Các bài suy niệm Chúa nhật IV Mùa Chay năm A

cv 4 mc

Bài đọc1 Sam 16:1b, 6-7, 10-13a; Eph 5:8-14; Jn 9:1-41 (9:1, 6-9, 13-17, 34-38).

1/ Bài đọc I1 ĐỨC CHÚA phán với ông Sa-mu-en: “Ta sai ngươi đến gặp Gie-sê người Bê-lem, vì Ta đã thấy trong các con trai nó một người Ta muốn đặt làm vua.” 6 Khi họ đến, ông thấy Ê-li-áp, ông nghĩ: “Đúng rồi! Người ĐỨC CHÚA xức dầu tấn phong đang ở trước mặt ĐỨC CHÚA đây!” 7 Nhưng ĐỨC CHÚA phán với ông Sa-mu-en: “Đừng xét theo hình dáng và vóc người cao lớn của nó, vì Ta đã gạt bỏ nó. Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn ĐỨC CHÚA thì thấy tận đáy lòng.” 10 Ông Gie-sê cho bảy người con trai đi qua trước mặt ông Sa-mu-en, nhưng ông Sa-mu-en nói với ông Gie-sê: “ĐỨC CHÚA không chọn những người này.” 11 Rồi ông lại hỏi ông Gie-sê: “Các con ông có mặt đầy đủ chưa?” Ông Gie-sê trả lời: “Còn cháu út nữa, nó đang chăn chiên.” Ông Sa-mu-en liền nói với ông Gie-sê: “Xin ông cho người đi tìm nó về, chúng ta sẽ không nhập tiệc trước khi nó tới đây.”

12 Ông Gie-sê cho người đi đón cậu về. Cậu có mái tóc hung, đôi mắt đẹp và khuôn mặt xinh xắn. ĐỨC CHÚA phán với ông Sa-mu-en: “Đứng dậy, xức dầu tấn phong nó đi! Chính nó đó! “

13 Ông Sa-mu-en cầm lấy sừng dầu và xức cho cậu, ở giữa các anh của cậu. Thần khí ĐỨC CHÚA nhập vào Đa-vít từ ngày đó trở đi.

2/ Bài đọc II8 Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; 9 mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật. 10 Anh em hãy xem điều gì đẹp lòng Chúa.

11 Đừng cộng tác vào những việc vô ích của con cái bóng tối, phải vạch trần những việc ấy ra mới đúng. 12 Vì những việc chúng làm lén lút, thì nói đến đã là nhục rồi.

13 Nhưng tất cả những gì bị vạch trần, đều do ánh sáng làm lộ ra;

14 mà bất cứ điều gì lộ ra, thì trở nên ánh sáng. Bởi vậy, có lời chép rằng: Tỉnh giấc đi, hỡi người còn đang ngủ! Từ chốn tử vong, trỗi dậy đi nào! Đức Ki-tô sẽ chiếu sáng ngươi!

3/ Phúc Âm1 Đi ngang qua, Đức Giê-su nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh.

2 Các môn đệ hỏi Người: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?”

3 Đức Giê-su trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh.

4 Chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được. 5 Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian.”

6 Nói xong, Đức Giê-su nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù,

7 rồi bảo anh ta: “Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa” (Si-lô-ác có nghĩa là: người được sai phái). Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được.

8 Các người láng giềng và những kẻ trước kia thường thấy anh ta ăn xin mới nói: “Hắn không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó sao?”

9 Có người nói: “Chính hắn đó!” Kẻ khác lại rằng: “Không phải đâu! Nhưng là một đứa nào giống hắn đó thôi!” Còn anh ta thì quả quyết: “Chính tôi đây!”

10 Người ta liền hỏi anh: “Vậy, làm sao mắt anh lại mở ra được như thế?”

11 Anh ta trả lời: “Người tên là Giê-su đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi, rồi bảo: “Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa. Tôi đã đi, đã rửa và tôi nhìn thấy.”

12 Họ lại hỏi anh: “Ông ấy ở đâu?” Anh ta đáp: “Tôi không biết.”

13 Họ dẫn kẻ trước đây bị mù đến với những người Pha-ri-sêu.

14 Nhưng ngày Đức Giê-su trộn chút bùn và làm cho mắt anh ta mở ra lại là ngày sa-bát.

15 Vậy, các người Pha-ri-sêu hỏi thêm một lần nữa làm sao anh nhìn thấy được. Anh trả lời: “Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy.”

16 Trong nhóm Pha-ri-sêu, người thì nói: “Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày sa-bát;” kẻ thì bảo: “Một người tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy?” Thế là họ đâm ra chia rẽ.

17 Họ lại hỏi người mù: “Còn anh, anh nghĩ gì về người đã mở mắt cho anh?” Anh đáp: “Người là một vị ngôn sứ!”

18 Người Do-thái không tin là trước đây anh bị mù mà nay nhìn thấy được, nên đã gọi cha mẹ anh ta đến. 19 Họ hỏi: “Anh này có phải là con ông bà không? Ông bà nói là anh bị mù từ khi mới sinh, vậy sao bây giờ anh lại nhìn thấy được?”

20 Cha mẹ anh đáp: “Chúng tôi biết nó là con chúng tôi, nó bị mù từ khi mới sinh.

21 Còn bây giờ làm sao nó thấy được, chúng tôi không biết, hoặc có ai đã mở mắt cho nó, chúng tôi cũng chẳng hay. Xin các ông cứ hỏi nó; nó đã khôn lớn rồi, nó có thể tự khai được.”

22 Cha mẹ anh nói thế vì sợ người Do-thái. Thật vậy, người Do-thái đã đồng lòng trục xuất khỏi hội đường kẻ nào dám tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô.

23 Vì thế, cha mẹ anh mới nói: “Nó đã khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó.”

24 Một lần nữa, họ gọi người trước đây bị mù đến và bảo: “Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta đây, chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi.”

25 Anh ta đáp: “Ông ấy có phải là người tội lỗi hay không, tôi không biết. Tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được!”

26 Họ mới nói với anh: “Ông ấy đã làm gì cho anh? Ông ấy đã mở mắt cho anh thế nào?”

27 Anh trả lời: “Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông vẫn không chịu nghe. Tại sao các ông còn muốn nghe lại chuyện đó nữa? Hay các ông cũng muốn làm môn đệ ông ấy chăng?”

28 Họ liền mắng nhiếc anh: “Có mày mới là môn đệ của ông ấy; còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của ông Mô-sê. 29 Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nói với ông Mô-sê; nhưng chúng ta không biết ông Giê-su ấy bởi đâu mà đến.”

30 Anh đáp: “Kể cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi!

31 Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy.

32 Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh.

33 Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì.”

34 Họ đối lại: “Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?” Rồi họ trục xuất anh.

35 Đức Giê-su nghe nói họ đã trục xuất anh. Khi gặp lại anh, Người hỏi: “Anh có tin vào Con Người không?” 36 Anh đáp: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?”

37 Đức Giê-su trả lời: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây.”

38 Anh nói: “Thưa Ngài, tôi tin.” Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người.

39 Đức Giê-su nói: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!”

40 Những người Pha-ri-sêu đang ở đó với Đức Giê-su nghe vậy, liền lên tiếng: “Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao?”

41 Đức Giê-su bảo họ: “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: “Chúng tôi thấy”, nên tội các ông vẫn còn!”


 

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Ánh sáng và bóng tối, nhìn thấy và đui mù

Có mắt nhìn không có nghĩa là nhìn thấy, vì có rất nhiều những việc xảy ra chung quanh mà con người có mắt vẫn mù lòa không thấy. Chẳng hạn, biết bao nhiêu kỳ công của Thiên Chúa phơi bày trước mắt con người, mà nhiều người vẫn không nhận ra sự hiện hữu của Ngài và tin vào Ngài. Hay vì biết bao công ơn và tình yêu của cha mẹ dành cho mà một người mới có được như hôm nay, thế mà họ vẫn chẳng nhận ra để rồi tiếp tục sống vô ơn như mọi sự tự nhiên có.

Các bài đọc hôm nay đặt trọng tâm trong việc biết nhận ra và đánh giá mọi sự theo tiêu chuẩn của Thiên Chúa. Trong bài đọc I, tác giả Sách Samuel thứ nhất tường thuật sự kiện Thiên Chúa chọn David làm vua. Thiên Chúa nhìn thấu tâm hồn bên trong và coi nhẹ những vóc dáng bên ngoài; ngược lại, ngôn sứ Samuel coi trọng vóc dáng bên ngoài vì không thấy được những đức tính cao đẹp trong tâm hồn. Trong bài đọc II, thánh Phaolô khuyên các tín hữu Ephesô phải sống đời sống mới trong Đức Kitô, vì ngài không chỉ nhìn thấy những tai hại của nếp sống cũ mang lại, mà còn nhìn thấy những lợi ích của đời sống mới khi họ chịu để cho Lời của Đức Kitô hướng dẫn cuộc đời. Trong Phúc Âm, thánh Gioan không chỉ tường thuật phép lạ Chúa Giêsu chữa người mù từ lúc mới sinh; nhưng còn tường thuật tiến trình đức tin trong việc anh nhận ra Chúa Giêsu và tuyên xưng niềm tin nơi Ngài. Ngược lại với tiến trình của anh là diễn tiến dần dần trở nên đui mù của những kẻ tự nhận họ sáng mắt và biết Lề Luật.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng.

1.1/ Samuel tuy là ngôn sứ nhưng ông chỉ biết đánh giá theo dáng vẻ bên ngoài: Khi Đức Chúa đã truất phế vị vua đầu tiên của Do-thái là Saul, Ngài sai ngôn sứ Samuel chuẩn bị sẵn dầu đến Bethlehem, vào nhà ông Jesse, vì Ngài muốn chọn một trong những người con trai của ông này làm vua. Khi ông Jesse cho dẫn ra người con cả, Samuel nghĩ đấy là người Đức Chúa muốn xức dầu tấn phong, vì Eliab vừa là con cả, vừa có dáng bộ to lớn của ông vua; nhưng Đức Chúa cho Samuel biết không hội đủ điều kiện để làm vua theo tiêu chuẩn của Thiên Chúa. Ngài nói với Samuel: “Đừng xét theo hình dáng và vóc người cao lớn của nó, vì Ta đã gạt bỏ nó. Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng.” Ông Jesse cho bảy người con trai đi qua trước mặt ông Samuel, nhưng ông Samuel nói với ông Jesse: “Đức Chúa không chọn những người này.”

1.2/ Thiên Chúa chọn và thần khí Đức Chúa nhập vào David: Samuel hỏi ông Jesse: “Các con ông có mặt đầy đủ chưa?” Ông Jesse trả lời: “Còn cháu út nữa, nó đang chăn chiên.” Ông Samuel liền nói với ông Jesse: “Xin ông cho người đi tìm nó về, chúng ta sẽ không nhập tiệc trước khi nó tới đây.”

David vừa là đứa con út vừa không có bộ vó của một ông vua như Saul. Nếu xét theo tiêu chuẩn của con người, David không xứng đáng làm vua; nhưng Đức Chúa đã chọn và xức dầu tấn phong cậu. Tại sao? Trước tiên để cho mọi người thấy đó là việc làm của Thiên Chúa, chứ không do công trạng của con người. Ngài có thể biết một trẻ yếu ớt theo tiêu chuẩn con người thành một vị vua nổi tiếng nhất trong lịch sử của Do-thái. Thứ hai, tiêu chuẩn làm vua của Do-thái phải là người biết kính sợ Thiên Chúa và lo lắng cho dân được an cư lạc nghiệp, Đức Chúa đã nhìn thấy những nét đẹp này nơi tâm hồn của David mà người đời không thấy được.

2/ Bài đọc II: Từ chốn tử vong, trỗi dậy đi nào! Đức Kitô sẽ chiếu sáng ngươi!

2.1/ Đừng cộng tác vào những việc vô ích của con cái bóng tối: Thánh Phaolô nhắc nhở cho các tín hữu Ephesô: “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật. Anh em hãy xem điều gì đẹp lòng Chúa.” Ngài có ý muốn nói khi các tín hữu lãnh nhận bí-tích Rửa Tội, là họ đoạn tuyệt với mọi bóng tối của cuộc sống cũ với những thói quen xấu xa và đam mê bất chính của nó; để mặc lấy Đức Kitô là ánh sáng và sự thật. Họ không chỉ tuyên xưng niềm tin vào Đức Kitô; nhưng còn phải thực hành những gì Ngài dạy để trở nên những con cái của ánh sáng, những người luôn biết làm những gì chân thật, biết sống công chính và thánh thiện trước mặt Thiên Chúa. Để có thể thực hiện những điều này, họ phải dứt hẳn ngay cả việc nói tới những tội lỗi cũ, vì nó tạo cơ hội cho họ trở về với nếp sống cũ.

2.2/ Đức Kitô sẽ chiếu sáng ngươi: Thánh Phaolô liệt kê một số công dụng của ánh sáng và đồng hóa ánh sáng với Đức Kitô.

(1) Ánh sáng phơi bày mọi chỗ tăm tối: Ánh sáng chiếu tỏa đến đâu là bóng tối bị xua tan đến đó. Tất cả những khuyết điểm, xấu xa, tội lỗi chỉ có thể bị vạch trần nhờ ánh sáng. Người ta chỉ có thể đánh lừa người khác hay phạm tội trong những nơi tối tăm hay dưới ánh đèn mờ.

(2) Khi được phơi bày, mọi tội lỗi sẽ mất đi: “Bất cứ điều gì lộ ra, thì trở nên ánh sáng.” Bao lâu con người còn ở trong bóng tối, tội lỗi còn thống trị con người; nhưng nếu con người có can đảm đi ra khỏi bóng tối và sống trong ánh sáng, con người sẽ từ bỏ tội lỗi, biết sống thánh thiện, và trở thành con cái của ánh sáng. Những người phạm tội thích ở trong bóng tối để ánh sáng không phơi bày tội lỗi của họ; nhưng những người ghét tội thích ở trong ánh sáng để những việc lành của họ được tỏ lộ ra (Jn 3:20-21).

(3) Đức Kitô là ánh sáng cho con người: Khi chịu phép Rửa Tội, con người được trao cho cây nến sáng và được dặn: “Hãy mang lấy ánh sáng của Đức Kitô.” Vì thế, Ngôi Lời là ánh sáng thật soi chiếu trần gian, như lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ trong bài Tin Mừng hôm nay: “Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian.” Ánh sáng đồng nghĩa với Lời Chúa, nếu một người chịu để cho Lời Chúa hướng dẫn cuộc đời và sống như vậy, họ sẽ ra khỏi chốn tối tăm và bước vào ánh sáng; nhưng nếu con người không chịu để cho Lời Chúa soi dẫn cuộc đời, họ sẽ ngủ mê trong bóng tối, tử thần sẽ hướng dẫn và cướp đi cuộc đời của họ.

3/ Phúc Âm: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!”

3.1/ Người mù được Chúa Giêsu chữa cho nhìn thấy cách thể lý: Truyền thống Do-thái đồng hóa bệnh tật với tội lỗi (Jer 31:29-30), đó là lý do các môn đệ hỏi Người, khi họ nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?”

Chúa Giêsu trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh.” Ngài không bác bỏ sự liên hệ giữa tội lỗi và hình phạt; nhưng Ngài muốn nói tới những trường hợp người chịu bệnh là lý do để mọi người nhìn thấy công trình của Thiên Chúa và tin vào Ngài.

Rồi Ngài nói tiếp: “Chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được. Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian.” Có hai tư tưởng quan trọng Chúa Giêsu mặc khải trong câu này: Thứ nhất, Chúa Giêsu là ánh sáng cho thế gian như Ngài đã nói ở nhiều nơi (Jn 1:4-9, 3:19-21, 5:35, 8:12, 9:5, 11:9-10, 12:35-36, 46), để họ nhìn thấy và tin vào Ngài. Thứ hai, mỗi người đều được Thiên Chúa ấn định cho một thời gian để làm việc cho Ngài, Chúa Giêsu cũng vậy. Tất cả mọi người phải làm việc của Thiên Chúa khi còn có thể, một khi đã mãn hạn, có muốn làm nữa cũng không làm được. Nói xong, Đức Giêsu nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, rồi bảo anh ta: “Anh hãy đến hồ Siloam mà rửa”. Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được.

3.2/ Người mù được soi sáng trong hành trình đức tin: Một điều làm Tin Mừng Gioan khác với Tin Mừng Nhất Lãm là Gioan không chỉ tường trình phép lạ; nhưng còn để ý đến những phản ứng của con người khi chứng kiến các phép lạ Chúa Giêsu làm. Trong trình thuật hôm nay, có hai phản ứng trái ngược nhau: phản ứng gia tăng đức tin của anh mù được sáng, từ chỗ không biết đến chỗ nhận ra và tin vào Chúa Giêsu; và phản ứng của những người Pharisees, từ chỗ sáng mắt đến chỗ phủ nhận phép lạ và gọi Chúa Giêsu là người tội lỗi.

(1) Người mù được sáng không biết Chúa Giêsu là ai trong khi những kẻ sáng mắt bắt đầu lẫn lộn. Có 3 phản ứng khi nhìn thấy anh mù lần đầu tiên được sáng: Phản ứng thứ nhất của những người hoài nghi, họ nói: “Hắn không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó sao?” Phản ứng thứ hai của những người xác quyết, họ nói: “Chính hắn đó!” Phản ứng thứ ba của những người phủ nhận, họ nói: “Không phải đâu! Nhưng là một đứa nào giống hắn đó thôi!”

Còn chính anh mù được sáng thì quả quyết: “Chính tôi đây!” Người ta liền hỏi anh: “Vậy, làm sao mắt anh lại mở ra được như thế?” Anh ta trả lời: “Người tên là Giêsu đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi, rồi bảo: “Anh hãy đến hồ Siloam mà rửa. Tôi đã đi, đã rửa và tôi nhìn thấy.” Họ lại hỏi anh: “Ông ấy ở đâu?” Anh ta đáp: “Tôi không biết.”

(2) Người mù được sáng tuyên xưng Chúa Giêsu là ngôn sứ trong khi những kẻ sáng mắt bắt đầu mù: Họ dẫn kẻ trước đây bị mù đến với những người Pharisees. Nhưng ngày Đức Giêsu trộn chút bùn và làm cho mắt anh ta mở ra lại là ngày Sabbath. Vậy, các người Pharisees hỏi thêm một lần nữa làm sao anh nhìn thấy được. Anh trả lời: “Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy.”

Có một cuộc tranh luận xảy ra giữa họ về việc chữa bệnh trong ngày Sabbath và uy quyền của người chữa bệnh. Trong nhóm Pharisees, có người nói: “Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày Sabbath.” Kẻ khác vặn lại: “Một người tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy?” Thế là họ đâm ra chia rẽ. Họ lại hỏi người mù: “Còn anh, anh nghĩ gì về người đã mở mắt cho anh?” Anh mù được sáng chắc chắn đã nghe cuộc tranh luận của họ, và cũng tự suy nghĩ về người đã làm ơn cho mình, anh tuyên xưng: “Người là một vị ngôn sứ!”

(3) Người mù được soi sáng phần trí tuệ để nhận ra Chúa Giêsu là người bởi Thiên Chúa mà đến trong khi những kẻ sáng mắt và làm thầy dạy kết tội Chúa Giêsu là người tội lỗi.

Có một sự kiện khác thường xảy ra là những người Pharisees điều tra cha mẹ của anh mù. Chúng ta thử tìm hiểu tại sao họ làm như thế? Có thể họ không tin anh đã mù thật và muốn lấy lời chứng từ cha mẹ anh. Điều này cha mẹ anh đã làm chứng: “Chúng tôi biết nó là con chúng tôi, nó bị mù từ khi mới sinh. Còn bây giờ làm sao nó thấy được, chúng tôi không biết, hoặc có ai đã mở mắt cho nó, chúng tôi cũng chẳng hay. Xin các ông cứ hỏi nó; nó đã khôn lớn rồi, nó có thể tự khai được.” Có thể họ muốn biết về người chữa bệnh cho anh. Điều này cha mẹ anh không trả lời, có thể vì họ không biết hay vì sợ, như Gioan chú thích: “Cha mẹ anh nói thế vì sợ người Do-thái. Thật vậy, người Do-thái đã đồng lòng trục xuất khỏi hội đường kẻ nào dám tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô.” Sự kiện người Do-thái trục xuất các Kitô hữu ra khỏi hội đường chỉ xảy ra trong công đồng Jamnia, vào năm 90AD. Nhiều học giả cho trình thuật điều tra cha mẹ anh được thêm vào sau này.

A. Những người tự nhận mình là bậc thầy của thiên hạ vì tự ái kết tội Chúa Giêsu là người tội lỗi. Tuy đã nhận được lời chứng từ cha mẹ anh, họ vẫn không tin. Một lần nữa, họ gọi người trước đây bị mù đến và bảo: “Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta đây, chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi.” Rồi họ lại hỏi anh: “Ông ấy đã làm gì cho anh? Ông ấy đã mở mắt cho anh thế nào?” Anh mù được sáng bắt đầu bực mình vì họ cứ hỏi đi hỏi lại mãi một câu, anh châm biếm họ có lẽ cũng muốn làm môn đệ Ngài chăng. Họ mắng nhiếc anh: “Có mày mới là môn đệ của ông ấy; còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của ông Moses. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nói với ông Moses; nhưng chúng ta không biết ông Giêsu ấy bởi đâu mà đến.” Và họ hạ nhục anh: “Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?” Rồi họ trục xuất anh.

B. Anh mù được sáng dùng lý luận để nhận ra Chúa Giêsu phải đến từ Thiên Chúa: Anh mù được sáng đưa ra một sự kiện mà không ai có thể phủ nhận được: “Ông ấy có phải là người tội lỗi hay không, tôi không biết. Tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được!” Rồi anh chất vấn uy quyền làm thầy dạy của họ: “Kể cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi! Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì.” Anh không biết Lề Luật vì mù, nhưng anh không mất khả năng suy tư. Anh nhận ra lời cáo buộc của họ về người làm ơn cho anh là điều không đúng, và anh nhận ra Ngài phải đến từ Thiên Chúa.

(4) Người mù được sáng tuyên xưng niềm tin vào Chúa Giêsu trong khi những người sáng mắt trở nên đui mù.

A. Người mù được sáng tuyên xưng niềm tin vào Chúa Giêsu: Đức Giêsu nghe nói họ đã trục xuất anh. Khi Người gặp lại anh, Người hỏi: “Anh có tin vào Con Người không?” Anh đáp: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?” Đức Giêsu trả lời: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây.” Anh nói: “Thưa Ngài, tôi tin.” Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người.

Chúng ta có thể hiểu phần nào tâm trạng của anh: bị mù từ lúc mới sinh nay được chữa sáng, không một ai chia sẻ nỗi vui mừng với anh; trái lại, anh còn phải trải qua hết cuộc thanh tra này đến cuộc thanh tra khác, và sau cùng họ trục xuất anh khỏi hội đường. Chỉ một Người không chỉ chữa lành cho anh, nhưng còn đón nhận anh khi mọi người ruồng bỏ. Làm sao anh lại không tin nhận Người ấy!

B. Những người sáng mắt trở nên đui mù cách thể lý: Những người Pharisees có mắt mà không nhìn thấy phép lạ Chúa Giêsu đã làm thì cũng như mù vậy. Hơn nữa, họ còn được Chúa Giêsu nhắc nhở: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” Nhưng vì kiêu ngạo và tự ái, họ còn tự biện bác: “Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao?” Đức Giêsu bảo họ: “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: “Chúng tôi thấy,” nên tội các ông vẫn còn!” Họ tuy không nhìn thấy Chúa Giêsu làm phép lạ, nhưng đã có lời của hai nhân chứng, và theo Lề Luật, lời của hai nhân chứng đủ để cho họ tin. Hơn nữa, nếu họ chịu suy nghĩ đến ngọn nguồn như anh mù được sáng, họ cũng sẽ nhận ra Chúa Giêsu đến từ Thiên Chúa; nhưng họ để cho tính kiêu ngạo và tự ái làm mù mắt của họ

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Chúng ta hãy tập nhìn và đánh giá mọi sự theo tiêu chuẩn của Thiên Chúa. Để được như thế, chúng ta phải để cho Lời Chúa soi sáng và thấm nhập tâm hồn.

– Khi chứng kiến những việc kỳ diệu Thiên Chúa làm nơi tha nhân, chúng ta hãy suy nghĩ cẩn thận đến ngọn nguồn để nhận ra những gì Thiên Chúa muốn mặc khải. Đừng bao giờ để những tự ái, ghen tị, và lợi nhuận thống trị, để rồi chúng ta từ chối luôn cả những gì Thiên Chúa thực hiện

1.Thầy là ánh sáng thế gian

(Trích trong ‘Manna’ – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)

Suy Niệm

Đức Giêsu đã chữa một người mù từ lúc mới sinh, một người lớn lên trong bóng đêm dầy đặc.

Ngài cho anh được thấy ánh mặt trời lần đầu tiên, thấy khuôn mặt của những người thân thuộc.

Nhưng quan trọng hơn, anh đã thấy và tin vào Đức Giêsu, Đấng là Ánh Sáng của thế giới.

Sau khi được sáng mắt, anh đã bước vào một cuộc hành trình đức tin đầy cam go.

Lúc đầu, Đức Giêsu chỉ là một người mà anh không rõ. Sau đó, anh dám khẳng định trước mặt mọi người Ngài là một ngôn sứ, là người bởi Thiên Chúa mà đến. Cuối cùng, anh đã sấp mình để bày tỏ lòng tin vào Ngài.

Đức tin của anh lớn lên qua những hiểm nguy và đe dọa.

Ngược với thái độ hồn nhiên và bình an của anh là thái độ bối rối bất an của giới lãnh đạo. Họ cứ hỏi đi hỏi lại về cách thức anh được chữa lành.

Cha mẹ của anh cũng được điều tra cẩn thận.

Trước những lập luận vững vàng của anh, họ chỉ biết chê anh là dốt nát và tội lỗi.

Dựa vào một quan niệm hẹp hòi về việc giữ ngày sa bát, họ khẳng định Đức Giêsu đã phạm tội khi chữa bệnh, tuy họ vẫn không hiểu tại sao một người tội lỗi lại có thể mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh.

Giới lãnh đạo Do thái giáo không muốn coi Đức Giêsu là người của Thiên Chúa, vì điều đó đòi họ phải thay đổi lối nghĩ và lối sống đạo, thay đổi bộ mặt tôn giáo của cha ông, nhất là đòi họ phải tin và theo Ngài.

Họ tự hào mình hiểu biết và đạo đức. Chính niềm tự hào này đã khiến họ khép lại, không có can đảm chấp nhận mình sai lầm, và cố chấp ở lại trong bóng tối.

Mù không phải là một tội.

Cố ý không muốn thấy mới là tội đáng kể.

Chúng ta ai cũng sợ bị mù, nhưng lắm khi ta lại tự làm cho mình nên mù lòa, khi không chấp nhận thực tế về bản thân, khi né tránh sự thật và không muốn nghe ai.

Như những người mù xem voi, mỗi người chúng ta chỉ thấy một phần của thực tại, một phần nhỏ của chân lý. Cần khiêm tốn để nhận mình mù, mù về chính mình, mù về lãnh vực mình thông thạo, vì điều mình biết chỉ là phần nổi của tảng băng, vì con voi không giống như cái cột nhà hay cái quạt.

Thay vì cãi nhau do có cái nhìn khác nhau, chúng ta có thể bổ túc cho nhau, để dần dần đến gần chân lý trọn vẹn.

Gợi Ý Chia Sẻ

Chúng ta đều ít nhiều mù lòa về chính mình. Theo ý bạn, làm sao chúng ta có thể ra khỏi sự mù lòa đó?

Tự ái, tự hào, tự cao, tự mãn… theo ý bạn, đây có phải là những thái độ khiến chúng ta khó đón nhận những góp ý nghiêm túc của người khác không?

Cầu Nguyện

Như thánh Phaolô trên đường về Đamát, xin cho con trở nên mù lòa vì ánh sáng chói chang của Chúa, để nhờ biết mình mù lòa mà con được sáng mắt.

Xin cho con đừng sợ ánh sáng của Chúa, ánh sáng phá tan bóng tối trong con và đòi buộc con phải hoán cải.

Xin cho con đừng cố chấp ở lại trong bóng tối chỉ vì chút tự ái cỏn con.

Xin cho con khiêm tốn để đón nhận những tia sáng nhỏ mà Chúa vẫn gửi đến cho con mỗi ngày.

Cuối cùng, xin cho con hết lòng tìm kiếm Chân lý để Chân lý cho con được tự do.

2.Ngọn đèn đức tin

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)

Ta nhìn thấy được là nhờ có ánh sáng. Đôi mắt là ánh sáng của thân thể. Nếu mắt hư hỏng, thì dù bên ngoài trời có sáng trưng, ta vẫn không thấy gì hết. Người bị hư mắt sống hoàn toàn trong đêm tối.

Có nhiều thứ đêm tối. Cũng như có nhiều loại mắt.

Có thứ đêm tối u mê dốt nát. Ánh sáng văn hoá có đó. Sách vở chữ nghĩa có đó. Nhưng ta không đọc được. Vì ta mù chữ. Trí tuệ ta thiếu đôi mắt. Nên ta chìm trong đêm tối u mê.

Có thứ đêm tối phàm phu. Thiên nhiên có biết bao cảnh đẹp. Nhìn cảnh hoàng hôn, bình minh, người hoạ sĩ có thể xúc cảm vẽ nên những bức tranh tuyệt tác. Ta không cảm được vẻ đẹp của đất trời vì ta không có cặp mắt hoạ sĩ. Nghe chim ca, nhìn lá rụng, thi sĩ có thể viết nên những vần thơ. Còn ta, ta không nghe được sứ điệp của chim, không cảm được nỗi buồn của lá, vì ta không có tâm hồn, ánh mắt nhạy cảm của nhà thơ.

Có thứ đêm tối đức tin. Cuộc sống thần linh có đó. Thiên Chúa hiện hữu đó. Nhưng ta không thấy được nếu ta không có đức tin.

Đức tin là ánh sáng soi rọi vào thế giới vô hình, cho ta thấy được những điều mà người không tin không thấy. Đức tin là ngọn đèn soi cho ta bước đi trên con đường tiến về cuộc sống vĩnh cửu. Ngọn đèn ấy chỉ đủ sáng cho ta bước từng bước nhỏ. Trong khi bầu trời vẫn tối đen để ta phải phó thác tin yêu.

Tin là một thái độ dấn thân. Người mù đi ra giếng Silôê rửa theo lời dạy của Chúa Giêsu vì anh tin. Anh có thể nghi ngờ: Rửa nước giếng có gì tốt đâu? Nhưng anh đã đi vì anh tin lời Chúa. Tin rồi anh không ngồi lì một chỗ nhưng dấn thân, lên đường và hành động theo lời Chúa dạy.

Tin là một hành trình ngày càng gian khổ. Đức tin cần phải có thử thách. Thử thách như những bài học ngày càng cao, càng khó bắt người tin phải có thái độ lựa chọn ngày càng dứt khoát hơn. Ta hãy dõi theo hành trình của anh thanh niên bị mù.

Thoạt tiên, việc dẫn thân của anh khá dễ dàng. Anh chỉ việc đi ra giếng Silôê rửa bùn đất mà Chúa Giêsu đã đắp lên mắt anh.

Kế đó anh phải đối phó với một tình hình phức tạp hơn: Người ta nghi ngờ anh. Người ta tò mò xoi mói anh. Nhưng anh đã vững vàng vượt qua thử thách đó. Anh dõng dạc tuyên bố: Chính tôi là người mù đã ăn xin tại cổng thành.

Tình hình phức tạp hơn khi gia đình anh tỏ ra thờ ơ lãnh đạm. Anh khá đau lòng và cảm thấy cô đơn. Anh được sáng mắt. Anh có niềm tin. Đó là một biến cố quan trọng thay đổi toàn bộ đời anh. Thế mà những người thân thiết nhất là cha mẹ, anh chị em trong gia đình vẫn thờ ơ, lãnh đạm. Để vững niềm tin vào Chúa, anh đành chấp nhận hành trình đơn độc. Vì tin Chúa anh đành cam chịu sự thờ ơ lãnh đạm của những người thân. Trung thành với niềm tin đã làm trái tim anh rướm máu.

Sự căng thẳng lên đến cực điểm khi anh phải đối đầu với quyền lực tôn giáo. Họ mạt sát anh là sinh ra trong tội lỗi. Họ tố cáo Chúa Giêsu đã lỗi phạm luật nghỉ ngày Sabbat. Và sau cùng, họ khai trừ anh khỏi hội đường. Đây là hình phạt nặng nề nhục nhã nhất đối với người Do Thái. Bị gia đình từ bỏ. Giờ đây lại bị xã hội chối từ. Anh trở thành người cô đơn nhất. Đây là thử thách lớn lao nhất. Nhưng anh vẫn vững vàng vượt qua. Lựa chọn của anh giờ đây là dứt khoát. Mất tất cả chỉ để trung tín với niềm tin của mình.

