Bắc Mỹ- người Công giáo lại đánh mất niềm tin và không còn tôn trọng các giá trị đạo đức tinh thần nữa, coi thường các luật luân lý của Giáo Hội về đời sống hôn nhân gia đình. Sự kiện đó đang trở nên mối lo âu và là một vết thương đau nhức nhối nhất của Giáo Hội ngày nay.
Xin đan cử ra đây một dấu chỉ của thời đại: Đầu năm 1998, tại thành phố Amsterdam ở Hà Lan, Hội Đồng Giáo Mục đã quyết định đóng cửa một loạt 5 ngôi thánh đường đồ sộ của thành phố, vì không có giáo dân lui tới nữa, trong khi đó phí khoản 9dê3 bảo trì các ngôi thánh đường này lại quá lớn. Tại Bắc Mỹ cũng thế, Đức Hồng Y Josef Bernardin, Tổng Giáo Mục Chicago tuyên bố: ngài buộc lòng phải đóng cửa 13 giáo xứ, 2 cơ sở truyền giáo và 6 trường tiểu học Công giáo trong giáo phận của ngài. Còn Đức Hồng y Szoka, Tổng Giám Mục Giáo phận Detroit cũng tuyên bố quyết định đóng cửa 30 giáo xứ thuộc giáo phận của ngài. Lý do đóng cửa là vì thiếu người và thiếu tiền (x. Bùi Tuần, Ơn Trở Về, tr.85).
Nói lên những dấu chỉ thời đại ấy để chúng ta thấy rằng: Con người ngày nay đã bỏ Chúa, không còn tin vào Chúa nữa, hoặc có nhiều người tin, nhưng với một niềm tin hời hợt, hững hờ. Chính vì thảm trạng nầy mà Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã ban hành thông điệp “Sứ Vụ Đấng Cứu Độ” (Redemptoris Missio, 1990) để đặt toàn thể Giáo Hội trước sứ mạng truyền giáo và tái truyền trong Thiên Niên Kỷ Thứ III.
Hôm nay, ngày Thế Giới Truyền Giáo, Đức Thánh Cha lại gởi đến toàn thể Dân Chúa một sứ điệp với chủ đề: “Tất cả các kitô hữu đều được mời gọi làm người truyền giáo và chứng nhân”. Đức Thánh Cha nói: “Trước thềm thiên niên kỷ thứ ba, Chúa Giêsu quyết liệt lập lại những lời Ngài đã nói với các Tông đồ trước khi về trời, những lời hàm chứa bản chất sứ vụ của người Kitô hữu: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Quả thực, Kitô hữu là ai? Thưa họ là người được Chúa Kitô “chiếm đoạt” (x.Pl 3,12), và vì thế, là người khao khát làm cho Chúa Kitô được mọi người nhận biết và yêu mến ở khắp mọi nơi “cho đến tận cùng trái đất”. Chính niềm tin vào Chúa Kitô thúc đẩy chúng ta trở thành những nhà truyền giáo, những chứng nhân của Ngài. Nếu không thực hiện được điều đó, có nghĩa là niềm tin củ chúng ta còn bất toàn, khiếm khuyết và chưa trưởng thành.
Do đó, “Truyền giáo là vấn đề của niềm tin, nó là thước đo niềm tin của chúng ta nơi Chúa Giêsu và nơi tình yêu của Ngài dành cho chúng ta” (RM số 11). Đức tin và truyền giáo đi đôi với nhau: đức tin càng mạnh càng sâu thì nhu cầu truyền thông, chia sẻ và làm chứng niềm tin càng bức thiết. Ngược lại, nếu đức tin suy yếu thì nhiệt tình truyền giáo cũng suy giảm và khả năng làm chứng cũng mất đi sức mạnh. Đó là điều vẫn xảy ra trong lịch sử Giáo Hội: sự sút giảm lòng nhiệt thành truyền giáo là triệu chứng của sự khủng hoảng đức tin. Điều này phải chăng xảy ra khi người ta đánh mất xác tín sâu xa là: “Đức tin càng vững mạnh khi đem chia sẻ” (RM.2). Vì chính khi loan báo Chúa Giêsu Kitô và làm chứng về Ngài mà đức tin của chúng ta được củng cố và tái khám phá con đường đưa đến một nếp sống đúng theo Tin Mừng của Ngài. Như thế, chúng ta có thể nói: “Truyền giáo là một phương thuốc chắc chắn nhất chống lại cuộc khủng hoảng đức tin. Chính nhờ dấn thân truyền giáo mà mỗi thành phần Dân Chúa củng cố căn tính mà mình và hiểu rõ là: không ai có thể là Kitô hữu đích thực nếu không là chứng nhân” (số 2).
“Mỗi Kitô hữu được sáp nhập vào Giáo Hội nhờ Bí tích Thanh Tẩy, đều được mời gọi làm nhà truyền giáo và chứng nhân. Đó là sự ủy nhiệm rõ ràng của Chúa Kitô. Và Thánh Thần sai mỗi người kitô hữu ra đi loan báo và làm chứng về Chúa Kitô cho muôn dân: đó là nhiệm vụ và đặc ân, bởi vì đó là một lời mời gọi cộng tác với Thiên Chúa để cứu độ mỗi người và cả nhân loại” (số 3).
Truyền giáo bằng đời sống chứng tá Tin Mừng giữa đời, làm chứng cho Chúa Kitô bằng đời sống yêu thương, bác ái, công bình, cụ thể trong gia đình, ngoài xã hội, là sứ vụ của mọi người giáo dân. Làm chứng cho sự thánh thiện, như những người sống các Mối Phúc của Tin Mừng, đó là căn tính của người Kitô-hữu-chứng-nhân. Con người ngày nay có vẻ dửng dưng không muốn tìm về Thiên Chúa, nhưng trong thực tế, họ cảm thấy cần đến Thiên Chúa và họ bị các Thánh thu hút và đánh động, những vị thánh đã biểu lộ khuôn mặt của Thiên Chúa trong đời sống của mình, như những ánh sao trong đêm tối.
Giáo Hội Việt Nam chúng ta ngày nay phải truyền giáo trong môi trường cụ thể chúng ta đang sống, với những con người cụ thể chúng ta đang gặp. Chúa Kitô cần đến chúng ta để đem Tin Mừng vào lòng dân tộc. Chúa Kitô cần đến tâm hồn quảng đại và sẵn sàng của chúng ta, cần đến đời sống nhân chứng của chúng ta để bày tỏ cho anh em đồng bào tình yêu thương vô biên của Ngài. Tích cực tham gia vào công cuộc Phúc-âm-hóa mới, đó là công việc đặc trưng của những năm chuẩn bị tiến đến Thiên Niên Kỷ Thứ Ba của Hồng Ân Cứu Độ.
Chúa Nhật trước Chúa Nhật cuối tháng mười là khánh nhật truyền giáo. Năm nay cũng là năm thánh truyền giáo của Giáo Hội Việt Nam, đây cũng là dịp thuận lợi để Kitô hữu Việt Nam tìm hiểu sâu xa về sứ mạng truyền giáo.
Truyền giáo, là giúp người ta tin nhận Đức Giêsu đã chết và đã sống lại, để họ tin Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể, để họ trở nên Kitô hữu. Tại sao phải truyền giáo?
Một số người cho rằng nếu không truyền giáo, nghĩa là nếu không giúp người ta trở lại đạo Công Giáo thì người ta không được cứu độ. Họ tưởng rằng những người ngoại đạo chết sẽ sa hỏa ngục, hoặc ít là không được lên thiên đàng hưởng hạnh phúc đời đời. Công Đồng Chung Vaticanô II dạy rằng, cả những người không biết Đức Giêsu, cả những người không biết Thiên Chúa, thậm chí những người vô thần cũng có thể được cứu độ (Hiến Chế Giáo Hội số 16).
Đứng trên quan điểm của một người không tôn giáo, tất cả các tôn giáo đều như nhau: tất cả các tôn giáo đều tốt, đều dạy ăn ngay ở lành. Có nhiều người Công Giáo sống tốt hơn những người không theo đạo nào hoặc sống tốt hơn một số người theo đạo khác, nhưng cũng có những người sống trong tôn giáo ngoài Kitô giáo hoặc không theo một tôn giáo nào cũng ăn ngay ở lành và thậm chí còn sống tốt hơn một số Kitô hữu. Như vậy, Kitô hữu truyền giáo không phải vì Kitô hữu sống tốt hơn những người không tôn giáo hoặc sống trong các tôn giáo khác.
Tin Mừng theo thánh Matthêu cho thấy Đức Giêsu truyền lệnh cho các tông đồ “dạy muôn dân trở thành môn đệ,” dạy bảo người ta tuân giữ những điều Đức Giêsu đã dạy các môn đệ. Kitô hữu truyền giáo không phải vì sợ người ta nếu không theo đạo Công Giáo thì phải sa hỏa ngục, nhưng bởi vì Đức Giêsu đã truyền lệnh.
Một số Kitô hữu không thích chữ truyền giáo, vì họ cho rằng từ ngữ này mang tính bá quyền, thống trị, độc tôn, tự kiêu, vì nó hàm chứa rằng Kitô giáo là nhất, chỉ có Kitô giáo là đúng. Nhiều người cho rằng, nếu dùng từ ngữ truyền giáo thì rất khó có thể đối thoại với những người sống trong các tôn giáo khác, vì nếu tiếp xúc với ai mà lại nghĩ người đó đang theo một tôn giáo sai lầm, và rồi chỉ tìm mọi cách làm cho người đó vào đạo của mình, thì làm sao có thể trân trọng và trao đổi chân tình một vấn đề.
Một số Kitô hữu thích dùng từ ngữ rao giảng Tin Mừng. Từ ngữ này có thể hiểu khi một người trình bày cho người khác tôn giáo của mình, họ nghĩ rằng điều họ biết họ tin là đúng, nên họ loan báo cho người khác biết, để nếu người đó thấy như họ và tin theo, thì người đó sẽ được hạnh phúc như họ cảm nghiệm. Việc người khác trở lại hay không là tùy do người đó, Kitô hữu chỉ chia sẻ những gì mình thấy là hay là tuyệt, và để người đó hoàn toàn tự do theo điều mà họ thấy đúng nhất hay nhất tuyệt nhất. Kitô hữu luôn tôn trọng tự do tôn giáo của người khác. Tự do tôn giáo là quyền của con người, quyền này đã được công đồng chung Vatican khẳng định. Kitô hữu không được rửa tội cho ai nếu người đó không muốn. Thực ra, từ ngữ “truyền giáo” là từ ngữ được sử dụng “nội bộ” thôi, nghĩa là, chỉ dùng giữa những Kitô hữu với nhau thôi, chứ không thể dùng để nói với những người theo các tôn giáo khác được. Nếu nói với những người ngoài Kitô giáo, từ ngữ loan báo Tin Mừng có lẽ dễ được chấp nhận hơn.