Đúng lúc đau đớn nhất Chúa Giêsu lại xuất hiện. Như để khen thưởng cho đức tin kiên vững của anh. Chúa Giêsu tỏ cho anh biết Người là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa. Lập tức anh quỳ sấp mặt xuống thờ lạy Người. Hành trình niềm tin gian khổ thế là chấm dứt. Anh đã gặp được Chúa Kitô.

Như thế niềm tin tăng dần theo với thử thách. Thử thách càng cao, đức tin càng mạnh. Thoạt tiên, anh coi Chúa Giêsu chỉ là một con người, một người nào đó trong muôn vạn người: “Một người tên là Giêsu đã xức bùn vào mắt tôi”. Những câu hỏi của đám đông, những tra vấn của Pharisêu khiến anh suy nghĩ sâu xa hơn và anh nhận rằng: “Ngài thật là vị tiên tri”. Khó khăn bắt bớ của giới chức tôn giáo thời đó lại khiến anh khẳng định: “Người từ Thiên Chúa mà đến”. Và sau cùng anh đã nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa.

Đức tin giống như hạt ngọc bị lớp đất bụi che phủ. Những khó khăn thử thách giống như chiếc dũa, dũa sạch bụi đá. Càng dũa nhiều, ngọc càng sáng. Đức tin giống như ngọn đèn. Thử thách gian khổ là dầu. Càng có nhiều dầu gian khổ, đèn đức tin càng toả sáng, càng toả nóng.

Hành trình đức tin của anh thanh niên mù chính là khuôn mẫu cho hành trình đức tin của mỗi người chúng ta. Anh thanh niên mù đã chiến đấu với những bóng tối vây phủ đức tin của anh. Anh đã kiên trì và đã chiến thắng. Anh đã ra khỏi tối tăm, gặp được Chúa Kitô nguồn ánh sáng. Đời anh từ nay tràn ngập ánh sáng niềm tin. Còn tôi, tôi đã chiến đấu thế nào với những thế lực bóng tối đe doạ đức tin của tôi? Những bóng tối nghi kỵ, những bóng tối thù hận, những bóng tối độc ác, những bóng tối tự mãn kiêu căng, những bóng tối dục vọng tội lỗi. Tôi có can đảm chiến đấu để phá tan những bóng tối đó không?

Anh thanh niên mù đã giữ ngọn đèn đức tin khỏi mọi bão gió, lại còn đổ dầu đầy bình, giữ cho đèn cháy sáng cho đến khi gặp Chúa Kitô. Ngày Rửa Tội, Chúa đã trao cho tôi ngọn đèn đức tin. Biết bao ngọn gió đã thổi ngang đời tôi, muốn dập tắt ngọn đèn đức tin của tôi. Liệu tôi có giữ được ngọn đèn đức tin cháy sáng cho đến ngày ra gặp mặt Chúa?

Mùa Chay chính là cơ hội cho tôi khêu ngọn đèn đức tin cho sáng, đổ dầu đầy bình cho ngọn đèn đức tin cháy mãi. Dầu, đó là sự ăn chay, cầu nguyện, là thống hối, là hoà giải, là chia sẻ cho người túng thiếu.

Xin Chúa Kitô là ánh sáng trần gian dẫn con đi suốt hành trình đức tin để con thoát mọi bóng tối, đến gặp Người là ánh sáng tinh tuyền, ánh sáng vĩnh cửu.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Bạn đã từng bị thử thách về đức tin chưa? Bạn đã thắng vượt như thế nào?

2) Từ khi được Rửa Tội đến nay, bạn có “biết” Chúa ngày càng rõ hơn không?

3) Chúa đã tỏ mình ra cho bạn thế nào qua những thử thách trong cuộc đời?

4) Anh thanh niên mù đã trải qua những khó khăn nào trong hành trình đến gặp Chúa Giêsu?

3.“Nguồn sáng thật”

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)

Tin Mừng các Chúa nhật Mùa Chay, chu kỳ phụng vụ năm A đều có chung một chủ đề là hướng các tín hữu đến bí tích Thanh tẩy, đồng thời diễn tả tiến trình đến với Chúa của các dự tòng. Vì thế, mỗi Chúa nhật đề cập tới một khía cạnh của bí tích này, cũng là mỗi khía cạnh thực tế và quan trọng của đời sống Kitô hữu.

Thánh sử Gioan kể lại phép lạ Chúa chữa người mù bẩm sinh được sáng mắt. Phép lạ này được thực hiện trong bối cảnh khá căng thẳng giữa Chúa Giêsu và người Do Thái. Những người này phản ứng dữ dội trước lời giảng của Chúa Giêsu. Trước đó, ở chương 8, Chúa Giêsu tuyên bố “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8,12). Lúc này, với người mù bẩm sinh cũng như với dân chúng, là lúc Chúa Giêsu chứng minh điều Người đã nói.

Với lối hành văn rất tài tình và tinh tế, tác giả Tin Mừng đặt ra sự so sánh giữa mù lòa thể lý với mù lòa tinh thần. Những biệt phái và luật sĩ khước từ giáo huấn của Chúa. Họ giống như những người mù không thể chữa trị. Đó là bệnh mù lòa thiêng liêng. Thành kiến, hận thù nhốt chặt họ trong một quan niệm khắt khe, nên họ không thể nhận ra nơi vị Ngôn sứ thành Nagiarét lời loan báo tình thương. Họ cũng không muốn cho người khác được những điều tốt lành may mắn trong cuộc sống. Sự khắt khe máy móc của họ đến mức khôi hài khiến độc giả bật cười ở chỗ người mù đã được sáng mắt quả quyết mình là người trước đây đã mù mà cũng không được. Thế mới thấy những ảnh hưởng và hậu quả tai hại từ những thành kiến trong cuộc sống của chúng ta. Những thành kiến này đôi khi dìm sâu con người, không cho họ cơ hội làm lại cuộc đời để sống như một con người bình thường. Những người Do Thái kỳ thị không muốn thấy anh mù được chữa khỏi. Họ không muốn nhận ra anh, điều đó có nghĩa là họ muốn cho anh mãi mãi là anh mù.

Nếu những người có hai con mắt tinh tường và lại còn học rộng tài cao hay ưa lý luận hạch sách, nay dưới ngòi bút của Thánh Sử, bị coi như những người mù, thì trái lại, người mù bẩm sinh từ trước tới nay không trông thấy gì xem ra lại rất sáng suốt và tinh tường. Những câu lý luận của  người trước đây đã mù, xem ra “ngớ ngẩn” mà lại rất có lý, làm đối phương phải cụt hứng: “Nếu đó là một người tội lỗi, tôi không biết; tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi mù và bây giờ tôi trông thấy”. Qua trình thuật của Thánh sử Gioan, quan niệm “mù-sáng” đưa chúng ta tới một lối giải thích mới: người sáng là người biết nhận ra những điều kỳ diệu xung quanh mình do Chúa thực hiện, và biết đón nhận nó với trái tim chân thành. Người mù là người mặc dù có đôi mắt sáng, nhưng cố chấp trong những thành kiến khắt khe và trái tim vô cảm.

Người mù bẩm sinh được chữa lành đã can đảm nhận ra Đấng đã làm ơn cho mình và tuyên xưng Đức tin vào Đấng ấy, xem ra anh phải cô độc và chơi vơi trong cuộc chiến để xác định niềm tin, vì chính cha mẹ ruột của anh cũng tránh né trước lời hạch sách của những người đang hùng hổ gây chuyện. Chính vào lúc anh bị những người tự coi là “sáng” đuổi ra ngoài, thì Chúa Giêsu đến gặp anh và Người tỏ cho anh biết Người là ai. Những cố gắng hy sinh của Mùa Chay, nếu được thực hiện cách nghiêm túc như Giáo Hội mong muốn, sẽ giúp cho chúng ta gặp Chúa. Ngài vẫn ở đó, khi con người sẵn sàng can đảm buông hết mọi ràng buộc níu kéo, thì sẽ được gặp Chúa.

Cái nhìn của Đức tin sẽ giúp ta nhận ra những gì là chân thực. Việc ông Samuen chọn người làm vua kế vị Saun đã chứng minh điều đó. Con người thì nhìn xem bề ngoài, còn Thiên Chúa thì nhìn xem tâm hồn. Nhìn bề ngoài, Đavít không có tướng mạo làm vua, nhưng Chúa đã chọn ông vì Chúa thấy nơi ông một người có tâm hồn quảng đại. Trong khi đó, những người anh em khác của Đavít xem ra đầy đủ điều kiện theo cái nhìn loài người, thì lại không được chọn. Thiên Chúa luôn luôn có cách nhìn của Ngài. Cách nhìn ấy không giống cách nhìn của chúng ta.

Bí tích Thanh Tẩy cho chúng ta được trở thành con cái ánh sáng. Mùa Chay là thời điểm tái khám phá ra ánh sáng thiêng liêng ấy. Những bon chen bận rộn của cuộc sống hằng ngày có nguy cơ làm cho chúng ta bị chìm vào bóng tối thế gian. Đức Giêsu đã đến để kéo chúng ta ra khỏi bóng đêm của tội lỗi để đưa đến ánh sáng kỳ diệu của ân sủng.

Tuy thế, chỉ nguyên tước hiệu người được thanh tẩy không đủ cho chúng ta có con mắt sáng. Đó còn là những nỗ lực cố gắng dần dần trong suốt cuộc đời. Bởi lẽ cuộc sống trần gian là cuộc giành giật không ngừng giữa bóng đêm và ánh sáng. Có những lúc bóng đêm lại được tô vẽ bằng những ngôn từ mỹ miều choáng ngợp dễ làm cho người ta bị lừa. Vì thế, Thánh Phaolô khuyên chúng ta:  “Anh em hãy ăn ở như con của sự sáng, bởi vì hoa trái của sự sáng ở tại tất cả những gì là tốt lành, là công chính và chân thật” (Bài đọc II).

Lạy Chúa Giêsu là “Ánh sáng bởi Ánh sáng”, xin chiếu soi tâm hồn con. Amen.

4.Thầy là ánh sáng thế gian – ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. ViKiNi)

Helen Keller, người mù nổi tiếng thế giới, tác giả hàng chục cuốn sách có giá trị. Bà dậy đại học và đi diễn thuyết nhiều nơi trên thế giới. Bà sinh năm 1880, 19 tháng sau, bà bị nóng sốt kịch liệt khiến bà điếc và mù. Khi nên năm tuổi, Keller được giáo sư Sullivan dạy đọc và viết bằng chữ nổi và đánh máy chữ đặc biệt. Cuộc đời bà đã được diễn tả thành cuốn phim rất cảm động (Encyclopedia, Funk & Wagnall).

Con người bất khuất đó vẫn không thắng nổi cái mù tăm tối, dù chỉ mù sau khi sinh. Còn loại mù trong lòng mẹ như anh mù trong Tin mừng hôm nay, thì dù khoa học hiện đại cũng phải bó tay. Thế mà Đức Giêsu đã chữa anh khỏi mù bằng phương pháp rất phản khoa học: “Người lấy nước miếng trộn với bùn và xức vào mắt anh” (Ga. 9, 7), cực kỳ lạ lùng! không tưởng tượng được! nhưng có thực trăm phần trăm, vì đã xẩy ra giữa chốn đông người trong ngày lễ Sabat. Chính vì thế nhóm biệt phái đã ra sức điều tra cẩn thận. Họ điều tra anh, cha mẹ anh, những người thấy anh ăn mày. Họ rất bối rối vừa phủ nhận phép lạ vừa kết án Đức Giêsu đã phạm luật lễ nghỉ. Họ kết án cả anh mù: “Mày sinh ra trong tội lỗi ngập đầu” vì theo thành kiến thời đó, bệnh tật là hình phạt kẻ tội lỗi. Nếu họ kết án anh là kẻ tội lỗi bị phạt mù mà bây giờ anh đang sáng mắt thì họ phải nhận có phép lạ và Người chữa anh sáng mắt phải là Đấng có quyền tha tội. Nhưng thật trớ trêu! họ đã tự mâu thuẫn, họ vừa kết án anh là kẻ tội lỗi vừa không tin Đức Giêsu đã chữa anh mù được sáng.

Biệt phái tự coi mình là thầy, là kẻ lãnh đạo tôn giáo. Thời Alexandria (năm 76-67 trước Công nguyên), họ còn lãnh đạo cả đời nữa. Ở địa vị đó họ không chịu thua ý kiến của kẻ mù hèn hạ. Tuy nhiên, ở trường hợp này rõ ràng anh mù lại sáng, còn họ lại trở nên mù, anh đã vạch rõ cái mù của họ: “Kể cũng lạ, các ông không biết ông ấy ở đâu đến, thế mà ông ấy lại là người mở mắt cho tôi!… Nếu ông ấy không bởi Thiên Chúa mà đến thì ông ấy chẳng làm được gì” (Ga. 9, 30-33)

Thế mới rõ kẻ tự phụ mình sáng, mình có quyền, rất khó thấy lẽ phải. Kẻ đơn sơ chân thành khiêm tốn lại được mặc khải ánh sáng: “Tôi đến thế gian này để xét xử: cho người không xem thấy, được thấy, và kẻ tự phụ xem thấy lại hóa đui mù”. Nghe thế họ đã vênh vang cự lại “thế cả chúng tôi cũng đui mù sao?” Đức Giêsu bảo họ: “Nếu các ông đui, các ông chẳng có tội, nhưng các ông tự phụ: chúng tôi thấy, nên tội các ông còn đó”.

Nhiều lần Đức Kitô đã cảm tạ Chúa Cha: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì đã không mặc khải cho bậc khôn ngoan thông thái, mà lại mặc khải cho những kẻ bé mọn” (Mt. 11, 25-26). Đúng như thánh Phaolô giảng: “Thiên Chúa đã dùng sự thấp hèn để làm hạng khôn ngoan bị nhục nhã, đã dùng sự bất lực để làm kẻ kiêu hùng ra hèn hạ. Ngài đã chọn sự ti tiện, khinh bỉ, không không để phá hủi sự cao cả của thế gian để không ai dám vênh vang trước mặt Thiên Chúa” (1Cr. 1, 27-29).

Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta tin theo Chúa là ánh sáng thế gian, đã ban ánh sáng cho con mắt thể xác cũng như tinh thần. Chúa ban ánh sáng thể xác cho con người tìm thấy nguồn tài nguyên phong phú như những đồng cỏ xanh tươi, những suối nước mát để bồi dưỡng cuộc sống hằng ngày (Tv. 22). Chúa ban ánh sáng tinh thần như soi sáng cho Samuel chọn Davit biết sống theo đường lối Chúa chỉ dậy để trở nên thánh vương cao cả dẫn dắt dân Chúa (Sm. 10, 1-13). Nhất là Chúa làm cho chúng ta nên con cái sự sáng nhờ phép Rửa tội như thánh Phaolô nói: “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ trong Chúa anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái sự sáng… là lương thiện, công chính và chân thật” (Eph. 5, 8-9).

Lạy Chúa là sự sáng linh hồn con, xin soi sáng cho con nhận biết những tội lỗi con, để Chúa thương cứu con như anh mù, khi Chúa hỏi: “Con có tin Con Người không?” con biết mạnh dạn tuyên xưng: “Thưa Ngài, con tin”.

5.Người mù

Lạy Chúa, xin cho con được sáng.

Trước lời van xin của người mù, theo lời tường thuật của thánh Matthêu, thì Chúa Giêsu đã truyền dẫn anh ta đến và hỏi: Con muốn Ta làm gì cho con? Và anh ta đã thưa lên cùng Chúa Giêsu: Lạy Chúa, xin cho con được sáng. Phải chăng đây cũng là lời van xin chúng ta không ngừng kêu lêu cùng Chúa. Dĩ nhiên không phải là xin Chúa mở cho chúng ta cặp mắt thân xác, vì cặp mắt ấy cho đến ngày hôm nay đa số chúng ta đều lành lặn, và có khả năng ghi nhận những sự việc, nhưng là xin Chúa mở cho chúng ta cặp mắt tâm hồn. Thế nhưng mở cặp mắt tâm hồn để làm gì?

Tôi xin thưa trước hết là để chúng ta đánh giá đúng đắn những sự việc xảy ra. Thực vậy, ai trong chúng ta cũng đều biết danh vọng là phù du, con người là tro bụi, thế nhưng vì không biết đánh giá đúng mức, chúng ta đã đầu tư quá nhiều cho tiền bạc, cho địa vị và cho chính bản thân của mình, trong khi đó lại quên mất nỗi ưu tư số một là phần rỗi của linh hồn, như lời Chúa đã phán: Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích lợi chi. Dĩ nhiên Chúa Giêsu không hề có ý bảo chúng ta đừng lo lắng, đừng tìm kiếm chi cả, nhưng Người dạy chúng ta phải biết lo cái đáng lo và tìm cái đáng tìm trước hết, đó là Nước Thiên Chúa, đó là phần rỗi linh hồn bằng cách ăn ngay ở lành, xa tránh tội lỗi. Nhiều khi chúng ta cũng biết như thế, nhưng chúng ta lại không sống như thế, cho nên phải chăng chúng ta cũng chỉ là những người mù về phần hồn.

Tiếp đến xin Chúa mở cho chúng ta cặp mắt tâm hồn là để chúng ta nhận ra những chước mốc của ma quỷ đã được cài vào trong cuộc sống của chúng ta. Thực vậy, chúng ta thì yếu đuối và có thể sa ngã vấp phạm bất cứ lúc nào. Trong khi đó ma quỷ theo lời thánh Phêrô diễn tả, như sư tử lượn quanh tìm mồi cắn xé. Cái bẫy chúng cài đặt cho chúng ta là những cám dỗ, hay cụ thể hơn, là những dịp tội, đó là những hoàn cảnh thúc đẩy chúng ta dễ dàng vấp phạm. Một người đam mê cờ bạc lại hay lui tới những chỗ đỏ đen. Một người nghiêng chiều về xác thịt mà lại thường xuyên gặp gỡ thầm lén và riêng tư, thì chắc chắn có lúc sẽ sa ngã, sẽ vấp phạm, vì chơi dao có ngày đứt tay, lửa gần rơm lâu ngày cũng cháy. Sống trong dịp tội mà không sai lỗi vấp phạm, thì đó là một phép lạ mà chắc chắn Chúa sẽ không bao giờ thực hiện cho chúng ta. Nhiều lúc chúng ta cũng biết thế, nhưng vẫn lứ lao đầu vào lửa như những con thiêu thân. Phải chăng chúng ta cũng chỉ là những kẻ đui mù về phần tâm hồn mà thôi.

Chính vì thế mà trong giây phút này, một lần nữa chúng ta hãy kêu cầu: Xin cho con được nhìn thấy và xin cho con có đủ can đảm bước đi trên đường nẻo của Chúa.

6.Người mù

Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta nhận thấy: Anh mù là một người can đảm và đầy thiện chí. Mặc dù ít học, nhưng lời lẽ của anh thật là khôn ngoan. Tâm hồn anh luôn rộng mở để đón nhận chân lý và luôn cố gắng thực hiện những điều tốt lành, cho dù có gặp phải những phức tạp và phiền toái. Ngoài ra anh còn có một chút châm biến đối với những kẻ rình rập bắt lỗi anh.

Trong khi đó cha mẹ anh lại không muốn dây dưa vào câu chuyện xảy ra. Hai ông bà đã trả lời một cách khôn khéo cho bọn biệt phái: Xin hãy hỏi cháu vì cháu nó đã có tuổi. Chủ đích của hai ông bà không phải là tìm kiếm sự thật, nhưng là tránh đi những khó dễ gặp phải.

Còn đám đông dân chúng thì sao? Một số người đã chứng kiến sự việc xảy ra. Nhưng một số kẻ khác, có phần đông hơn, đã không muốn đón nhận sự thật. Họ bàn tán, họ tranh luận và sau cùng họ chối bỏ sự thật. Để biện minh cho lập trường của mình, họ đã nại tới luật kiêng việc xác ngày Sabat, tức là ngày thứ bảy nơi người Do Thái. Họ đã suy diễn một cách hàm hồ: Người ta không được phép chữa bệnh trong ngày nghỉ lễ. Đó là một điều cấm. Vậy thì Đấng đã chữa lành trong ngày nghỉ lễ là ai, nếu không phải chỉ là một kẻ tội lỗi. Bọn biệt phái bực bội và tức tối. Thế nhưng, lời nguyền rủa và bạo lực không bao giờ là những chứng cứ có giá trị, trái lại nó là một dấu chỉ biểu lộ một niềm tin sai lạc mà thôi.

Chúa Giêsu hay biết anh mù đã bị trục xuất khỏi hội đường, bởi đó khi gặp anh, Ngài đã hỏi anh ta: Con có tin vào Con Người hay không? Anh ta liền thưa: Lạy Thầy, Thầy là ai để tôi tin vào Ngài? Chúa Giêsu nói: Con đã thấy, chính Ngài đang nói với con đây. Cõi lòng anh lúc này được rộng mở để đón nhận chân lý. Anh nói: Lạy Chúa, con xin tin. Anh quỳ gối trước mặt Ngài. Kể từ đó, anh bước theo Ngài và thuộc hẳn về Ngài.

Trong một bài báo bàn về đức tin, cha Jacques Loew đã xác quyết: Đức tin không phải là chấp nhận các công thức có sẵn, một lần thay cho tất cả, cũng không phải là như một chiếc bánh, chúng ta có thể chia ra làm nhiều phần. Trái lại đức tin chính là niềm cậy trông và phó thác, không phải vào tư tưởng và sức riêng của mình, nhưng là vào tình thương và quyền năng của Chúa.

Đời sống của Chúa chính là cái khuôn mẫu cho cuộc đời chúng ta noi theo. Nếu chúng ta tin vào Đức Kitô và lời Ngài giảng dạy, thì cách sống của chúng ta sẽ đổi khác, cách nhìn của chúng ta cũng đổi khác và cách đối xử của chúng ta cũng đổi khác. Thế nhưng chúng ta đã có một niềm tin như thế hay chưa, và hơn thế nữa, chúng ta đã thực sự sống niềm tin của chúng ta hay chưa?

7.Thiên Chúa chăm sóc Dân Người

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)

Dù một người thuộc bất cứ dân tộc nào, Thiên Chúa vẫn là Đấng tạo dựng họ, vẫn là Đấng yêu thương họ đặc biệt. Thiên Chúa lo lắng chăm sóc tất cả mọi người. Ngài chăn dắt dân Ngài qua các vị lãnh đạo, Ngài nói với mỗi người qua lương tâm, và yêu thương con người đặc biệt qua Đức Yêsu.

1. Qua những vị lãnh đạo

Có hai quan niệm nơi người Do Thái trong buổi đầu thời đại quân chủ. Một quan niệm cho rằng, chấp nhận có vua là mặc nhiên từ chối Thiên Chúa cai quản hướng dẫn mình; quan niệm khác lại cho rằng Thiên Chúa muốn dùng một vị vua để hướng dẫn dân Ngài. Khi tiên tri Samuel xức dầu phong vương cho Saul và sau đó cho Davít, thì quan niệm vua là người Thiên Chúa dùng để cai trị dân đã được đa số người Do Thái chấp nhận.

Thời buổi này, không còn mấy nước theo chế độ quân chủ nữa, nhưng vẫn có những người tương tự, như tổng thống và chủ tịch nước. Những người này là những đại diện Chúa, nên chúng ta phải vâng phục họ. Tuy vậy, khi có những người lãnh đạo hành xử không theo luật Chúa, thì chúng ta không được vâng phục. Chẳng hạn khi họ cho phép hoặc khuyến khích phá thai, thì điều này không có nghĩa là Thiên Chúa muốn điều đó, nên chúng ta không được vâng phục; trái lại, nếu có thể, chúng ta không chỉ có thể mà còn phải phản đối nữa, vì khi đó họ đã dùng quyền hành Thiên Chúa ban để giết hại con người. Chúng ta chỉ không vâng phục trong những điều sai trái thôi, còn những điều khác thì vẫn phải vâng phục. Điều này áp dụng cả cho những bề trên đấng bậc trong Đạo: nếu một người “bề dưới” bị “bề trên” sai bảo làm điều tội hoặc trái lương tâm, thì người “bề dưới” không được vâng lời.

Kitô hữu là người có thể sống dưới mọi chế độ. Ơn gọi Kitô hữu cũng hàm chứa đòi hỏi góp phần xây dựng một xã hội công bình và tốt đẹp hơn. Vì mọi người đều được Thiên Chúa hướng dẫn, nên Kitô hữu cũng phải tin vào những người thành tâm thiện chí cho dù họ không cùng tôn giáo với chúng ta, để cùng họ xây dựng thế giới này. Sống theo điều thiện hảo, cũng là sống theo Chúa và vì Chúa. Khi vì một điều tốt đẹp mà phải hy sinh hay thiệt thòi, thì cũng là tử đạo theo một nghĩa nào đó. Chẳng hạn trường hợp Yoan Tẩy Giả chết vì lên tiếng cản ngăn không cho Hêrôđê lấy vợ anh mình. Yoan đã chết vì Chúa, cho dù ông chết vì đã nói sự thật, nói lên ý muốn của Chúa biểu lộ qua luật lệ hay nơi lương tâm con người.

2. Qua tiếng lương tâm

Thiên Chúa tỏ lộ ý muốn của Ngài qua Kinh Thánh, qua luật lệ cả Đạo lẫn đời, và Ngài còn tỏ lộ ý muốn của Ngài cho mỗi người cách đặc biệt nơi lương tâm mỗi người. Lương tâm là tiếng nói của Thiên Chúa qua “lý trí hướng về điều thiện hảo”. Chẳng hạn, phải làm điều tốt, phải tránh điều xấu, điều này xấu không được làm, điều kia tốt nên làm.

Không ai được làm ngược tiếng lương tâm của mình. Nếu tôi thấy điều nào không tốt, tôi không được làm theo. Lương tâm là “lý trí hướng về điều thiện”, không phải là lý trí biện minh cho hành động của mình. Có nhiều trường hợp, con người dùng lý trí để biện minh cho điều mình muốn làm, hoặc biện minh cho điều có lợi cho mình. Trường hợp này lý trí là công cụ của lòng tham muốn và cái tôi, chứ không là lương tâm, không là dụng cụ Thiên Chúa nói với con người. Trong cuộc sống, ở những trường hợp đặc biệt, lương tâm là tiêng nói cuối cùng mà mỗi người phải tuân theo.

Không hề có sự mâu thuẫn giữa luật Chúa và lương tâm, vì cả hai đều bởi Chúa. Nếu có mâu thuẫn, thì hoặc mình hiểu sai luật Chúa, hay mình ngộ nhận là tiếng lương tâm mà thực sự không phải.

3. Qua Đức Yêsu Kitô

 Thiên Chúa nói tiếng nói dứt khoát của tình yêu qua Ngôi Lời Nhập Thể- Đức Yêsu. Đức Yêsu là người trọn vẹn, là người như tất cả mọi người. Ngài chia sẻ thân phận con người, chịu đói chịu khát, có những khuynh chiều của thân xác như tất cả mọi người, bị cám dỗ mãnh liệt như tất cả những ai khác. Để rồi qua Ngài, con người biết làm sao để trở nên người tuyệt vời. Con người trở nên tuyệt vời, trong mức độ họ sống và suy nghĩ, chọn lựa, hành động như Đức Yêsu đã sống, suy nghĩ, chọn lựa và hành động.

Qua việc chữa người mù từ thuở mới sinh, Đức Yêsu mặc khải cho biết Ngài là ánh sáng. Ngài không chỉ là ánh sáng, hiểu theo nghĩa giúp người mù được thấy, nhưng Ngài là ánh sáng hiểu theo nghĩa, qua Ngài con người nhận biết sự thật uyên nguyên là chính Thiên Chúa, và cũng nhờ Ngài con người hiểu biết hơn về chính con người. Khi con người nhận ra Đức Yêsu là Thiên Chúa nhập thể, con người nhận biết Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng, và cũng nhận biết con người là tạo vật tuyệt vời. Nếu con người không đáng quý và tuyệt vời, tại sao Thiên Chúa lại nhập thể làm người? Được làm người, đó là một ơn vô cùng lớn.

Chọn lựa trong cuộc sống hằng ngày, là chọn lựa Thiên Chúa hay không. Chẳng hạn, người biệt phái trong Tin Mừng hôm nay không sẵn sàng đón nhận Đức Yêsu- một con người mà họ gặp trong cuộc sống, là họ không đón nhận Thiên Chúa. Chấp nhận tha nhân trong sự thật, là đón nhận Thiên Chúa. Anh mù, mù về thể lý, nhưng sáng trong việc nhận biết Đức Yêsu là Đấng đến từ Thiên Chúa; trong khi những người biệt phái là những người có học và có tiếng là đạo đức, thì lại không nhận ra Đức Yêsu là người của Thiên Chúa. Có tật mù thể lý, nhưng cũng có tật mù thiêng liêng ngăn cản người ta thấy sự thật, đó có thể là thành kiến về tha nhân, hoặc chính cái tôi che khuất không cho mình thấy sự thật.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Xin liệt kê những nét xấu và nét đẹp của Đavít. Theo bạn, đâu là nét đẹp nhất của Davít?

2. Đâu là tiêu chuẩn đánh giá con người, của bạn và của Đức Yêsu?

3. Với ánh sáng “Đức Yêsu”, bạn nhận ra điều gì đặc biệt trong đời?

4. Bạn có nhận ra Thiên Chúa can thiệp và hướng dẫn đời bạn không? Xin chia sẻ.

8.Cái làm người vô học tuyệt vời

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)

Đức Yêsu đã chữa người mù bằng cách, nhổ nước miếng trộn làm bùn xức vào mắt anh mù và nói anh đi rửa tại ao Siloam, anh đã đi rửa và đã thấy. Vào trường hợp của tôi, tôi có để Đức Yêsu làm như vậy không?

Anh mù được sáng mắt, khi người ta không biết có phải anh là người mù vẫn ngồi ăn xin không, anh đã can đảm nhận mình đã là người mù ngồi ăn xin tại đền thờ! Anh mù được sáng đã dám nhận quá khứ “ăn xin” của mình, còn tôi, tôi có can đảm chấp nhận quá khứ của đời mình không?

Anh mù dám tỏ quan điểm lập trường của mình về Đức Yêsu, và dám giữ lập trường này trước bao người có quyền thế chống lại Đức Yêsu, thậm chí cả trong trường hợp bị trục xuất khỏi hội đường! Tôi có can đảm như anh mù không?

Cái gì đã ngăn cản những người biệt phái nhận ra Đức Yêsu từ Thiên Chúa đến? Cái gì đã làm họ hiểu sai về Đức Yêsu khi cho rằng Ngài là người tội lỗi (Ga.9, 24)? Tại sao người vô học như anh mù lại có nhận định đúng về Đức Yêsu, còn những người học cao hiểu rộng như những người biệt phái và luật sĩ lại hiểu sai về Đức Yêsu?

Người biệt phái đã kết án Đức Yêsu là người tội lỗi, vì Đức Yêsu không giữ ngày sabbat! Với Đức Yêsu: làm sao để cứu con người; còn với người biệt phái: làm sao để giữ luật. Luật là tuyệt đối đối với người biệt phái; còn với Đức Yêsu, con người rất quan trọng! Trong cuộc sống, chúng ta có coi những luật lệ và nguyên tắc là tối cao không? Có bao giờ chúng ta nhân danh luật lệ và nguyên tắc để xúc phạm và hủy diệt con người không?

Cha mẹ người mù “quá khôn ngoan” nên đã từ chối câu trả lời về Đức Yêsu, để được yên thân! Trong cuộc sống, tôi có lấy “sự khôn ngoan” đó làm tiêu chuẩn sống của tôi không?

Xin Chúa mở mắt con,

để con nhận ra những kỳ công Ngài thực hiện cho con người,

để chúng con ca tụng Chúa, và yêu thương tôn trọng con người

như Chúa đã yêu thương và tôn trọng.

9.Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành

Chúng ta vừa nghe Thánh sử Gioan tường thuật lại phép lạ Đức Giêsu chữa người mù từ khi mới sinh. Chúng ta cùng nhau tìm hiểu thái độ của các nhân vật trong câu chuyện này.

1. Thái độ của Đức Giêsu:

Đức Giêsu là Đấng giàu lòng thương xót. Trong ba năm cuộc đời công khai, Ngài đã làm rất nhiều phép lạ để chữa lành những người bệnh hoạn tật nguyền. Có những phép lạ xảy ra do sự thỉnh cầu của con người. Nhưng cũng có những phép lạ xảy ra do chính Ngài chủ động đến với con người như phép lạ chữa cho người mù hôm nay. Câu chuyện phép lạ bắt đầu bằng sự thắc mắc của các môn đệ: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội, anh này hay cha mẹ anh, khiến anh mù từ khi mới sinh?” (Ga 9,2). Và Đức Giêsu cho biết: “Không phải anh cũng chẳng phải cha mẹ anh đã phạm tội, nhưng để công việc của Thiên Chúa tỏ ra nơi anh.” (Ga 9,3). Giải thích xong thắc mắc của các môn đệ, Đức Giêsu bắt đầu hành động để chữa lành cho anh mù. Tin mừng kể: “Người nhổ xuống đất, lấy nước miếng trộn thành bùn, rồi xoa bùn trên mắt người ấy và bảo: ‘Anh hãy đến hồ Silôê mà rửa.’ Anh ta ra đi và rửa, rồi trở lại thì trông thấy được.” (Ga 9,6-7).