Rao giảng Tin Mừng là nói về Đức Giêsu Kitô. Kể cho người ta nghe Đức Giêsu là ai, Ngài đã làm gì, Ngài thực sự là ai. Tín hữu tin rằng Đức Giêsu chết và phục sinh là Tin Mừng tuyệt đối cho tất cả mọi người, thế nên, họ muốn chia sẻ Tin Mừng cho người khác. Tin Mừng Đức Giêsu Phục Sinh làm cho Kitô hữu hạnh phúc, nên Kitô hữu muốn người khác được bình an, hạnh phúc như họ, nên họ rao giảng Tin Mừng tuyệt vời này.
Đức Giêsu đã chết và đã phục sinh, ai tin vào Ngài sẽ không phải chết, và nếu có chết cũng sống lại. Đức Giêsu đã chết và đã sống lại. Đức Giêsu phải chết, vì Ngài mang thân phận con người. Không có ai là người mà đã không chết. Đức Giêsu đã phục sinh. Sự Ngài phục sinh trở thành dấu chỉ cho người ta nhận ra sự thật về chính Ngài: Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Thiên Chúa đã làm người để chỉ cho con người biết con đường cứu độ, chỉ cho người ta biết cách sống giúp người ta hạnh phúc đích thực.
Đức Giêsu là dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa. Ngài là biểu tượng tình yêu Thiên Chúa. Đức Giêsu là chính tình yêu Thiên Chúa cho con người. Biết Đức Giêsu, là biết hơn về Thiên Chúa. Biết Đức Giêsu, là biết Thiên Chúa yêu thương con người đến độ nào; vì nếu không yêu thương, tại sao Thiên Chúa lại nhập thể, lại vĩnh viễn làm người! Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Tình yêu của Thiên Chúa đối với con người như một lời mời gọi con người đáp trả tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu đáp trả tình yêu, ân tình đền đáp ân tình. Con người đáp trả tình yêu Thiên Chúa bằng việc phó thác tất cả cho Thiên Chúa trong niềm tin tưởng tuyệt đối.
Bước theo Đức Giêsu, trở nên môn đệ của Ngài, là đã bắt đầu được giải phóng, được an bình hạnh phúc vì biết Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Kitô hữu muốn người khác biết Đức Giêsu, là để họ được bình an và hạnh phúc thật sự. Đó là lý do tại sao Kitô hữu rao giảng Tin Mừng, rao giảng Đức Giêsu đã chết và đã phục sinh. Đức Giêsu là chính Thiên Chúa nhập thể. Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng, nên đã sai Con Ngài nhập thể để đưa con người đến với Thiên Chúa, để con người được hạnh phúc đích thực.
Con người ngày nay dường như được đánh động bởi những việc làm hơn là những lời nói xuông. Họ được đánh động bởi chứng từ cuộc sống hơn là bài giảng hay. Nếu Kitô hữu cho người khác thấy niềm tin vào Đức Giêsu chết và sống lại đã chi phối đời sống của họ, giúp họ vượt qua khó khăn và giúp họ chấp nhận cuộc sống đích thực như thế nào, thì chắc có nhiều người sẽ tìm hiểu về Đức Giêsu, Đấng đã làm cho các Kitô hữu những điều tuyệt vời như vậy.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Truyền giáo là gì? Tại sao Kitô hữu phải truyền giáo?
2. Hôm nay tại môi trường bạn sống, phải loan báo Tin Mừng thế nào để người ta tin nhận Đức Giêsu là Thiên Chúa?
20.Khánh Nhật Truyền Giáo – Lm. G.B. Văn Hào
Trong cuộc tông du tại Hoa Kỳ vừa qua, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự Thánh lễ ngày 23 tháng Chín năm 2015 tại Đền Thánh Đức Mẹ Vô nhiễm ở Washington DC để tuyên thánh cho Cha Junipero Serra, một vị thừa sai dòng Phanxicô gốc Tây Ban Nha. Vị Thánh đã đến Châu Mỹ làm việc cho thổ dân da đỏ và đã đón nhận cái chết tử đạo để minh chứng đức tin. Trong bài giảng, Đức Thánh Cha nhắc lại câu châm ngôn của vị thánh, đó là “Hãy luôn tiến lên phía trước để rao giảng Tin mừng”. Đức Thánh Cha cũng gợi lại tư tưởng mà Ngài đã viết trong tông huấn ‘Niềm vui của Tin mừng’ (Gaudium Evangelii): ” Từ sâu tận tâm hồn, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy ra đi. Đừng ở lỳ một chỗ để an hưởng một cuộc sống nhàn hạ. Đức Giêsu nói với các Tông đồ: Hãy đi rao giảng. Niềm vui Tin mừng là điều chúng ta phải trải nghiệm cách cụ thể. Chúng ta không có niềm vui đó nếu chúng ta không biết xả thân và trao ban”. Đây cũng là sứ điệp Giáo hội gửi trao đến chúng ta trong ngày Chúa nhật truyền giáo hôm nay.
Truyền giáo là lên đường.
Trong thư gửi giáo đoàn Ephêsô, Thánh Phaolô đã nói đến bốn phần vụ trong Giáo hội để xây dựng nhiệm thể Đức Kitô, đó là: làm tông đồ, làm ngôn sứ, làm người loan báo Tin mừng, làm người coi sóc và dạy dỗ (Eph 4, 11). Trong bốn chức năng đó, trở thành người loan báo Tin mừng đòi hỏi sự hi sinh và dấn thân hơn cả, bởi vì người đó phải ra đi và lên đường. Người đi rao giảng Tin mừng phải rời bỏ tất cả: từ gia đình, quê hương, đến nơi ăn chốn ở và mọi dính bén khác. Căn gốc của sự ra đi chính là từ bỏ chính mình. Khi sai các học trò đi thực tập truyền giáo, Chúa Giêsu chỉ trang bị cho các ông một món hành trang duy nhất, đó là ‘năng quyền trừ quỷ và chữa lành các bệnh tật’, ngoài ra không tiền bạc, không bao bị, không mặc hai áo, không giầy dép..( Lc 9,3). Vì vậy truyền giáo trước hết là phải sẵn sàng lên đường và ra đi đến mọi ngõ ngách của thế giới, đặc biệt đến những vùng ven (peripheries) như lời Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi. Cuộc ra đi như vậy đòi hỏi phải chấp nhận phiêu lưu cách mạo hiểm, và cao điểm của cuộc hành trình liều lĩnh đó là chấp nhận cái chết như Đức Kitô trên Thập giá. Khi phong Thánh cho Cha Serra cuối tháng Chín vừa qua, Đức Thánh Cha đã nhắc lại đôi nét về sự ra đi của Ngài. Vị Thánh đã quảng đại từ khước địa vị danh giá là ghế giáo sư đại học ở Tây Ban Nha để lên đường sang Tân thế giới, phục vụ cho Tin mừng và ơn cứu độ. Cuộc mạo hiểm của Ngài đã phải trả giá, nhưng là cái giá của vinh thắng. Vừa khi mới đặt chân đến Mexicô, chân của Ngài đã bị sưng tấy vì dị ứng và đau đớn tột cùng, giống như bị ung thư hay bị nhện rừng cắn. Cao điểm của cuộc phiêu lưu này là Ngài đã bị giết chết, để bảo vệ các thổ dân. Một thi sỹ đã viết: ” Ra đi là chết trong lòng một ít”. Nhưng sự ra đi trong hành trình truyền giáo là sao chép lại tận căn chính cái chết của Đức Giêsu, vị truyền giáo đầu tiên, và cũng là nguyên mẫu cho chúng ta trong việc thực thi sứ mệnh rao giảng Tin mừng.
Đức Giêsu, nguyên mẫu của ơn gọi truyền giáo.
Năm mươi năm trước, Công đồng Vaticanô 2 đã ban hành sắc lệnh về truyền giáo ‘Ad Gentes’. Ngay từ chương đầu tiên của giáo huấn này, Giáo hội mời gọi chúng ta nhìn về Đức Kitô như là nguyên mẫu cho sứ vụ truyền giáo. Công đồng đưa dẫn nhiều trích đoạn kinh thánh để cho chúng ta thấy Đức Kitô là Đấng được Chúa Cha sai đến trần gian hầu thực hiện sứ mạng cứu thế ( Col 1, 13; Cv 10, 38; 2C 8, 9..). Vì vậy khi nhìn vào Đức Giêsu, chúng ta có thể nghiệm ra rằng, 2000 năm trước Ngài đã đi vào trần thế không phải để sáng lập một tôn giáo, cũng như không phải để quảng bá một học thuyết chính trị. Ngài đến chỉ với sứ mạng duy nhất là công bố cho chúng ta một Tin mừng, đó là Tin mừng về lòng thương xót của Thiên Chúa đối với con người. Đức Giêsu đã lập đi lập lại sứ điệp này trong suốt ba năm rao giảng công khai, và cái chết của Ngài trên Thập giá chính là đỉnh điểm của lời công bố Tin mừng vĩ đại ấy. Vì vậy, để sống tinh thần truyền giáo, chúng ta phải học nơi Thập giá Đức Giêsu. Ngài chính là vị truyền giáo đầu tiên, và là mẫu gương trọn hảo cho tất cả chúng ta (trích Tông huấn Evangelii Nuntiandi số 7). Trong các đợt xuất phát truyền giáo, các hội dòng thường trao cho các vị thừa sai Thánh giá truyền giáo cũng với hướng đích này.
Truyền giáo là bản chất của Giáo hội
Trong các phiên họp khoáng đại của công đồng chung Vaticanô 2, Đức Thánh Cha Phaolô đệ lục có nêu ra một câu hỏi rất giản đơn cho các nghị phụ: ” Ta sống ở đời này để làm gì?” Đây cũng là câu hỏi đầu tiên trong các sách giáo lý căn bản mà chúng ta đều biết cũng như đã thuộc lòng câu trả lời, đó là:’Ta sống ở đời này để nhận biết và kính mến Chúa, cho ngày sau được hưởng hạnh phúc đời đời’. Các nghị phụ cũng trả lời như thế. Nhưng Đức Thánh Cha nói rằng câu trả lời còn thiếu. Ngài cắt nghĩa: ” Ta sống ở đời này để nhận biết và yêu mến Chúa, cho ngày sau được cứu rỗi, nhưng chúng ta cũng sống ở trần gian này còn để giúp người khác yêu mến và nhận biết Thiên Chúa, để họ cũng được ơn cứu độ như chúng ta”. Cha Thomas Merton, một tu sỹ dòng Trappist ở Hoa Kỳ có viết một tác phẩm tựa đề: ‘Không ai là một hòn đảo’. Tư tưởng của Ngài rất thâm thúy, và trong dịp viếng thăm Hoa Kỳ vừa qua, khi đọc diễn văn tại lưỡng viện quốc hội, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng gợi nhắc khuôn mặt tiêu biểu này. Cha Thomas Merton lý luận rằng, không ai trong chúng ta có thể sống cô lẻ một mình như một ốc đảo. Khi sống hiệp thông trong Hội thánh, chúng ta liên đới với anh chị em mình trong sự thánh thiện cũng như cả trong tội lỗi. Vì vậy không ai trong chúng ta sẽ lên thiên đàng một mình hoặc cũng không ai xuống hỏa ngục một mình. Chúng ta nên thánh bằng cách giúp người khác nên thánh, và đây cũng là ý nghĩa của sứ mệnh truyền giáo. Sứ mệnh này thuộc bản chất của Giáo hội, gắn liền với Giáo hội và cũng là bổn phận của mọi Kitô hữu. Trước khi Chúa Giêsu về trời, Ngài đã chuyển giao sứ mạng cứu thế cho Giáo hội bằng mệnh lệnh: ” Anh em hãy đi rao giảng Tin mừng cho muôn dân” (Mc 16,15). ‘Cho muôn dân’ tức ” ad gentes”, cũng chính là tựa đề của sắc lệnh về truyền giáo mà công đồng Vaticanô 2 đã để lại cho chúng ta.
Chứng nhân hơn là thầy dạy
Trong một sứ điệp ngày truyền giáo, Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 cũng viết: ” Truyền giáo là thước đo đức tin của mọi tín hữu”. Lời khẳng định này cũng tương hợp với giáo huấn của Thánh Giacôbê tông đồ khi Ngài viết: ” Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Việc làm đó được thực hiện rõ nét nhất qua sứ vụ truyền giáo. Rao giảng Tin mừng là một bổn phận của những ai thuộc về Đức Kitô và được Chúa mời gọi trở nên môn đệ Ngài. Thánh Phaolô xác tín mạnh mẽ bổn phận ấy nên Ngài nói: ” Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng”(1Cr 9,16). Nhưng, cách thái rao giảng Tin mừng để đạt hiệu quả mới là điều quan trọng mà chúng ta cần phải lưu tâm.
Có lần, một số các vị truyền giáo đang làm việc ở Ấn Độ đến gặp ông Mahatma Gandhi và hỏi ông bí quyết làm sao để có thể truyền giáo cho người dân Hindu ở đây. Ông Gandhi mời gọi các vị truyền giáo hãy suy nghiệm bí quyết từ cánh hoa hồng. Người ta thích hoa hồng không phải chỉ vì vẻ đẹp bên ngoài mà còn vì mùi hương quyến rũ từ bên trong tỏa ra. Ông kết luận, muốn truyền giáo thành công, phải học bí quyết ấy, tức là rao giảng không phải bằng lý thuyết xuông nhưng bằng gương sáng cụ thể của cuộc sống. Điều ông ta nói tới cũng giống như giáo huấn của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 khi Ngài diễn tả: ” Ngày nay, Giáo hội cần những chứng nhân hơn là những thầy dạy.”
Kết luận: Chứng tá Tin mừng
Sau biến cố 30 tháng 04 năm 1975, một cán bộ nhà nước thuộc dạng cao cấp có hỏi một anh em tu sĩ dòng Tên ở Thủ Đức: ” Các anh là những người theo tôn giáo, chắc các anh rất sợ chúng tôi là những người vô thần?”. Vị tu sĩ đó bình thản trả lời: “Vâng thưa ông, chúng tôi rất sợ những người vô thần. Nhưng nếu các ông là những người vô thần thực sự và sống đúng với lý tưởng của các ông, thì chẳng có gì đáng sợ cả. Xin chúc mừng các ông nếu các ông thật sự cảm thấy hạnh phúc trong sự xác tín lý tưởng của mình. Nhưng ngược lại, chúng tôi rất sợ những người vô thần trong thực hành. Họ mang danh là Kitô hữu, nhưng lại sống như những người vô thần thực sự và còn tệ hơn cả những con người công khai chối bỏ Thiên Chúa. Bởi vì, cuộc sống của họ đang tàn phá Giáo hội, làm lung lạc đức tin người khác và làm cho Giáo hội của chúng tôi ngày càng suy yếu.”
Nếp sống vô thần trong thực hành như thế chính là một lối sống phản chứng tá. Thay vì rao giảng Tin mừng, thì cuộc sống như vậy lại cản che và bóp chết hạt giống Lời Chúa trong những sỏi đá và gai góc nơi chính tâm hồn của họ. Trong ngày khánh nhật truyền giáo hôm nay, chúng ta hãy nhìn lại cuộc sống chính mình để duyệt xét xem chúng ta đã thực thi bổn phận quan trọng ấy như thế nào.
21.Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
Truyền giáo bằng chứng tá: Ai cũng có thể làm được
Có lẽ chúng ta đã nghe nói nhiều đến việc truyền giáo. Và thường chúng ta nghĩ rằng đó là việc của các linh mục, các nam nữ tu sĩ, của tiểu ban truyền giáo, hay của một số người có ơn gọi đặc biệt như Thánh Phaolô, Thánh Phanxicô Xaviê,… chứ chẳng phải là việc của mình. Tuy nhiên, truyền giáo là ơn gọi, là trách nhiệm gắn liền với mọi người Kitô hữu. Bao lâu còn là Kitô hữu, bấy lâu còn phải loan báo Tin Mừng. Có thể chúng ta không có khả năng lôi kéo, thuyết phục để cho người khác theo đạo, nhưng “nói” cho người khác biết về đạo bằng chứng tá đời sống thì ai ai cũng có thể làm được. Vậy chứng tá cụ thể đó là gì?
– Trước hết là chứng tá bằng đời sống cầu nguyện hy sinh
Đây là hoạt động đi đầu và không thể thiếu trong việc loan báo Tin Mừng. Nhìn thấy gương chúng ta cầu nguyện, gương chúng ta hy sinh, người ta sẽ được đánh động, được cảm hoá. Nếu đời sống tâm linh của chúng ta được cắm rễ sâu trong đời sống cầu nguyện hy sinh, thì mọi việc ta làm đều có giá trị truyền giáo, đều có khả năng làm cho người khác nhận biết Chúa và đem lại rất nhiều lợi ích cho các linh hồn. Như vậy, ngồi ở nhà, chúng ta vẫn có thể truyền giáo. Về điểm này, Thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu là mẫu gương tuyệt vời cho chúng ta noi theo. Ngài nói: “Dù cúi xuống nhặt một cây kim vì lòng yêu mến Chúa, tôi cũng có thể cứu được một linh hồn”.
Không ai có thể nói là tôi không có thì giờ để cầu nguyện. Không ai có thể nói là tôi không có cơ hội để hy sinh. Và để rèn luyện được nếp sống thấm nhuần tinh thần cầu nguyện hy sinh, có sức giới thiệu Đức Kitô cho người khác, thiết tưởng chúng ta có thể nhờ đến Chuỗi Kinh Mân Côi. Nhờ Mẹ dẫn chúng ta bước đi từng bước nhỏ trên đường vâng phục thánh ý Chúa và phục vụ các linh hồn.
– Thứ đến là chứng tá bằng lối sống hiệp nhất yêu thương
Truyền giáo bằng việc giảng dạy, bằng sách báo, bằng các lớp Giáo lý, bằng các lễ nghi, bằng các hoạt động tôn giáo, thực tế là rất cần. Nhưng cách truyền giáo hữu hiệu nữa là chính nếp sống đạo đức nổi trội của chúng ta về sự hiệp nhất yêu thương: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em hãy thương yêu nhau”. Tình yêu thương hiệp nhất ấy được thể hiện qua cách suy nghĩ, cách phán đoán, cách chọn lựa, cách đối xử, cách phản ứng, cách hiện diện, cách phục vụ nói năng, ăn uống, giải trí, cách dùng thời giờ, sức khoẻ, của cải,…
Những dấu chỉ yêu thương hiệp nhất giữa mọi người trong gia đình, trong hội đoàn, trong giáo họ, giáo xứ là dấu chỉ loan báo Tin Mừng hữu hiệu nhất, giá trị nhất. Ngược lại, nếu thiếu tình bác ái yêu thương thì những việc tông đồ truyền giáo sẽ phản tác dụng. Xin dẫn chứng:
Một cô gái ngoại giáo lấy người Công giáo, láng giềng, bà con thấy cô ta đẹp người đẹp nết, nên giục cô ta vào đạo. Cô ta trả lời: “Khi nào cháu thấy đạo Chúa hơn đạo Phật, cháu mới vào”. Tìm hiểu, người ta mới biết được bà mẹ chồng dù rất siêng năng đọc kinh, dự lễ và đã từng bỏ ra gần cả một chục triệu bạc cùng với nhiều bà khác giúp cha sở đi Roma xin ơn Đức Giáo hoàng, nhưng bà đã từng sang giật nồi, lấy niêu của một bà hàng xóm nghèo chưa có tiền trả nợ cho bà. Cô dâu in trong lòng hình ảnh không tốt về mẹ chồng và về đạo. Do đó cô nhất quyết không theo đạo bao lâu chưa thấy người theo đạo sống tốt hơn.
Một khi tất cả nếp sống của chúng ta phảng phất hương thơm của tình hiệp nhất yêu thương thì dù ở đâu, nếp sống ấy cũng là truyền giáo.
– Sau nữa là chứng tá bằng nếp sống có văn hoá, văn minh
Ngày hôm nay, xã hội đang phải đối diện với biết bao tệ nạn, môi trường sống bị ô nhiễm trầm trọng, các giá trị đạo đức luân lý bị băng hoại. Chính vì thế, nỗ lực của xã hội là xây dựng nếp sống lành mạnh, có văn hoá, văn minh. Đi đâu chúng ta cũng thấy có các bảng hiệu “khu phố văn hoá”, “thôn văn hoá, ấp văn hoá”…, lẽ nào chúng ta lại đứng ngoài, lẽ nào chúng ta lại không chung tay góp sức mình vào việc đó. Dĩ nhiên, nền văn hoá mà chúng ta phải xây dựng không phải là văn hoá sự chết, văn hoá tiêu diệt sự sống, mà là nền văn hoá bảo vệ và thăng tiến sự sống, sự sống ngay từ khi còn trong lòng mẹ. Nền văn minh mà chúng ta phải kiến tạo không phải là văn minh của nền khoa học kỹ thuật khô cứng hay của chủ nghĩa duy vật hưởng thụ cực đoan, mà là nền văn minh của tình thương, nền văn minh của lòng bao dung tha thứ.