Như vậy, phép lạ đã xảy ra, anh mù đã sáng mắt. Nếu câu chuyện kết thúc ở đây thì đã khá hoàn hảo. Nhưng lòng thương xót của Đức Giêsu còn muốn đi xa hơn. Đó chỉ là phép lạ chữa lành con mắt phần xác. Đức Giêsu còn tiếp tục đồng hành với người mù, giúp người mù sáng cả con mắt đức tin. Như vậy, Đức Giêsu đã thực hiện nơi người mù hai phép lạ cùng một thời điểm: Phép lạ sáng con mắt thể lý và phép lạ sáng con mắt đức tin.

2. Thái độ của người mù:

Bệnh mù lòa có thể do bẩm sinh, có thể do tai nạn hay một nguyên nhân nào đó. Người bị mù thì không thấy ánh sáng, không được nhìn ngắm cảnh đẹp của thiên nhiên, vẻ đẹp của người thân, không thấy đường đi, không thấy công việc để làm, giảm thiểu hạnh phúc của cuộc đời…Nên họ bị thiệt thòi về nhiều mặt. Ước mong lớn nhất của người mù là được sáng đôi mắt.

Người mù trong câu chuyện Tin mừng hôm nay đã mù từ thuở mới sinh. Chắc chắn anh ta ngày đêm mong muốn được sáng đôi mắt. Lòng mong muốn đó được đáp ứng khi anh gặp được Đức Giêsu. Hay nói đúng hơn là được Đức Giêsu gặp anh. Qua câu chuyện cho chúng ta thấy, Đức Giêsu đã đi bước trước để đến với anh. Ngài hành động và mời gọi anh làm theo ý của Ngài. Ngài nhổ xuống đất, lấy nước miếng trộn thành bùn, rồi xoa bùn trên mắt anh và bảo: “Anh hãy đến hồ Silôê mà rửa”. Đó là một lời mời gọi của đức tin. Tin mừng cho biết: “Anh ta ra đi và rửa, rồi trở lại thì trông thấy được.”

“Ra đi và rửa rồi trở lại.” Đây là thái độ của sự vâng phục trong niềm tin. Nhờ thế mà anh được sáng con mắt. Sau đó, anh đã công khai làm chứng về Đức Giêsu: “Ngài là một tiên tri”(x. Ga 9,17); “Người mà thiên hạ gọi là Giêsu đã lấy bùn xức mắt tôi và bảo: Ngươi hãy đến hồ Silôê mà rửa. Bấy giờ tôi đi, tôi rửa và tôi trông thấy;”(Ga 9,25).

Khi những người biệt phái cho rằng Đức Giêsu “không phải bởi Thiên Chúa, vì không giữ ngày Sabbat,” thậm chí họ kết án “Đức Giêsu là một kẻ tội lỗi” thì người mù còn khẳng định rằng: “Ông ấy có phải là người tội lỗi hay không, tôi không biết. Tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được!” (Ga 9,25). Rồi anh tiếp tục làm chứng: “Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy” (Ga 9,31). Lời khẳng định đó đưa đến kết luận: Đức Giêsu là “người bởi Thiên Chúa mà đến” (Ga 9,33).

Đức tin của người mù còn thể hiện một cách mạnh mẽ ngay cả khi anh bị cha mẹ bỏ rơi. Sau này gặp lại Đức Giêsu, anh còn xác tín rằng: “‘Thưa Ngài, tôi tin.’ Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người” (Ga 9,38).

Tấm gương của người mù đáng cho mỗi người chúng ta học tập: Một đức tin vững mạnh, một đức tin can đảm trước những nghịch cảnh của cuộc sống.

3. Thái độ của những người Biệt phái:

Sau khi Đức Giêsu chữa lành cho người mù, những người Biệt phái đã mở một cuộc điều tra nhằm lên án Đức Giêsu, phủ nhận phép lạ Ngài vừa làm. Đây là một thái độ kiêu căng, thể hiện một sự ghen tương không muốn chấp nhận sự thật, không nhìn thấy quyền năng của Thiên Chúa đang thể hiện trước mắt họ. Thậm chí, vì cái nhìn mù quáng nên họ còn muốn kết án Đức Giêsu là người tội lỗi. Họ ghét Đức Giêsu nên họ ghét luôn cả những người có liên hệ, cụ thể là họ ghét luôn cả người mù. Người mù đã trở thành nạn nhân của họ (x. Ga 9,34). Vì thế, họ tìm cách gây áp lực và làm khó dễ cho anh ta. Họ sáng con mắt phần xác nhưng lại mù quáng con mắt thiêng liêng. Mặc dầu vậy, họ còn tự hào là mình rằng “chúng tôi thấy.” Chính vì thế, lời quả quyết của Đức Giêsu thể hiện đúng bản chất của họ: “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: ‘chúng tôi thấy,’ nên tội các ông vẫn còn đó” (Ga 9,41)

Trong cuộc sống hôm nay cũng có nhiều người giống như những người biệt phái này. Họ không làm việc lành, trái lại có ai đó làm việc lành thì họ lại ngăn cản hoặc tìm cách bóp méo sự thật, thậm chí còn bỏ vạ, cáo gian, kết án người vô tội.

4. Thái độ của cha mẹ người mù:

Trước sự rắc rối mà chính con mình gặp phải đáng lý ra hai ông bà phải đứng ra bệnh vực cho con. Đằng này, hai ông bà lại lẫn trốn trách nhiệm không dám nói lên sự thật mà còn đùn đẩy cho con: “Nó khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó.”(Ga 9,23). Chính Tin mừng đã cho chúng ta biết lý do vì sao cha mẹ anh ta lại nói như thế: “Cha mẹ anh ta nói thế bởi sợ người Do-thái, vì người Do-thái đã bàn định trục xuất khỏi hội đường bất cứ ai dám công nhận Chúa Giêsu là Ðấng Kitô.”(Ga 9,22). Đây là một thái độ cầu an nên thiếu trách nhiệm với con mình.

Trong cuộc sống hôm nay, cũng có rất nhiều người sống thiếu trách nhiệm không chỉ đối với con cái mà còn đối với Giáo hội và xã hội. Nhiều người cha người mẹ không dám nhận con cái mình vì sợ phải nuôi nấng chăm nom, vì thế chúng ta hiểu tại sao có nhiều người cha người mẹ đành bỏ rơi con cái, thậm chị giết hại con cái ngày từ trong lòng mẹ. Nhiều người con cái không dám nhận cha mẹ mình vì cha mẹ nghèo đói, bệnh tật. Nhiều người không dám đứng lên bênh vực cho công lý và sự thật vì sợ liên lụy đến mình và gia đình mình, sợ ảnh hưởng đến miếng cơm manh áo.

Vì thế, cảnh bất công, người công chính bị trù dập, việc tốt việc lành bị bóp méo vẫn còn nhan nhãn trong xã hội chúng ta đang sống.

5. Thái độ sống của chúng ta hôm nay?

Suy niệm về thái độ của Đức Giêsu, của người mù, của những người biệt phái và của cha mẹ anh mù, chúng ta thử đối chiếu với thái độ sống của chúng ta như thế nào?

Có khi nào chúng ta sẵn sàng đến để giúp đỡ những người xấu số như Đức Giêsu đã giúp đỡ cho người mù không? Chúng ta có bênh vực cho những người gặp rắc rối trong đức tin như Đức Giêsu bênh vực cho người mù không?

Có khi nào chúng ta can đảm bênh vực cho Chúa, cho Giáo Hội và cho niềm tin của mình giữa thử thách gian nan như người mù không?

Có khi nào chúng ta kiêu ngạo, ghen tuông nên tìm cách từ chối sự thật, thậm chí còn bỏ vạ cho người tốt không?

Có khi nào chúng ta sợ liên lụy đến mình, gia đình mình hay thiệt thòi về của cải vật chất…nên thiếu trách nhiệm với những người thân yêu của chúng ta như cha mẹ của người mù không?

Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa vì chúng con không bị mù con mắt thể lý. Nhưng xét mình lại có lẽ nhiều lúc chúng con vẫn bị mù về con mắt tinh thần. Xin Chúa giúp chúng con biết làm theo lời Chúa dạy để chúng con được luôn sáng con mắt đức tin, con mắt tinh thần. Amen.

10.Chúa là nguyên nhân của niềm vui

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Bước vào Chúa nhật IV Mùa Chay quen gọi là Chúa nhật của Niệm Vui (Lætare), Phụng Vụ của Giáo hội đang từ màu tím chuyển sang màu hồng, màu của bình minh, đánh dấu nửa chặng đường sám hối, nay Giáo hội tạm dừng, lấy thêm can đảm bước tiếp những chặng đường tới, để chuẩn bị tâm hồn tốt hơn hầu cảm nghiệm được niềm vui sâu xa của Lễ Phục Sinh đã gần kề.

“Mừng vui lên, Giê-ru-sa-lem! Tề tựu cả về đây, hỡi những ai hằng mến yêu Thành! Các bạn đang sầu khổ, nào hớn hở vui mừng và hân hoan tận hưởng, nguồn an ủi chứa chan.” (Ca nhập lễ) Hay lời của Thánh vịnh gia: “Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa. Vui lên nào…… “. Những lời trên diễn tả niềm vui ngập tràn và thiêng thánh. Giáo hội chúc mừng con cái mình đã hăng hái đi được nửa hành trình của Mùa Chay Thánh. Làm sao không thể không vui không mừng được. Mừng vui lên, hỡi những người trước kia ở trong sầu khổ, ” Cùng Giê-ru-sa-lem khấp khởi mừng… được Thành Ðô cho hưởng trọn nguồn an ủi, được thoả thích nếm mùi sung mãn vinh quang…đón nhận dồi dào ơn an ủi …” (Is 66,10-11).

Vậy đâu là lý do sâu xa để vui mừng?

Lời Kinh Tiền Tụng Chúa nhật IV Mùa Chay năm A: ” Nhờ mầu nhiệm nhập thể, Người dẫn đưa nhân loại đang lần bước trong u tối đến nguồn ánh sáng đức tin. Nhờ phép rửa mang lại đời sống mới, Người giải thoát những kẻ sinh ra đã mắc tội truyền, và nâng lên hàng nghĩa tử của Chúa… ” (Kinh Tiền Tụng Chúa nhật IV Mùa Chay năm A). Đoạn Tin Mừng thánh Gioan hôm nay cho chúng ta câu trả lời cụ thể khi Chúa Giêsu chữa lành một người mù từ khi mới sinh. Câu Chúa Giêsu hỏi người mù là đỉnh cao của trình thuật: “Ngươi có tin nơi Con Thiên Chúa không?” (Ga 9,35) Như một “người” giữa bao nhiêu người khác, anh người mù này mới đầu gặp Chúa Giêsu, khác mọi người là anh coi Chúa Giêsu là “một ngôn sứ”, Chúa mở mắt anh ra, từ ánh sáng của đôi mắt đến ánh sáng của đức tin, anh tuyên xưng Chúa Giêsu là “Chúa”, và trả lời câu hỏi Chúa đặt ra cho anh: “Lạy Thầy, tôi tin!” (Ga 9,38). Như thế là đã rõ, Chúa Giêsu chữa người mù khỏi mù, anh thấy ánh sáng và anh tin vào Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu là nguyên nhân của niềm vui lớn cho người mù từ khi mới sinh này, vì Chúa đã cho anh thấy được cảnh vật không chỉ về thể lý mà còn cả tinh thần nữa. Cũng như cả và nhân loại sau khi nguyên tổ phạm tội phải bước đi trong u tối, nay Chúa Giêsu đến, tự giới thiệu mình là Ánh Sáng thế gian dẫn đưa nhân loại khỏi bóng tối của tội lỗi, phục hồi phẩm giá địa vị làm con Thiên Chúa.

Người mù đã tin và đã nhận được ánh sáng của Chúa Kitô. Trái lại, những người Pharisêu thì tưởng rằng mình sáng, nên họ vẫn bị mù vì sự cứng lòng và tội lỗi của họ. Đúng vậy, “Người Do Thái không tin là trước đây anh bị mù mà bây giờ nhìn thấy được. Đó là lý do tại sao họ gọi cha mẹ anh ta đến” (x. Ga 9,18).

Chúa Giêsu là sự sáng thế gian

Ngài từ trời xuống thế, để cho phàm nhân được thấy Ngài và qua Ngài họ thấy Chúa Cha; chỉ có người mù mới không thể nhìn thấy Chúa. Ngài đã mở mắt người mù, để người mù thấy được Chúa Cha ở nơi Ngài. Ngài giới thiệu: ” Ta là sự sáng thế gian” (Ga 9, 5) ; ” Là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người.” (Ga 1,9) Ngài chữa lành sự mù quáng của con mắt đức tin nơi những người không thấy để mà tin.

Ađam được Thiên Chúa sáng tạo với con mắt tinh tường, nhưng sau khi giao tiếp với con rắn xong, ông trở nên mù quáng (x. St 3, 1-7). Anh mù bẩm sinh vẫn ngồi… mà không xin bất kỳ một loại thuốc mỡ nào để chữa mắt mình… anh chỉ hết mù khi anh tin (x. Ga 9,1-41). Chúa Giêsu, Vị thầy thuốc cao tay đã nhìn thấy những đau khổ của người mù ngồi đó và xin làm phúc, bằng quyền năng Thiên Chúa, Ngài đã làm phép lạ cho người mù được thấy.

Ađam được Thiên Chúa dựng tạo dựng bằng đất sét, bùn ướt: ” Ðức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người” (St 2, 7), nay chất liệu ấy được Chúa Giêsu dùng để chữa lành đôi mắt. Ngài đã phục hồi thị giác cho người mù từ khi mới sinh bằng nước bọt nhổ ra trộn vào đất, anh người mù nói: ” Ngài đã xoa bùn vào mắt tôi, tôi đi rửa và tôi được sáng mắt ” (Ga 9,1-11). Ngài là quả là Ánh Sáng chiếu sáng thế gian và cho con người được nhìn thấy ánh sáng.

Chúng ta là con cái ánh sang

Từ ánh sáng đến đức tin hay từ đức tin đến ánh sáng tỏa sáng trên khuôn mặt của người mù giúp chúng ta hiểu rằng, ngày chúng ta chịu phép rửa tội, ánh sáng của Chúa Kitô cũng chiếu tỏa trên chúng ta, chữa chúng ta khỏi sự mù quáng tội lỗi, làm cho chúng ta trở thành con cái ánh sáng. Đó là điều Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: ” Bây giờ anh em là ánh sáng trong Chúa” (Eph 5, 8). Thế nên, nhờ phép rửa trong Chúa Kitô, trước kia chúng ta là những người ở trong bóng tối, nay trở thành ánh sáng. Kể từ ngày hôm đó chúng ta là con người mới hoàn toàn.

Nhờ phép rửa tội, người kitô hữu trở thành ” con của sự sáng ” (Eph 5, 8) hay nói cách khác, trở thành ” con cái Thiên Chúa” (1 Ga 3,1). Người con đích thực của Thiên Chúa là Chúa Kitô đã chiếu tỏa rạng ngời ánh sáng Chúa Cha, để bất cứ ai được tái sinh trong Ngài, có thể thông truyền ánh sáng đức tin ấy cho người khác, tức là sinh ” hoa trái của sự sáng ” (Eph 5, 9). Vì vậy, trong Mùa Chay này, chúng ta hãy để ánh sáng ấy chiếu tỏa trên chúng ta để qua chúng ta mọi người có thể tìm thấy Thiên Chúa là Ánh Sáng đích thực.

Chúa Giêsu là ‘Ánh sáng thế gian’ (Ga 8,12). Trong nghi thức Rửa tội, việc trao nến sáng và thắp sáng từ cây nến Phục Sinh tượng trưng Chúa Kitô Phục sinh, là dấu hiệu giúp chúng ta hiểu rõ những gì xảy ra trong Bí tích này. Khi chúng ta để cho mình được mầu nhiệm Chúa Kitô soi sáng, chúng ta sẽ cảm nghiệm niềm vui được giải thoát khỏi tất cả những gì đe dọa sự viên mãn của cuộc sống ấy.

Lễ Phục Sinh đã gần kề, chúng ta hãy vui lên và khơi dậy nơi mình hồng ân đã lãnh nhận trong Bí tích Rửa tội, ngọn lửa ấy nhiều khi có nguy cơ bị dập tắt. Chúng ta hãy nuôi dưỡng ngọn lửa đó bằng kinh nguyện và lòng bác ái đối với tha nhân.

Xin Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Giáo Hội, Mẹ của mỗi người chúng ta dẫn chúng ta đến gặp gỡ Chúa Kitô, là Ánh Sáng thật và là Ðấng Cứu Thế. Amen.

11.Người mù

Có những người mắt sáng nhưng lại nhìn sự vật qua lăng kính của những tư tưởng sai lầm, do đó đã trở thành mù. Một sự mù quáng còn trầm trọng và tai hại hơn cả cái mù nơi thể xác, vì nó khép kín tâm hồn trước tình thương và ơn sủng của Chúa. Đó là trường hợp của bọn Biệt phái trong đoạn Tin Mừng sáng hôm nay.

Thực vậy, đầu mối câu chuyện chỉ vì Chúa Giêsu đã chữa lành cho một người mù vào đúng ngày nghỉ lễ. Luật về ngày nghỉ lễ do bọn Biệt phái chủ trương cấm làm những việc Chúa Giêsu đã làm. Thế nhưng Chúa Giêsu đã làm điều cấm ấy, cho nên Ngài chỉ là một kẻ tội lỗi. Mà đã tội lỗi, thì không thể nào là người bởi Thiên Chúa, do đó không thể làm được phép lạ.

Cái lý luận chặt chẽ ấy đã che mắt họ, không cho họ nhận biết điều lạ lùng đang xảy ra. Được đặt trước sự thực, nhưng họ lại tìm cách chối bỏ sự thực ấy: Kẻ được chữa lành không phải là người mù họ thường thấy, nhưng chỉ là một người giống như hắn. Họ đã muốn phủ nhận ngay chính người được chữa lành. Họ hạch hỏi và làm khó dễ cả người cha lẫn người mẹ. Bản thân anh cũng bị tra hỏi, tất cả như muốn anh chối bỏ chính cái ơn huệ, chính cái thực tế diễn ra nơi con người anh.

Thế nhưng cuộc hạch hỏi này lại cho chúng ta thấy người sáng suốt lại chính là anh mù. Còn kẻ mù lại là bọn Biệt phái, vốn tự nhận mình là thông suốt đạo lý và lề luật. Anh mù đã muốn đi từ thực tế không thể chối cãi được, tìm hiểu về con người đã làm phép lạ, để rồi cuối cùng anh không phải chỉ được chữa để nhìn thấy sự vật chung quanh, mà còn được nhận biết ánh sáng của niềm tin, nhìn nhận Chúa Giêsu chính là Đấng từ trời đến, để thông chia cho mọi người sự sống Thiên Chúa.

Trong khi đó bọn Biệt phái lại muốn đi từ một cách hiểu về đạo giáo của họ để phán xét sự thật. Vì họ đã sai lầm trong cách hiểu và lý luận của mình, nên họ đã bị bưng bít, không thể nhận ra được sự thật, cũng như ý nghĩa của sự thật ấy.

Chúa Giêsu đã đảo ngược các hoàn cảnh. Người mù tin ở Ngài thì được khỏi và được dẫn đến chỗ nhìn nhận mạc khải của Chúa. Trái lại những kẻ vẫn tự khoe là thông thái và sáng suốt thì lại không thấy được Đấng đem ánh sáng cứu rỗi đến cho con người. Họ tự giam mình trong tối tăm của sự chết.

Đây cũng là hoàn cảnh của chúng ta. Thực vậy, một cản trở không nhỏ trên con đường đến với Chúa và nhận ra tiếng Ngài trong những biến cố của cuộc sống đó là cứ bám víu vào những tiên kiến và tự mãn với những điều chúng ta đã biết, bằng sự rập khuôn và óc câu nệ. Tất cả tạo nên một thứ hàng rào kiên cố ngăn cản chúng ta tiếp cận với sự thật để được cứu rỗi. Những người thủ cựu và cố chấp giống như những kẻ đeo cặp kính màu xám, thì nhìn cái gì cũng hoá ra xám. Họ giống như những anh mù sờ voi, phùng má trợn mắt bảo vệ lập trường của mình, mà chẳng ai nắm được sự thật.

Bọn Biệt phái đã căm thù Chúa Giêsu và cuối cùng đã tìm cách thủ tiêu Ngài chỉ vì không chấp nhận để Ngài phá vỡ cái hàng rào này của họ. Chúng ta cũng sẽ chỉ có ánh sáng của lòng tin khi nhìn nhận Chúa Giêsu chính là Đấng đem lại cho chúng ta ơn cứu rỗi mà thôi.

12.Hãy biết mình – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền

(Trích từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)

Có hai vợ chồng đi tham quan một cửa hàng trưng bày tranh thêu lụa. Vừa bước tới cửa bà vợ đã chăm chú nhìn vào bên trong một hồi lâu rồi nhận xét: “Tranh gì đâu mà xấu vậy? Thêu người đàn bà chẳng giống ai!”. Ông chồng vội bịt miệng bà và nói: “Không phải tranh đâu, đó là gương đấy. Đó là hình ảnh của bà được phản chiếu qua gương đấy! Chớ nhận xét hồ đồ!”. Người đàn bà quá xấu hổ đành bỏ ra về.

Đó cũng là cảnh mù loà đáng thương của nhiều người trong chúng ta. Khi chúng ta phê bình chỉ trích người khác đang khi chính chúng ta vẫn còn đó đầy những lỗi lầm. Khi chúng ta chê bai anh em đang khi chúng ta vẫn còn đó những khuyết điểm và thói hư tật xấu. Chúng ta thường cắt nghĩa tốt về mình nhưng lại quá hà khắc về lối sống của tha nhân. Chúng ta thường mù loà về bản thân mình nhưng lại thích soi mói anh em. Đúng như cha ông ta vẫn nói:

“Chân mình còn lấm bê bê

Lại cầm bó đuốc mà rê chân người”.

Bài tin mừng hôm nay nói đến rất nhiều nhân vật nhưng chỉ có một người là sáng mắt thực sự. Người có mắt sáng là người biết nhìn nhận sự việc đúng sự thật. Người sáng mắt không lệch lạc về quan điểm, về sự việc. Người sáng mắt biết nhận định đúng về những gì đang diễn ra chung quanh. Đó là anh mù từ thuở mới sinh. Anh mù về thể xác nhưng sáng về tinh thần. Anh đã dám nhìn nhận sự thật cho dù vì đó mà anh bị trục xuất khỏi cộng đoàn. Anh đã công khai nói lên niềm tin của mình vào Đấng đã chữa lành cho anh. Cho dù anh gặp nhiều sự chống đối, nhiều hiểm nguy nhưng anh vẫn phải nói đúng sự thật về những gì đã diễn ra trong cuộc đời anh.

Nhưng tiếc thay nhiều người mắt sáng nhưng lại tối tâm hồn. Đó là các biệt phái đầy kiêu căng đã không thể nhìn thấy quyền năng của Chúa đang hiển thị trước mặt các ông. Đó là cha mẹ của anh mù vì sợ hãi đã lẩn trốn sự thật, không dám nói đúng sự thật cũng đồng nghĩa chấp nhận mình mù loà giữa đời. Người biệt phái vì lòng ghen ghét mà họ đã có cái nhìn lệch lạc về việc làm của Chúa Giêsu. Cha mẹ anh mù vì cầu an nên thiếu trách nhiệm với con và với người đã cứu con mình. Xem ra bệnh mù về tâm hồn có muôn vàn nguyên nhân dẫn đến mù loà. Và xem ra bệnh mù thể xác thì ít hơn bệnh mù về tinh thần. Bởi lẽ, mỗi một cách sống sai với lương tri con người đều được coi là căn bệnh mù loà của tâm hồn. Chúng ta có thể nhìn thấy những triệu chứng cũng như nguyên do của bệnh mù loà tâm hồn như sau:

Khi chúng ta quá ích kỷ dẫn đến không thấy nhu cầu của thân nhân để cảm thông và giúp đỡ.

Khi chúng ta quá vô tâm nên không thấy nỗi đau của anh em mà chính chúng ta đã gây nên cho họ.

Khi chúng ta quá lười biếng đến nỗi không còn thấy trách nhiệm và bổn phận của mình với gia đình và xã hội.

Khi chúng ta quá bảo thủ và thành kiến nên không thấy điều hay, điều tốt của tha nhân.

Khi vì phán đoán nông cạn, hời hợt làm chúng ta mù loà không thấy những giá trị của người anh em và khiến ta hay lên án một cách hồ đồ, thiếu công bình và bác ái.

Nhưng điều quan yếu hơn cả đối với các tín hữu trong Mùa Chay không phải chỉ là nhìn nhận sự khuyết tật mù loà của mình đế sám hối canh tân, đề cầu xin Chúa chữa lành mà còn phải có một đời sống đức tin như anh mù sau khi được sáng mắt sáng lòng.

Đó là một đức tin đầy lạc quan, biết reo vui cảm tạ Thiên Chúa vì những ơn đã lãnh nhận. Đó là một đức tin đầy can đảm, sẵn sàng trực diện với những cạm bãy thù nghịch của những kẻ đồng đạo tội lỗi hay đã bị thoái hoá. Và đó cũng còn là một đức tin vững vàng chấp nhận thiệt thòi cô đơn, vì dám làm chứng cho ánh sáng giữa bóng tối tội lỗi, sa đoạ của trần đời hôm nay.

Nguyện xin Chúa là ánh sáng trần gian soi lối cho chúng ta đi trong ánh sáng và chân lý. Xin cho chúng ta can đảm đoạn tuyệt với bóng tối tội lỗi và chân thành sống theo ánh sáng của lề luật và tình thương. Amen.

13.Mở mắt nhìn đời

(Suy niệm của Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)

Có một mẩu đối thoại như sau:

Ông A: Có một tín hiệu đáng mừng, cho thấy sự suy giảm đạo đức đã chững lại, cái tốt đang được thổi bùng lên.

Ông B: Khi cuộc sống no đủ, người ta sẽ không tham tiền của người khác nữa.

Ông A: – Giàu có thì nói làm gì. Có một người phụ nữ tên là Nguyễn Thị Hoài ở tỉnh Nghệ An nhặt được 10 triệu đồng ở ven đường. Cô ấy đã tìm đến khổ chủ trả lại dù bản thân rất nghèo, lại bị khuyết tật nặng.

Ông B:- Chắc khi nhặt được có người trông thấy nên mới đem trả chứ gì?

Ông A- Không hề, trên đường đi nhận tiền mai táng cho bố, cô này nhìn thấy bọc tiền trong đám cỏ, trên đường vắng tanh không một bóng người.

Ông B- Cô này bị tàn tật chắc cũng chẳng ăn uống được mấy nên số tiền đó không cần thiết lắm cho cuộc sống, giữ lại trong nhà, trộm cướp biết được đến ‘hỏi thăm’ thì khốn, trả cho yên chuyện.

Ông A:- Ai chẳng cần tiền, cô ấy có thể không ăn uống được nhiều nhưng tiền thuốc men là hết sức cần thiết. Một người luôn bị ốm đau, bệnh tật mà vượt qua được sức cám dỗ của đồng tiền như cô Hoài là rất đáng quý, thật đáng trân trọng. Bác không nên nghi ngờ người có lòng tốt như vậy.

Ông A:- Sở dĩ dạo này tôi mất niềm tin vào con người bởi đến đâu cũng gặp nhan nhản những kẻ giàu nứt đố đổ vách rồi mà vẫn tìm cách cấu véo, bòn rút của người nghèo. Những người như cô Hoài là hiếm hoi lắm, tôi tỏ ra nghi ngờ là để thử lòng bác thôi.

Đôi khi vì những gì diễn ra hằng ngày khiến chúng ta có cái nhìn sai lệch về thế giới chung quanh. Chúng ta thường đổ đồng mọi sự theo nhãn quan của mình. Nhất là vì lòng ích kỷ mà chúng ta nhìn người bằng ánh mắt xét nét, đa nghi. Cho dù họ làm việc tốt, họ làm việc thiện cũng bị chúng ta nhìn với ánh mắt nghi ngờ và kết án.

Nhất là giữa một thế giới gian ác, lắm thị phi khiến chúng ta luôn nhìn đời bắng ánh mắt bi quan. Chúng ta thường nhìn vấn đề trong cái nhìn tiêu cực hơn là tích cực. Giả dụ bây giờ được hỏi máy bay Malaysia mất tích ngày 08.03 vừa qua do nguyên do gì? Có lẽ đa phần sẽ trả lời là do khủng bố. Bởi thế giới ngày nay người ta quá quen với những hình ảnh khủng bố, máu đổ, chém giết, bom đạn.

Có một lần, một người nói với tôi họ mất một con gà và họ nghi ngờ người hàng xóm lấy trộm. Tôi hỏi rằng: Có bằng chứng không? Tại sao chị không nghi ngờ là con gà của mình nó bị con chồn bắt mất hay mèo hoang ăn mất. Vì nơi nhà chị là giữa đồng hoang…? Đừng kết án vội kẻo sai lầm tội nghiệp cho họ.

Đây cũng là cái nhìn cố hữu của những người biệt phái. Họ nhìn để bắt bẻ, để xem có đúng luật hay không? Thế nên, thường là họ tìm cách quy kết tội vào một con người. Những người biệt phái có lẽ cũng đã quá quen nhìn mọi sự trong cái nhìn bi quan nên họ không thể nhận ra cái tốt nơi tha nhân. Họ chỉ muốn phân tích theo chiều hướng tiêu cực hơn là tích cực.

Chúa Giê-su là Đấng có thể mang lại ánh sáng cho người mù. Ánh sáng của tâm hồn và thể xác. Mù kiểu nào cũng đáng thương, cũng tội nghiệp. Mù kiểu nào nhìn sự việc cũng khiếm khuyết, cũng không trọn vẹn, cũng sai lầm. Nhất là những người mù về tình người sẽ làm cho họ nhìn đời, nhìn người bằng ánh mắt ghen tương, giận hờn…

Thế nên, hãy để cho Chúa chữa trị con mắt của chúng ta. Hãy để cho Chúa mang lại ánh sáng cho cặp mắt chúng ta nhìn đời, nhìn người trong cái nhìn của yêu thương, của hy vọng. Một cái nhìn cuộc đời thật đơn giản, thật đáng yêu.

Đây cũng là cái nhìn mà Xuân Diệu đã từng nói:

Hãy nhìn đời bằng đôi mắt xanh non

Hãy để trẻ con nói cái ngon của kẹo

Hãy để cho bà nói má thơm của cháu

Hãy nghe tuổi trẻ ca ngợi tình yêu

Khi nhìn đời bắng ánh mắt lạc quan sẽ giúp ta nhìn người trong cái nhìn thân thiện, nhìn cuộc đời mới đáng yêu làm sao! Nhìn người đi trước trong cái nhìn kính trọng, nhìn người đi sau trong cái nhìn trân trọng. Và hơn nữa, muốn nhìn đời cho đúng phải biết chỗ đứng của mình mới có cái nhìn chính xác về cuộc đời.

Đôi mắt xanh non cha xin của con

Người đi trước xin của người sắp tới

Biết chỗ đứng để nhìn cho thật mới

Cuộc sống xanh non mãi mãi tươi giòn….

Xin Chúa Giêsu là ánh sáng trần gian soi sáng tâm trí để chúng ta biết nhìn đời thật đáng yêu, nhìn người bên cạnh thật đáng trân trọng. Xin đừng vì ích kỷ, mù quáng mà sống thiếu tình thân với tha nhân. Amen.

14.Mù loà và mù quáng

(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)

Xuyên qua Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy có hai loại mù: mù loà của đôi mắt thể xác và mù quáng của tâm hồn, của đầu óc.

Người mù bẩm sinh trong Tin Mừng hôm nay tuy bị mù đôi mắt thể xác nhưng anh ta lại sáng suốt hơn những người Pharisêu tự cho mình tinh thông.

Trong khi đó, những người Pharisêu tự hào là người khôn ngoan thông sáng, nhưng họ đang bị mù quáng mà chẳng hay. Họ bị thành kiến che mờ tâm trí nên họ không nhận ra Đức Giêsu là Đấng cứu độ nên họ đã không được đón nhận ơn cứu độ do Người tặng ban.

Những người mù loà thể xác hầu hết rất hiền hòa. Chưa từng nghe nói người mù gây ra tội ác hay phạm pháp bất cứ ở đâu. Họ là những người đáng thương và đáng kính.

Còn người mù quáng là những người thường gây ra lỗi lầm và tội ác nên họ thường bị người đời lên án khinh chê.