Như mọi người khác, người Công giáo cũng đang hiện diện tại mọi môi trường xã hội hôm nay. Chúng ta cũng làm ăn sinh sống trong mọi lĩnh vực: kinh doanh, sản xuất, buôn bán… với mọi hoàn cảnh từ thương gia đến kỹ sư, bác sĩ, giáo viên, công nhân viên. Cũng làm việc, cũng mưu sinh, nhưng chúng ta làm việc với tinh thần khác: tinh thần công bình bác ái và phục vụ hy sinh.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn ý thức được sứ mạng truyền giáo bằng chứng tá của mình, đặc biệt trong Năm Đức Tin, để ra sức sống tinh thần cầu nguyện hy sinh, yêu thương hiệp nhất, đồng thời nỗ lực xây dựng một cuộc sống tốt đạo đẹp đời hầu cho danh Chúa được ngày một cả sáng hơn. Amen.
Công đồng Vat. II trong sắc lệnh về truyền giáo có viết: Được Thiên Chúa sai đến với muôn dân để nên bí tích cứu độ phổ quát, Giáo Hội vì những đòi hỏi căn bản của mình và vì mệnh lệnh của Đấng sáng lập, nhất quyết loan báo Tin Mừng cho mọi người. Việc loan báo này được thực hiện bằng nhiều phương thế khác nhau của toàn thể dân Chúa vẫn luôn được Giáo Hội cổ võ, khuyến khích và chỉ dẫn. Vì vậy hàng năm Giáo Hội đã chọn một ngày vào Chúa nhập áp cuối tháng 10 để thúc đẩy mọi linh mục tu sĩ và giáo dân ý thức hơn về việc rao giảng Tin Mừng. Việc này không dành cho riêng ai và không thể một cá nhân, một đoàn thể nào làm được hết. Trái lại mọi thành phần dân Chúa phải có trách nhiệm để thực hiện lời Chúa đã truyền dạy trước khi về trời: Các con hãy đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân.
Vì thế, theo lệnh truyền của Chúa, từ ngày chịu bí tích Rửa Tội, chúng ta đã trở nên con cái Chúa, rồi từ ngày lãnh nhận bí tích Thêm Sức, chúng ta đã lãnh nhận sứ vụ tông đồ để thi hành đúng chức năng ngôn sứ của mình. Vì vậy, bổn phận đòi buộc hết mọi người giáo dân trong bất kỳ lãnh vực nào cũng phải là chứng nhân cho Đức Kitô. Hơn thế nữa, người giáo dân có một lợi thế hơn hẳn hàng giáo sĩ là sống giữa các môi trường xã hội khác nhau với đủ ngành nghề, địa vị xã hội để có thể cảm hoá cảnh vực và trở nên như men, như ánh sáng, như muối cho những người chung quanh.
Lời thánh Phaolô tông đồ mời gọi chúng ta suy nghĩ: Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng. Giáo Hội luôn ý thức điều đó và hôm nay nhắc nhở chúng ta luôn tích cực thi hành sứ mạng truyền giáo cả những lúc bận tâm lo lắng công việc trần thế. Tất cả mọi người đều phải cộng tác vào việc mở mang Nước Chúa trên trần gian và trở thành chứng nhân cho Ngài. Lời Chúa nói: Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít, sẽ nhắc nhở chúng ta phải trở nên là những thợ gặt trên cánh đồng nhân loại, và trở nên ngư phủ trên đại dương trần thế.
Tuy nhiên, như chúng ta đã nói, có nhiều phương thế để góp phần vào công cuộc trọng đại này, chẳng hạn cầu nguyện và rao giảng như các tông đồ, các vị thừa sai, sống đức tin và đức ái phục vụ như Mẹ Têrêsa Calcutta. Thực vậy, tục ngữ cũng đã bảo: Lời nói như gió lung lay việc làm như tay lôi kéo. Chính đời sống gương mẫu của chúng ta mới là một bài giảng hùng hồn nhất có sức lôi cuốn và hấp dẫn người khác đến cùng Chúa. Chính nhờ những việc làm cụ thể trong khi dấn thân để phục vụ, chúng ta sẽ trở nên là những chứng nhân sống động cho Đức Kitô.
Để kết luận, chúng ta hãy ghi nhớ lời nói sau đây của Đức Phaolô VI: Con người thời đại thích lắng nghe các nhân chứng hơn là những nhà giảng thuyết. Và nếu họ có nghe những nhà giảng thuyết chỉ vì những nhà giảng thuyết này đã là những chứng nhân.
23.Sứ điệp Truyền giáo năm 2012.
“Được kêu gọi làm rạng ngời Lời Chân Lý”
(Tông Thư Porta Fidei, 6)
Anh chị em thân mến!
Cuộc cử hành Ngày Thế giới Truyền giáo năm nay mang một ý nghĩa hoàn toàn đặc biệt. Việc kỷ niệm 50 năm Sắc Lệnh Ad Gentes của Công đồng, việc khai mạc Năm Đức Tin và Thượng Hội đồng Giám mục về đề tài Tân Phúc Âm Hoá là các sự kiện cùng diễn ra trong năm nay để tái xác nhận ý muốn của Hội Thánh là dấn thân một cách hăng say và can đảm hơn vàomissio ad gentes (sứ vụ đến với muôn dân) hầu đem Tin Mừng đến tận cùng trái đất.
Với sự tham dự của các Giám mục Công giáo từ khắp nơi trên thế giới, Công đồng Chung Vatican II đã là một dấu chỉ sáng ngời về tính phổ quát của Hội Thánh, qua việc lần đầu tiên quy tụ một con số đông đảo như thế các Nghị phụ đến từ Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ Latinh, và Châu Đại Dương. Các giám mục truyền giáo và các giám mục bản xứ, các mục tử của các cộng đoàn rải rác khắp nơi giữa các dân không Kitô giáo, tất cả các vị ấy đã đem đến cho các phiên họp của Công đồng hình ảnh của một Hội Thánh hiện diện trên mọi châu lục và đã trở thành những người cắt nghĩa về thực tại phức tạp mà thời ấy được gọi là “Thế Giới Thứ Ba”. Là những người giàu kinh nghiệm thực thi sứ vụ mục tử tại các giáo hội non trẻ đang hình thành, và đầy nhiệt huyết loan truyền Nước Thiên Chúa, các ngài đã góp phần rất quan trọng vào việc tái xác nhận nhu cầu và sự cấp bách của việc loan báo Tin Mừng cho các dân tộc, từ đó đưa bản chất truyền giáo của Giáo Hội vào trung tâm của khoa Giáo hội học.
Khoa Giáo hội học hướng đến truyền giáo
Ngày nay, quan điểm trên vẫn còn nguyên giá trị, hơn nữa còn được tiếp nhận những suy tư thần học và mục vụ phong phú, và đồng thời lại càng tỏ ra cấp bách, vì số người chưa biết Chúa Kitô ngày càng nhiều thêm. “Những người mong chờ Đức Kitô vẫn còn đông vô kể”, như lời khẳng định của Chân phước Gioan Phaolô II trong Thông điệp Redemptoris Missio về giá trị muôn đời của huấn lệnh truyền giáo, và ngài thêm: “Chúng ta không thể ngồi yên khi nghĩ tới hàng triệu anh chị em chúng ta đang sống trong tình trạng không biết đến tình yêu của Thiên Chúa, chính họ cũng được cứu chuộc bằng máu Chúa Kitô” (số 86). Phần tôi, khi công bố Năm Đức Tin, tôi đã viết rằng Đức Kitô “hôm nay cũng như hồi ấy, sai chúng ta đi khắp các nẻo đường trên thế giới để loan báo Tin Mừng của Người cho mọi dân tộc trên mặt đất” (Tông Thư Porta Fidei, 7); việc loan báo này, như lời Vị Tôi tớ Chúa Phaolô VI trong Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, “đối với Hội Thánh không phải là một sự cống hiến tuỳ ý, nhưng là một bổn phận Hội Thánh phải thực thi theo lệnh truyền của Chúa Giêsu, để loài người có thể tin và được cứu rỗi. Quả thế, đây là sứ điệp cần thiết. Đây là sứ điệp độc nhất. Sứ điệp không thể thay thế” (số 5). Vì vậy chúng ta cần phải lấy lại cùng một nhiệt huyết tông đồ như các cộng đoàn Kitô hữu sơ khởi, tuy chỉ là một nhóm ít người và không thể tự vệ, nhưng bằng lời loan báo và chứng tá, họ đã có thể loan truyền Tin Mừng trên toàn thế giới được biết đến thời bấy giờ.
Vì vậy không lạ gì khi Công đồng Vaticanô II và Huấn quyền sau Công Đồng của Hội Thánh luôn nhấn mạnh một cách đặc biệt về nhiệm vụ truyền giáo mà Đức Kitô đã uỷ thác cho các môn đệ của Người, và là nhiệm vụ mà toàn thể Dân Thiên Chúa: các giám mục, linh mục, phó tế, tu sĩ và giáo dân phải dấn thân thực hiện. Nhiệm vụ loan báo Tin Mừng trên khắp thế giới trước tiên là nhiệm vụ của các giám mục, vì trong tư cách là thành viên của Giám mục đoàn cũng như là Mục tử của các Giáo Hội địa phương, các ngài là những người chịu trách nhiệm trực tiếp về việc rao giảng Tin Mừng trên thế giới. Thực vậy, các ngài “đã được tấn phong không chỉ cho một giáo phận, mà cho sự cứu rỗi của toàn thế giới” (Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Missio, 63), “các ngài là những người rao giảng đức tin dẫn đến cho Đức Kitô những người môn đệ mới” (Ad Gentes, 20) và làm cho mọi người “thấy được tinh thần và nhiệt huyết truyền giáo của Dân Chúa, để toàn giáo phận trở thành những nhà truyền giáo” (nt., 38).