Có nhiều hình thức mù quáng gây ra hậu quả rất tai hại:

Mù quáng vì tham lam

Sách Các Vua có thuật lại câu chuyện hoàng hậu I-dơ-ven, vợ vua A-kháp, vì tham lam muốn chiếm đoạt vườn nho của ông lão nghèo Na-vốt, đã dàn dựng một vụ án quy kết Na-vốt tội nguyền rủa Thiên Chúa và nguyền rủa đức vua, rồi tuyên án ông phải bị ném đá chết. Lòng tham lam đã làm cho hoàng hậu I-dơ-ven ra mù quáng đến độ đang tâm giết hại một ông lão nghèo vô tội để chiếm đoạt vườn nho của ông ta. (sách các vua I, chương 21)

Mù quáng vì ghen tị

Sách Samuel ghi lại rằng vua Sa-un rất yêu thương Đavít, nhưng khi Đavít hạ được tên tướng giặc khổng lồ là Gô-li-át để cứu nguy cho quân dân Israel và quay trở về trong chiến thắng, “thì phụ nữ từ hết mọi thành của Israel kéo ra, ca hát múa nhảy, đón vua Sa-un, với trống con, với tiếng reo mừng và tiếng não bạt. Họ vui đùa ca hát rằng: “Vua Sa-un hạ được hàng ngàn, còn Đavít hàng vạn”. Khi nghe lời đó, vua Sa-un uất lên vì ghen tị. Lòng ghen tị làm cho vua đâm ra mù quáng, đổi lòng yêu thương ra thù ghét và truy lùng Đavít khắp nơi quyết giết cho bằng được vị anh hùng kiệt xuất nầy. (Samuen I, chương 18)

Mùa quáng vì dục tình

Về sau, khi vua Sa-un qua đời, Đavít được lên làm vua. Đavít lại đâm ra mê đắm sắc đẹp của bà Bát-sê-va. Dục vọng đã làm cho vua mù quáng đến độ lập mưu giết chồng bà là Uria để chính thức cưới bà nầy làm vợ. (Samuen II, chương 11)

Nói tóm lại, lòng người rất dễ trở nên mù quáng do tình dục, do lòng tham lam, kiêu căng, ghen tị… khiến người ta lún sâu vào vũng bùn tội ác lúc nào không hay.

Chứng mù quáng nầy tai hại gấp ngàn lần mù loà đôi mắt thể xác.

Có hai điều tai hại do mù quáng phát sinh:

Một là người mù quáng không tự biết tình trạng mù quáng của mình, nên không cảm thấy cần được cứu chữa. Thế là họ cứ bị mù quáng cho đến mãn đời, mà vì mù quáng suốt đời nên cũng thường mắc phải lầm lỗi suốt đời.

Hai là cho dù có nhận biết mình mù quáng đi nữa, người ta cũng không cho đó là điều nghiêm trọng, nên không thấy cần được cứu chữa.

Bất cứ người mù nào cũng khao khát được sáng; nhưng điều đáng tiếc là nhiều người mù quáng, vì không tự biết mình mù, nên không ước ao thoát khỏi tình trạng mù quáng hết sức tai hại của mình.

Nguyện xin Chúa Giêsu soi sáng để chúng ta nhận thức rằng mù quáng vô cùng tai hại và cố tìm cách cứu chữa mình khỏi chứng bệnh rất tai hại nầy.

Lạy Chúa Giêsu là ánh sáng cho trần gian, xin chiếu dọi ánh sáng Chúa vào tâm trí chúng con, cứu chúng con khỏi bị mù quáng do dục vọng gây nên, để chúng con khỏi hư mất đời đời nhưng được cứu độ và được sống, sống có nhân cách cao đẹp ở đời nầy và sống viên mãn trong thế giới hồng phúc mai sau.

15.Một thứ mù rất đáng sợ

(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)

Hoàn cảnh người mù từ lúc mới sinh được Chúa Giê-su chữa lành mà chúng ta vừa nghe trong bài Tin mừng hôm nay, khiến người ta liên tưởng đến chứng mù khác đáng sợ hơn nhiều. Đó là chứng mù con mắt lương tri, mà tiêu biểu nhất là “mù-tội”, nghĩa là không thấy được những sai lầm và tội lỗi của mình.

Biểu hiện rõ nét nhất của chứng “mù-tội” là người ta không thấy được tội mình, do đó chẳng hối hận và cũng chẳng hề tự trách mình.

Ông Dale Carnegie, (1888-1955) một nhà văn và nhà thuyết trình danh tiếng người Mỹ, viết nhiều cuốn sách nổi tiếng được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới, cho rằng: “Tôi phải mất 33 năm trời để khám phá ra sự thật này là cho dù người ta có mắc phải những lầm lỗi nặng nề đến đâu, thì trong 100 lần phạm lỗi, có đến 99 lần người ta chẳng trách mình gì cả,[1]” như thể mình vô tội.

Ngay cả vua Đa-vít, một vị vua tài ba đức độ của người Do-thái, cũng mắc phải chứng “mù-tội” này.

Vua mê đắm nhan sắc của bà Bát-sê-ba, bà này là vợ của U-ri-a. Vua chiếm đoạt bà, rồi mượn tay quân giặc giết chồng bà là U-ri-a ngoài mặt trận. Sau đó, vua đón bà về cung làm vợ chính thức của mình (II Sam 11 và 12).

Vua Đavít đã phạm một tội to như núi như thế mà vẫn ung dung như thể mình chẳng phạm tội gì.

Thế nhưng, khi nhà vua nghe ngôn sứ Na-tan cho biết có một ông nhà giàu có nhiều dê cừu, sai tôi tớ đi bắt con chiên độc nhất của một ông lão nghèo bên cạnh để làm tiệc đãi khách, thì vua bừng bừng nổi giận và lên án người đó cách gắt gao.

Chua chát thay, vua Đa-vít thấy rõ tội nhỏ của người ta mà không thấy thứ tội tày trời của mình. Vua lên án tội nhỏ của người khác mà bao che tội ác to lớn của mình.

Người đời như thế đấy, tội mình to như núi, mình không thấy; tội người ta chỉ bằng viên sỏi, thì thấy rõ ràng.

Đúng như lời Chúa nói: Các ngươi thấy rõ “cọng rác trong con mắt của người khác, mà cái xà ngang trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới” (Mt 7,3).

Chứng “mù-tội” vô cùng tai hại

Chứng “mù-tội” gây ra hậu quả tai hại ngàn lần hơn là mù mắt, vì hầu hết những người mù mắt đều tốt lành thánh thiện, chẳng làm gì nên tội, trong khi đó, người “mù-tội” thường gây ra nhiều tội ác. Họ gây nhiều tội ác vì họ không thấy tội lỗi của mình và dù có thấy, họ cũng cho là chuyện nhỏ, chẳng lớn lao gì.

Chứng “mù-tội” rất khó chữa

Sở dĩ khó chữa là vì người ta không nhận ra sai lầm và tội lỗi của chính mình. Không thấy mặt minh dơ thì người ta không cần rửa mặt; không thấy áo quần bẩn thì chẳng cần phải đổi thay; không thấy bản thân mình lầm lỗi thì cần gì phải ăn năn hối cải. Thế là người ta đắm chìm trong tội suốt đời.. Vì thế, đây là một chứng bệnh rất khó chữa.

Như vậy, mù không thấy được tội lỗi và tính xấu của mình là một chứng mù đáng sợ và tai hại khôn lường, vì thế phải lo cứu chữa ngay đừng trì hoãn.

Lạy Chúa Giê-su,

Sứ mạng của Chúa khi đến trần gian là “làm cho người mù được sáng” (Lc 4,18) và Chúa đã thực thi sứ mạng này bằng cách mở mắt cho nhiều người mù từ lúc mới sinh, cũng như khai tâm cho nhiều người để họ nhận biết và sống theo giáo huấn của Chúa.

Xin dủ lòng thương xót, mở mắt tâm hồn, mở mắt lương tri cho chúng con, để chúng con nhận ra những sai lầm, những tội lỗi và những thói hư mà chúng con vấp phạm hằng ngày, đồng thời xin giúp chúng con kiên quyết ăn năn chừa tội hầu xứng đáng là con của Cha trên trời.

————————–

[1] “How to Win Friends and Influene people”. page 23

16.Con mắt là cửa sổ của linh hồn

(Suy niệm của Lm Phêrô Trần Minh Đức)

Con người có ngũ quan. Nếu như hoàn cảnh bắt buộc chúng ta phải hủy bỏ một trong ngũ quan, chúng ta sẽ chọn lựa như thế nào: câm điếc hay là mù loà, cụt tay, cụt chân! … Tất cả đều đáng sợ, chẳng ai muốn mình phải rơi vào tình trạng này. Nhưng bất đắc dĩ phải đắn đo suy nghĩ để chọn lựa, tôi tin rằng, sống trong cảnh mù loà là điều đáng sợ nhất. Thật là bất hạnh đối với một đứa trẻ ngay từ khi mở mắt chào đời đã phải sống trong tăm tối, phải chấp nhận một cuộc đời không thấy ánh sáng, không nhìn thấy vẻ đẹp của thiên nhiên, con người cũng như cỏ cây! Lúc lớn lên có thể nghe mọi chuyện, có thể sờ mó tất cả, nhưng không thể thể nào hình dung ra được!

Bài Phúc âm hôm nay cũng nói về những sự việc xẩy ra bên lề của cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và một người bị mù từ lúc mới sinh. Anh ta không thể nào hiểu nổi, tại sao từ khi chào đời mình đã phải mang số phận hẩm hiu như thế này? Mình sinh ra đời làm người như thế này để làm gì? Đâu là ý nghĩa của cuộc đời tôi? Tôi đã làm gì nên tội để rồi phải sống bên lề xã hội, phải đi ăn xin! Phải chăng đây là hình phạt do tội lỗi của cha mẹ gây nên? Anh ta phải quờ quạng, sờ mó mọi vật chung quanh, mong sẽ khám phá ra ý nghĩa của cuộc sống, nhưng tất cả đều vô vọng. Chỉ có một làn da mong manh che đậy đôi mắt nhưng anh có cảm giác, nó giống như một bức tường dầy đặc, không có cách nào đột phá, khai thông!

“Thà thắp nên một ngọn nến, còn hơn là ngồi nguyền rủa bóng tối”. Đức Giêsu đến và làm cho anh được thấy ánh sáng. Nhưng hành động của Đức Giêsu đã tạo nên xáo trộn. Tất cả đều bị lôi cuốn vào một cuộc tranh tụng sôi nổi. Họ đã chứng kiến phép lạ nhưng sự việc xảy ra không đúng lúc, bởi vì là ngày Sabát. Đàng khác một số người lại nghĩ rằng, một kẻ tội lỗi không thể làm dấu lạ! Người mù đã được sáng mắt. Đó là sự thực hiển nhiên không thể chối cãi, nhưng không ai dám tin vào mắt của mình. Cha mẹ của anh mù thì tìm cách thoái thác, tránh né. Anh mù thì quả quyết rằng, Đức Giêsu là một tiên tri.

Bài Phúc âm cũng phản ảnh hình ảnh thực tế của cuộc sống con người ngày nay! Chúng ta có mắt nhưng nhiều khi giống như kẻ đui mù. Nhiều người đi ngang qua nhìn thấy anh mù nhưng làm ngơ giống như không hề nhìn thấy. Tương tự như thế, chúng ta chỉ để mắt nhìn những gì chúng ta muốn, chúng ta chỉ quan tâm đến những người chúng ta có cảm tình. Dĩ nhiên trong ngày có rất nhiều hình ảnh đập vào mắt, đặc biệt qua mạng lưới truyền hình với kỹ thuật tân tiến hiện nay. Chúng ta phải chọn lựa nhưng dựa vào tiêu chuẩn nào đây? Đam mê dễ biến thành cực đoan, tình yêu cũng có thể thành mù quáng! Nhiều người vẫn tự hào nhìn nhận mình thuộc thành phần trí thức, gia đình gia giáo nhưng không bao giờ để tâm chú ý tới những cảnh bất công, bần cùng bên lề đường, những kẻ sống trong cảnh man rợ đáng sợ hơn cảnh mù loà gấp ngày lần. Đó chính là thái độ sống của những kẻ nghĩ rằng mình là kẻ sáng mắt, nhưng trong thực tế còn tệ hơn kẻ đui mù.

Người mù đã được Đức Giêsu chữa lành nhưng đồng thời cũng lột trần bộ mặt thật của những người chung quanh. Anh đã làm chứng tá cho Đức Giêsu. Người chính là ánh sáng đích thực, có sức làm tan biến lớp sương mù dầy đặc che phủ tầm mắt của chúng ta. Qua bí tích Rửa tội Đức Giêsu đã ban tặng cho chúng ta một cặp mắt lành mạnh. Nhờ đó chúng ta có thể khám phá những khía cạnh tốt đẹp nơi người anh em sống bên cạnh chúng ta. Con mắt là cửa sổ của linh hồn. Chúng ta chỉ nhìn và khám phá ra thế giới muôn màu ở chung quanh với con mắt đầy tình thương, với con mắt của đức tin, của tâm hồn.

17.Nhận ra lòng Chúa xót thương

(Suy niệm của Lm Gioan Nguyễn Văn Ty)

Đứng trước thân phận đáng thương của một người bị mù lòa từ thuở mới lọt lòng mẹ, hay trước bất cứ một số kiếp hẩm hưu nào khác, người ta dễ dàng đặt câu hỏi: ‘tại sao?’. Tìm hiểu nguyên nhân sự việc là một đòi hỏi hợp lý của bất cứ đầu óc suy luận nào; và trong công việc đó, định luật ‘nhân – quả’ thường được áp dụng cách triệt để. “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” Càng suy nghĩ theo lối thông thường đó thì câu trả lời của Đức Giêsu càng gây cho chúng ta kinh ngạc đến sửng sốt: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh”. Đó quả là một lối nhìn, một suy luận thật khác lạ, đi ra ngoài (đúng hơn: vượt lên trên) qui luật luận lý nhân quả, một điều mà lý trí tự nhiên khó ai chấp nhận nổi. Tuy nhiên chính lối nhìn và hiểu biết này mới là triết thuyết của Tin Mừng, vì nó chứa đựng bên trong một sức mạnh giải phóng đến kỳ lạ. Phải chăng đây chính là lô-gích mới mẻ đã được giới thiệu cho nhân loại? Không may, mỗi khi có một tia sáng mới lóe lên thì ánh sáng chói lọi của nó thoạt đầu dễ làm cho con mắt chúng ta bị xốn xang. Ánh sáng Tin Mừng cũng là như thế, thoạt nghe nó có vẻ điên rồ và phi lý siết bao!

Theo khẳng định của Đức Giêsu thì ‘nhận ra công trình của Thiên Chúa’ mới chính là nguyên nhân (hay mục đích) của biết bao sự kiện tang thương, tiêu cực đang xảy ra trên trần gian (động đất, sóng thần tàn phá Nhật Bản hay siêu bão hayan chỉ là nhưng ví dụ điển hình). Câu khảng định trên mới nghe ta tưởng như hoàn toàn phi lý, không thể chấp nhận được. Ta vẫn quen chia sẻ lối suy nghĩ phổ biến: ‘công trình của Thiên Chúa’ phải là điều gì hùng vĩ, hoàn hảo và tốt lành lắm; còn những bất toàn, tang thương không thể là công trình của Ngài. Nguyên nhân của các sự kiện đó nằm ở nơi khác… tội lỗi chẳng hạn; cùng lắm Thiên Chúa cũng chỉ ‘cho phép’ xảy ra vì một lý do nào đó, để thử thách, răn đe… Cách duy nhất để giải thích câu nói của Đức Giêsu là hiểu: ‘công trình của Thiên Chúa’ chính là lòng nhân ái xót thương mà Thiên Chúa đang ra công thực mạc khải và thực hiện, nhất là qua cuộc sống và cái chết thập giá của Giêsu Na-da-rét. Trong trường hợp cụ thể của người mù từ lúc mới sinh, thì chính nhờ việc anh được chữa lành mà anh, và nhiều người khác nữa, nhận biết Đức Giêsu đến từ Thiên Chúa nhân lành. “Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì”. Anh mù đã nhận ra lòng thương xót của Thiên Chúa đối với mình qua con người được sai đến là Đức Giêsu; và một khi đã nhận biết “chính đấng đang nói với anh đây” là vị đó, anh tin vào Người: “Thưa Ngài, tôi tin” và bái lạy Người. Đối với anh, vấn nạn tại sao mình bị mù, cũng như tại sao mình được chữa khỏi có lẽ không quan trọng lắm, điều quan trọng đối với anh là biết rằng mình được Thiên Chúa xót thương. Anh tin vào tình thương đó qua việc ông Giêsu đã chữa anh lành, cho dầu lúc đầu anh chưa biết Người là ai. Niềm tin này đã giúp anh vượt qua lý luận ‘nhân – quả’ để nhìn ra ‘công trình của Thiên Chúa’ là lòng nhân ái Ngài. Trong khi đó những người Pha-ri-sêu thông thái lại đã không vượt qua nổi cái lô-gich hẹp hòi: “mày sinh ra trong tội lỗi ngập đầu… chúng ta không biết ông Giêsu ấy bởi đâu mà đến”. Họ luẩn quẩn trong lối suy nghĩ nhân quả đó nên không thể tìm ra giải đáp thỏa đáng, và như thế sẽ tiếp tục mãi tình trạng đui mù là không thể nhận ra ‘công trình của lòng Chúa xót thương’. “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: ‘Chúng tôi thấy’, nên tội các ông vẫn còn!”

Như vậy niềm tin Kitô hữu phải giúp tôi vượt lên trên lối suy nghĩ ‘nhân-quả’ bình thường, để nhận ra công trình yêu thương Thiên Chúa từ nhân đang thực hiện qua mọi biến cố buồn vui đang xảy đến cho tôi và cho nhân loại. Nhìn lên Đức Giêsu chết treo trên thập giá, tôi không được luẩn quẩn mãi trong cái suy luận phức tạp ‘tại sao?’, nhưng với con mắt đức tin phải nhận ra ngay ‘công trình yêu thương’ Thiên Chúa đang liên tục thực hiện. Cũng với niềm tin này, tôi nhìn vào mọi biến cố hàng ngày đang xảy ra cho chính tôi và quanh tôi, nhất là khi chúng tiêu cực và vô lý tới độ không thể nào giải thích nổi, để nhận ra bằng chứng không thể chối cãi về sự hiện diện đầy nhân ái của Thiên Chúa là Cha.

Là Kitô hữu như Phaolô, giữa muôn sóng gió và đổ vỡ của cuộc sống, tôi sẽ luôn sống trong hy vọng và tín thác. Hãy “không để bất cứ điều gì làm bạn xao xuyến!” (‘nada te turbe’ Tê-rê-xa Avila) vì “không gì có thể tách tôi ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Kitô Giêsu” (Rm 8,39).

Lạy Chúa, xin hãy ban cho con ơn để được nhìn thấy trong mọi biến cố cuộc đời, nhất là khi đau khổ và tội lỗi ngập tràn,‘công trình cứu độ của Thiên Chúa đang được tỏ hiện’ nơi con. Xin cho con cặp mắt sáng như thánh Âu-tinh, để nhận ra ngay cả các tội mình đã từng phạm trong quá khứ đều là những ‘tội hồng phúc!’, vì qua đó, con càng có thể vững vàng hơn đặt trọn niềm tin vào Giêsu Thập Giá, biểu hiện trọn vẹn nhất của tình yêu nhân ái Chúa Cha không bao giờ xua đuổi ruồng bỏ con. Amen

18.Suy niệm của ĐHY. Phaolô Phạm Đình Tụng

BÀI 1

Mù là một chứng bệnh gây nhiều đau khổ thiệt thòi, buồn tủi và nguy hiểm cho bệnh nhân. Người mù suốt đời, ngày cũng như đêm ở trong tối tăm, không xem thấy ánh sáng, không thể nhìn ngắm cảnh đẹp thiên nhiên, màu sắc của vạn vật cũng như nét mặt xinh tươi của người thân yêu. Đó là những thiệt thòi rất lớn làm giảm thiểu sinh lực và hạnh phúc của cuộc đời.

Hơn nữa, người mù còn mặc cảm, coi mình là vô dụng, ăn bám và phải cậy nhờ người khác trong mọi sự, đi phải có người dắt, ăn phải có người đem đến tận tay, có khi liều mình gặp nguy hiểm sa lửa, sa nước, va chạm, vấp ngã thiệt đến tính mạng.

Mù là chứng bệnh gây đau khổ thiệt thòi cho bệnh nhân như vậy. Đàng khác, mù cũng là chứng bệnh nan y bất trị, ngày nay khoa học đã tiến bộ rất nhiều, người ta chữa được nhiều bệnh trước kia không thể điều trị, dù vậy, người ta chưa tìm được phương thuốc nào làm cho người mù sáng mắt.

Một việc mà con người sau bao cố gắng tìm tòi, cho đến nay vẫn chưa làm được thì Đức Kitô đã thực hiện một cách dễ dàng mau chóng như một trò chơi thích thú. Bài Phúc âm hôm nay thuật lại rằng: “Khi ấy, Chúa Giêsu gặp một người mù bẩm sinh đang ngồi ăn xin, Chúa nhổ xuống đất, lấy nước miếng(nước dãi) trộn thành bùn xoa lên mát người đó, rồi bảo đi tới hồ Si-lô-ê mà rửa. Anh đi ra và rửa, đoạn trở lại thì trông thấy mọi sự rõ ràng”. Đây là một phép lạ hiển nhiên, gây chấn động mạnh mẽ trong dân chúng. Theo công lệ tự nhiên, bùn chỉ có thể làm cho người ta đau mắt, nhưng trường hợp này bùn xoa vào mắt lại làm cho người mù được sáng. Như vậy, không phải do tính chất của nó mà do quyền năng của Đức Giêsu đã phú bẩm cho nó và dùng nó như chất liệu chữa bệnh phần xác.

Ta có thể nói, đây là hình ảnh các nhiệm tích mà Chúa sẽ lập, trong đó Chúa dùng những chất liệu bề ngoài để chữa tật bệnh linh hồn, thí dụ: nước trong phép Rửa tội, dầu thánh trong phép Xức dầu bệnh nhân. Sau nữa, phép lạ chữa người mù trong bài Phúc âm hôm nay cũng tượng trưng một việc vĩ đại hơn Chúa sẽ thực hiện, đó là làm cho người ta khỏi mù phần linh hồn, biết mở mắt trí khôn nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và là Cha nhân lành, nhìn nhân Đức Ki ô là Đấng Thiên Chúa sai xuống cứu độ loài người. Vì thế, sau khi người mù bẩm sinh, được Chúa cho sáng mắt, anh đã can đảm làm chứng về Chúa và bị người Do thái đuổi ra khỏi Đền thờ, Chúa đã đến gặp anh và hỏi: “Ngươi có tin Con Thiên Chúa không?” – Anh nói: “Thưa Ngài, Con Thiên Chúa là ai để tôi tin”. – Chúa trả lời: “Ngươi đang nhìn thấy Ngài và Ngài đang nói với ngươi”.- Anh liền thưa: “Lạy Thày, con tin và anh sấp mình thờ lậy Chúa”. Từ đây, anh trở nên một tìn hữu nhiệt thành và một tông dồ can đảm. Đối với anh được khỏi mù phần xác là một sung sướng lớn lao, nhưng được khỏi mù phần linh hồn là một hạnh phúc lớn lao hơn nhiều, vì bệnh mù phần xác chỉ là một bất hạnh tương đối và tạm thời ở đời này, còn bệnh mù phần linh hồn làm mất hạnh phúc vĩnh cửu đời sau, không thể lấy gì bù lại được. Do đó, những năm ở trần gian, Chúa gặp rất nhiều người mù, nhưng chỉ một số ít được Chúa chữa khỏi, khi về trời Chúa cũng không để lại phương thuốc gì để chữa người mù sáng mắt. Nhưng phần linh hồn, Chúa còn dùng những phương thế hữu hình để soi sáng cho người ta biết Chúa và những chân lý trong Đạo. Những phương thế hữu hình đó thể hiện nhiều cách khác nhau: có khi là một lời khuyên với dòng nước mắt của người mẹ gia đình như bà thánh Mônica đã làm cho thánh Auguttinô là con mình trở lại Đạo chính; có khi là một hiện tượng gây xúc động xẩy đến như đám tang và thi hài tàn rữa của bà hoàng xinh đẹp nhất nước đã làm cho thánh Phanxicô bỏ địa vị chức quyền để tận hiến cuộc đời cho Chúa; có khi là một thất bại trong ước mơ, như việc thua kiện bất ngờ đã làm thánh Anphongsô bỏ đường danh vọng để dâng mình phục vụ Giáo Hội; có khi là gương sáng của người chung quanh như cử chỉ tôn sùng thành kính của người Ả rập đã làm cho cha Sac-lơ Phu-cô lấy lại được Đức tin đã mất từ thời niên thiếu…Tất cả những sự kiện hữu hình trên đây, ta có thể nói là như chất liệu Chúa đã dùng để làm cho người ta sáng mắt linh hồn, nhìn nhân được Chúa và trở lại với Ngài, cũng như Chúa đã dùng chất bùn làm cho anh mù bẩm sinh được sáng mắt rồi sau đó được sáng trí khôn để tuyên xưng Chúa và tôn thờ Ngài.

Tuy nhiên, chúng ta đừng quên rằng: ánh sáng làm cho người có mắt lành mạnh được dễ chịu và xem thấy sự vật, nhưng cũng làm cho người đau mắt khó chịu và chói lòa. Đức Giêsu là ánh sáng soi trần gian, những ai có thiện chí và tâm hồn ngay lành mới nhận được Ngài, còn những ai thiếu thiện chí và có thành kiến sẽ không nhìn nhận Chúa mà còn phản đối Ngài. Bài Phúc âm hôm nay chứng minh điều đó, đứng trước phép lạ hiển nhiên Chúa làm, người mù đã nhận Chúa và tuyên xưng Ngài là Con Thiên Chúa, song những người biệt phái thì tìm mọi cách để chối bỏ phép lạ của Chúa và còn trục xuất những ai tuyên xưng Ngài là Đấng Kitô. Trước sự ngoan cố của họ, Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Chính vì để xét xử mà Ta đã xuống trần gian để những ai không xem thấy thì được xem thấy và những kẻ xem thấy sẽ hóa nên mù”.

Để kết luận, chúng ta hãy xin Chúa cho ta một thiện chí và một tấm lòng ngay lành để chúng ta đón nhận được Chúa khi Ngài dùng các dấu chỉ bề ngoài mà đến gặp ta và tỏ cho ta nhận biết Người. Amen

19.Suy niệm của ĐHY. Phaolô Phạm Đình Tụng

BÀI 2

Bài Phúc âm hôm nay thuật lại một phép lạ Đức Giêsu làm cho một người mù bẩm sinh được sáng mắt.

Trước phép lạ hiển nhiên đó, ta thấy có bốn thái độ của những hạn người khác nhau:

– Trước hết là thái độ bàng quan của dân chúng. Họ đứng ngoài cuộc mà nhìn, không tham gia, coi như không liên hệ gì đến mình, do đó, họ phát biểu những ý kiến vu vơ trái ngược nhau. Kẻ thì đặt vấn đề “Phải chăng đây anh mù vẫn ngồi ăn xin?”, người thì nói: “Chính là hắn ta”; kẻ khác lại bảo: “Không phải, nhưng là một tên khác giống như hắn”.

– Sau là thái độ hèn nhát, trốn trách nhiệm của cha mẹ anh mù, ông bà ta biết rõ anh mù là con mình, và anh ta đã được Chúa Giêsu chữa khỏi, nhưng ông bà không dám nói lên sự thật, không dám làm chứng cho Chúa, ông bà sợ liên can, bị phiền hà vì người Do thái đã bàn tính trục xuất khỏi hội đường bất cứ ai công khai nhận Đức Giêsu là Đấng Kitô. Bởi đó, ông bà đẩy trách nhiệm cho con mình và nói: “Chúng tôi nhận nó là con chúng tôi và bị mù từ mới sinh… nhưng ai đã mở mắt cho nó thì chúng tôi không biết. Nó khôn lớn rồi, các ông hãy hỏi nó, nó sẽ tự trả lời các ông”.

– Thứ ba là thía độ ngoan cố và ác cảm của người biệt phái, vì các cảm với Chúa Giêsu, họ không muốn nhận Ngài là Đức Kitô. Lại còn ngăn cấm những ai nhìn nhận và làm chứng cho Ngài. Vì ngoan cố họ nhắm mắt trước một sự thật quá hiển nhiên và tìm mọi cách cho người khác phủ nhận sự thật đó. Nhưng không may cho họ, những lập luận ngụy biện của họ không thuyết phục được anh mù mà còn bị anh phỉ báng những lời lẽ đanh thép khiến họ phát khùng đến nỗi dùng quyền lực đàn áp công lý truc xuất anh ra khỏi hội đường. Thái độ ác cảm và ngoan cố của họ bị Chúa lên án khi Ngài tuyên bố: “Ta đến trần gian để cho những kẻ không xem thấy được xem thấy, còn những kẻ xem thấy trở nên mù”.

– Sau cùng, thái độ của anh mù là phục thiện, thẳng thắn và kiên cường. Người phục thiện luôn sẵn sàng từ bỏ quan điểm riêng mình để lằng nghe lẽ phải, nhìn nhận sự thật. Người luôn sẵn sàng bệnh vực lẽ phải, làm chứng cho sự thật theo tiếng lương tâm. Không quanh co dấu diếm, không chiều đời cho yên phận. Thánh Phaolô một lần đã phản đối thánh Phêrô vì không thẳng thắn. Đó là, trước khi những người Do thái đến thì thánh Phêrô ăn uông với người dân ngoại tân tòng, nhưng khi người Do thái đến thì Phêrô lẩn tránh vì sợ họ phê bình, Trước thái độ mập mờ không hợp tinh thần Phúc âm như vậy, ông Phaolô đã nói với ông Phêrô: “Ông là người Do thái mà muốn sống theo kiểu dân ngoại, có lẽ gì ông bắt người dân ngoại sống theo kiểu Do thái?”(Gal 2, 12-13)

Trở lại người mù trong Phúc âm, chúng ta thấy anh ta rất phục thiện và thẳng thắn. Anh dám nhìn thẳng vào sự thật, mặc dù người khác cố tình phủ nhận. Khi người ta hỏi làm thế nào mà anh được sáng mắt, anh trả lời ngay: Ông mà thiên hạ gọi là Giêsu làm bùn xức mắt tôi, bảo tôi đến hồ Si-lô-ê mà rửa. Tôi đã đi, đã rửa và tôi trông thấy. Vì không che dấu được phép lạ Chúa Giêsu đã làm, những người Do thái đổi chiến lược vào uy tín của Ngài. Họ nói với anh mù: “Chúng tôi biết Thiên Chúa đã phán với ông Maisen, còn người đó, chúng ta không biết bởi đâu mà đến. Anh mù thẳng thắn trả lời cái đó mới lạ chứ! Ông ấy đã mở mắt cho tôi mà các ngài không biết bởi đâu mà đến…” “Xưa nay chưa từng nghe nói có ai mở mắt cho người mù bẩm sinh, nếu người ấy không bởi Thiên Chúa. Qua cuộc rtanh luận đó, ta thấy anh mù rất phục thiện và thẳng thắn, hơn nữa anh còn tỏ ra kiên cường nghĩa là trung thành giữ vững lập trường không ngại khó khăn, không sợ đe dọa, sẵn sàng đón nhận hậu quả là bị trục xuất ra khỏi hội đường và bị coi như người ngoại giáo.

Ngày nay, Chúa đã về trời, Đạo Chúa đã được rao giảng khắp nơi và từ hai nghìn năm nay, thái độ của nhân loại đối với Đạo Chúa cũng như những người đồng thời với Chúa.

Trước hết, là những người bàng quan, không xét đến vấn đề tôn giáo, vì họ còn bận tâm làm những việc khác mà họ cho là thiết thực hơn.

Sau là những người tin Đạo, nhưng chỉ giữ Đạo tại tâm, không dám tuyên xưng Đạo ra trước mặt thiên hạ, không dám lên tiếng bệnh vực sự Đạo khi cần thiết, giống như bố mẹ anh mù trong bài Phúc âm hôm nay.

Thứ ba là những người ác cảm với Đạo và bách hại những ai tin Đạo, như những người biệt phái ác cảm với Chúa, cố tình phủ nhận phép lạ Chúa làm, và trục xuất những ai tuyên xưng Chúa là Đức Kitô.

Sau cùng là những người có tâm hồn trong sạch, ý chí ngay lành, đã tin theo Chúa và sẵn sàng chịu mọi khó khăn để trung thành với Chúa như các Thánh Tử Đạo mà lịch sử Giáo Hội đã ghi lại những tấm gương anh hùng.

Xưa, khi Đức Mẹ dâng Chúa trong Đền thờ, có cụ già Simêon ẵm Chúa trên tay, tuyên xưng Chúa là ánh sáng soi các dân tộc, cụ cũng nói tiên tri về tương lai của Chúa và thái độ người đời đối với Ngài. Cụ nói: “Trẻ này sẽ nên duyên cớ cho nhiều người vấp phạm và nhiều người chỗi dậy”(Lc 2, 34). Lời tiên tri đó đã ứng nghiệm. Cũng một cái đèn sáng nhưng sinh hiệu quả khác nhau tùy thái độ mỗi người trước cái đèn đó, ai quay mặt về hướng đèn sẽ nhìn thấy ánh sáng và biết đường đi, ai quay lưng lại, thì bản thân họ sẽ tạo nên bóng tối, làm họ vấp ngã.

Trong Phúc âm, Chúa cũng xưng mình là ánh sáng thế gian, ai theo Ngài sẽ không bước đi trong tối tăm.

Nguyện xin Chúa cho chúng ta có một tâm hồn trong sạch, một ý chí ngay lành, một niềm tin vững mạnh để bước theo Chúa cho đến cùng. Chúa là đường, là sự thật, là sự sống, bước theo Chúa chúng ta sẽ không lầm lạc, ở trung thành với Chúa ta sẽ được sống đời đời.

20.Ánh sáng từ trái tim

(Suy niệm của ĐGM. Cosma Hoàng Văn Đạt)

Chúa Giêsu chữa một người mù từ khi mới sinh và cho biết Chúa là ánh sáng chiếu soi trần gian.

1. Một cụ già trong một làng quê một hôm đặt câu hỏi cho các thanh niên: “Làm sao biết được trời còn tối hay đã sáng?” Một người trả lời:

– Khi ở tận chân trời có con trâu với con bò mà phân biệt được thì trời đã sáng; nếu không phân biệt được thì trời còn tối.

– Chưa đúng hẳn!

Một người khác:

– Khi ở mãi chân trời có cây dừa với cây chuối mà phân biệt được thì trời đã sáng; nếu không phân biệt được thì trời còn tối.

– Chưa đúng hẳn!

– Vậy cụ dạy thế nào ạ?

– Khi có một người đến với chúng ta, bất kể tuổi tác, màu da, tiếng nói, tôn giáo, học vấn, tính tình, quá khứ… mà chúng ta nhận ra đó là một người anh em, thì trời đã sáng; nếu không thì trời còn tối.

2. Một vị Nhật hoàng sau khi làm việc căng thẳng muốn thư giãn, nên xin các quan tìm cho một người biết nói đùa. Người ta dẫn đến cho ông một thiền sư.

Nhật hoàng:

– Ta muốn nhà ngươi nói đùa cho ta nghe.

– Tâu bệ hạ, xin bệ hạ nói trước để hạ thần nói đùa theo.

– Ta thấy nhà ngươi giống y hệt một con lợn!

– Tâu bệ hạ, còn hạ thần thì thấy bệ hạ giống y hệt Đức Phật!

– Tại sao ta bảo nhà ngươi là con lợn mà nhà ngươi lại bảo ta là Đức Phật?

– Tâu bệ hạ, dễ hiểu lắm ạ: ai có tâm của Phật thì nhìn vào đâu cũng thấy Đức Phật; còn ai có tâm của lợn thì nhìn vào đâu cũng thấy lợn!

3. Lạy Chúa Giêsu, xin cho con trái tim của Chúa, để con nhận thấy mọi người đều là anh em, và nhận thấy mọi anh em đều là hiện thân của Chúa.

21.Ánh sáng chiếu soi

Các nhà thơ thường thi vị hóa cặp mắt “như cửa sổ tâm hồn”, chính nhờ cặp mắt mà con người mới có thể nhìn thấy ánh sáng để biểu lộ tình yêu, biểu lộ với các tương quan, ánh sáng tự nhiên để dẫn ta đến với các cảnh vật xung quanh. Còn ánh sáng tâm hồn để nối kết những mảnh đời, những con tim lạc điệu đến gần nhau hơn. Nhưng quan trọng hơn hết vẫn là ánh sáng đức tin cho con người “thấy” được Thiên Chúa và đến gần với Ngài hơn.

Trong công việc mục vụ thăm viếng, tôi có dịp đến thăm một bà già bị mù từ lúc bẩm sinh. Qua tâm sự tôi biết được sự khao khát lớn nhất của bà là được nhìn thấy ánh sáng để đi đọc kinh, xem lễ và làm việc dễ dàng hơn. Nhưng điều làm tôi nể phục là bà không bao giờ bỏ một lễ Missa nào, cho dù là trời mưa gió đường khó đi , hay lễ sớm trời tối. Bà vẫn đi dự lễ với cây gậy tre, bà mò mẫm từng bước một thật cực khổ. Bà cũng thuộc được rất nhiều câu Kinh Thánh và các kinh đọc hàng ngày…. Nhưng ngược lại, có rất nhiều người sáng mắt gần đó tôi không bao giờ thấy đi dự lễ Missa hàng ngày, mà chỉ thấy có mỗi ngày Chúa Nhật, khi được hỏi nguyên do tại sao, thì họ trả lời là do trời tối đi không được. Do đó tôi mới đi đến kết luận là nếu nhìn thấy ánh sáng thì mỗi người phải tự mình biết “mở mắt” ra để đón nhận ánh sáng.

Bà già mù tôi viếng thăm, tuy không thấy gì bên ngoài, cặp mắt bà đã bị hư từ lúc mới sinh, cũng giống như anh mù trong bài Tin Mừng hôm nay. Hay nói đúng hơn cả hai chỉ bị mù con mắt thân xác, nhưng con mắt tâm hồn họ không mù. Họ đang chờ đợi một ánh sáng xuất hiện, chỉ cần một cơ hội là họ nhận ra, họ bước theo ngay. Trong suốt bài Tin Mừng là một hành trình của người mù, anh tiến vào ánh sáng đức tin một cách tiệm tiến. Tuy anh chỉ là người thụ ơn và đến lúc sáng mắt vẫn chưa biết người chữa mình là Ánh Sáng Thế Gian. Việc lành bệnh đối anh chỉ là điều không tưởng, nhưng đó lại là sự thật anh đã sáng mắt, mà anh chỉ biết mình được sáng mắt là nhờ ông Giêsu nào đó đã lấy bùn thoa vào mắt và anh vâng lời đi rửa và đã nhìn thấy.

Hành trình đức tin của anh mù không phải là một con đường dễ dàng, anh phải đi từ những nghịch cảnh đơn giản đến những tình huống phức tạp. Chính thái độ chấp nhận và hành trình dấn thân theo lời Chúa dạy mà mắt anh lập tức đã được mở ra, anh đã “Thấy” Chúa Giêsu không phải bằng cặp mắt xác thịt, mà còn cảm nhận thấy Ngài bằng cặp mắt đức tin. Người hành khất mù loà bẩm sinh, kẻ bị coi là tội lỗi bị xã hội từ chối, một hình phạt mà người Do Thái cho là nặng nề, nhục nhã nhất đã trở nên “dấu chỉ” sống động của những người được Đức Giêsu soi sáng và tái sinh.

Trong cuộc sống đạo, chúng ta không bị mù về con mắt thể xác, cũng không bị mù về con mắt tinh thần. Nhưng thực tế thì sao? Chúng ta vẫn chưa biết mở con mắt ra để sống trong ánh sáng đức tin. Rất nhiều lần ta sống như một kẻ mù loà. Mù vì không bao giờ thấy được những hồng ân Chúa ban để tạ ơn Người. Ta mù vì không thấy được những kỳ công quyền năng Chúa làm để mà ca tụng ngợi khen, mù loà vì đã không thấy được biết bao nhiêu điều thiện hảo mà những anh em đồng loại khác đã làm cho chúng ta để mà tạ ơn… Có những lúc chúng ta không bị mù loà nhưng lại cố ý đóng kín mắt để không nhìn thấy, cố ý bịt tai như bị tê liệt để không còn nghe thấy những điều khốn cực, nghèo khổ mà đáng ra tôi phải có bổn phận giúp đỡ, tê liệt trước những thiếu thốn của anh em xung quanh trong khi hiện tại tôi đang dư thừa.

Ngược lại với bà già mù mà tôi viếng thăm, là những người sáng mắt xung quanh. Cũng giống như những đầu mục Do Thái và những người Pharisêu hôm nay, tự kiêu tự mãn là minh “sáng mắt” chối bỏ những “dấu chỉ”. Hậu quả là phải chịu đắm mình trong đêm tồi triền miên. Trong khi những người mù nhờ Đức Giêsu đã trở nên sáng mắt, thì những người tự cho mình là sáng mắt lại trở nên mù loà. Như Đức Giêsu đã cảnh cáo “Tôi đến thế gian này để xét xử cho người không xem thấy được thấy và kẻ xem thấy lại trở nên đui mù” (Ga 9, 39). Những người Phariseu tự cho mình là người sáng mắt lại trở nên mù loà. Chính sự cứng đầu kiêu căng đó đã tố cáo rằng không phải mắt họ bị mù loà. Nhưng là tâm hồn họ bị mù loà, lòng trí họ bị bóng đêm phủ lấp, đến nỗi họ không thể nhìn thấy được các dấu chỉ của Thiên Chúa. Và khi Ánh Sáng đến họ không chịu chấp nhận mà lại lao mình vào trong bóng tối u mê.

Lạy Chúa , xin Chúa biến đổi tâm hồn con trong Mùa Chay này, xin chữa lành bệnh mù tinh thần của chúng con, xin Chúa làm cho đôi mắt đức tin của chúng con được nhìn thấy. Xin Chúa làm cho chúng con thành những người biết nhận ra Chúa trong mọi sự và cảm nhận được rằng: Chúa là Ánh Sáng, là Sự Sống và là sự cứu rỗi. Amen.

22.Lạy Chúa, xin cho con được thấy!

(Suy niệm của Lm. Phaolô Trương Hoàng Phong)

Ngày xưa, mỗi khi ra khỏi nhà vào ban đêm, người Nhật Bản thường có thói quen tay cầm theo một chiếc lồng đèn. Chuyện kể rằng: Vào một đêm nọ, có một người mù đến thăm một người bạn cùng xóm. Lúc từ giã ra về, thấy anh bạn mù không cầm chiếc lồng đèn trên tay nên anh chủ nhà mới lấy chiếc lồng đèn của mình để đưa cho anh mù.

Nhưng anh mù từ chối và nói:

– Đối với một người mù như tôi thì ngày cũng như đêm, bóng tối cũng như ánh sáng. Cho nên chiếc lồng đèn này chẳng có ý nghĩa gì hết. Cầm nó theo cũng vô ích!

Người bạn mới giải thích:

– Tôi biết anh không cần chiếc lồng đèn để soi đường. Nhưng nếu anh không cầm nó trên tay thì người khác sẽ không thấy anh và có thể họ sẽ đụng vào người anh đấy!

Anh mù nghe anh bạn lý luận có lý nên đành nhận lấy chiếc lồng đèn và ra về. Đi được một đoạn đường, bất ngờ anh mù bị một người đi ngược chiều tông vào, đụng vào. Anh ta tức tối và la to lên:

– Bộ mày đui hả? Không thấy tao cầm chiếc lồng đèn trên tay sao?

Người kia trả lời như sau:

– Đúng là anh đang cầm một chiếc lồng đèn đấy. Nhưng ngọn đèn bên trong nó đã tắt rồi. Cho nên tôi không thấy anh. Xin lỗi anh bạn nhé!

Câu chuyện trên giúp cho chúng ta hiểu được: đi trong bóng đêm ai cũng cần có ánh sáng. Trong đêm tối, tưởng chừng như không cần thiết nhưng người mù cũng cần cầm đèn sáng trên tay. Anh cầm đèn không phải để cho mình nhưng để người khác thấy anh mà tránh hoặc có thể họ sẽ giúp đỡ anh. Trong đêm tối, người sáng mắt cũng cần ánh sáng. Ánh sáng giúp anh thấy đường đi, thấy người khác và biết được những chướng ngại vật trên đường. Ánh sáng giúp anh đi đúng đường, đúng hướng, không bị lầm đường lạc lối. Ai cũng cần có ánh sáng tự nhiên để nhận biết mình và thấy tha nhân.

Bài Tin Mừng của Chúa Nhật IV Mùa Chay hôm nay, Thánh Gioan cũng kể cho chúng ta nghe câu chuyện về anh mù. Anh này bị mù từ nhỏ, bị mù bẩm sinh. Vì mù nên anh không biết khuôn mặt của mình, không biết cha mẹ mình là ai và những người thân của mình như thế nào. Anh cũng không thấy được vẻ đẹp của vũ trụ và thiên nhiên. Cuộc sống của anh toàn là một màu đen. Ngày cũng như đêm. Đêm cũng như ngày. Ai cũng như nhau. Anh phải sống trong một tâm trạng buồn thảm và thất vọng hoàn toàn. Nhiều người cho rằng vì có tội nên anh mới bị trừng phạt như thế. Nhưng thật may, Chúa Giêsu đã thấy anh và chữa anh sáng mắt. Chúa không chỉ chữa cho anh được sáng đôi mắt thể xác, giúp anh thấy mình, thấy tha nhân, thấy cảnh vật xung quanh; nhưng quan trọng hơn, Ngài còn chữa lành đôi mắt đức tin của anh nữa. Chúa đã hỏi anh: “Anh có tin vào con người không? Anh đáp: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?” Chúa Giêsu trả lời: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây”. Anh nói: “Thưa Ngài, tôi tin”. Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người” (Ga 9,35-38). Chúa cho anh được thấy Ngài, được gặp Ngài, được tin Ngài và thờ phượng Ngài.

Chúng ta là những người rất diễm phúc. Diễm phúc vì được Chúa ban cho đôi mắt lành lặn, một đôi mắt sáng. Ta hãy cám ơn Chúa về ân huệ đó. Tuy nhiên, đôi mắt thể xác của chúng ta sáng nhưng có thể đôi mắt tinh thần, đôi mắt tâm hồn, đôi mắt đức tin của ta bị mù loà; như Chúa Giêsu nói với những người Pharisêu: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù” (Ga 9,39). Đúng là có những người nhìn thấy, có những người sáng mắt nhưng tâm hồn của họ lại mù loà. Ta thường thấy có 3 loại mù loà tinh thần như sau:

1. Mù loà về bản thân

Mù vì không biết rõ mình; không biết những tài năng, những khả năng mà Thiên Chúa đã ban cho. Mù vì không thấy rõ những giới hạn, những khuyết điểm, những lỗi lầm, những sai trái của bản thân. Ta thường sáng chuyện của người nhưng lại mù tối, mù mờ chuyện của mình. Có khi ta cũng giống như những anh mù xem voi. Ta chỉ thấy một khía cạnh nhỏ của vấn đề mà vội vàng kết luận cho đó là đúng, là sự thật, là chân lý. Ta thường có những phán đoán sai lầm, chủ quan. Tệ hơn nữa là lương tâm của ta bị mù tối; không phân biệt được điều tốt và điều xấu; mất ý thức đối với tội.

2. Mù loà về tha nhân

Ta không muốn thấy những tài năng, những điểm tốt, điểm tích cực của anh chị em để mà học hỏi, khen ngợi; nhưng ngược lại, ta chỉ thích thấy những điểm tiêu cực, điểm xấu, khuyết điểm để chỉ trích, chê bai, coi thường và có khi hạ bệ người khác. Ta cũng thấy nhưng thấy một cách phiến diện, tiêu cực; ta cũng có thể bị mù về lòng nhân: thấy người khác đau khổ mà không chạnh lòng thương, biết người ta nghèo mà không ra tay giúp đỡ, ta làm ngơ vì không dám dấn thân nhập cuộc.

3. Mù loà về Thiên Chúa

Ta không nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong vũ trụ này. Không thấy Thiên Chúa hiện diện trong Giáo Hội, nơi tha nhân, trong Lời Chúa và trong Thánh Thể. Ta không thấy Thiên Chúa đang đồng hành với mình; không cảm nghiệm được những kỳ công mà Thiên Chúa đã làm; và không tin có Thiên Chúa đang hiện hữu trong thế giới này.

Lạy Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian, xin Chúa hãy mở đôi mắt tinh thần của con để con thấy được những bất toàn, những giới hạn, những khuyết điểm của con. Xin Chúa hãy mở đôi mắt tâm hồn của con để con thấy được những điều hay, những điều tốt nơi anh chị em con. Xin Chúa hãy mở đôi mắt đức tin của con để con thấy Chúa, nhận ra Chúa và cảm nhận được tình yêu của Chúa dành cho con. Lạy Chúa, xin cho con được thấy. Amen.

23.Cửa sổ tâm hồn – Thiên Phúc

Chuyện kể rằng, có một người mù lúc nào cũng kết thúc lời cầu nguyện của mình bằng câu: “Nếu điều đó có ích cho phần rỗi con.”

Một hôm, người ta dẫn ông đến trước mộ thánh Thomas thành Cantorbery để xin Người chữa cho ông sáng mắt. Ông được nhận lời. Mắt ông liền mở ra. Cảnh vật tưng bừng reo vui trước mắt ông. Khi nỗi vui mừng đầu tiên trôi qua, ông mới chợt nhớ là mình đã quên thêm vào lời cầu nguyện kết thúc: “Nếu điều đó có ích cho phần rỗi con.”

Ông liền trở lại viếng mộ thánh, và xin được mù trở lại nếu điều đó đem lại lợi ích cho linh hồn ông. Thế là ông lại mù như trước.

***

Người đàn ông trong câu chuyện trên đây tuy bị mù về đôi mắt thể xác, nhưng lại ngời sáng về đôi mắt đức tin. Đôi mắt đức tin của ông bừng sáng khi ông bằng lòng hy sinh đôi mắt tinh anh của thể xác để đổi lấy đôi mắt trong vắt của linh hồn.

Người mù từ lúc mới sinh trong Tin Mừng thánh Gioan 9:1-41 quả là một tấm gương sáng chói cho mỗi người tín hữu: Được chữa lành đôi mắt thể xác là một hồng ân cao cả. Nhưng còn tuyệt vời hơn nữa, chính Đức Giêsu đã khai mở đôi mắt Đức tin cho anh, để anh nhận ra Người là một ngôn sứ, là người bởi Thiên Chúa mà đến, là Ánh sáng của trần gian.

Nhưng đâu phải một sớm một chiều mà anh có được đức tin ngời sáng. Sau khi được sáng đôi mắt thể xác, anh đã phải mò mẫm đi trong đêm tối của Đức tin. Anh đã phải vượt qua một chặng đường dài đầy cam go thử thách của tôn giáo, của lề luật, của những người Pharisêu sáng mắt mà như mù lòa. Con đường đi tới Đức tin của anh là con đường đầy chông gai, nguy hiểm. Hành trình Đức tin của anh cứ bị khựng lại bởi những hạch sách, ngăn đe, dọa nạt của giới lãnh đạo tôn giáo.

Cuối cùng, thì anh đã vượt qua cuộc hành trình đầy cam go để đến với Đức tin ngời sáng, như đôi mắt của anh vừa được chữa lành. Trong khi người ta phủ nhận Đức Giêsu là người của Thiên Chúa, thậm chí còn kết án Người chữa bệnh vào ngày Sabát, thì chính anh, người mù từ lúc mới sinh, lại can đảm bênh vực cho Đức Giêsu và dõng dạc tuyên xưng niềm tin của mình: “Thiên Chúa không nhận lời những kẻ tội lỗi, còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhận lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì” (Ga 9,31-33).

Lý luận của anh mù đã làm xôn xao giới lãnh đạo Do thái giáo, vì nếu Đức Giêsu là người tội lỗi như họ kết án thì làm sao có thể mở mắt cho người mù được? Hoá ra, người mù thì lại sáng mà người tưởng mình sáng lại hoá ra mù.

Họ mù quáng vì luôn cố chấp trong ý nghĩ lỗi thời, họ cho mình quyền nắm giữ đạo đức truyền thống, nên những gì đi ngược với truyền thống đều là sai lạc, phải loại trừ. Họ mù quáng vì họ tự cao tự đại, luôn cho mình là người tinh thông luật đạo, lại thánh thiện đức độ hơn người, nên họ không bao giờ nhận mình sai sót lỗi lầm. Họ mù quáng vì lòng họ chai đá, không cảm thông được nỗi bất hạnh của kẻ mù lòa, cũng chẳng chia sẻ được niềm vui của người được sáng mắt. Và nhất là họ mù vì họ đã không nhận ra người đã làm cho anh mù được sáng mắt, chính là Đức Giêsu Kitô: “Đấng là ánh sáng thế gian”.

Nguy hiểm biết bao khi luôn cho mình đã nhìn rõ. Trong bao cái chai lì của đời sống làm sao chúng ta nhìn thấy hết mọi vấn đề. Cái nhìn vừa mênh mông vừa thiếu sót làm sao! Cái nhìn sai nào cũng gây bất công và đau khổ cho người khác. Tiêu chuẩn để khỏi phải hối hận vì gây đau khổ cho người khác là hãy nhìn bằng đôi mắt xót thương.

Mù loà thể xác đã là một bất hạnh không ai mong đợi, nhưng mù loà tâm hồn còn là một tai hoạ khủng khiếp nhất. Người ta có thể trở nên mù loà khi cố chấp không đón nhận sự thật: Sự thật về cái yếu đuối bất toàn của mình, sự thật về một Đức Kitô bởi Thiên Chúa mà đến, Đấng là Ánh sáng thế gian. Chính Người đã tuyên bố: “Sự thật sẽ giải thoát chúng con” (Ga 8,32). Sự thật chính là Đức Kitô và những gì Người đã loan báo. Tin vào sự thật là tin rằng Người sẽ giải thoát chúng ta khỏi mù lòa thiêng liêng. Tin vào sự thật là tin rằng Người là Ánh sáng thế gian. Tin vào sự thật là sẵn sàng bước theo Ánh sáng của Người.

***

Lạy Chúa, chỉ những ai khiêm tốn nhận mình mù lòa mới được Chúa cho sáng mắt, còn những ai cho mình sáng mắt sẽ mãi mãi sống trong bóng tối tự mãn của mình. Xin đừng để chúng con ở lì trong bóng tối tội lỗi của mình, nhưng xin dẫn dắt chúng con bước đi trong ánh sáng của Chúa. Amen.

24.Ánh sáng đức tin

(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

Cuối thế kỷ 18 là thời kỳ được các triết gia gọi là Thời Kỳ Ánh Sáng, vì vào giai đoạn này nền triết học được hồi sinh và đem đến nhiều tư tưởng mới cho nhân loại, đồng thời đây cũng là thời kỳ khoa học kỹ thuật bắt đầu phát triển mạnh, nhiều người cho rằng với sự phát triển của cả lý trí và khoa học như thế, thế giới và con người được khai sáng khỏi những u mê lạc hậu, và nhất là những người cực đoan còn cho rằng đây là thời kỳ con người thoát ra khỏi sự ràng buộc của các tư tưởng tôn giáo, được giải thoát, được bay bổng trong bầu trời của ánh sáng tự do. Tuy nhiên những ước mơ và dự đoán đó không như con người dự tính, chính khoa học và cả triết học các thời kỳ sau đó đã để lại những khoảng trống tăm tối cho con người, và thay vì con người được khai sáng tự do, thì nó lại trói buộc con người vào những hình thức nô lệ mới của khoa học và công nghệ, nó mãi mãi cho thấy sự giới hạn và bất lực của con người.

Trong khi đó Lời Chúa của Chúa nhật thứ IV mùa chay lại giới thiệu cho chúng ta về Đức Giêsu là ánh sáng, Ngài đem ánh sáng đến thế gian để giải thoát con người khỏi sự mù tối của u mê lầm lạc, Ngài đem ánh sáng của Tin Mừng đến để giải thoát con người khỏi sự ràng buộc của bóng tối thế gian và vật chất, giúp con người sống đúng với địa vị phẩm giá mà Chúa trao ban.

Qua câu chuyện Chúa chữa người mù từ khi mới sinh, Thánh Gioan cho thấy Chúa đã khai sáng không chỉ cho người mù, mà còn cho mọi người chung quanh anh nữa. Người Do Thái thời Đức Giêsu bị bao trùm bởi rất nhiều những quan niệm sai lạc, kể cả các tông đồ cũng thế, các ông vẫn nghĩ rằng người thanh niên kia bị mù là do tội của anh ta hoặc tội của cha mẹ anh ta, nên họ mới hỏi Chúa Giêsu: “Anh bị mù do tội của anh hay tội của cha mẹ anh?” Nhưng Chúa Giêsu đã thay đổi suy nghĩ cổ hủ của các tông đồ, khi Ngài khẳng định với các ông: “Anh bị mù không phải vì tội của anh, cũng không bởi cha mẹ anh, nhưng là để mọi người được thấy công trình của Thiên Chúa được thể hiện nơi anh”. Cùng một sự kiện, nhưng Chúa muốn các tông đồ nhìn theo chiều hướng tích cực và trong cái nhìn tình yêu của Thiên Chúa, chứ không phải cái nhìn mang tính kết án.

Đối với người mù, Chúa Giêsu đã chạm đến mắt anh, tức là động chạm đến cả con người của anh, không chỉ chạm bằng tay, mà còn là sự đụng chạm gặp gỡ của trái tim, của tình yêu của một vị Thiên Chúa làm Người, dành cho một con người bất hạnh, bị xã hội loại bỏ, bị gán cho muôn vàn thứ tội. Ngài không chỉ mở mắt thể xác cho anh, mà Ngài còn mở mắt linh hồn để anh nhìn thấy Đức Giêsu là một vị ngôn Sứ, trong khi những người Biệt Phái bị bao trùm bởi bóng tối của sự tự cao tự phụ, cho mình cái quyền kết án người khác, họ bị thành kiến che mờ mắt, khiến họ chỉ nhìn thấy Chúa Giêsu là một người vi phạm ngày Sabat. Sau khi được sáng mắt, thì người trước đây bị mù được khai sáng đã trở thành người hết sức bênh vực cho Đức Giêsu, anh khẳng định: “Ngài là một vị Ngôn Sứ”.

Với đám đông người Do Thái cũng thế, họ bị trói buộc trong những tập tục của mình, khiến họ khó lòng đón nhận được ánh sáng mới từ Tin Mừng của Chúa Giêsu, họ đến để gây áp lực với cha mẹ của anh mù: “Đây có phải là con ông bà không? Có phải nó bị mù từ khi mới sinh không? Tại sao bây giờ nó lại thấy?” Vì sợ bị trục xuất ra khỏi cộng đồng, nên cha mẹ anh mù đã để cho bóng đêm của sự sợ hãi giam giữ khiến họ không dám tuyên xưng Đức Giêsu là một Ngôn Sứ, mà họ đã nói tránh rằng: “Con tôi nó lớn rồi, các ông cứ hỏi nó.”

Còn đối với người mù đã được chữa lành, anh đã hoàn toàn thoát ra khỏi bóng đêm của sự sợ hãi cho dù người Do Thái đã nhiều lần chất vấn anh, lần này họ muốn anh nhân danh Thiên Chúa để vu cáo cho Đức Giêsu là người tội lỗi. Nhưng câu chuyện cho thấy anh đã bước một bước dài trong đời sống đức tin, anh không chỉ tin Đức Giêsu là một Ngôn sứ, mà giờ đây anh còn can đảm làm chứng và bênh vực Ngài, anh lặp lại việc Chúa Giêsu đã chữa anh và anh tuyên bố: “Trước đây tôi bị mù nhưng nay ông ấy đã chữa cho tôi được sáng.” Anh còn trở thành người giải thích về quyền năng của Thiên Chúa cho những người chung quanh:” Ai kính sợ Thiên Chúa, luôn làm theo ý Người thì Người nhậm lời kẻ ấy… nếu không phải bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ấy sẻ chẳng làm được gì.”

Trước một đức tin non nớt lại gặp thử thách bởi những thành kiến, quan niệm và tập tục của những người chung quanh, nên khi gặp lại anh, Chúa Giêsu đã dẫn anh lên một bước cao hơn, củng cố đức tin cho anh, khi Ngài mời gọi anh tuyên xưng đức tin: “Anh có tin vào Con Người không?” Anh thưa: “Đấng ấy là ai để tôi tin?” Chúa Giêsu xác nhận với anh: “Chính Đấng ấy đang nói với anh đây”. Và anh đã tuyên xưng: “Thưa Ngài tôi tin và sấp mình xuống trước mặt Ngài”. Đó là thái độ thể hiện sự vâng phục của đức tin nơi anh mù, anh sấp mình để thờ lạy Ngài.

Như thế, ánh sáng của đức tin khác với ánh sáng của khoa học, của triết học và khác hẳn với ánh sáng của tự nhiên, để nhìn thấy được ánh sáng này đòi phải có một con mắt của linh hồn thật trong sáng, vì cái nhìn của con mắt loài người bên ngoài có thể lầm lẫn, có thể đánh lừa và dẫn đến sai lạc, còn ánh sáng của Tin Mừng của Đức Giêsu thì chiếu dọi vào trong tâm hồn, những ai mở cửa tâm hồn, thì đón nhận được ánh sáng này, và những ai khiêm nhường thì sẽ được ánh sáng này dẫn lối và đưa đến hạnh phúc. Sách Samuel cũng cho thấy sự khác biệt giữa cái nhìn của Thiên Chúa và cái nhìn của con người trong việc Samuel được sai đi xức dầu chọn Đavít làm vua Israel. Con người chỉ nhìn và đánh giá sự việc theo cái nhìn và tiêu chuẩn bên ngoài, còn Thiên Chúa lại nhìn thấu tâm hồn và Ngài đánh giá tuyển chọn một con người là tùy ở thái độ tâm hồn của người đó sẵn sáng đáp lại lời mời gọi của Chúa.

Thưa quý OBACE, thánh Phaolô đã quả quyết rằng: “Nhờ ơn của Bí tích Thánh tẩy chúng ta đã trở nên con cái của ánh sáng, con cái của Tin Mừng và vì thế, chúng ta phải ăn ở, phải sống cho xứng đáng là con cái của ánh sáng, tức là phải sống công chính, ngay thẳng lương thiện, và không bao giờ được tán đồng, làm ngơ hay cộng tác với sự dữ và bóng tối”.

Mặc dù đã là con cái sự sáng, nhưng chúng ta vẫn bị ma quỷ lôi kéo chúng ta vào bóng tối hoặc vì để mình sống trong tình trạng tội lỗi gian dối, nên chúng ta sợ ánh sáng, sợ những gì là minh bạch. Còn rất nhiều những bóng tối đang bao trùm trong các gia đình, đó là bóng tối của bất hạnh, cãi vã, đổ vỡ, của sự bạo hành, bóng tối của gian dối, của việc làm ăn lươn lẹo, bất công. Giống như những người Do Thái, nhiều người đã sống trong sự cố chấp, bảo thủ trong sự sai lầm của mình, không dám đón nhận ánh sáng sự thật của Đức Kitô và Tin Mừng và vì thế, họ dùng nhiều lý do để gạt bỏ Đức Giêsu ra khỏi tâm hồn, ra khỏi công việc và đời sống của gia đình. Chúa Giêsu là Đấng đem đến cho chúng ta ánh sáng cứu độ, chỉ cho chúng ta con đường giải thoát, mời gọi chúng ta đón nhận tình yêu và sự săn sóc của Chúa, song nhiều người đã nhất định từ chối Ngài, và muốn tự mình bước đi trong bóng tối của thế gian, của ma quỷ và của dục vọng.

Trong xã hội ngày nay còn nhiều những bóng tối và sự mù lòa khác, sự mù lòa của những kẻ nhân danh khoa học để từ chối không tin vào sự hiện diện của Thiên Chúa, xã hội ngày nay bị che phủ bởi bóng tối của sự gian dối, của bất công, khiến cho nhiều người bị lầm lạc và lẫn lộn không thể phân biệt đúng hay sai; sự tiến bộ của khoa học công nghệ cũng kéo theo nó bóng tối của sự ích kỷ, dửng dưng khiến cho nhiều người quên mất sự hiện diện của người bên cạnh. Bên cạnh đó còn bao nhiêu những triết lý, học thuyết sai lạc đang dẫn con người đi vào ngõ cụt, đang hủy hoại tâm hồn của nhiều thế hệ, biến nhiều tâm hồn trở nên khô cằn sỏi đá không còn nhạy bén trước lời mời gọi của Tin Mừng nữa.

Những loại bóng tối mù lòa này đang ảnh hưởng và bao trùm trên nhiều người trẻ, khiến cho nhiều bạn trẻ lạc đường mất hướng, sống một cuộc sống không có mục đích, không lý tưởng, hoặc biến nhiều người trẻ khác lao vào những hình bóng, ảo ảnh của danh vọng, địa vị, tiền bạc, và đoạn cuối của con đường này là sự bế tắc và trống rỗng. Chỉ có Đức Giêsu và Tin Mừng của Ngài mới là ánh sáng thật soi rọi cho chúng ta, giới răn và lề luật của Ngài sẽ chữa chúng ta khỏi sự mù lòa của thể xác và tâm hồn, tình yêu của Ngài sẽ dẫn lối chúng ta bước đi trong ánh sáng của tự do, của sự thật, của công lý.

Xin Chúa giúp chúng ta noi gương Mẹ Maria mạnh dạn mở tung mọi cánh cửa của tâm hồn để cho ánh sáng của Tin Mừng chiếu dọi vào mọi góc khuất của cuộc đời, biến chúng ta nên con cái của ánh sáng, giúp chúng ta loại trừ bóng tối của chết chóc, giúp mỗi người sống và hành động như là con cái của ánh sáng. Amen.

25.Mở quà – Lm Vũ Đình Tường

Tuần qua Đức Kitô đàm đạo với chị phụ nữ tại giếng nước. Chị nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa và xin Ngài ban cho nước trường sinh. Nước rửa sạch tội đời để được sống muôn đời.

Tuần này câu chuyện người mù từ lúc mới sinh cho thấy lợi ích khác của nước. Nước rửa sạch bụi trần, lột trần tăm tối. Mang lại ánh sáng cho người mù giúp anh trở nên con người mới. Con người của niềm tin, nhân chứng trung kiên cho Đức Kitô.