Địa vị ưu tiên của rao giảng Tin Mừng
Vì vậy, đối với một Chủ Chăn, nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng không chỉ giới hạn vào việc chăm lo cho thành phần Dân Chúa được giao phó cho ngài chăm sóc về mục vụ, cũng không chỉ là sai một số linh mục hay giáo dân đi truyền giáo như là fidei donum (quà tặng đức Tin). Nhiệm vụ ấy phải bao gồm toàn thể hoạt động của Hội Thánh địa phương, mọi lĩnh vực của Hội Thánh ấy, tóm lại, phải bao gồm toàn thể đời sống và hoạt động của Hội Thánh ấy. Công đồng Vaticanô II đã nói rõ điều này và Huấn quyền sau Công đồng đã mạnh mẽ xác nhận lại. Điều này đòi hỏi rằng các bậc sống, các kế hoạch mục vụ và việc tổ chức giáo phận phải không ngừng được thích nghi với chiều kích nền tảng này của Hội Thánh, đặc biệt trong thế giới không ngừng biến đổi của chúng ta ngày nay. Điều này cũng đúng với các Hội Dòng và các Tu đoàn Tông đồ, cũng như các Phong trào trong Giáo Hội: mọi thành phần trong bức tranh lớn của Hội Thánh phải cảm thấy lệnh truyền rao giảng Tin Mừng của Chúa chất vấn mình mãnh liệt, để Đức Kitô được rao giảng khắp nơi. Là những mục tử, tu sĩ nam nữ và tất cả các tín hữu trong Đức Kitô, chúng ta phải tiếp bước Thánh Phaolô Tông Đồ, là “tù nhân của Đức Kitô vì anh em, những người dân ngoại” (Ep 3, 1), ngài đã chịu đau khổ và chiến đấu để đem Tin Mừng đến giữa dân ngoại (x. Cl 1, 24-29), không ngại tiêu hao sức lực, thời giờ và của cải để loan báo Sứ điệp của Đức Kitô.
Ngày nay cũng thế, sứ mạng ad gentes –đến với muôn dân– phải không ngừng là chân trời và khuôn mẫu cho mọi hoạt động của Hội Thánh, vì chính căn tính của Hội Thánh được tạo thành bởi đức tin vào Mầu Nhiệm Thiên Chúa, Đấng đã tỏ mình ra cho chúng ta trong Đức Kitô để đưa chúng ta đến ơn cứu độ, và bởi sứ mạng làm chứng và loan báo Người cho thế giới, cho tới khi Người trở lại. Cũng như Thánh Phaolô, chúng ta phải quan tâm tới những người ở xa, những người chưa biết Đức Kitô và chưa cảm nghiệm được tình phụ tử của Thiên Chúa, và chúng ta phải ý thức rằng “sự hợp tác truyền giáo hôm nay phải mở ra những hình thức mới để bao gồm không chỉ việc trợ giúp kinh tế, mà cả sự tham gia trực tiếp vào việc rao giảng Tin Mừng” (Gioan Phaolô II, Thông Điệp Redemptoris Missio, 82). Việc cử hành Năm Đức Tin và Thượng Hội đồng Giám mục về Tân Phúc Âm hoá sẽ là những cơ hội thuận lợi để phát động sự hợp tác truyền giáo, nhất là trong khía cạnh thứ hai này.
Đức Tin và việc loan báo
Mối quan tâm loan báo Đức Kitô cũng thúc đẩy chúng ta đọc lịch sử để từ đó nhận ra những vấn đề, những khát vọng và hi vọng của nhân loại mà Đức Kitô phải chữa lành, thanh tẩy và kiện toàn bằng sự hiện diện của Người. Thực vậy, Sứ điệp của Người luôn mang tính thời sự, đi vào giữa lòng lịch sử và có khả năng đáp lại những mối lo lắng thâm sâu nhất của mỗi người. Vì vậy mọi thành phần trong Hội Thánh phải ý thức rằng “các chân trời bao la của sứ mạng Hội Thánh và tình hình phức tạp hiện nay đòi hỏi những phương thức mới để có thể truyền đạt hiệu quả Lời Thiên Chúa” (Bênêđictô XVI, Tông huấn hậu THĐGM,Verbum Domini, 97). Điều này trước hết đòi hỏi phải gắn bó với Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô bằng đức Tin được canh tân nơi mỗi cá nhân cũng như các cộng đoàn “lúc nhân loại đang sống giữa những thay đổi sâu xa như hiện nay” (Tông thư Porta Fidei, 8).
Thực vậy, một trong các trở ngại cho việc đẩy mạnh hoạt động rao giảng Tin Mừng chính là cơn khủng hoảng đức tin, không chỉ của thế giới phương Tây, mà của phần lớn nhân loại; họ cũng đói khát Thiên Chúa và phải được mời gọi và dẫn đưa tới bánh sự sống và nước hằng sống, như người phụ nữ Samaria đến giếng Giacóp và nói chuyện với Đức Kitô. Như tác giả Tin Mừng Gioan đã kể lại, câu chuyện về người phụ nữ này có một ý nghĩa đặc biệt (x. Ga 4,1-30): bà gặp Chúa Giêsu, Người xin bà nước uống, nhưng sau đó Người nói về một thứ nước mới, có khả năng làm cho bà không bao giờ còn khát nữa. Thoạt đầu bà không hiểu, bà vẫn dừng lại trên bình diện vật chất, nhưng dần dần bà được Chúa dẫn đi trên con đường đức tin giúp bà nhận ra Người chính là Đấng Mêsia. Về điểm này, Thánh Augustinô quả quyết: “Sau khi đã đón nhận Chúa Kitô vào tâm hồn mình, [người phụ nữ này] còn có thể làm gì khác hơn là bỏ lại thùng nước ở đó để chạy đi loan báo Tin Mừng?” (Bài giảng 15, 30). Một khi gặp được Đức Kitô hằng sống, là Đấng làm thỏa cơn khát của trái tim, người ta không thể không mong muốn chia sẻ với người khác niềm vui có Đức Kitô đang hiện diện và giúp họ nhận ra Người để tất cả đều cảm nghiệm được sự hiện diện ấy. Cần phải đổi mới niềm hăng say loan truyền đức tin để cổ vũ một cuộc tân phúc âm hoá các cộng đoàn và các nước vốn có truyền thống Kitô giáo lâu đời mà nay chẳng còn màng đến Chúa, để họ tìm lại được niềm vui của đức tin. Không bao giờ được gạt mối quan tâm loan báo Tin Mừng ra khỏi mọi hoạt động của Giáo Hội cũng như đời sống cá nhân của người Kitô hữu, nhưng phải ý thức rõ mình là đối tượng đón nhận Tin Mừng, đồng thời cũng là những thừa sai của Tin Mừng. Tâm điểm của lời loan báo vẫn luôn như thế: đó là Kerygma (lời rao giảng cơ bản) về Đức Kitô chịu chết và phục sinh để cứu độ thế giới,Kerygma về tình yêu tuyệt đối và trọn vẹn của Thiên Chúa đối với mọi người nam cũng như nữ, đạt đến tột đỉnh trong việc Thiên Chúa sai Con Một hằng hữu của Người là Chúa Giêsu, Đấng không ngại nhận thân phận nghèo hèn của bản tính loài người chúng ta, yêu thương và cứu chuộc bản tính ấy khỏi tội lỗi và sự chết, bằng việc hiến mình trên thập giá.
Trong kế hoạch yêu thương được thể hiện nơi Đức Kitô, đức tin vào Thiên Chúa trước hết là một hồng ân và một mầu nhiệm mà chúng ta phải đón nhận trong lòng và trong cuộc sống, và phải luôn luôn tạ ơn Chúa vì hồng ân ấy. Đồng thời đức Tin còn là một ân huệ được ban cho chúng ta để chia sẻ cho người khác; là một nén bạc chúng ta nhận được để sinh lời; là ánh sáng không được đem giấu đi, nhưng phải soi sáng cho cả nhà. Đức Tin là ân huệ quan trọng nhất được ban cho cuộc đời chúng ta mà chúng ta không được phép giữ lại cho riêng mình.
Loan báo trở thành bác ái
“Khốn thân tôi nếu tôi không loan báo Tin Mừng!”, Thánh Phaolô nói như thế (1 Cr 9, 16). Lời này vang dội với sức thúc bách mỗi người Kitô hữu và mỗi cộng đoàn Kitô hữu trên mọi châu lục. Ngay cả đối với các giáo hội tại các xứ truyền giáo, phần lớn là các giáo hội non trẻ, mới lập, hoạt động truyền giáo đã trở thành một chiều kích tự nhiên, cho dù chính các giáo hội này vẫn còn cần đến các nhà truyền giáo. Nhiều linh mục, tu sĩ nam nữ từ khắp nơi trên thế giới, rất đông giáo dân và thậm chí cả gia đình sẵn lòng rời bỏ quê hương mình, rời bỏ các cộng đoàn mình và đi đến các giáo hội khác để làm chứng và loan báo Danh Chúa Kitô, nhờ Người mà nhân loại tìm được ơn cứu độ. Đây là một biểu hiện của sự hiệp thông sâu xa, sự chia sẻ và bác ái giữa các giáo hội, để mọi người có thể nghe và nghe lại lời loan báo có sức chữa lành, và có thể đến với các Bí Tích, nguồn mạch đời sống đích thực.
Cùng với dấu chỉ siêu vời của đức tin được biến đổi thành đức ái này, tôi ghi nhận và biết ơn các Hội Giáo hoàng Truyền giáo, công cụ của sự hợp tác trong sứ vụ phổ quát của Hội Thánh trên thế giới. Qua hoạt động của các Hội truyền giáo này, việc loan báo Tin Mừng còn trở thành hành động giúp đỡ tha nhân, thúc đẩy đối xử công bằng với những người nghèo khổ nhất, đưa giáo dục về tận những thôn làng xa xôi nhất, trợ giúp y tế tại các vùng sâu vùng xa, giải phóng khỏi cảnh khốn cùng, giúp những người bị gạt ra lề xã hội tìm lại được quyền sống, nâng đỡ sự phát triển các dân tộc, khắc phục những chia rẽ sắc tộc, tôn trọng sự sống ở mọi giai đoạn của nó.
Anh chị em thân mến, tôi khẩn cầu Chúa Thánh Thần xuống tràn đầy trên việc rao giảng Tin Mừng cho các dân tộc, đặc biệt trên những ai đang loan báo Tin Mừng, để Ân Sủng của Thiên Chúa làm cho công cuộc rao giảng Tin Mừng tiến bước vững vàng trong lịch sử thế giới. Cùng với Chân phước John Henry Newman, tôi muốn cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, xin đồng hành với các nhà truyền giáo tại các xứ truyền giáo, xin đặt trên môi miệng họ những lời lẽ chính đáng, xin làm cho công lao khó nhọc của họ sinh nhiều hoa trái.” Lạy Trinh Nữ Maria, Mẹ là Mẹ Hội Thánh và là Ngôi Sao dẫn đường loan báo Tin Mừng, xin đồng hành với tất cả các thừa sai Tin Mừng.
Vatican, ngày 6 tháng 1 năm 2012.
Đại lễ Chúa Hiển Linh
Bênêđictô XVI, giáo hoàng
(Bản dịch của Ủy ban Loan Báo Tin Mừng / HĐGMVN)
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Thư mục vụ Năm Đức Tin của HĐGMVN viết:
Cùng một nhịp bước với Giáo Hội toàn cầu, Năm Đức Tin phải là cơ hội thuận lợi cho mọi thành phần Dân Chúa tại Việt Nam củng cố đức tin của mình, hoán cải và đổi mới đời sống, trở về với Chúa là Đấng Cứu độ duy nhất của thế giới. Khi chúng ta tái khám phá niềm vui đức tin, chúng ta sẽ hăng say dấn thân cho công cuộc Tân Phúc Âm hoá loan báo Tin Mừng cho 93% người Việt Nam chưa biết Chúa, đem tinh thần Phúc Âm thấm nhập mọi lĩnh vực đời sống, góp phần xây dựng một xã hội lành mạnh theo những giá trị Tin Mừng và truyền thống văn hoá của dân tộc. (Số 5).
Năm Đức Tin giúp cho Giáo Hội trở về cội nguồn của mình là chính Chúa Kitô và Tin Mừng của Chúa. Nhờ đó có thể canh tân đời sống và cách làm việc, nhằm thể hiện tốt đẹp hơn Sứ vụ Loan báo Tin Mừng.
Truyền giáo là chia sẻ cuộc sống, một cuộc sống như chính Chúa Giêsu đã sống, là yêu thương mọi người, và yêu thương đến cùng (x. Ga 13,11), yêu thương đến nỗi dám chấp nhận hy sinh tính mạng cho những người mình yêu (x. Ga 15,13). Truyền giáo đồng nghĩa với làm chứng cho Chúa Kitô (x. Lc 24, 47, 48, Cv 1,8) bằng đời sống theo gương của Người.
A. Truyền Giáo theo gương Chúa Giêsu
Giáo Hội luôn trong nỗ lực loan báo Tin mừng của Chúa Giêsu cho toàn thể thế giới. Công đồng Vatican II đã phác họa hướng đi mục vụ truyền giáo: “Vui mừng và hy vọng, buồn sầu và lo sợ của con người ngày hôm nay, nhất là của người nghèo khổ, bị ruồng bỏ quên lãng, cũng là niềm vui, hy vọng, nỗi buồn sầu lo lắng của môn đệ Chúa Kitô…”( Hiến chế Giáo hội, số 1).
Sứ vụ truyền giáo của Giáo hội thời nào và ở đâu cũng bắt đầu từ mẫu gương Chúa Giêsu.
Khi đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu ưu tiên để ý đến những người nghèo, người tội lỗi, người ngoại và những người bệnh tật. Chúa Giêsu áp dụng vào chính mình những lời tiên tri Isaia xưa đã nói: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, Chúa đã xức dầu tấn phong tôi.Sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” (Lc 4,17-20). Chúa Giêsu cũng đã xác định: “Thầy đến không phải để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,13).
Chúa Giêsu nói với người phụ nữ ngoại giáo Samaria: “Này chị, hãy tin tôi: Đã đến giờ, các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem… Nhưng giờ đã đến, và chính là lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và trong sự thực. Vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế” (Ga 4,21-24).
Suốt đời, Chúa Giêsu đã sống gần gũi với 4 hạng người: người nghèo, người tội lỗi, người ngoại và những người bệnh tật. Chúa Giêsu đến với họ, cho họ thấy, Người rất thương họ, và tình thương đó là vô hạn, vô cùng. Thương đến đổ máu mình ra, chết cho họ, chết thay cho họ, và cho mọi người. Chúa Giêsu hiến thân đến tột cùng vì tình yêu. Chính ở điểm hiến thân trên thánh giá mà Người làm vinh danh Chúa Cha, và chính Người được tôn vinh. Chúa Giêsu đã nói trước khi hiến tế: “Lạy Cha, giờ đã đến. Xin Cha tôn vinh Con Cha, để con Cha tôn vinh Cha” (Ga 17,1).
Chúa Giêsu muốn các môn đệ cũng hãy theo gương Thầy, đem Tin Mừng đến cho 4 hạng người đó.
Đây cũng là sứ mạng truyền giáo của mỗi kitô hữu.
ĐGH Gioan Phaolô II đã khẳng định trong Thông điệp ‘Sứ Vụ Đấng Cứu Độ’: “Truyền giáo là trình bày tình yêu của Thiên Chúa được tỏ bày trong Đức Giêsu Kitô.” (số 2)
Nói cách khác, truyền giáo là yêu như Chúa Giêsu yêu. Chúa dành tình yêu đặc biệt cho 4 hạng người: người ngoại, người tội lỗi, người bệnh tật và người nghèo.(x.Nhật ký truyền giáo, Lm Piô Phúc Hậu).
1) Yêu thương Lương dân
Chúng ta phải yêu thương và kính trọng Lương dân theo gương Chúa Giêsu.
– Chúa Giêsu về thăm quê hương Nazareth. Đồng hương đang niềm nở đón tiếp Chúa thì bổng dưng đổi thái độ. Họ đã đảo và đòi giết Chúa vì Chúa đề cao người ngoại, coi người ngoại hơn người đạo (Do Thái Giáo).”Vào thời Êlia, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà góa trong nước Itrael, thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà góa thành Sarépta miền Siđôn. Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Êlisa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Itrael, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Naaman người xứ Syri thôi” (Lc 4, 25-37).
– Tại Caphanaum, Chúa đã đề cao một viên sĩ quan người ngoại, đề cao đến mức độ có thể bị hiểu lầm: “Tôi chưa thấy một niềm tin nào như thế trong dân tộc Israel” (Lc 7,9). Tại miền Tia và Xiđon, Chúa đề cao niềm tin người đàn bà xứ Canaan: “Này bà, lòng tin của bà lớn thật.”(Mt 15,21-28). Chúa Giêsu từng ngỡ ngàng trước lòng tin của viên bách quản (Mt 8,10-11).Giờ đây Chúa đối diện với lòng tin của một người mẹ thương con.Chính tình thương thêm sức mạnh cho lòng tin, khiến lòng tin trở nên kiên trì, bất chấp thinh lặng và từ chối.Lòng tin không mất hy vọng ngay khi có vẻ chẳng còn gì để hy vọng.Lòng tin mạnh mẽ và khiêm hạ của người mẹ đã chinh phục Chúa Giêsu,và cuối cùng đã chạm được vào trái tim của Chúa.
Thật ra ttrong nước Israel có nhiều người có niềm tin lớn hơn ông sĩ quan, người mẹ Canaan ấy nhiều. Bà Êlisabeth, Gioan Tẩy Giả, thánh Giuse và Đức Mẹ đều là người Israel. Chúa cường điệu lời khen để ta thấy Người thương người ngoại đến mức độ nào.
– Dụ ngôn người Samari tốt lành (Lc 10, 29-37) đề cao người ngoại hơn cả mấy ông trợ tế và tư tế. Đặc biệt là khi Chúa nói với ông kinh sư bậc thầy của Do Thái giáo: “Ông hãy về và làm như thế!”. Làm như thế tức là noi gương một người ngoại.
– Khi Chúa cho 10 người phong cùi được khỏi, chỉ có một người trở lại cám ơn Chúa. Chúa bảo: “Không phải cả mười người được sạch sao? Thế thì 9 người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại đạo này?” (Lc 17,17-18).
2) Yêu thương người tội lỗi.
Trong lịch sử loài người, từ trong gia đình ra ngoài xã hội, từ trong đạo ra tới ngoài đời, Chúa Giêsu yêu thương trìu mến người tội lỗi nhất.
Thánh vịnh 100, đòi “quét sạch thành đô, những đứa làm điều ác, không sót một tên”. Luật Do Thái loại trừ người tội lỗi, không cho tín đồ liên hệ với họ.
Còn Chúa Giêsu:
– Đề cao người phụ nữ tội lỗi hơn ông Simon biệt phái.
– Dụ ngôn con chiên bị mất (Lc 15,4-7) cho thấy chủ chăn khi tìm được con chiên lạc (người tội lỗi), không mắng, không đánh, mà còn âu yếm vác lên vai đưa về và còn mở tiệc mừng.
– Dụ ngôn người cha nhân từ (Lc 15,11-32) cho thấy, Chúa yêu người tội lỗi tới mức nào. Chỉ thấy đứa con sám hối và trở về mà người cha quên hết bao tội lỗi của nó. Cha làm tiệc mừng vì con trở về. Cha đã quên con ngỗ nghịch phá tan tài sản với bọn đàng điếm.
– Yêu người tội lỗi, để cứu họ, Chúa đã phải trả giá rất cao. Khi Chúa vào nhà ông Giakêu, thánh Luca đã ghi lại: “mọi người xầm xì với nhau: ông này lại vào trong nhà người tội lỗi”.
3) Yêu người bệnh tật
Bệnh tật là một trong bốn nỗi khổ của kiếp người. Nó gắn liền với đời người vốn là hữu hạn.
Chúa Giêsu luôn tỏ ra đặc biệt quan tâm tới những người yếu đau. Nhiều câu chuyện chữa lành tuyệt vời được kể lại:
– “Thiên hạ đem đến cho người mọi kẻ ốm đau, mắc đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền, những kẻ bị quỷ ám, kinh phong, bại liệt; và Người đã chữa họ.” (Mt 4, 24).
– “Chúa Giêsu trên núi đi xuống, đám đông lũ lượt đi theo Người. Và kìa, một người phong hũi tiến lại…Người giơ tay đụng vào anh và bảo, tôi muốn, anh sạch đi. Lập tức, anh được sạch bệnh phong hủi.” (Mt 8, 1-3) -“Chúa Giêsu đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường của họ, rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa các bệnh hoạn tật nguyền.” (Mt 9, 35) -“Ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương và chữa lành các bệnh nhân của họ”. (Mt 14, 14) -“Có những đám người đông đảo kéo đến cùng Người, đem theo những kẻ què quặt, đui mù, tàn tật, câm điếc và nhiều bệnh nhân khác nữa. Họ đặt những kẻ ấy dưới chân Người và Người chữa lành… (Mt 15, 30) -“Chúa Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai.” (Mc 1, 34)
– “Chính giờ ấy, Chúa Giêsu chữa nhiều người khỏi bệnh hoạn tật nguyền, khỏi quỷ ám và ban cho nhiều người mù được thấy…” (Lc 7, 21)
Quan niệm của Cựu Ước cho rằng bệnh gắn liền với tội. Bệnh tật như là một sự trừng phạt bởi tội lỗi gây ra. Vì thế, người ta xa lánh bệnh nhân, nhất là bệnh phong cùi. Đó là một bệnh nan y bị mọi người kinh tởm, không chỉ vì sự dơ bẩn “ô uế theo luật Do thái”, hay lây nhiễm, mà còn bị xa lánh như kẻ tội lỗi. Chính các Tông đồ vẫn còn mang cái nhìn ấy khi hỏi Chúa, người mù từ khi mới sinh là do tội của anh hay gia đình anh.(x. Ga 9, 2-3). Chúa đã trả lời không bởi tội, nhưng để làm vinh danh Thiên Chúa.