Người ta thường nói mù dẫn mù cả hai sa xuống hố. Câu chuyện người mù hôm nay Chúa thực hiện trái ngược thói đời. Người mù chỉ đường cho kẻ tự nhận sáng mắt.

Bởi vì tự hào mình sáng nên không biết là sáng mắt thể lí có thể mù mắt tâm linh và mù mắt thể lí có thể sáng mắt tâm linh.

Có lẽ trong ánh sáng ngầm chứa mầm tối và trong tối ẩn dấu sự sáng. Mạnh sẽ khống chế yếu. Nếu ánh sáng mạnh hơn nó sẽ, đẩy lui làm lu mờ bóng tối. Nếu bóng tối mạnh hơn nó sẽ bao trùm, phủ kín ánh sáng.

Người mù từ lúc mới sanh từng sống trong tăm tối. Anh trở nên sáng vì anh khao khát ánh sáng. Khi ánh sáng đến anh vui mừng đón nhận. Anh trân trọng chào đón và mắt anh được sáng. Anh nhìn thấy vật mà trước đây chưa từng thấy. Anh còn nhìn rõ hơn cả những nhà lãnh đạo trong cộng đoàn. Chính vì nhìn rõ, tốt và chính xác hơn mà nhà lãnh đạo ghen, tức với anh. Họ xỉ vả và cuối cùng lạm quyền xua đuổi anh khỏi hội đường. Anh mù được sáng mắt thể lí. Quan trọng hơn anh còn sáng cả con mắt tâm linh, con mắt đức tin. Nhờ thế mà anh nhìn và nhận biết Đức Kitô chính là Thiên Chúa, Đấng ban ơn cứu độ. Mắt anh từ từ được mở ra.

Đầu tiên anh không nhìn thấy Đức Kitô.

Anh nhận biết Ngài như thầy thuốc nhân hậu

Anh tuyên xưng Ngài là Con Thiên Chúa.

Chính nhận biết này mà anh gặp rắc rối, chống đối từ các người tự nhận là sáng mắt. Họ kết án anh là quân tội lỗi. Không phải tội thường mà tội ngập đầu. Có nghĩa là anh sinh ra trong đống tội.

Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư. Rồi họ trục xuất anh c.34

Điều lạ

Điều lạ lùng là người mù bị hất hủi mà không giận hờn. Bị xua đuổi mà không tủi hổ. Bị coi thường mà vẫn kính trọng người. Bị đối xử bất công mà vẫn công tâm làm chứng. Bị áp bức không sờn lòng. Rất có thể anh đã quen với lối xã hội đối xử bất công với người tàn tật. Điều chắc chắn là ơn Chúa trong anh mạnh hơn mọi khốn khó. Ơn chúa ban cho anh an bình nội tâm nên anh bình tĩnh, trung kiên, trước sau như một, làm nhân chứng sống động cho Đức Kitô. Một nhân chứng gây chia rẽ trong nội bộ nhà lãnh đạo. Phúc âm nhắc rất vắn gọn.

Thế là họ đâm ra chia rẽ c.16

Điều lạ khác là hàng xóm, láng giềng không nhận ra anh. Kẻ xác quyết chính anh. Kẻ khác cãi không phải. Kẻ nữa trung dung hơn giải thích, không phải anh mà là người nào đó trông giống anh. Tất cả đều tự nhận mình mắt sáng nhưng đều không biết mình mờ khi cần phải quan sát, nhận định. Càng không nhận ra nhận định của mình mù quáng.

Có lẽ giọng nói người mù vẫn như xưa, còn mọi sự đều mới. Mắt anh sáng. Cách xử thế trong sáng. Dáng đi thay đổi, không còn dò đường như xưa. Anh đứng thẳng mà không khòm lưng kiểu xin ăn. Anh thành con người mới trong Đức Kitô. Thay đổi tốt hơn nơi anh không mở mắt cho người mắt sáng. Trái lại làm cho họ mù mờ thêm.

Người ta mù mờ ngay cả với sự xác nhận của anh. Anh quả quyết chính anh là người mù, được Đức Kitô chữa làm cho sáng mắt. Anh còn kể mạch lạc đầu đuôi, diễn tiến sự việc, dẫu thế người ta vẫn mù loà trong lối suy nghĩ cứng nhắc của mình. Cứng ngắc trong phán đoán là một loại mù quáng ít ai chấp nhận. Người ta bảo anh

Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu c.34

Với họ anh luôn là tội nhân. Tật mù loà bẩm sinh của anh trở thành một tội không thể tha thứ. Giờ đây anh sắng mắt. Người ta muốn anh chối bỏ chính con người anh. Nếu không chối bỏ, được sáng mắt anh vẫn mang kiếp tội nhân. Trong tâm trí nhà lãnh đạo anh luôn là tội nhân. Anh không được phép thay đổi. Sanh ra kiếp nào mang số đó đến ngàn đời. Đức Kitô đã thay đổi số kiếp cho anh. Biến anh thành chứng nhân Kitô cho dân tộc anh, cho thế giới.

Thưa Ngài, tôi tin. Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người c.38

Anh sấp mình xuống trước mặt Ngài biểu tỏ lòng khiêm nhường nơi người mù. Anh sấp mình xuống, vì anh hạ mình xuống nên Đức Kitô nâng anh dậy và cho anh nhận biết sự sống trường sinh. Anh có một ước mong duy nhất, được mắt sáng và anh được toại nguyện. Sáng mắt, anh ước mong được trở thành môn đệ Đức Kitô và Ngài đón nhận anh. Nghe nói họ trục xuất anh. Đức Kitô tìm đến an ủi, tạo cho anh cơ hội tuyên xưng đức tin. Thưa Ngài, tôi tin.

Nhà lãnh đạo có mắt mà nhìn không thấy vì bản tính cao ngạo của họ. Chính bản tính cao ngạo này gây chia rẽ giữa họ. Làm cho họ ra mù mờ về Đức Kitô, cản trở họ nhận biết Đức Kitô và cản trở người khác đón nhận Chúa. Chúng ta cầu xin biết sống khiêm nhường bởi đây là lối sống dẫn đến sự sáng tâm hồn.

26.Đón nhận chân lý – Achille Degeest.

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

Câu chuyện hôm nay đặt ra trước mầu nhiệm khôn lường của sự từ khước ánh sáng. Phái Pharisêu không tự truy vấn mình, kiểm thảo mình, lại từ chối sự thật hiển nhiên bằng cách khai trừ người mù được chữa lành. Để hiểu rõ hai chi tiết trong bài, nên lưu ý điều này là, theo quan niệm thông thường, nước miếng có sức chữa lành. Ta hiểu tại sao Chúa Giêsu đã làm bùn xức vào mắt người mù. Đức Giêsu thường ghép hành động thần thiêng của Người vào trong các thực tại tự nhiên khiêm tốn nhất. Đàng khác, sở dĩ người Pharisêu tố cáo người mù đã sinh ra trong tội, là vì theo đạo lý họ, bệnh tật là hình phạt về một lỗi phạm –ở đây là lỗi phạm của cha mẹ- Đó là điều Chúa phản đối. Câu chuyện về người mù đặt ra một cách gay cấn vấn đề đón nhận chân lý như thấy hiện ra khắp nơi trong các bản văn của thánh Gioan. Ở đây ta đứng lên trên cả vấn đề phép lạ và hiệu năng của phép lạ xét như dấu hiệu; ta đứng trước một sự mù quáng tinh thần không chịu nhìn xem chính cái dấu hiệu nữa. Lòng thù ghét có sức tạo nên một trạng thái tâm lý làm cho con người nên đui mù. Khi tâm hồn bị đóng kín lại, nó không còn thấy điều hiển nhiên nữa. Cả đến sự thật bên ngoài khách quan về việc người mù đã lành bệnh, ai ai cũng biết hết, thế mà người Pharisêu vẫn từ chối, vẫn bài bác. Có lần Chúa Giêsu đã phải nói với người Do Thái rằng dù một phép lạ xảy ra trên trời (gây chấn động mạnh mẽ) cũng khó cho họ nhìn nhận.

Thái độ từ khước ánh sáng có nhiều đặc điểm. Sau đây là hai đặc điểm:

1) Người ta lấy một khía cạnh của sự thật, cô lập nó, dựng nó lên thành tuyệt đối, mà quên rằng nó tuỳ thuộc vào những yếu tố khác quan hệ hơn của sự thật ấy. Kiêng việc xác ngày lễ nghỉ là một điều luật. Giữ luật ấy là việc tốt. Nhưng nó lệ thuộc vào luật bác ái, luật này cao trọng hơn. Vậy mà người Do Thái xem nó là một điều tuyệt đối. Nhân danh ngày “lễ nghỉ”, họ từ khước lòng bác ái. Lối suy nghĩ này là đầu giây mối nhợ của bao nhiêu vụ tranh luận, cãi cọ mà họ kéo Chúa Giêsu vào. Trong Giáo Hội hiện nay cũng có nhiều hiện tượng thuộc loại này. Ví dụ: người ta tách riêng một ít trong Phúc Âm, coi đó là tuyệt đối, rồi sử dụng để biện minh cho bạo lực nhân danh Tin Mừng.

2) Người ta ngồi vào trong một hệ thống ý tưởng mà họ quyết đoán là đúng. Họ làm như thế có thể là vì trí không hướng nhiều về dường ấy, vì một lợi ích nào, vì tình liên đới với phe nhóm v.v… Nét tiêu biểu là ở chỗ họ coi mình là người biết, người sáng suốt, người hiểu rõ, Chúa Giêsu trách bọn Pharisêu vì họ nói: “Chúng tôi thấy”. Trước một não trạng như thế, khi chân lý xuất hiện một cách khác thường, nó sẽ không được nhìn nhận. Mà trong đời sống con người, chân lý của Chúa thường mặc những hình thức bất ngờ và gây khó chịu cho thói quen của ta. Chân lý ấy làm nổ tung mọi hệ thống tư tưởng và mọi chương trình hành động. Người Kitô hữu khi suy nghĩ cũng như lúc hành động phải chăm chú nhìn những dấu hiệu của Chúa.

27.Ánh sáng trần gian

Anh chị em thân mến.

Khi ánh hoàng hôn từ từ buông xuống, vạn vật cũng chuẫn bị khép mình để bước vào sự yên lặng của màn đêm, một sự yên lặng bất động.

Khi ánh bình minh từ từ ló dạng, mọi vật bắt đầu vươn mình đón chào một sức sống mới, một sức sống mãnh liệt trong ánh sáng chan hoà của ngày mới. Mọi công việc đều được hoạt động dưới ánh sáng, nếu không có ánh sáng thì không thể làm gì được. Khi con người làm việc dưới ánh sáng dù cho là ánh sáng ban ngày hay ánh sáng nhân tạo đi nữa thì vẫn phải cố sức mà làm việc, có khi vì công việc mà con người phải vất vả mệt nhọc, nhưng vẫn phải cố gắng vượt qua tất cả. Ánh sáng được mang đến để cho con người có phương tiện thuận lợi mà làm việc. Nếu con người không biết tận dụng những lúc có ánh sáng thì thật là uổng phí, vì khi không còn ánh sáng, con người khó mà thực hiện công việc cho hoàn hảo. Nhưng khi có ánh sáng, không phải lúc nào công việc cũng thành công, cũng có những khó khăn của công việc cho dù với ánh sáng đòi buộc con người phải vượt qua với tất cả quyết tâm của mình.

Một người mù từ lúc mới sinh, nghĩa là anh ta được sinh ra trong bóng đêm của cuộc đời. Anh ta ngồi bất động bên vệ đường chờ người khác ban phát. Anh không hành động gì hết vì chung quanh anh chỉ là bóng tối, nên anh không lãnh trách nhiệm gì hết. Nhưng khi anh vừa sáng mắt, ánh bình minh chiếu vào cuộc đời, thì sự yên tĩnh của màn đêm không còn nữa, mà anh bắt đầu hoạt động, bắt đầu một ngày mới trong ánh sáng. Một ngày mới với tất cả trách nhiệm của cuộc đời. Anh phải đối diện với sự thật, anh phải chọn lựa để làm chứng cho những gì anh biết là sự thật, anh phải chịu trách nhiệm về mình và những việc làm của mình. Anh đã nhìn thấy ánh sáng, anh có trách nhiệm định hướng cho cuộc đời của chính anh, nghĩa là anh phải biết vượt qua những khó khăn trở ngại để bảo vệ hồng ân Chúa. Vừa mới được sáng mắt, anh bị khai trừ khỏi cộng đoàn, bị cha mẹ từ chối, nhưng anh nhất quyết bảo vệ cho ánh sáng mà anh vừa mới nhận được, cho dù phải đối diện với những khó khăn trở ngại.

Nhận được ánh sáng là một niềm vui, nhưng là niềm vui trong trách nhiệm. Có những người không dám nhận ánh sáng, không dám bước đi trong ánh sáng, mà chỉ thích màn đen của bóng đêm.

Mỗi người trong chúng ta nhìn lại cuộc sống của chính mình, xem đang bước đi trong bóng tối, hay đang bước đi trong ánh sáng. Chúng ta đã được lãnh Bí Tích Rửa Tội, đã nhận được ánh sáng của Chúa Kitô hướng dẫn, thế mà trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta muốn từ chối ánh sáng đó, để bước đi trong đêm tối của cuộc đời, để không ai biết, không ai nhìn thấy những hành động việc làm của chúng ta. Những lúc chúng ta muốn trốn chạy ánh sáng, để mọi người không nhìn thấy được con người thật của chúng ta. Đó là những lúc mình chỉ muốn ngồi hưởng những mối lợi không do công sức mình làm ra, những lúc chúng ta muốn cướp công lao cực khổ của người khác mà đem về làm của mình. Những lúc đó có phải chúng ta muốn mình như người mù ngồi bên vệ đường trông chờ vào những đồng tiền bố thí, có khi khó chịu vì người khác bố thí ít quá. Cũng có những lúc chúng ta chỉ muốn sống cho riêng mình chỉ biết hưởng thụ mà bất chấp đến những người chung quanh, không nhìn thấy được những giọt nước mắt phải chảy xuống vì hành động của chúng ta. Những lúc chúng ta không nhìn thấy được trách nhiệm phải làm, phải chu toàn: trách nhiệm của một người công giáo, trách nhiệm của một người trong xã hội, trách nhiệm làm cha, làm mẹ và cả trách nhiệm làm người. Như vậy chúng ta đang sống trong ánh sáng hay bóng tối?

Nếu chúng ta biết chấp nhận cuộc sống này, với trách nhiệm của đời người và nhận thức cách chính đáng, để chu toàn thật tốt đẹp, cho dù có những sóng gió cũng không làm cho mình chùn bước. Nếu chúng ta nhìn thấy được những việc tốt đẹp cần phải làm và sẳn sàng hành động cho dù phải gặp những khó khăn trở ngại cũng không sờn lòng. Đó là chúng ta đang bước đi trong ánh sáng thật của Chúa Kitô đã ban cho chúng ta.

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa mở mắt tâm hồn chúng ta để nhìn thấy ánh sáng Chúa và luôn bước đi trong ánh sáng.

28.Suy niệm của Lm. Tađêô Lê Văn Ý

Phụng vụ lời Chúa hôm nay trình bày cho chúng ta thấy,ánh sáng của Chúa là cần thiết cho con người. Để giải quyết những vấn đề nhân sinh, trước hết phải có ánh sáng của Chúa soi rọi, và con người biết vâng nghe thực hiện lời của Chúa. Bài đọc thứ hai, thư Êphêsô thánh Phaolô nói “xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng, mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật.

Câu chuyện trong Tin Mừng càng chứng tỏ tính cách độc đáo ánh sáng của Chúa. Anh mù từ khi mới sinh, được Chúa Giê su nhìn thấy, Chúa động lòng thương và cứu chữa bằng cách mời gọi anh làm theo lời Ngài chỉ dẫn. phần anh Mù, đã thể hiện niềm tin vào Chúa Giê su, một cách thành tâm thiện chí, anh đã cẩn thận thực hiện lời chỉ bảo của Ngài, nhờ đó mà Anh được sáng mắt. Có thể nói ở đây chúng ta nhận ra, Thiên Chúa luôn là Đấng đi bước trước, ban bố lòng thương xót của Ngài để mang đến cho con người chúng ta ánh sáng thật, nhờ ánh sáng này là nguồn gốc để con người có hướng giải quyết những vấn đề nhân sinh. Cũng như anh Mù, con người cần có niềm tin thật sự vào chính tình yêu của Chúa bằng cách biết vâng nghe, thực hiện lời chỉ dẫn của Chúa nữa, cuộc sống con người mới trở nên trong sáng sáng, thoát khỏi những đau thương và có nhiều niềm vui hạnh phúc. Kết thúc câu chuyện chữa bệnh cho anh Mù, Điều gây ấn tượng mạnh mẽ cho chúng ta nhận thấy; Anh Mù không những sáng đôi mắt thể xác, mà anh còn nhận ra chính danh Chúa Giê su. Lúc đầu anh chỉ biết một người đang đối thoại thân mật với anh tên là Giê su, rồi dần dần anh nhận ra Ngài là một ngôn sứ và cuối cùng Anh đã quỳ lạy nhìn nhận và tuyên xưng Ngài là một Thiên Chúa: “Lạy Chúa con tin”. Chúa Giê su cùng một lúc khai sáng con mắt thể xác và đôi mắt tâm hồn của anh Mù. Anh không những được hạnh phúc phần xác và còn đạt đến hạnh phúc sâu thẳm trong tâm hồn vì anh đã biết tuyên xưng Chúa Giê su là Chúa của mình.

Trong Tin mừng hôm nay xuất hiện nhiều quan niệm khác nhau về nguyên nhân gây nên bệnh mù, về Người cứu chữa. Đó là cái nhìn của con người, còn Chúa Giê su thì trả lời cho các môn đệ “ Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội…..Chúng ta phải làm những việc của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng…bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian”. Chúa Giê su có một nhãn quan khác chúng ta, cái nhìn của Ngài hoàn toàn khác với chúng ta. Ngài quan tâm đến hoàn cảnh đau khổ hiện tại của anh mù, và nhiệm vụ Ngài được sai đến. Ngài muốn thi hành sứ mạng đặc biệt của Ngài để chứng tỏ tình yêu thương của Thiên Chúa dành cho loài người, làm cho con người khỏi đau khổ đi đến hạnh phúc và đỉnh cao là giải phóng, cứu độ con người.

Cuôc sống con người ngày nay, người ta tưởng chừng như đạt đến nhiều tiến bộ đến tột cùng. Các nghành công nghệ phát triển một cách nhanh chóng vượt bậc, như công nghệ tin học, điện tử, các lãnh vực khác nữa của khoa học kỹ thuật làm cho con người lên tới tận mặt trăng, sao hỏa v.v. chính vì vậy mà con người ngày nay có vẻ tự hào về những thành quả đạt được. Tự hào đến độ cho rằng chỉ cần nhiều tiền, nhiều của cải vật chất phát triển khoa học là giải quyết được những vấn nạn nhân sinh, vì thế không ít người, suốt cuộc đời lao vào những lãnh vực tìm kiếm cho được nhiều tiền của. Dưới ảnh hưởng của sự tự mãn nơi con người trong xã hội hiện đại này, nhiều người đã có những ý tưởng tôn thờ chủ nghĩa duy vật chất, duy khoa học kỹ thuật, tôn thờ năng lực con người, và cũng từ đó nhiều hệ quả kéo theo là cuộc sống trở nên tục hóa trầm trọng, vô cảm và tinh thần hưởng thụ tràn ngập. Biết bao nhiêu điều đạo đức thánh thiên bị con người làm giảm xuống đến mức độ tệ hại, như nhân phẩm, phụ nữ, trẻ em, thai nhi, hôn nhân, con người, sự sống v. v và các vấn đề thiêng liêng khác nơi các tôn giáo cũng bị ảnh hưởng không kém: những nghi lễ bị biến dạng, đôi khi chỉ còn là những lễ hội vui chơi. Rồi một hiên tượng nữa cuộc sống đang diễn ra trước mắt chúng ta đó là tình trạng tha hóa, sa đọa, suy đồi về đạo đức, dối trá lan tràn cũng được bày ra không ít. Tinh thần tục hóa và chủ nghĩa tương đối ảnh hưởng không nhỏ đến cách sống đạo nơi người kitô hữu hiện nay.

Tự hào như thế, chủ nghĩa duy khoa học hay vật chất chủ nghĩa mang một tham vọng rất lớn, cũng không giải quyết nỗi những căng thẳng trong những vấn đề trung tâm của cuộc sống con người. Trên thế giới và tại nhiều miền khác vẫn còn đầy dẫy những đau khổ, bất hạnh, hố phân cách giữa giàu có và nghèo đói mỗi ngày một lớn hơn, nạn phá thai, ly dị, sự đổ vỡ hạnh phúc, gia đình ly tán, chiến tranh, loạn lạc, xung đột, môi trường sống ô nhiễm, hư hại, tính an toàn trong thức ăn thức uống, giao thông bị đe dọa cách trầm trọng.

Người ta dùng những hiểu biết khoa học kỹ thuật để giải quyết cuộc sống. Nhưng kết cục, cuôc sống con người ngay nay vẫn nằm trong vòng lẫn quẫn, chưa mang lại an bình và hạnh phúc thật sự. Thế giới tương tự như người mù, trong tối tăm, mất ánh sáng, loay hoay dò dẫm tìm hướng đi cho mình, nhưng chưa có lối thoát đích thực vì quá cậy dựa vào khả năng giới hạn của mình. Còn quá nhiều góc tối vẫn tồn tại trong thế giới hiện tại

“Ngày nay chúng ta đang sống trong một thế giới ngày càng ”nhỏ bé” hơn và vì thế, trong đó dường như người ta dễ gần gũi với nhau hơn. Những phát triển về giao thông và kỹ năng truyền thông đang làm cho chúng ta xích lại gần nhau, ngày càng nối kết với nhau hơn, và sự hoàn cầu hóa làm cho chúng ta lệ thuộc nhau. Nhưng giữa lòng nhân loại vẫn còn những chia rẽ, nhiều khi rất nặng nề. Trên bình diện hoàn cầu chúng ta thấy sự cách biệt ”gương mù” giữa sự sa hoa của những người giàu nhất và sự lầm than của những người nghèo nhất. Nhiều khi chỉ cần làm một vòng qua những con đường trong một thành phố là đủ để thấy những trái ngược giữa những người sống bên vệ đường và những ánh sáng chói lòa của các cửa tiệm. Thế giới đang đau khổ vì nhiều hình thức loại trừ, gạt ra ngoài lề và nghèo khổ.. cũng như những cuộc xung đột trong đó có trộn lẫn các nguyên nhân kinh tế, chính trị, ý thức hệ, và đáng tiếc là nhiều khi có các nguyên ngôn tôn giáo nữa.” (trích sứ điệp truyền thông của ĐGH Phanxicô)

Mù tối giam giữ chúng ta trong tối tăm, lầm lạc, bức màn đen tối luôn phủ khắp không gian, chúng ta dường như lần mò trong đường hầm không chút ánh sáng, mọi hoạt động trở nên vất vả, hết sức khó khăn. Ánh sáng thật cần thiết cho chúng ta, nhờ nó chúng ta mới dễ dàng nhận thấy đường đi nước bước đời mình. Mù tối, mê muội cần phải được tháo gỡ khỏi cuộc sống con người chúng ta. Chúa Giê su đã thi hành sứ mệnh “mở dạy kẻ mê mụội”, giải thoát người mù tối, mang lại ánh sáng niềm tin cho con người chúng ta.

Để thoát khỏi tình trạng mù tối, lẫn quẫn, bế tắt, con người ngày nay hơn bao giờ hết, được các giáo huấn của Giáo Hội mời gọi đến gặp gỡ Chúa Giê su là ánh sáng khai mở của tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại, gặp Ngài trong đối thoại, người Kito hữu gặp Ngài trong cầu nguyện, kinh nguyện sáng tối, trong ân sủng các Bí tích và biết khiêm tốn vâng nghe thực hành những chỉ dẫn của Thiên Chúa là Cha qua Đấng trung gian duy nhất,Chúa Giê su Kito. Giáo lý của Ngài chính là những hướng dẫn đưa cuộc sống con người thoát ra khỏi mù tối.Chúa Giê Su, một Thiên Chúa làm người, chỉ Ngài mới đủ quyền năng để cứu chữa con người chúng ta. Ngài là ánh sáng từ Thiên Chúa đến soi rọi vào cảnh đời tăm tối, cứu chữa sự mù lòa nơi cuộc sống con người trần gian. Chỉ những ai, những cộng đồng xã hội nào, tiếp cận gặp được Ngài, thực hiện những gì Ngài chỉ giáo thì kể như gặp được ánh sáng nơi Ngài và có được cơ hội vượt khỏi sự tối tăm đau khổ.

Việc khai sáng của Chúa Giê su thực hiện cho anh mù, ngày nay cũng chính là công việc của người ki tô hữu chúng ta nữa. Với đời sống của mình, chúng ta được mời tham gia vào việc khai sáng cho người tối tăm lầm lạc, mang ánh sáng đến cho đời bằng những việc làm thiết thực, đạo đức thánh thiện, như những ngọn đèn luôn cháy sáng soi roi cho trần gian hôm nay.

29.Mù đôi mắt tâm linh

(Suy niệm của Lm. JB. Lê Ngọc Dũng)

Câu chuyện Chúa Giêsu chữa người mù trong Tin Mừng hôm nay, khiến chúng ta phải suy gẫm về sự mù của chúng ta, cái mù trong tâm linh, như những người Pharisiêu.

Câu chuyện Tin Mừng cho thấy, sau khi được chữa lành thì người mù có được đức tin, còn những người Pharisiêu thì lại không tin. Anh mù sau khi được chữa lành thì nói với Chúa Giêsu: “Thưa Ngài, tôi tin”. Rồi anh sắp mình xuống trước mặt Người. Còn những  người Pharisiêu, dù sau khi tra hỏi cặn kẻ người mù, ai đã chửa cho anh, chửa như thế nào… và họ cũng đã được người mù quả quyết rằng chính Chúa Giêsu đã chửa cho mình, nhưng cuối cùng họ vẫn không tin.

Vì sao những người Pharisiêu lại không tin?

Trước nhất, là vì họ biết được một điều. Điều này lại rất quan trọng đối với họ: Chúa Giêsu chửa bệnh trong ngày Sabat. Ngài đã thực hiện chửa bệnh như một thầy lang và làm trong ngày Sabat, ngày mà theo luật Do Thái là cấm không được làm việc, để dành cho việc thờ phượng Thiên Chúa.

Đức Giêsu đã vi phạm ngày Sabát, nên một số người Pharisiêu kết luận ngay rằng Ngài là người tội lỗi. Một số khác lại thắc mắc: “Một người tội lỗi sao lại làm được những dấu lạ như vậy?” (Ga 9,16). Họ đâm ra chia rẻ.

Ở đây, việc nhìn thấy tội nơi người khác đã khiến cho những người Pharisiêu đã không nhận ra được sự thật. Cái tội, cái xấu của người khác như là một tấm chắn hay một cặp kính đen thui, mà nếu ta đặt trước mắt, thì khiến ta không thấy, không hiểu biết được những việc khác trước mắt.

Điều này càng rõ hơn, ở phần Tin Mừng kế tiếp. “Họ lại hỏi người mù: ‘Còn anh nghĩ gì về người đã mở mắt cho anh?’ Anh đáp: “Người là một vị ngôn sứ!”. Họ đối lại: ‘Mày sinh ra đã tội lỗi ngập đầu, thế mà mày muốn làm thầy chúng ta ư?’ Rồi họ trục xuất anh” (Ga 9, 17,34).

“Mày sinh ra đã tội lội ngập đầu” là câu mà họ gán cho người mù từ mới sinh. Họ đã nhìn thấy sự bất hạnh, tật nguyền của kẻ khác là do tội lỗi. Nếu tật nguyền từ khi mới sinh thì đã tội lỗi ngập đầu từ lúc ấy! Quả thật, đây là cái nhìn về người khác một cách phi lý.

“… thế mà mày muốn làm thầy chúng ta ư”. Câu này biểu lộ sự khinh khi người khác và tỏ ra tự cao tự đại.

Như vậy, ở đây, có ba điều khiến làm cản trở con người chúng ta nhận ra sự thật hay cản trở cho đức tin:

Thứ nhất, khi thấy người khác phạm luật thì ta cho rằng người ấy tội lỗi. Nếu vi phạm điều luật nặng thì ta cho rằng là phạm tội nặng, bất kể tâm lòng hay lương tâm người ấy như thế nào. Ví dụ như: Người này đã ly dị tái hôn tức là phạm điều răn thứ sáu, người này có tội nặng; người kia nói dối lừa gạt, làm chứng gian, là kẻ đã phạm trọng tội nghịch điều răn thứ tám…

Thứ hai, khi thấy người khác tật nguyền, nghèo hèn, có thân phận đầy bất hạnh thì ta cho họ là tội lỗi. Đây là cái mù do thành kiến, do những kiến thức lạc hậu mà ta vẫn cứ khư khư giữ trong tâm trí.

Thứ ba, khi thấy người khác tật nguyền, nghèo hèn, thì khinh thường họ. Những người Pharisiêu khinh thường người mù, nói rằng: “…thế mà mày muốn làm thầy chúng ta ư?’ (Ga 9,34). Đây là cái mù do tự cao tự đại, cho mình hiểu biết hơn người khác.

Những người Pharisiêu đã không ngờ, họ mới là người mù, còn kẻ mù lại được sáng. Họ có đôi mắt sáng nhưng tâm linh thì mù tối. Còn người mù vừa được chửa khỏi mù thân xác vừa được sáng đôi mắt tâm linh.

Trong cuộc đời chúng ta cũng dễ rơi vào những cái mù tâm linh mà ta không ngờ tới. Những người ta tưởng họ mù nhưng họ lại sáng suốt.

Như trước đây ở Nữu Ước, một thành phố lớn, đang lúc đêm, bổng dưng cúp điện. Một người đàn ông tên John cũng bị kẹt trong đêm đen đó. anh ta bị lạc, quờ quạng và sợ hãi. Anh đi đụng vào một người lạ. Anh xin lỗi, nói với người này vài câu. Không ngờ rằng người này lại là một người biết anh, gợi ý giúp dẫn đưa John về nhà. Người lạ có vẻ thông thạo đường đi và không e sợ. Điều này làm John ngạc nhiên: “Quái lạ tối đen như thế này mà anh ta vẫn đi được dễ dàng”. Cuối cùng họ về đến nhà và John nhận ra người lạ. Đó là người mù trong xóm của anh. Chỉ lúc đó anh mới nhận ra rằng người đã dẫn anh đi trong đêm đen chính là một người mù.

Như vậy, trong trường hợp này, kẻ có mắt lại không thấy, kẻ mù lại thấy. Suy nghĩ thêm về cái mù tâm linh, thì có thể kể như:

– Thành kiến là cái mù đối với sự thật.

– Sự kiêu hãnh là cái mù đối với những lỗi lầm của chúng ta.

– Tính ích kỷ là cái mù đối với nhu cầu của kẻ khác;

– Sự dửng dưng chai đá là cái mù đối với đau khổ ta gây ra cho kẻ khác;

– Duy vật là cái mù đối với những giá trị tâm linh.

Tất cả những cái trên đóng vai trò như một màng chắn cửa sổ. Nó không cho người ngồi trong nhà nhín thấy ra bên ngoài. Chúng ta có thể có đôi mắt tốt nhưng không thể thấy những gì là tốt, là đẹp, là chân lý.

Đức Giêsu đến là để mở mắt người mù. Ngài đã mở mắt cho ông Giakêu trưởng ban thu thuế, mở mắt cho người phụ nữ tội lỗi, cho người trộm lành, cho tất cả những ai muốn tìm thì tìm được con đường về nhà Cha.

Niềm tin vào Chúa Giêsu giúp chúng ta thấy trong bóng tối. Ngài như người bạn đường dẫn chúng ta đi trong đêm tối. Chúng ta hãy đi sát vào Ngài. Chúng ta hãy đặt hoàn toàn tin tưởng vào Ngài, Đấng đã nói rằng: “Ta là Ánh sáng thế gian. Ai theo Ta không đi trong tối tăm nhưng luôn có ánh sáng ban sự sống” (Ga 8,12).

30.Suy niệm của André Sève

XIN CHO CON NHỮNG CON MẮT ĐỂ ĐƯỢC THẤY NGÀI

Đây là bài tường thuật một phép lạ hay sao? Không phải, Gioan nói lên điều này trong hai chi tiết trong câu 41. Ngài thuật lại bước đường đức tin với đầy đủ chi tiết. Đầu tiên, tất cả đều là những người mù. Cuối cùng, một người được sáng mắt và nhiều người bị mù. Chúng ta gặp gỡ với bóng đêm và với Giêsu – Ánh sáng.

Đó là bóng đêm sự dữ và tội lỗi. Đứng trước người mù từ khi mới sinh ra, các môn đệ muốn tìm hiểu.

– Làm sao người ta lại bị mù từ lúc mới sinh, lỗi tại ai?