Chúa yêu người bệnh tật, và cứu họ khỏi nỗi đau thân xác tâm hồn. Thần học Do thái giáo cho rằng bệnh tật là hậu quả của tội. Chúa phản đối điều đó. Cứ mỗi lần Chúa chữa bệnh, Chúa lại gánh lấy nỗi khổ nhân loại.
Chúa đã thông truyền khả năng chữa lành cho các tông đồ: “Rồi Chúa Giêsu gọi mười hai môn đệ lại, ban cho các ông được quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền” (Mt 10, 1). Khi sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, Chúa cũng ra lệnh chăm sóc bệnh nhân: “Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch và khử trừ ma quỷ”. (Mt 10, 8). Sứ vụ loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu gắn liền với sứ vụ chăm sóc bệnh nhân. Chính các tông đồ nối tiếp công việc của Chúa Giêsu, vừa truyền giáo vừa chữa lành.
4) Yêu người nghèo
Chúa yêu người nghèo và kêu gọi người giàu chia cơm sẻ áo cho người nghèo. Ai giúp người nghèo thì Chúa bảo là đã giúp Chúa. Ai từ chối người nghèo, thì Chúa bảo là từ chối Chúa (Mt 25, 31-46). Người giàu mà chỉ lo ăn xài, chứ không lo chia cơm xẻ áo thì Chúa gọi là đồ ngốc (Lc 12,20).
Yêu người ngoại, yêu người tội lỗi, yêu người nghèo và người bệnh tật như thế là truyền giáo theo gương Chúa Giêsu.
B. Truyền Giáo như Mẹ Maria
Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Hội Thánh và là Ngôi Sao dẫn đường loan báo Tin Mừng (x.Sứ điệp Truyền Giáo 2012).
Truyền giáo là đem Chúa Giêsu đến cho tha nhân. Mẹ Maria là nhà truyền giáo đúng nghĩa nhất. Mẹ đã đón nhận Con Thiên Chúa và đưa Người vào trong thế gian. Đó là Tin Mừng.
Sứ vụ truyền giáo là sứ vụ của người mang tin vui, tin cứu độ, tin được Thiên Chúa đoái thương.
Người truyền giáo là người được Chúa Thánh Thần tác động và làm trổ sinh hoa trái giống như Mẹ: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ ngự xuống trên Bà” (Lc 1, 35). Hoa trái của Chúa Thánh Thần là “hoan lạc, bình an…”. Hân hoan trong Thánh Thần, từ đó: “Đức Maria lên đường vội vã” thăm Êlisabet (Lc 1,39), gợi lại hình ảnh ngôn sứ Isaia tiên báo: “Đẹp thay trên núi đồi bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ và nói với Sion rằng: “Thiên Chúa ngươi là vua hiển trị” (Is 52,7). Đức Maria mang trọn niềm vui Đấng Cứu Độ mà nhân loại đón đợi. Đức Maria trở nên người loan báo Tin Mừng vì Mẹ mang trọn niềm vui Chúa Thánh Thần. Ai để cho Chúa Thánh Thần hoạt động trong cuộc đời của mình cũng là người mang trọn niềm vui loan báo.
Đức Maria còn là người công bố Tin Mừng: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn” (Lc 1, 49). Thấy được tình thương Thiên Chúa thể hiện trong cuộc đời mình nên lời công bố mang một niềm tin xác tín, đã gặp và đã thấy.
Để trở thành người loan Tin Mừng, Đức Maria đã “hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 3,51). Cầu nguyện là chiêm ngắm những điều Thiên Chúa đã thực hiện nơi mình. Cầu nguyện là cuộc trao đổi, đối thoại giữa những khó khăn và thử thách. Đức Maria trở thành người công bố Tin Mừng, bởi Mẹ đã chiêm ngắm công trình của Thiên Chúa thực hiện cho dân tộc, cho chính Mẹ.
Đối với Đức Maria, truyền giáo là đem chính Chúa Giêsu cho nhân loại.
Chúa Giêsu là lẽ sống, là hạnh phúc, là niềm vui của cuộc đời mỗi kitô hữu. Chúng ta phải xác tín như Đức Maria: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (Lc 1, 46). Tràn ngập niềm hân hoan bởi Mẹ đã gặp thấy và cưu mang chính niềm vui có Chúa Giêsu trong lòng Mẹ. Đức Maria reo ca: “Thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi” (Lc 1, 47). Đức Maria đã cưu mang chính Chúa Giêsu, quà tặng tuyệt hảo nhất của Thiên Chúa, nguồn ơn cứu rỗi duy nhất, công bố, trao tặng cho nhân loại.
Đức Maria luôn đặt mình dưới sự bảo trợ hoạt động của Chúa Thánh Thần.
Đức Maria là công trình tuyệt hảo của Chúa Thánh Thần.
Người truyền giáo cũng như thế, không thể tách rời Chúa Thánh Thần với hoạt động của mình được. Ai có thể chinh phục sự sâu thẳm của lòng người quy hướng về Thiên Chúa, nếu đó không phải là tác động của Chúa Thánh Thần?
Giáo Hội không truyền giáo bằng cách áp đặt, cưỡng chế những người khác theo mình. Giáo Hội cũng không mua chuộc bằng tiền của bằng quyền lợi hay bằng những hứa hẹn. Giáo Hội cũng không dụ dỗ người khác theo đạo.
Truyền giáo hôm nay phải là giới thiệu, là trình bày, là minh họa, là thuyết phục. Chúng ta giới thiệu Chúa Giêsu cho những anh chị em mà mình gặp gỡ hàng ngày nơi môi trường mính sống và làm việc.
Truyền giáo là giới thiệu Chúa cho anh chị em mình bằng chính đời sống chứng tá yêu thương dưới sự bảo trợ của Mẹ Maria. Hy vọng mỗi người chúng ta cũng có thể nói được như người Công Giáo Hàn Quốc với đồng bào lương dân của mình: “Anh chị em cứ nhìn chúng tôi sống thế nào, thì anh chị em bắt chước mà sống như thế”.
C. Vài gợi ý thực hành.
Đức Tin là một ân huệ được ban cho chúng ta để chia sẻ cho người khác; là một nén bạc chúng ta nhận được để sinh lời; là ánh sáng không được đem giấu đi, nhưng phải soi sáng cho cả nhà. Đức Tin là ân huệ quan trọng nhất được ban cho cuộc đời chúng ta mà chúng ta không được phép giữ lại cho riêng mình. (Sứ điệp Truyền Giáo 2012).
Cách riêng, trong hoàn cảnh xã hội ngày nay, đức tin của người Công giáo cần được thể hiện qua việc thực thi bác ái. Đức Tin và Đức Mến cần đến nhau và hỗ trợ cho nhau: “Chính đức Tin giúp chúng ta nhận ra Chúa Kitô và chính tình yêu Chúa thôi thúc chúng ta chạy đến phục vụ Chúa mỗi khi Người trở thành người thân cận của chúng ta trên nẻo đường cuộc sống”. Được Lời Chúa soi sáng và tình yêu Chúa thấm nhập trong suy nghĩ cũng như hành động, chúng ta sẽ trở nên những chứng tá đáng tin trong xã hội ngày nay. (Thư Năm Đức Tin HĐGMVN, số 7).
Thực thi sứ vụ truyền giáo trong Năm Đức Tin bằng cách:
– Mỗi Giáo xứ khởi động phong trào: mỗi thành viên phải làm sao giúp cho một người khác theo đạo.
– Mỗi giáo dân nên kết thân với một Lương dân. Mỗi gia đình kết thân với một gia đình bên Lương. Kết thân để cầu nguyện, nâng đỡ nhau.
– Các hội đoàn đi tìm người tội lỗi và người nghèo trong địa phương của mình. Nên có một danh sách cụ thể. Sau đó sẽ cùng nhau thăm viếng, an ủi và giúp đỡ.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Trong bài báo: “Khi các sao Việt quy y cửa Phật”, tác giả Ngọc Hoa đã viết: là một trong những nữ diễn viên hàng đầu thời phim “Mỳ ăn liền” còn hoàng kim. Thế nhưng, Việt Trinh lại luôn lận đận về chuyện tình duyên. Những người đàn ông đã từng yêu Việt Trinh sau này đều dính đến pháp luật, chính điều đó đã khiến có người dành những lời không thiện cảm cho người đẹp này. Cùng thời gian đó, dòng phim “mỳ ăn liền” xuống dốc, Việt Trinh trở nên hụt hẫng, tuyệt vọng, có những lúc chị cảm thấy bi quan và chán nản cuộc sống.
Thế nhưng, chính trong những lúc tuyệt vọng nhất, một cánh cửa khác đã mở ra cho người phụ nữ đa truân này. Đó chính là Phật pháp. Vô tình đến với đạo Phật, Việt Trinh ngộ ra nhiều điều, chị tìm hiểu rõ hơn về đạo Phật, về nhân quả, nghiệp báo, bỏ tính nóng này, thậm chí còn làm phim liên quan đến đề tài này. Chính xác là từ năm 2001, chị quyết định đi theo đạo Phật bằng sự thành kính. Cô tâm sự:
“Cách đây không lâu, trong lúc tôi đang còn ngụp lặn trong biển khổ ái tình, tôi rất buồn, lúc nào cũng chỉ biết khóc, không biết làm sao để giải thoát khỏi mối tình cay nghiệt. Khi lồng tiếng cho phim Duyên Trần Thoát Tục, đọc tới đoạn Hòa thượng dạy cho Thường Chiếu: “Còn duyên thì hợp hết duyên thì tan”, tự nhiên tôi rùng mình, tự hỏi rằng tại sao mình phải ngụp lặn trong sự đau khổ của ái tình? Từ đó, tôi không vướng bận vào chuyện tình cảm đau khổ nữa”
Đối với những người theo đạo Phật thì Cửa Phật là nơi ẩn náu bình yên sau những vật lộn của thế gian. Họ sẽ tìm đến cửa Phật một khi không còn thấy hạnh phúc nơi phong trần. Họ quy y cửa Phật như nói lên quyết tâm của họ rũ bỏ đường trần để tìm sự thanh thoát bình yên nơi cửa Phật.