Chúa Giêsu gạt bỏ một cách nhìn sai về sự vật: thiết lập quan hệ giữa người tàn tật và tội lỗi. Nhưng Ngài không đưa ra một lối giải thích khác, Ngài chỉ muốn là ánh sáng để chúng ta có thể sống điều chúng ta phải sống.

Điều ác kinh khủng nhất, màn đêm ghê gớm nhất, chính là thiếu vắng sự gặp gỡ này với ánh sáng: “Màn đêm tối, và Ta là ánh sáng”.

Phép lạ sẽ là dấu hiệu lớn lao này: Chúa Giêsu ban cho con mắt để được thấy. Nhưng từ chính dấu hiệu này, người mù hoàn toàn đạt được mục đích khi gặp gỡ Chúa Giêsu – Ánh sáng, và những “Người Do thái” (những người chống đối) thì bị thất bại. Người mù ra khỏi bóng đêm: “Lạy Chúa, tôi tin Ngài”. Còn người Do thái thì dấn mình vào bóng đêm: “Ông Giêsu này là người tội lỗi”.

Người mù tuyệt vời! Bổn mạng của những người tìm kiếm ánh sáng. Người mù một mực hướng tới mầu nhiệm Giêsu mà không để mình bị những “người thông thái” khủng bố, và thậm chí nói khôi hài khi mọi người run sợ. Ở đây Gioan viết một trang hết sức sống động, xen kẽ những câu hỏi và những thái độ tức giận: Người ấy là ai? Người ấy đã làm gì cho anh? Người ấy ở đâu? Người ấy là ai vậy? Và anh, anh bảo người ấy là ai? Người này không từ Thiên Chúa mà đến! Nhưng nếu thế thì làm sao người âý có thể làm được những điều như thế? Anh là môn đệ của người đó sao? Anh là kẻ sinh ra trong tội lỗi!

Họ nói “chúng tôi, chúng tôi là những người thông thài, thếmà họ không thấy gì. Người mù trả lời “tôi không biết gì hết”, và anh ta dần dần thấy ánh sáng. Anh nói: “người ấy”, rồi sau đó lại bảo “Ngài đến từ Thiên Chúa”, và cuối cùng là “Lạy Chúa!”.

Người ta có thể đọc đi đọc lại Phúc Âm mà vẫn không thấy Đức Giêsu. Ngay từ đầu, Gioan không ngừng lặp lại điều đó: “Ánh sáng chiếu soi đêm tối, nhưng đêm tối không hiểu được ánh sáng” (Ga 1,5). Đứng trước người mù “thấy” được Ngài và những người Pharisêu nhìn Ngài mà không thấy Ngài, Chúa Giêsu bắt buộc phải nhận xét điều xảy ra khi Ngài xuất hiện: “Người mù trở nên sáng mắt và người sáng mắt trở nên mù”.

Nhưng tôi biết, tôi thấy! Không, chúng ta đọc trang Phúc Âm này đến trang Phúc Âm khác, ngày này qua ngày khác, và chúng ta chỉ “ cố gắng” để thấy Ngài mà thôi. Chúng ta là những kẻ mù được Chúa Giêsu cho mắt hai lần: lần đầu để nhìn Ngài và lần sau để thấy Ngài. Chúng ta đừng ngần ngại lặp đi lặp lại lời cầu nguyện này cho tới giây phút cuối cuộc đời: “Lạy Chúa Giêsu, xin cho con những con mắt để được thấy Ngài”.

31.Đức tin

Mù lòa là một nỗi bất hạnh. Thà chết còn hơn bị mù. Người mù nhất là mù từ hồi bẩm sinh, không phải chỉ là một thiệt thòi cho đôi mắt, mà còn thiệt thòi cho toàn thể con người và cuộc đời. Thế giới xinh đẹp này đã chết đi trong lòng họ. Họ không có quan niệm gì về màu sắc, về hình dáng những người thân yêu. Ánh sáng và bóng tối cũng như văn minh tiến bộ cũng như không. Đã vậy, họ còn mang nặng mặc cảm tự ti, bất an, lệ thuộc và bị bỏ rơi.

Vì thế, chúng ta hiểu được nỗi khao khát được sáng, dù chỉ rất lờ mờ. Họ làm bất cứ chuyện gì để được sáng, như người mù bẩm sinh hôm nay đã vận dụng tới cả đức tin:

– Lạy Ngài con tin.

Đức tin của anh thật sáng giá. Anh tuyên xưng đức tin trước tòa án, trước công chúng và trước Chúa Giêsu, Đấng đã làm phép lạ cho anh. Vì tin vào Ngài mà anh bị cha mẹ tránh xa không bênh đỡ, bị hội đồng Do Thái trục xuất ra khỏi cộng đoàn, cắt đứt mọi liên hệ trong một thời gian dài vô hạn định. Người ta lên án anh:

– Toàn thân mày sinh ra trong đống tội lỗi.

Một mình anh cô đơn, đứng riêng một phe, tách biệt khỏi cộng đoàn chỉ vì đức tin. Đức tin làm cho chúng ta cũng phải “chia lìa” với cả những người thân yêu nhất trong gia đình, nhưng lại làm cho chúng ta gần gũi Thiên Chúa hơn cả.

Đức tin của người mù hôm nay cũng giúp chúng ta nhìn lại đời sống đức tin của mình.

Có người đời sống đức tin lên xuống như nhiệt độ của kẻ bị sốt. Nhất là đối với tuổi trẻ mới lớn, đang đứng trước những khúc quanh của muôn giòng thác tư tưởng.

Có người trưởng thành mà đời sống đức tin vẫn cứ lên xuống bất tử, chỉ vì họ sống theo cảm xúc, lệ thuộc vào ngoại cảnh hay vào những người chung quanh. Một đời sống đức tin lung lay như vậy nhất định sẽ không thể nào nhận biết Chúa, sẽ không thể nào nắm vững được Chúa, chưa tin nhận Chúa là Đấng phải tin cậy. Chúa phán:

– Phải thờ lạy Chúa trong tinh thần và chân lý.

Điều đó có nghĩa là phải thờ lạy Chúa với tất cả tấm lòng chân thành vì Chúa nhìn thấy tự bên trong. Nhưng đồng thời còn phải thờ lạy Chúa trong chân lý.

Trên thế giới này biết bao nhiêu người sùng kính và trung thành với giáo chủ của họ hơn chúng ta, nhưng họ không có chân lý hướng dẫn, còn chúng ta, chúng ta có chân lý hướng dẫn, nhưng chúng ta lại không chịu làm theo.

Thực vậy, có những người đời sống đức tin luôn thay đổi theo cảm xúc và tùy theo hứng. Đó là điều rất tệ hại. Họ không giúp ích gì cho ai được, vì chính họ cũng đang chao đảo, ngả nghiêng.

Ngoài ra, có những người cuộc sống trở nên quá êm ả bình thản, không một chút lo âu, không một sự phấn đấu, đức tin của họ cũng sẽ mau phai tàn. Vì cuộc đời quá bình thản, quá dư thừa, khiến họ không còn chiến đấu và cầu nguyện nữa. Trước mặt Chúa chúng ta không có một chiến tuyến nào rõ rệt để phải xử dụng đến đức tin. Đức tin lúc đó như một viên ngọc lu mờ vì không được mài dũa. Chúng ta xin Chúa đánh thức chúng ta dậy đừng để chúng ta sống trong cảnh êm xuôi ru ngủ để rồi xa lìa Chúa.

Sau cùng có những người đời sống đức tin đang vững chắc nhưng lại gặp nhiều thử thách nặng nề của hiểu lầm, của tai ương và bệnh tật. Trong trường hợp này, chúng ta hãy thận trọng. Đừng nhìn vào quá khứ hay hiện tại, nhưng hãy vươn tới tương lai. Phải nhắm tới mục đích của những khó khăn thử thách. Một người càng kiên vững, thì đức tin càng bị tôi luyên cho đến lúc gặp được chính Thiên Chúa.

Đừng để cho nghịch cảnh làm chủ đời sống đức tin. Nhưng hãy noi gương anh mù, can đảm tuyên xưng Chúa trước mặt mọi người vì đức tin đòi hỏi một lập trường công khai và quyết liệt.

32.Chúa vẫn trung thành mãi – Lm. Vũ Xuân Hạnh

Không sợ Thiên Chúa chối bỏ, chỉ sợ con người bưng tai bịt mắt để khỏi nhận ra Thiên Chúa mà thôi. Đó là tâm tình của tôi khi suy niệm câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành người bị mù mắt từ khi mới sinh trong Tin Mừng Chúa nhận IV mùa Chay. Từ ngàn xưa, Thiên Chúa vẫn chỉ có một đường lối đó là trung thành ngỏ lời với con người. Người sử dụng mọi cách thức, mọi hoàn cảnh, mọi chiều kích để thế giới này, vũ trụ này nói chung và nơi cuộc đời của từng người nói riêng, ghi đậm dấu ấn lòng thương xót của Chúa. Tắt một lời, Thiên Chúa luôn tìm cách để gần gũi, để nên một với con người. Vì thế, Người không ngừng yêu thương tỏ mình cho con nguời. Chính Chúa Kitô là bằng chứng lớn lao cho tình yêu ấy.

Về phía con người, lẽ ra phải khát khao, phải vui mừng đón nhận, và đón nhận bằng tất cả niềm hạnh phúc của một thụ tạo được Đấng Tạo Hóa cúi xuống đoái thương, thì ngược lại, họ lại phản bội, lại ghanh ghét, chối từ, lắm lúc muốn thay quyền Thiên Chúa… Càng là những người kiêu ngạo, nắm quyền hành, mang bộ mặt đạo đức bao nhiêu, có khi lại là kẻ chống đồi Thiên Chúa nhiều bấy nhiêu.

Ngày Chúa Giêsu giáng sinh, qua thiên thần, Chúa tỏ mình cho các mục đồng. Những người bị coi là thấp bé này đã mở lòng đón nhận mạc khải của Chúa. Còn với các đạo sĩ, những người ngoại giáo, chỉ bằng một ánh sao lạ trên bầu trời phương Đông, Chúa đã ngỏ lời với họ. Các đạo sĩ chân thành đón nhận mạc khải. Bởi vậy, những tâm hồn đơn hèn, khiêm nhu của các mục đồng, của các đạo sĩ đã hạnh phúc nhiều vì là những người đầu tiên đón nhận Tin mừng Giáng sinh.

Cũng là một cách tỏ mình, có lẽ còn thế giá hơn sự tỏ mình bằng một ánh sao cho ba nhà đạo sĩ, đó là việc hoàng triều Hêrôđê và cả thành thánh Giêrusalem được các đạo sĩ đến với mình, mang theo Tin mừng Giáng sinh để ngỏ lời với Hêrôđê và cả Giêrusalem. Gọi là cách tỏ mình “thế giá”, bởi một ánh sao, dù có lạ, có sáng đến đâu, trước sau vẫn chỉ là một ánh sao. Trong khi để ngỏ lời với Hêrôđê và Giêrusalem, thì không phải chỉ là ánh sao, nhưng là những con người. Thiên Chúa đã dùng chính bản thân những nhà đạo sĩ để mời gọi cả hoàng triều Hêrôđê. Thiên Chúa vẫn trung thành và mãi mãi trung thành, dù con người có khép lòng mình lại, khép rất chặt, Thiên Chúa vẫn yêu thương mời gọi, vẫn kiên nhẫn đợi chờ, vẫn tha thiết lấp đầy khát vọng của họ bằng chính sự hiến thân của mình, trao ban chính mình làm gia nghiệp đời đời của họ.

Nhưng thật đáng tiếc cho Hêrôđê và tất cả những người thuộc về ông! Bởi tất cả đã không có một chút mảy may nào muốn mở lòng để nhận ra Thiên Chúa đang ngỏ lời với mình. Thật chua chát làm sao, bởi Hêrôđê và quần thần của ông không phải là những người ngoại giáo, không phải là những người ở xa xôi, hẻo lánh, tận trời Đông nào đó như các đạo sĩ, nhưng là ở rất gần nơi Thiên Chúa làm người vừa giáng sinh. Họ cũng không phải là những người nghèo dốt nát như các mục đồng, nhưng có đầy đủ mọi phương tiện: nguồn Kinh Thánh nắm trong tay; những nhà thông luật và hiểu biết Thánh Kinh luôn luôn vây quanh để sẵn sàng giải thích Thánh Kinh; phương tiện vật chất có dư thừa…, lại trở nên những tâm hồn chết lạnh vì thiếu vắng Thiên Chúa.

Hóa ra cái giàu của hoàng triều Hêrôđê lại chính là cái nghèo, nghèo không thể tưởng, ngèo đến mức trần trụi, đáng thương. Họ chỉ có mỗi bản thân của mình mà thôi. Ích kỷ đến thế làm sao có thể gặp Thiên Chúa, Đấng chỉ có yêu và xả thân vì yêu. Ích kỷ đến thế, vì thế cũng độc ác không vừa. Ông đã đóng chặt cửa lòng trước tin vui Chúa Cứu Thế giáng trần đã vậy, ông còn sợ Người tranh giành ngai vàng của ông, đến nỗi thẳng tay thanh trừng sự sống của Người. Không có Thiên Chúa trong lòng mình, không có bất cứ điều gì người ta không dám làm, dù tàn nhẫn đến đâu đi nữa. Bởi vậy, dù không thể giết chết Thiên Chúa làm người, Hêrôđê cũng đã giết chết vô vàn trẻ sơ sinh Dothái.Cũng vậy, câu chuyện Chúa chữa lành đôi mắt cho người mù từ khi mới sinh trong Tin Mừng Chúa nhật thứ IV hôm nay, thánh Gioan cho thấy điệp khúc của việc bưng tai, bịt mắt trước tình yêu, quyền năng của Thiên Chúa vẫn lặp lại.

Thay vì nhận ra Thiên Chúa nơi dấu lạ sáng mắt của anh mù, người biệt phái lại cho đó là hành vi của tội lỗi. Họ nói về Chúa Giêsu: “Chúng ta biết người đó là một kẻ tội lỗi”, và nói về anh mù được chữa lành: “Mày sinh ra trong tội”. Còn chính bản thân họ thì sao? Khi khẳng định người khác tội lỗi, người Dothái đã cố tình để lộ một khẳng định về chính họ: họ là kẻ trong sạch, là người thuộc về Thiên Chúa. Chính miệng họ nói lên điều đó: “Chúng ta là môn đệ của Môisen. Chúng ta biết Thiên Chúa đã nói với Môisen, còn người đó, chúng ta không biết bởi đâu mà đến”. Nhưng ngay trong chính lời khẳng định mình là “môn đệ của Môisen”, là kẻ thuộc về Thiên Chúa, đã cho thấy chính họ mới là những kẻ đui mù trầm trọng: không thể biết Chúa Giêsu!

Đúng là nghịch lý. Nghịch lý đến mức mâu thuẫn lớn lao. Bởi người “tội lỗi” lại có thể làm nên những điều kỳ diệu quá tốt đẹp mà từ xưa chưa một ai làm nổi: mở mắt người mù từ khi chưa biết nói, biết cười. Còn “người sinh ra trong tội” lại thừa hưởng những điều kỳ diệu ấy cũng lớn lao không kém. Trong khi đó, những kẻ “vô tội” lại không bao giờ có thể chữa lành cho ai, càng không thể làm nổi một dấu lạ, dù là dấu lạ nhỏ nhất. Đó mới thực sự là điều mỉa mai đầy đau xót. Nỗi đau xót ấy mới chính là bài học vô giá dạy ta biết ý thức mình, ý thức thân phận mong manh của một con người đầy giới hạn, để ngay từ bây giờ, sẽ luôn luôn đón nhận anh chị em bằng tất cả tình yêu thương, sự chia sẻ và cảm thông.

Hóa ra người mù lại sáng, còn kẻ sáng lại mù. Anh mù được chữa lành có một đôi mắt tâm hồn sáng đến lạ thường. Đôi mắt ấy chính là đức tin mà anh đã đón nhận từ Chúa Giêsu. Đôi mắt đức tin của người mù đã giúp anh nhìn thấu đáo về người chữa lành cho mình: “Đó là một tiên tri”. Và khi đối diện với Chúa Giêsu, anh đã tuyên xưng: “Lạy Thầy, tôi tin”.

Trong khi khẳnh định về Chúa như thế, anh cũng đã vạch trần cái đui mù của người biệt phái: “Đó mới thật là điều lạ: người đó đã mở mắt cho tôi, thế mà các ông không biết người đó ở đâu. Nhưng chúng ta biết rằng Thiên Chúa không nghe lời những kẻ tội lỗi, mà hễ ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý Chúa, thì kẻ đó mới được Chúa nghe lời. Xưa nay chưa từng nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ khi mới sinh. Nếu người đó không bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì”. Lời của anh mù được chữa lành đơn sơ quá, nhưng đẹp quá, hay quá, lý luận của anh chắc chắn quá. Giá mà những người biệt phái mềm lòng một chút, chỉ cần một chút thôi, đã có thể gặp gỡ Chúa Giêsu và đón nhận Người.

Nhưng nơi anh mù, đâu chỉ có những lời đầy can đảm như trên. Đứng trước quyền lực của tôn giáo và của xã hội thời ấy, chính đôi mắt đức tin đã cho anh lòng kiên trung không một chút sợ sệt. Anh khẳng khái để lên tiếng một cách dứt khoát, mạnh mẽ dẫu biết mình có thể gặp nguy hiểm, cuộc sống có thể mất bình an. Chẳng hạn anh đã nói: “Nếu đó là người tội lỗi, tôi không biết, tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi mù và bây giờ tôi trông thấy”; “Hay là các ông cũng muốn làm môn đệ Ngài chăng”…

Chúa đâu có hẹp hòi, chỉ có lòng người hẹp hòi mà thôi. Chúa đâu có đòi hỏi điều gì cao xa, hay vượt quá sức mình. Người chỉ cần một chút thiện chí của ta thôi là đã có thể trở thành điều kiện tốt để Người đến với ta. Chúa đâu có chối bỏ ai, chỉ có con người mới chối bỏ Chúa. Chúa luôn luôn dung thứ và tha thứ, chỉ có ta mới là kẻ vô tâm trước tình yêu của Chúa. Chúa luôn luôn mời gọi và ngỏ lời với ta, chỉ có ta khép chặt lòng mình, để khỏi đón nhận mạc khải của Người. Chúa vẫn là Thiên Chúa trung thành, chỉ có ta là không ngừng phản bội.

Sau cùng, chúng ta hãy mượn lời thánh Augustinô, để cùng thánh nhân nguyện xin Chúa ban cho mình thoát khỏi tình trạng mù lòa của tâm hồn, để có thể nhận ra Chúa nơi chính mình và nơi anh chị em:

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa. Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa, quên đi chính bản thân, yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa. Xin cho con biết tự hạ, biết tán dương và chỉ nghĩ đến Chúa. Ước gì con biết hảm mình và sống trong Chúa. Ước gì con biết nhận từ Chúa tất cả những gì xảy đến cho con và biết chọn theo Chúa luôn. Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa. Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa. Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa. Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen.

33.Người mù

Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, tôi muốn chia sẻ hai điểm.

Điểm thứ nhất đó là thái độ của những người chung quanh đối với anh mù.

Nhìn thấy anh mù ngồi ăn xin bên vệ đường, thay vì xót thương thì người ta lại cho là đáng kiếp. Kẻ thì bảo tình trạng mù lòa ấy là do tội lỗi của cha mẹ, bởi vì Thiên Chúa trừng phạt tội lỗi của cha mẹ nơi con cái. Kẻ thì bảo Thiên Chúa thấy trước những tội lỗi, nên đã trừng phạt anh ta từ lúc mới sinh. Tựu trung lại chính tội lỗi và sự vi phạm giới luật Thiên Chúa đã dẫn tới tình trạng bi đát ấy.

Cuộc tranh luận không phân thắng bại và các môn đệ bèn phải thỉnh ý Chúa Giêsu. Các ông hỏi:

– Thưa Thầy, vậy thì ai đã phạm tội, anh hay cha mẹ của anh, để rồi bản thân anh bị mù lòa.

Chúa Giêsu, lúc bấy giờ có lẽ đã nhìn anh bằng một cái nhìn cảm thông. Con người ta thường tỏ ra cay độc khi xét đoán, nhưng Chúa thì khác, Ngài đã trả lời như sau:

– Không phải vì anh hay cha mẹ anh đã phạm tội, nhưng để công việc của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh.

Chúng ta là những người đau khổ. Nào là đau khổ phần hồn, nào là đau khổ phần xác. Chẳng hạn như bệnh tật, nghèo túng, tang tóc. Đau khổ như một cái gì gắn liền với thân phận con người, như một đám mây đen che phủ cuộc đời chúng ta. Và nhiều khi, trong những giờ phút tăm tối ấy, chúng ta đã kêu lên:

– Tôi đã làm gì nên tội mà phải khổ thế này.

Chúng ta hãy bình tĩnh và suy nghĩ, đồng thời dưới ánh sáng đức tin, chúng ta thấy đau khổ không phải chỉ là hậu quả của tội lỗi, mà nó còn mang một ý nghĩa cao cả hơn nhiều, bởi vì những công việc của Chúa phải được thực hiện nơi bản thân chúng ta.

Thực vậy, nếu chúng ta biết can đảm chấp nhận những gian nguy thử thách, thì tình thương và ân sủng của Chúa sẽ được biểu lộ nơi chúng ta. Vì thế, đừng phàn nàn oán trách, đừng bực bội tức tối như những kẻ không có đức tin. Hãy mang lấy cây thập giá đời mình như lời Chúa Giêsu đã truyền dạy.

Điểm thứ hai chúng ta cùng nhau chia sẻ, đó là phép lạ Chúa Giêsu đã thực hiện.

Phúc âm kể lại rằng: Ngài lấy nước bọt trộn lẫn với đất rồi bôi lên mắt anh và bảo:

– Hãy đi rửa ở giếng Siloe thì anh sẽ được khỏi.

Anh đã làm theo lời căn dặn của Chúa Giêsu và mắt anh đã được sáng. Trước phép lạ quá hiển nhiên ấy, người ta đâm nghi ngờ không biết có phải là chính anh hay không? Để rồi anh đã phải lên tiếng xác nhận và kể lại những sự việc đã xảy đến với mình.

Chúng ta chia sẻ nỗi bất hạnh khi anh bị mù, cũng như niềm vui khi anh được sáng. Niềm tin tưởng và cậy trông của anh đã được ân thưởng một cách xứng đáng. Theo lời chỉ dẫn của Chúa Giêsu, anh đã đi rửa tại giếng Siloe và anh đã được khỏi. Từ đó chúng ta rút ra một kinh nghiệm sống, đó là ai tin tưởng vào Chúa, sẽ tìm thấy một nơi nương tựa còn vững hơn cả núi đá.

Đôi khi chúng ta than phiền về gánh nặng cuộc đời. Thiên Chúa biết cây thập giá chúng ta đang vác và với những hy sinh gian khổ. Ngài không bao giờ đặt trên vai chúng ta một gánh nặng vượt quá sức của chúng ta.

Hãy chấp nhận với lòng tin yêu để những hy sinh gian khổ đem lại lợi ích thiêng liêng cho chúng ta, bởi vì tất cả đều là hồng ân của Chúa.

34.Suy niệm của Nguyễn Văn Thành

NGUYỆN VỌNG CỦA NGƯỜI MÙ TỪ THUỞ MỚI SINH.

Tôi là một người mù từ thuở mới sinh. Sáng nay, Đức Kitô đã làm cho mắt của tôi được THẤY trở lại, như một người bình thường, không bao giờ mang tật nguyền gì…

1.- Bao nhiêu năm sống trong cô đơn và khổ đau, suốt ngày đi ăn xin từ xóm làng này qua xóm làng khác. Từ đây, trở lại với xã hội loài người, tôi chỉ ước mong được cư xử và đãi ngộ như một con người có giá trị bình thường như mọi người. Có lời ăn tiếng nói, khi tiếp xúc và trao đổi. Được lắng nghe và coi trọng, khi tôi cất lời phát biểu, trình bày ý kiến riêng tư của mình. Khi được mọi người xác nhận phẩm chất làm người như vậy, tự nhiên tôi ” vươn lên, hướng thượng “, cố gắng đóng góp phần mình, khi anh chị em bà con cần đến tôi.

2.- Ngoài ra, khi tôi có những hành động sai trái, lầm lỡ… ước vọng của tôi là được anh chị em hai bên cạnh trở nên cho tôi một ngọn đèn hướng dẫn và nâng đỡ, sẵn sàng chỉ bày cho tôi một cách cụ thể và rõ ràng tôi phải điều chỉnh thế nào hành động và ngôn ngữ của tôi. Sai lầm lúc bấy giờ không còn là một sai lầm, trái lại đã trở nên cho tôi một bài học cao quí, khả dĩ xây dựng cuộc đời và làm đẹp bộ mặt của tâm hồn.

3.- Nhu cầu thứ ba của tôi là có người dạy bảo những bài học ĐÁNH GIÁ, bằng cách chia sẻ và giải bày những định chuẩn rõ ràng và khách quan. Dựa vào đó, tôi xác định vị trí hay là chỗ đứng của tôi, trong lòng xã hội hay là trong lãnh vực nghề nghiệp.Cuộc sống bình thường luôn luôn có trên có dưới, có trước có sau, có trong có ngoài. Không ai dạy cho tôi những bảng thang giá trị hay là những qui luật ấy, tôi chỉ là hạt cát phiêu lưu, bất định “vô gia đình, vô tổ quốc và vô tôn giáo”.

Thay vì mang đến cho tôi ba quà tặng cao quí ấy – là xác nhận giá trị, hướng dẫn hành động và đánh giá cuộc sống – nhằm xây dựng bản thân và cuộc đời hằng ngày cho tôi… những người mà tôi gặp trên mọi nẻo đường đó đây chỉ tung ra “những lời tố cáo, phê bình, chỉ trích, mạ lị và chưởi bới”:

“Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?”

Với thái độ trịch thượng ấy, thay vì đón nhận và yêu thương tôi, họ đã trục xuất, khai trừ, loại thải tôi ra khỏi cung lòng của họ.

Hỡi ai là người Kitô-hữu – có nghĩa là Đức Kitô thứ hai, Alter Christus – thay vì xua đuổi tôi, hãy lấy một ít bùn đất, trộn với nước miếng của quí bạn, và đụng đến hai con mắt Đức Tin của tôi, để cho tôi có thể ” nhìn thấy Mặt Trời Công Chính “, trong tất cả cuộc đời còn lại của tôi. Hãy có gan ” làm phép lạ “, để cho tôi ngày ngày trở nên con cái của Thiên Chúa.

35.Ánh sáng

Khi William Montague Dyke được 10 tuổi, cậu đã bị mù mắt trong một tai nạn. Mặc dù bị tàn tật, William đã tốt nghiệp đại học ở Anh Quốc với bằng danh dự ưu hạng. Khi còn ở nhà trường, anh đã yêu người con gái của một sĩ quan cao cấp của hải quân hoàng gia Anh, và họ đã hứa hôn với nhau. Không lâu trước đám cưới, William đã được giải phẫu với hy vọng có thể phục hồi lại thị giác, nếu cuộc giải phẫu thành công. Còn nếu thất bại, anh sẽ bị mù suốt đời. William đã muốn giữ nguyên những giải băng trên mặt cho đến ngày lễ cưới. Nếu cuộc giải phẫu thành công, anh muốn rằng người đầu tiên nhìn thấy sẽ là cô dâu.

Ngày đám cưới đã đến. Rất nhiều quan khách được mời, gồm cả hoàng gia, các thành phần trong nội các chính phủ, và nhiều vị thân hào nhân sĩ nổi tiếng trong xã hội. Tất cả đã qui tụ nhau lại để chứng kiến những lời đoan hứa của đôi tân hôn. Cha của chú rể, William Hart Dyke và ông bác sĩ giải phẫu mắt đứng bên cạnh chú rể với đôi mắt vẫn còn bị băng kín. Tiếng kèn trumpet từ chiếc đàn organ trỗi lên bắt đầu cho từng bước chân hồi hộp của cô dâu từ từ tiến bước trên nền vải trắng dẫn lên bàn thờ. Ngay khi cô dâu tới bàn thờ, bác sĩ giải phẫu lấy từ trong túi áo ra một cái kéo để cắt những miếng băng bịt mắt của William. Sự im lặng căng thẳng bao trùm lấy nguyện đường. Cả cộng đoàn nín thở chờ đợi xem William có thể nhìn thấy cô dâu đang đứng trước mặt chú rể hay không. Khi vừa đứng đối diện với cô dâu, những lời nói mừng rỡ của William vang lên khắp giáo đường: “Em đẹp hơn anh tưởng tượng nhiều!”

Tác giả đã kết luận câu chuyện bằng những hàng chữ như sau: “Một ngày nào đó những miếng băng che phủ con mắt của chúng ta sẽ được lấy đi. Khi chúng ta đối diện với Chúa Giêsu Kitô và nhìn thấy khuôn mặt của Ngài lần đầu tiên, vinh quang sáng ngời của Ngài sẽ chiếu sáng rực rỡ và huy hoàng hơn bất cứ cái gì chúng ta đã từng tưởng tượng ra trong cuộc đời này”.

Trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu chữa người mù sáng mắt. Ngài không chỉ mang lại thị giác cho người mù, nhưng còn mang lại ánh sáng đức tin nữa. Anh được khỏi mù cả về thể lý lẫn tinh thần. Tự bản chất, câu chuyện chữa lành anh mù là câu chuyện của đức tin. Khi anh tuyên xưng đức tin nơi Chúa Giêsu, anh không chỉ nhìn thấy Chúa Giêsu một cách thể lý, nhưng còn nhìn thấy Ngài là một Đấng được sai đến bởi Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ, Con Thiên Chúa, “ánh sáng các dân tộc” như Công đồng Vatican II đã viết:

“Chúa Kitô là ánh sáng các dân tộc: vậy, hội họp nhau đây trong Thánh Thần, thánh Công đồng nồng nàn ước nguyện rằng, bằng cách loan báo Tin mừng của Phúc âm cho tất cả các tạo vật, mình sẽ tỏa xuống trên mọi người sự sáng của Chúa Kitô đang chiếu sáng trên khuôn mặt của Giáo Hội” (Lumen Gentium, đoạn 1).

Augustinô là một người ngoại giáo trước khi gia nhập đạo Công giáo, trong khi mẹ của ngài, bà Monica lại là một người Công giáo rất đạo đức. Bà không ngừng cầu nguyện cho ngài. Ngay từ khi còn bé, cậu đã gây ra đủ mọi thứ vấn đề. Càng lớn càng trở nên tệ hơn, Augustinô đã bị dằn vặt bởi những nghi ngờ và sợ hãi. Đối với ngài, Thánh Kinh có vẻ như điên khùng! Cuộc đời của Augustinô đã bắt đầu thay đổi từ khi kiếm được việc dạy học ở thành phố Milan, nước Ý. Ở đây, ngài có cơ hội nghe những bài giảng thu hút của thánh Ambrose, tổng giám mục Milan. Chính những bài giảng này đã lôi cuốn ngài đến nhà thờ thường xuyên. Và sau cùng, thánh Ambrose đã rửa tội và đưa Augustinô gia nhập Giáo Hội.

Sau khi trở lại, Augustinô đã viết: “Lạy Chúa, con đã yêu Chúa quá trễ. Tiếc thay sự đẹp đẽ của những ngày xa xưa… Con đã yêu Chúa quá trễ. Và kìa hãy xem Ngài đã ngự trị ở trong con, và con thì lại cứ kiếm tìm Ngài ở bên ngoài… Ngài đã ở với con, nhưng con lại không ở với Ngài… Ngài đã kêu gọi con, xuyên qua sự giả điếc làm ngơ của con. Ngài đã lóe sáng, chiếu soi và đánh tan sự mù lòa của con… Ngài đã đụng đến con và thiêu đốt con cháy lên trong sự an bình của Ngài”.

36.Mù thời hiện đại

Có bao giờ bạn nghĩ mình bị mù lòa dù đang sống trong kỷ nguyên ánh sáng, dù mắt bạn vẫn bình thường không?

Lẽ ra chúng ta đang sống trong kỷ nguyên ánh sáng, đang sống trong thời đại mà nền văn minh con người phát triển đến đ ỉnh cao chưa từng thấy thì người ta được mở mang trí thức để có thể nhìn cuộc sống và con người d ưới nhiều khía cạnh. Thế nhưng người ta lại mù lòa, tầm nhìn bị giới hạn trước cuộc đời và tha nhân. Đây là vấn đề chính mà Chúa Giêsu đề cập trong Tin Mừng hôm nay.

Chúng ta đang bị mù khi nhìn và đánh giá cuộc sống hôm nay. Mù vì chỉ nhìn cuộc sống này trong phạm vi vật chất và cuộ sống này là cùng đích. Trong khi đó còn có một cái vì vượt xa và trên cả vật chất và cuộc sống con người có quá khứ, hiện tại và cả tương lai ở đời sau. Nếu như cuộc sống này bị đóng khung trong phạm vi vật chất thì thử hỏi đời người còn có ý nghĩa gì?