Còn đối với đạo Công giáo thì lý do nào khiến người ta trở về với Chúa? Chúng ta sẽ giới thiệu Chúa như thế nào để những người ngoại trở lại để náu nương, và những người lạc bước được sớm quay trở về? Chúng ta có con đường nào cho anh em quay trở về như cửa Phật đã từng rộng mở cho thiện nam tín nữ của họ?
Có lẽ điều này thì nơi đạo Phật dễ dàng hơn. Cửa Phật luôn rộng mở miễn là con người muốn quay trở về. Còn với đạo Công Giáo chúng ta thì còn phải trải qua rất nhiều thử thách trong thời kỳ dự tòng, phải học giáo lý, phải thể hiện ý hướng ngay lành, phải có lý lịch rõ ràng . . .
Có một người bạn ngoại đạo hỏi tôi: Người ta ai cũng muốn tự do thoải mái, vậy đi đạo làm gì cho mệt vì phải giữ quá nhiều luật lệ?
Và anh ta còn thêm: Luật lương tâm là đủ rồi, tại sao còn phải thêm biết bao luật do con người quy định hoặc thêm thắt vào?
Thực ra, ở đời, ai cũng muốn được tự do thoải mái, nhưng không phải vì thế mà mình muốn làm gì thì làm. Đối với chính bản thân, mình cũng cần có những nguyên tắc phải tuân thủ để bảo vệ và phát triển sự sống; trong tương quan với tha nhân (gia đình và xã hội) mình có những bổn phận, những trách nhiệm phải chu toàn nên cũng cần có những quy định ràng buộc. Đạo Thiên Chúa qui định những luật lệ đối với bản thân, gia đình, xã hội và Giáo hội là để giúp cho mọi người được sống an vui hạnh phúc. Ngoài ra, chúng ta còn có bổn phận tôn thờ Thiên Chúa, nên mỗi ngày bỏ ra 10 phút, mỗi tuần bỏ ra một tiếng đồng hồ để thờ phượng Thiên Chúa và cứu rỗi linh hồn thì đâu có gì là quá đáng, là mất tự do!
Phân tích như vậy thì đúng lắm! Nhưng làm sao để cho anh em lương dân cảm thấy nhẹ nhàng khi theo đạo thay vì sợ hãi vì cha quá khó, luật quá nhiều . . .? Luật Chúa, luật Giáo hội thì ít mà luật giáo xứ lại quá nhiều?
Chúa luôn mời gọi con người hãy đến với Chúa vì “ách của Chúa thì êm ái và gánh của Chúa thì nhẹ nhàng”, sao chúng ta lại chồng chất lên nhau quá nhiều những gánh nặng khiến đạo trở thành nặng nề, khó khăn cho biết bao người. Chúng ta sợ quá dễ dãi người ta sẽ bỏ đạo. Thế nhưng, quá khó khăn có chắc để họ giữ được đạo hay không? Bởi vì có rất nhiều người “nín thở qua sông”, học giáo lý, học kinh cho thật thuộc để lấy được vợ là thôi nhà thờ! Vậy phải làm thế nào để những người lương dân cảm thấy bình an khi đến với Chúa mà không cảm thấy khó khăn bởi những yếu tố bên ngoài tác động?
Hãy nhìn vào cung cách sống của Chúa Giêsu, Ngài đã sống hòa mình vào mọi hạng người để nâng đỡ, cảm thông và chia sẻ với họ. Ngài tạo mọi điều kiện cho con người đến với Chúa từ trẻ nhỏ, người già, người tội lỗi, tật nguyền đều có thể tìm thấy bình an khi đến với Chúa. Chính vì thế, mà Ngài luôn có một số rất đông đi theo Người.
Hãy nhìn vào Giáo hội sơ khai họ đã thành công khi sống bác ái huynh đệ với nhau, họ gom của cải vào của chung và chia sẻ cho nhau đến nỗi không một ai thiếu thốn trong cộng đoàn của họ, nhờ đó mà họ được toàn dân thương mến.
Cánh cửa Giáo hội công giáo luôn rộng mở nhưng quan yếu vẫn là thái độ của từng người công giáo chúng ta có rộng mở với anh em qua đời sống bác ái huynh đệ, luôn chia sẻ, cảm thông với mọi hạng người, luôn sẵn lòng đến với anh em trong tinh thần hiệp thông bác ái? Cuộc sống của người tín hữu chúng ta phải là cánh cửa của hiệp thông, của bác ái để có thể đón nhận và hòa nhập với mọi hạng người. Cuộc đời của chúng ta thực sự có bình an khi sống đạo mới có thể mang bình an chia sẻ cho tha nhân.
Nét son của đạo Phật là tại tâm. Nét son của Kytô giáo là yêu thương. Liệu rằng chúng ta có trở thành dấu chỉ tình yêu, của bình an và hy vọng cho anh em mình không?
Xin cho đời truyền giáo của chúng ta phải khởi đi từ những nghĩa cử yêu thương nhân hậu với tha nhân. Xin đừng là vật cản trở anh em đến với Chúa vì đời sống thiếu bác ái, thiếu lòng nhân từ của chúng ta. Amen.
(Trích dẫn từ ‘Manna’)
Nếu Đức Giêsu phục sinh không sai gửi Thánh Thần thì chúng ta sẽ chẳng có một Hội Thánh truyền giáo.
Các tông đồ được lệnh phải chờ ở Giêrusalem. Chờ mặc lấy quyền năng từ trời cao ban xuống. Chờ Đức Giêsu sai gửi Đấng Cha đã hứa ban. Chờ lãnh nhận phép Rửa trong Thánh Thần (Cv 1,5). Không có sức mạnh của Ngôi Ba Thiên Chúa, các tông đồ chẳng dám đi rao giảng cho muôn dân, và trở nên chứng nhân của Đức Giêsu cho cả thế giới.
Không có Thánh Thần thì không có hoạt động truyền giáo. Điều này vẫn đúng cho thời đại chúng ta.
Thánh Thần vẫn thôi thúc bao tâm hồn đi gieo Tin Mừng, vẫn hiện diện và hướng dẫn Hội Thánh trong việc rao giảng, vẫn khơi dậy bao sáng kiến mới mẻ trong việc truyền giáo.
Kitô hữu tự bản chất là chứng nhân. Các tông đồ đã làm chứng vì họ đã thấy tận mắt. Chúng ta chỉ có thể làm chứng nếu thấy bằng đức tin. Thấy bằng đức tin mạnh chẳng kém gì thấy bằng mắt. Kitô hữu là người thấy được Đấng Vô Hình, có tương quan thân thiết với Đấng họ mến tin.
Truyền giáo không phải là tuyên truyền một lý thuyết, mà là đưa người khác đến gặp một Ngôi Vị, là chia sẻ cho họ niềm xác tín và yêu mến của mình.
Chúng ta cần tự hỏi tại sao sau gần 4 thế kỷ Kitô giáo ở Việt Nam vẫn chưa phát triển mạnh.
Phải chăng vì đức tin chúng ta đã nhạt nhòa, vì đời sống chúng ta chẳng có gì đáng nói? Hay phải chăng chúng ta đã lơ là với việc rao giảng, hoặc không biết cách loan báo Tin Mừng cho phù hợp? Có thể tất cả những lý do trên đều đúng.
Truyền giáo hôm nay đòi ta cộng tác với mọi người thiện chí, để xây dựng một thế giới công bằng, nhân ái hơn, đòi ta yêu thương và phục vụ những người nghèo nhất.
Truyền giáo là đưa Tin Mừng vào nền văn hoá Việt Nam, và đưa những giá trị tốt đẹp của văn hoá Việt Nam vào việc sống và làm chứng cho Tin Mừng.
Chúng ta tin một Thánh Thần duy nhất đã hoạt động nơi các dân tộc trước khi Ngôi Lời nhập thể, vẫn luôn hoạt động trong đời Đức Giêsu và trong Hội Thánh, và còn đang hoạt động nơi các tôn giáo, các nền văn hoá của mọi dân tộc trong thế giới hôm nay.
Phải làm sao để trình bày Tin Mừng cách dễ hiểu, gần gũi với tâm thức của đồng bào. Phải làm sao để bày tỏ một khuôn mặt Đức Giêsu nhân từ, dễ mến, đem lại hạnh phúc cho con người.
Hội Thánh Việt Nam cần biết bao những người công giáo biết làm văn, làm nhạc, làm thơ, biết viết kịch, viết báo… Tinh thần Chúa Kitô phải từ từ thấm vào mọi lãnh vực.
Có thể Kitô hữu mãi mãi vẫn là một thiểu số, nhưng phải là một thiểu số đóng góp nhiều cho dân tộc.
Gợi ý chia sẻ
Có người bảo đạo Công Giáo là đạo ngoại lai. Bạn nghĩ sao? Có tôn giáo nào ở Việt Nam không đến từ nước ngoài? Làm sao để đạo Công Giáo gần gũi với lối sống, lối nghĩ của người Việt Nam hơn?
Đức Thánh Cha nói: không truyền giáo là dấu hiệu của khủng hoảng đức tin. Bạn nghĩ sao?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, Cha muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý, chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức Giêsu, Con Cha. Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người chưa nhận biết Đức Giêsu, họ cũng là những người đã được cứu chuộc. Xin Cha thôi thúc nơi chúng con khát vọng truyền giáo, khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc, niềm vui và bình an của mình cho tha nhân, và khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới.
Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực trước sứ mạng đi đến tận cùng trái đất để loan báo Tin Mừng. Chúng con chỉ xin đến với những người bạn gần bên, giúp họ quen biết Đức Giêsu và tin vào Ngài, qua đời sống yêu thương cụ thể của chúng con.
Chúng con cũng cầu nguyện cho tất cả những ai đang xả thân lo việc truyền giáo. Xin Cha cho những cố gắng của chúng con sinh nhiều hoa trái. Amen.
Tin cùng chuyên mục:
Thứ ba tuần XXVI thường niên: Phản ứng của con người khi gặp trái ý hay đau khổ
Thứ hai tuần XXVI thường niên-Các Thiên thần hộ thủ, Lễ nhớ
Các bài Suy niệm Lễ Đức Mẹ Mân Côi: Con Thiên Chúa xuống thế để ở với con người
Chúa nhật XXVI thường niên năm A: Đường lối của Thiên Chúa và của con người