Cũng từ cái nhìn hạn hẹp v ề cuộc sống như thế dẫn đến cái nhìn về tha nhân cũng bị giới hạn, bị đóng khung. Người ta không còn thấy được những giá trị thiêng thiêng, không còn thấy giá trị nhân phẩm đang hiện diện trong anh em mình. Người ta chỉ nhìn và đánh giá n ười khác theo tiêu chuẩn hoàn toàn vật chất. Hai chữ tình nghĩa ngày nay dường như chỉ còn trên môi những thi sĩ, những nhà văn trong thơ văn hay tiểu thuy ết. Cái mà người ta tôn trọng hôm nay là tiền, quyền và địa vị. Vì thế khi muốn kết bạn thân thiện với ai người ta luôn nhìn người bạn ấy theo tiêu chuẩn này. Đây quả thật là một thứ mù lòa đáng sợ. Bệnh mù này không thể chữa khỏi vì người ta không biết mình đang mù hay do cố ý mù.

Cái mù thể lý trong Tin Mừng đã là một nỗi bất hạnh nhưng cái mù tinh thần của chúng ta hôm nay còn đáng sợ và nguy hiểm hơn. Vì khi lương tâm người ta trở nên mù tối thì người ta có thể làm bất kỳ điều gì mà không cần nghĩ đến tha nhân, xã hội… miễn bản thân mình có lợi.

Lời Chúa hôm nay như một luồng ánh sáng thiêng liêng soi sáng tâm hồn giúp chúng ta loại bỏ sự mù lòa nơi sâu thẳm của lòng mình để chúng ta có cái nhìn mới mẻ và linh thánh về cuộc sống và tha nhân.

Chúng ta hãy xem cách Chúa chọn một người để đặt làm vua lãnh đạo dân Chúa. Chúa không nhìn người ấy theo tiêu chuẩn mà người đời hay tìm kiếm. Nhưng Chúa nhìn thấu suốt tâm hồn, nhìn cái tấm lòng và cách thức đối xử của người đó với anh em. Để chọn một người lãnh đạo, Chúa không chọn một người tài ba lỗi lạc, nhưng lại chọn Đavít một người kém cỏi, yếu đuối…… nhưng nơi con người nhỏ bé ấy chứa đựng một con tim quảng đại biết sống vì người khác và dám chết cho anh em.

Chúng ta là con cái Thiên Chúa, nghĩa là con cái của Ánh Sáng, chúng ta hãy thực thi những gì thánh Phaolô nhắn nhủ trong bài đọc 2: Chúng ta là con cái ánh sáng, hãy hành động như con cái sự sáng, hãy ăn ở như con cái sự sáng và hành động xứng với địa vị mà Đ ức Kitô đã mang lại cho chúng ta. Địa vị và nhân cách ấy là con Thiên Chúa. Chúng ta hãy sống xứng với ân ban cao trọng ấy!

Lạy Chúa! Như sen trong đầm lầy, xin giữ tâm hồn con thanh khiết.

Giữa m ột thế giới đầy những hình ảnh vẫn đục, xin gìn giữ mắt con.

Giữa một thế giới tôn thờ khoái lạc, xin giúp con biết trân trọng thân xác.

Giữa một thế giới đang bị ám ảnh bởi dục tình, xin thanh lọc lòng trí con.

Xin nâng con lên cao vượt qua những thèm muốn chiếm đoạt, để biết tận hiến trong yêu thương.

Xin đừng để con phung phí cuộc sống này chỉ vì những lợi ích thấp hèn.

Xin mở mắt tâm hồn con, để con thấy Chúa đang hiện hiện trong tha nhân.

Lạy Chúa, như sen trong đầm lầy, xin giữ tâm hồn con trong sáng. Amen.

37.Ánh sáng

Trước ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội, một cô gái đã chia sẻ câu chuyện của đời cô: “Ba tôi là người Công giáo, nhưng ông đã bỏ đạo khi lấy má tôi. Điều này làm ông nội tôi rất khổ tâm. Khi tôi được 15 tuổi thì ông tôi bị một chứng bệnh trong óc và chẳng bao lâu thì bị mù. Thấy hoàn cảnh tội nghiệp, tôi xin phép ba má về sống với ông tại một vùng quê, cách xa nhà thờ Công giáo khoảng 600 thước. Công việc chính của tôi tại đây, ngoài việc tiếp tục đến trường, là nấu ăn và dắt ông nội đến nhà thờ dự lễ vào mỗi sáng Chúa nhật. Trên quãng đường quen thuộc này, ông thường kể cho tôi những cảm nghiệm của ông về đức tin, về Thiên Chúa, về Chúa Kitô. Đôi khi nhắc lại những câu Kinh thánh hay những lời linh mục giảng dạy. Tôi luôn chăm chú nghe, không phải vì thích thú, nhưng vì muốn làm vui lòng ông.

Cho đến một lần kia, khi cùng với ông trên đường tới thánh đường tham dự lễ Giáng sinh, tôi cảm thấy như có một tiếng mời gọi huyền nhiệm nào đó đang vang dội trong tâm hồn, khiến tôi bồi hồi xúc động. Tôi kéo tay nội đi thật nhanh. Bỡ ngỡ, nội hỏi tôi: “Sao bữa nay con đi nhanh quá vậy?” Tôi im lặng… Khi chúng tôi vừa đặt chân tới cửa nhà thờ, thì cặp mắt tôi như đã mờ hẳn đi vì những giọt lệ cứ trào ra. Không thể giữ lại những cảm xúc cho riêng mình, tôi ôm chầm lấy nội và nói: “Nội ơi, hôm nay con đã thực sự tìm thấy Chúa”. Ông hỏi: “Cháu nói thế có nghĩa là gì?” “Nội biết không, những lời nội nói cho cháu nghe trên quãng đường này vào mỗi sáng Chúa nhật đã cho cháu ánh sáng để nhận ra Chúa. Cháu dẫn nội đến nhà thờ, nhưng chính nội đã dẫn cháu đến với Chúa”. Ngừng mấy giây lau khô những giọt lệ, cô gái tiếp: “Đó là lý do tại sao tôi có mặt trong lớp giáo lý này”.

Sách Giáo lý Công giáo số 89 viết rằng: “Có một mối liên hệ chặt chẽ giữa đời sống tinh thần của chúng ta và các tín điều. Các tín điều là những ánh sáng trên con đường đức tin của chúng ta, chúng soi sáng và làm cho con đường này được vững chắc. Ngược lại, nếu cuộc sống của chúng ta ngay thẳng, trí tuệ và tâm hồn chúng ta sẽ rộng mở để đón nhận ánh sáng của các tín điều đức tin”.

Albert Stauderman đã dùng một ví dụ cụ thể để nói về sức mạnh của đức tin: “Đức tin tạo nên sức mạnh và ân sủng của Thiên Chúa có hiệu quả trong đời sống của chúng ta. Ở đâu không có đức tin, thì ngay chính Thiên Chúa cũng không thể làm gì được. Xin trích dẫn một ví dụ cho dễ hiểu. Xung quanh chúng ta có rất nhiều làn sóng vô tuyến truyền thanh được phát ra từ các tổng đài. Nó thấm nhập vào mọi nơi chốn, nhưng nếu không có máy radio để đón nhận những làn sóng này, và phát ra âm thanh cho bạn nghe, thì những làn sóng đó cũng vô ích và không được ai biết tới. Xin bạn hãy nhớ rằng ở một nơi trên đường mục vụ của Chúa Giêsu, chính Ngài cũng đã không làm một phép lạ nào vì sự thiếu lòng tin của họ. Nếu Thiên Chúa không có một chút quyền lực nào trong cuộc đời của bạn như là Ngài vẫn có, thì hãy nhìn vào chính bên trong con người của bạn. Có lẽ cái đài radio nhận làn sóng của bạn đã bị tắt rồi. Đức tin có thể làm cho bạn tràn ngập sức mạnh của Thiên Chúa; và ngược lại, vắng bóng đức tin sẽ làm cho bạn trở nên bất lực và thống khổ”. Khi Chúa Giêsu còn ở trần gian, Ngài là ánh sáng thế gian. Nhưng qua phép rửa tội, người Kitô hữu đã nhận được Ngôi Lời là “ánh sáng đích thực soi sáng mọi người”, và “sau khi được soi sáng như thế”. Họ trở nên “con của sự sáng”, và chính bản thân họ là “ánh sáng”. Không có sự đui mù nào đáng sợ cho bằng sự đui mù tinh thần. Không yêu mến tha nhân, không sống theo giảng huấn của Chúa Giêsu, đó là mù lòa tinh thần. Không sống trung thành với những lời hứa khi chịu phép rửa tội, không thực hành đức tin Công giáo, chểnh mảng tham dự bàn tiệc Thánh thể, đó là mù lòa tinh thần. Mùa chay là thời gian thuận tiện giúp chúng ta ra khỏi bóng tối của sự mù lòa tinh thần để đến với ánh sáng cứu độ của Chúa Giêsu Kitô.

38.Đức tin

Có một người kia, sinh ra đã bị mù, anh sống trong một gian phòng, bởi vì không nhìn thấy gì nên anh phủ nhận tất cả những gì những người chung quanh quả quyết là có: “Tôi không tin, vì tôi có thấy đâu nào”. Một vị lương y thấy vậy thì thương hại anh, ông đi tìm một thứ linh dược chữa cho anh được sáng mắt, anh sung sướng quá, tự phụ nói: “Giờ đây tôi đã thấy được tất cả sự thật chung quanh tôi rồi”. Nhưng có người nói với anh: “Bạn ơi, bạn mới chỉ thấy được những vật chung quanh bạn trong căn phòng này thôi. Như thế có là bao, ngoài kia người ta còn thấy được mặt trời, mặt trăng và các tinh tú hằng hà sa số, còn biết bao vật khác mà bạn chưa thấy, bạn đừng tự phụ như vậy”. Anh tỏ vẻ không tin, lại còn nói mạnh hơn: “Làm gì có được những cái đó, những gì có thể thấy được, tôi đã thấy tất cả rồi”.

Một vị y sĩ khác lên tận núi cao, gặp được Sơn Thần chỉ cho một thứ linh dược khác, đem về giúp cho anh được cặp mắt sáng hơn và thấy xa hơn. Bây giờ anh thấy được mặt trời, mặt trăng và các tinh tú trên không trung. Mừng quá và lòng tự phụ tự đắc lại tăng thêm, anh nói với mọi người: “Trước đây tôi không tin, nhưng bây giờ tôi thấy, tôi tin. Như thế giờ đây không còn có gì mà tôi chẳng thấy, chẳng biết, đâu còn ai hơn tôi được nữa”.

Thấy anh ta tự phụ như vậy, một hiền nhân nói với anh: “Cậu ơi, cậu vừa hết mù, nhưng cậu cũng vẫn chưa biết gì cả. Tại sao cậu lại quá tự phụ như thế? Với chừng mực và giới hạn của tầm mắt, cậu làm gì biết có những vật ngoài ngàn dặm mà mắt cậu không làm sao thấy được. Cậu có thấy được những nguyên nhân nào đã cấu tạo ra cậu khi cậu còn nằm trong bào thai của mẹ cậu chăng? Ngoài cái vũ trụ nhỏ bé mà cậu đang sống đây, còn không biết bao nhiêu vũ trụ khác vô cùng to lớn và nhiều không kể hết như cát ở bãi biển, cậu có thấy không? Tại sao cậu dám tự phụ bảo rằng: “Tôi thấy cả, tôi biết cả rồi”. Cậu vẫn còn là một anh mù, cậu vẫn còn lấy tối làm sáng, lấy sáng làm tối”.

Đó là câu chuyện của một anh mù bẩm sinh ở An Độ. Còn câu chuyện của anh mù, cũng mù từ bẩm sinh, kể lại trong bài Tin Mừng, thì lại khác hẳn: trong khi mù và sau khi được sáng mắt, anh luôn khiêm nhường, luôn nhìn nhận thân phận hẩm hiu buồn tủi của mình. Ngược lại, những người sáng mắt thì lại mù tối, kiêu ngạo trong sự mù tối của mình, đó là những người Pharisêu. Chúng ta thấy sự khác biệt tàn nhẫn giữa đôi mắt của người mù và đôi mắt của những người Pharisêu. Đôi mắt thân xác của người này mù nhưng mắt tâm hồn anh lại sáng. Những người Pharisêu có đôi mắt thân xác không mù lòa, nhưng đôi mắt tâm hồn đã chết. Sự khác biệt đó là niềm tin và đức tin: anh mù được phép lạ đã tin Chúa Giêsu. Còn những người Pharisêu thấy phép lạ nhưng không tin Chúa.

Đây là một phép lạ đặc biệt chưa từng có trong nhân loại. Cho đến ngày nay, mặc dầu y khoa rất tiến bộ nhưng vẫn còn bó tay trước những người mù bẩm sinh. Còn đối với những người vì một lý do nào đó bị mù lòa thì y khoa có thể dùng một loại ra đa hay dùng con mắt của người khác thay vào thì có thể thấy được. Trường hợp anh mù trong Tin Mừng, Chúa Giêsu không làm thế, Ngài không thay mắt cho anh, Ngài dùng quyền năng Thiên Chúa để làm một phép lạ phi thường cho anh được sáng mắt. Nhưng trên hết con mắt đức tin của anh được bừng sáng, anh nhận ra Đức Kitô mà nhiều người sáng mắt không nhận ra.

Theo ý nghĩa tượng trưng, trong phạm vi thiêng liêng, bệnh mù về tinh thần là tình trạng mê muội của những người sống trong tội lỗi và tình trạng mù quáng của những kẻ cố chấp. Vậy hình thức thứ nhất của bệnh mù về tinh thần là tội lỗi, nó che lấp mắt linh hồn làm cho linh hồn không nhận ra Chúa và cũng chẳng nhận ra thánh ý Chúa. Vì thế, Kinh Thánh gọi những người sống trong tội lỗi như ngồi trong chỗ tối tăm, ngồi trong bóng đêm, ngồi trong bóng sự chết. Một hình thức khác của bệnh mù tinh thần là sự cố chấp, tức là bảo thủ trong sự lập luận sai lầm hay càn dở của mình và nhất định không chịu phục thiện. Chính vì thế mà nhiều lần Chúa Giêsu đã gọi những người Pharisêu là những kẻ mù quáng, bài Tin Mừng hôm nay là một điển hình. Chúa đã nói: “Tôi đến thế gian này chính là để những kẻ không xem thấy thì được xem thấy, còn những kẻ xem thấy sẽ trở nên đui mù”. Chúng ta thường nói về những người cố chấp: “Không ai điếc nặng cho bằng kẻ không muốn nghe”, thì chúng ta cũng có thể nói về những người mù tinh thần: “Không ai mù quáng nặng cho bằng kẻ mở mắt mà không muốn xem”.

Chúng ta có đang sống trong tình trạng mù lòa về tinh thần không? Chúng ta tội lỗi và cố chấp ư? Và hiện giờ chúng ta vẫn còn cố chấp trong tình trạng đó ư? Không được đâu. Chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu để Ngài thắp sáng cuộc đời chúng ta như Ngài đã thắp sáng cuộc đời người mù xưa kia. Nói khác đi, trên đời này không ai có thể giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, vì lý do ai cũng có tội, chỉ có một Đấng không có tội gì, tuyệt đối chí thánh, mới có quyền cứu giúp chúng ta mà thôi, đó là Chúa Giêsu. Vấn đề là chúng ta có bằng lòng đến với Chúa không?

Người mù sung sướng biết bao khi đôi mắt anh mở ra và nhìn thấy Chúa Giêsu, vị ân nhân vĩ đại của mình. Chúa đã thắp sáng đời anh. Trong Mùa Chay, chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu, vị đại ân nhân của chúng ta, để Chúa mở mắt tinh thần cho chúng ta, để Chúa thắp sáng đời chúng ta.

39.Thời buổi lo lắng

Thi sĩ W. H. Auden hiện đại là người đầu tiên đã gọi lịch sử thời chúng ta là “Thời Lo Sợ”; và từ đó danh từ ấy được truyền tụng vì nó nói lên đặc tính trong thời gian chúng ta đang sống– cái cảm giác lo lắng, sợ hãi, nghi ngờ và khó khăn về tương lai. Đó là những cảm giác đang ảnh hưởng trên văn hoá chúng ta. Tất cả những điều ấy được biểu lộ qua văn thơ, ca nhạc và những nghệ thuật khác nữa. Nếu các bạn có dịp đi tham quan Viện Nghệ Thuật Hiện Đại ở thành phố New York, các bạn sẽ thấy một bức tranh diễn tả một cô ca sĩ bụi đời đang nằm ngủ nơi trống trải với cây đàn nằm bên cạnh cô do họa sĩ Andre Rousseau vẽ (bức tranh này thường được gọi là “Cha Đẻ” của tranh họa hiện đại). Bức tranh diễn tả một khung cảnh phía trước và xung quanh cô ta rất an bình chỉ trừ mập mờ phía sau là một con sư tử đang nhe nanh giương móng sắc như đe dọa; thế nhưng bức tranh không một lời giải thích hay một dấu hiệu nào để có thể hiểu tại sao lại xuất hiện một con sư tử hung dữ trong bức tranh thơ mộng như vậy. Đó là ẩn ý của người hoạ sĩ muốn như thế. Cũng vậy, những mối lo sợ của chúng ta thường không có lời giải nghĩa thích hợp, nhưng chúng luôn hiện diện ở đó và trong chúng ta.

Sự lo lắng liên tục mà chúng ta mang theo suốt ngày đêm sẽ lấy đi mọi hoan lạc trong đời sống, những giấc ngủ an lành, làm phí sức và hao tổn tinh thần chúng ta, nó cũng là nguyên nhân hay ít ra là một trong những nguyên tố góp phần gây ra các bệnh hoạn trong cơ thể. Thật sự, lúc nào chúng ta cũng có đầy những lo lắng, sợ hãi bởi vì không biết đời sống rồi sẽ đưa chúng ta tới đâu. Nào là “Chuyện gì sẽ xảy ra nếu tôi làm hoặc không làm điều này, điều nọ?… Làm sao tôi biết chắc chứ?… Giả như anh ta hay chị ta làm điều ấy thì sao?…” Ôi! Đúng quá phải không?

Mỗi câu hỏi như một lời kêu cứu, thế mà trong cuộc sống hằng ngày, như chúng ta biết đó, nó chẳng được ai nghe đến. Đó cũng là điều xảy ra đối với những người Pharisiêu trong bài Tin Mừng hôm nay. Những người Pharisiêu đã làm phiền một anh thanh niên vì anh ta được Chúa Giêsu chữa cho khỏi mù trong ngày Sabbát. Họ muốn anh ta nói dối là Chúa Giêsu đã không chữa anh ta khỏi mù vì đối với họ ngay việc chữa lành trong ngày Sabbát cũng là phạm luật cấm. Theo cách giải thích luật gắt gao được áp dụng trên đời sống cũng như trong tôn giáo của họ thì việc làm của Chúa Giêsu không phải là dấu của quyền uy Thiên Chúa. Họ trói buộc Thiên Chúa vào luật điều tuân giữ ngày Sabbát của họ. Thiên Chúa được tự do nhận lời cầu xin của nhân loại từ Chúa Nhật đến ngày thứ Sáu, nhưng không được vào ngày thứ Bảy. Ngay cả Chúa cũng không được cho phép làm việc ngày Sabbát. Chúa Giêsu đã mang tin vui cho các bạn đó là Thiên Chúa luôn luôn lắng nghe lời kêu xin của nhân loại trong mọi lúc, bất kể ngày giờ nào. Ngài biết rất rõ các bạn đang bị đau ở đâu và từng vấn đề khó khăn của các bạn như thế nào. Ngài biết và lắng nghe từng nghi vấn hay lời kêu cứu ngay cả trước khi các bạn có thể nghĩ hay thốt ra. Ngài đã có sẵn từng câu trả lời cho mỗi nghi vấn và sẽ đến để cứu các bạn trong mọi nơi, mọi lúc nếu như các bạn để Ngài được tự do hành động.

Các bạn phải san bằng cái bức tường lo lắng, sợ hãi và nghi ngờ mà vô tình cách nào đó các bạn đã dựng nên làm ngăn cách giữa Chúa và các bạn. Bức tường này có hai vấn đề chính. Thứ nhất là mối lo lắng về tương lai vĩnh cửu của chúng ta. Những điều chúng ta đã hay không làm trong quá khứ còn theo đuổi ám ảnh chúng ta về ảnh hưởng cánh chung của mình. Chúng ta lo lắng khi thấy đời sống hiện tại xem ra không mang đến ý nghĩa nào về vĩnh cửu. Chúng ta lo sợ về sự chết: chúng ta sẽ ra đi vào cõi bất diệt và mọi người thân yêu của chúng ta cũng sẽ theo chân, và dầu có những lời nói tư tưởng tốt lành hay ho về cái chết đấy, chúng ta vẫn luôn lo sợ về thực chất của sự chết. Điều thứ hai đó là nỗi lo lắng về cuộc sống hằng ngày của ta. Nào là ăn gì, mặc chi, giải trí ra sao và thậm chí cả đến vấn đề đổ xăng gì nữa. Tôi tin chắc rằng các bạn cũng đồng ý với tôi đó là những nỗi lo lắng sợ hãi đó thường vượt quá mức chúng ta cần phải lo toan cho đời mình.

Vậy phải làm sao đây? Chúa Giêsu đã nhiều lần lập đi lập lại trong Phúc Âm rằng chúng ta sẽ chỉ lướt thắng những lo lắng sợ hãi đó khi chúng ta đáp trả tình yêu Thiên Chúa cách trọn vẹn và hoàn toàn tin tưởng vào Ngài. Mà cũng thật lạ lùng vì điều Chúa nói đó lại trở nên vấn đề khúc mắc cho chúng ta là những người hay đi nhà thờ, vậy mới buồn chứ. Chúng ta đã quá nhiều lần được nghe là hãy tin vào Chúa, tín thác nơi Ngài, đến độ nhiều khi chúng ta không còn muốn nghe nữa; và những lời đó đã trở nên như một sáo ngữ nhàm chán. Nhưng tin tưởng vào Thiên Chúa như Chúa Giêsu dạy chúng ta không đơn giản chỉ là lời hay ý đẹp, cũng không phải là câu ngớ ngẩn hay chỉ là cách biểu lộ bề ngoài của đạo giáo, tuy nhiên nó chính là cách sống đích thực của người theo Chúa. Đó chính là cách sống mà các bạn phải dâng phó hoàn toàn những lo lắng sợ hãi của mình cho tình yêu Thiên Chúa Hiện Hữu trong từng giây phút. Xin nhớ cho rằng tôi nói “dâng phó” chứ không phải “vứt bỏ”, vì là thụ tạo hay chết nên chúng ta không thể dứt bỏ hết thảy những lo lắng sợ hãi đâu. Thế nhưng khi chúng ta tin vào tình thương và nâng đỡ của Thiên Chúa thì nó sẽ giúp chúng ta thoát được sự tiêu diệt của nỗi lo lắng, chính là cái cướp đi sự sống an bình của ta; đồng thời cũng giúp chúng ta xây dựng một cuộc sống tươi đẹp hơn.

40.Bước nhảy của niềm tin

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)

Nhạc sĩ Xuân Hồng viết ca khúc “Đôi mắt” với ca từ dễ thương:

Mẹ cho em đôi mắt sáng ngời.

Để nhìn đời và để làm duyên.

Mẹ cho em đôi mắt màu đen.

Để thương để nhớ, để ghen để hờn.

Đôi mắt em là cửa ngỏ tâm hồn.

Là bài thơ hay nhất.

Là lời ca không dứt.

Là tuyệt tác của thiên nhiên.

Đôi mắt là cửa ngỏ tâm hồn, là tuyệt tác thiên nhiên.

Thi sĩ Lưu trọng Lư viết hai câu thơ thật đẹp về tình yêu trong đôi mắt:

“Mắt em là một dòng sông,

Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em”.

Trong bài viết “Đôi mắt”, Linh mục Nguyễn Tầm Thường suy niệm về đôi mắt mù lòa của Nguyên Tổ đã đưa tội lỗi vào trần thế. Chúa Kitô đến chữa lành và trao ban cho nhân loại đôi mắt mới, đó là mắt đức tin. Xin được mượn tư tưởng của ngài để suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật IV Mùa Chay: “Chúa Giêsu chữa người mù từ thuở mới sinh”.

Đôi mắt là cửa sổ và là cửa chính của tâm hồn cũng như của thân xác. Mắt là cảm hứng cho thi sĩ, nhạc sĩ. Mắt là hồn cho thơ, là sóng cho nhạc. Có người nhìn đôi mắt như mùa thu. Có người nhìn đôi mắt như dòng sông. Trong văn chương, nghệ thuật, cảm hứng về mắt bao giờ cũng là đôi mắt đẹp. Trái lại, khi Thánh Kinh nói về mắt lại nói về đôi mắt mù. Từ những trang đầu, sách Sáng Thế đã nói về mắt: “Rắn đã nói với người đàn bà: chẳng chết chóc gì đâu! Quả nhiên Thiên Chúa biết, ngày nào các ngươi ăn nó, mắt các ngươi sẽ mở ra và các ngươi sẽ nên như Thiên Chúa, biết cả tốt xấu. Và người đàn bà đã nhìn; quả là cây ăn phải ngon… mà nhìn thì đã sướng mắt. Nó đáng quý thực, cái cây ấy để được tinh khôn. Và bà đã ăn… Và mắt cả hai người đã mở ra. Và chúng biết là chúng trần truồng.” (St 3,4 -7). (x.Nước mắt và hạnh phúc tr. 69 -71)

Đoạn Thánh Kinh nói về lịch sử sa ngã của loài người đã đề cập đến đôi mắt qua 3 tiến trình:

– Rắn hứa là mắt hai ông bà sẽ mở ra.

– Evà nhìn trái táo và thấy sướng mắt.

– Mắt hai người mở ra và thấy mình trần truồng.

Rắn hứa là mắt hai người sẽ mở ra để nhìn thấy mọi sự như Thiên Chúa, nhưng mắt đức tin đã nhắm lại nên không nhìn thấy điều mình muốn thấy. Họ không thấy mùa hoa nở rộ, những đồi cỏ bình yên, những dãi nắng hiền, những dòng suối êm ả. “Mà nhìn thì đã sướng mắt”, cái nhìn ấy phải là đắm đuối, bằng cái nhìn đam mê đó, tội lỗi, khổ đau và sự chết đã vào trần thế.

Lời hứa của con rắn đã hiệu nghiệm: mắt cả hai người đã mở ra. Nhưng không phải mở ra để nhìn thấy vẻ đẹp mà nhìn thấy mình trần truồng. Mắt hai người đã mở ra. Câu Thánh kinh thật ngắn ngủi diễn tả cách tinh tế sự đau thương: mở ra cũng là lúc đóng lại. Ađam, Evà đã mở mắt, nhưng họ lẫn trốn không dám nhìn Thiên Chúa. Cả hai đã mở mắt nhưng để tìm lá che thân, không dám nhìn nhau. Khởi đầu lịch sử nhân loại là đôi mắt mù và sự mù lòa chảy dọc theo thời gian mang tối tăm vào trong trần thế.

Chúa Kitô đã đến trần gian chữa lành sự mù lòa ấy, hàn gắn lại vết thương thuở sa ngã của Nguyên Tổ.

Khi liên kết phép lạ Chúa Giêsu chữa người mù từ thưở mới sinh với sự mù lòa của Nguyên Tổ, ta mới thấy ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Con Thiên Chúa đến trong thế gian. “Mù từ thưở mới sinh” là mù từ xa xưa, thuở địa đàng. Chúa Kitô đã mang ánh sáng cho thế gian, Ngài ban cho nhân loại đôi mắt đức tin.

Từ tiến trình đến ánh sáng tự nhiên, người mù có một hành trình tiếp cận ánh sáng đức tin. Niềm tin vào Chúa Giêsu của người mù tăng dần theo với thử thách.

Thánh Gioan kể có bốn cuộc thử thách.

– Thử thách lần thứ nhất (Ga 9,8-12), những người láng giềng và những người trước kia thường thấy anh ta ăn xin chất vấn: “hắn không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó sao?”. Người mù xác nhận: “Tôi đi, tôi rửa, tôi nhìn thấy”. Anh không biết Chúa là ai: “Ông ấy ở đâu, tôi không biết”. Anh coi Chúa Giêsu chỉ là một con người, một người nào đó trong muôn vạn người: “Một người tên Giêsu đã xức bùn vào mắt tôi”.

– Thử thách lần thứ hai (Ga 9,12-17), những chất vấn của giới Pharisiêu và lời nhạo báng: “một ngưởi tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy?”. Trước sức ép của họ, anh suy nghĩ sâu xa hơn và anh nhận rằng “Ngài thật là vị tiên tri”.

– Thử thách lần thứ ba (Ga 9,18-23), họ gọi cha mẹ của anh ta đến để làm chứng, nhưng hai người sợ hãi nên nói: “Nó đã khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó”. Anh mù trực tiếp trả lời về nguồn ánh sáng đã đón nhận.

– Thử thách lần thứ tư (Ga 9,24-34), người Pharisiêu dùng đến Lề Luật. Người mù không cần biết đến Luật. Anh ta dựa vào cảm nghiệm cá nhân đã gặp Đức Kitô. Cuộc tra vấn của giới chức tôn giáo khiến anh khẳng định: “Người từ Thiên Chúa mà đến”.

Khi bị trục xuất ra khỏi hội đường, Chúa Giêsu gặp lại anh và mạc khải cho biết Ngài là Con Thiên Chúa, anh liền tuyên xưng đức tin: “Lạy Thầy, tôi tin” (Ga 9,37). Niềm tin của người mù tăng triển qua ba giai đoạn. Từ không biết ông ấy ở đâu cho đến ông ấy là một tiên tri, rồi sấp mình thờ lạy Ngài. Sự tiến triển niềm tin qua những lần thử thách. Càng gặp thử thách niềm tin càng sáng lên. Thử thách càng cao đức tin càng mạnh. Người mù trung thành với cảm nghiệm của mình. Đức tin lớn lên qua những hiểm nguy và đe dọa.

Chúa Giêsu chữa lành đôi mắt thể lý và mắt tâm hồn của người mù. Chúa đã mở mắt đức tin để anh ta tin vào Chúa. Anh ta tin vào Lời Chúa là đi rửa mắt ở hồ Silôác và đã công khai nói lên sự thật ca ngợi Chúa trước mặt những người Pharisiêu đang tra vấn, khủng bố anh: “Chính tôi đây đã được người mà thiên hạ gọi là Giêsu lấy bùn xức mắt tôi và bảo tôi hãy đi rửa ở hồ Silôác. Tôi đã đi, đã rửa và đã trông thấy”. Lòng bắt đầu rộng mở nên anh ta nhận ra: ”Nếu người đó không phải bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì”. Bởi đó, khi gặp lại Chúa Giêsu và được hỏi: “Anh có tin Con Người không?”, anh đáp lại ngay: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?”. Chúa Giêsu tỏ mình ra cho anh: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây”. Anh liền đáp: “Lạy Thầy, tôi tin”. Bước nhảy của niềm tin được kết tinh nơi thái độ quỳ xuống bái lạy.

Qua việc chữa lành đôi mắt thể lý, Chúa Giêsu trao ban ánh sáng đức tin cho đôi mắt tâm hồn. Thoát khỏi bóng tối triền miên của cuộc đời, bát ngát một bầu trời mới khi anh được sáng đôi mắt. Lớn lao hơn nữa là tâm hồn anh thênh thang chứa chan lòng mến, anh đã quỳ bái lạy với tất cả lòng tin. Phép lạ chữa người mù thuở mới sinh là một dấu chỉ minh chứng: Chúa Giêsu là sự sáng thế gian, đã chữa lành sự mù lòa của nhân loại, với một điều kiện: Tin vào Ngài.

Chúa Giêsu cũng chữa nhiều người mù lòa tâm hồn. Người mở mắt cho Dakêu thấy được sự nguy hiểm của tiền tài đối với phần rỗi (Lc 9,1 -10). Người mở mắt cho người đàn bà ngoại tình, giúp chị từ bỏ quá khứ lỗi lầm (Lc 7,36 -50). Người mở mắt cho người trộm lành giúp nhận ra lòng Chúa xót thương (Lc 23,32 – 43)…

Mỗi người chúng ta có lẽ không hoàn toàn mù tối tâm hồn, nhưng có những điểm tối mà ta thấy được. Chẳng hạn như những đam mê, tham vọng, hận thù, ghen ghét, kiêu căng, có thể làm ta mù tối không nhìn thấy sự tốt lành nơi tha nhân. Có một số người chỉ nhìn thấy điểm tối của người khác, chỉ nhìn thấy những lỗi lầm, những khuyết điểm mà không nhận ra những gì là xinh đẹp, những gì là cao quý, thánh thiện nơi họ. Cứ tiếp tục xét mình, ta sẽ thấy có nhiều điểm tối, sự mù tối của tâm hồn rất nguy hại. Chỉ có ánh sáng của Đức Kitô soi chiếu, chỉ có cái nhìn của Đấng tình yêu, mỗi người mới xóa tan những điểm tối đó. Chỉ có sự cầu nguyện và tin tưởng vào Đấng là ánh sáng thế gian, chúng ta mới có thể xua đuổi bóng tối ra khỏi tâm hồn và nhìn mọi sự trong ánh sáng Tin Mừng Đức Kitô.

“Thầy là Ánh Sáng trần gian. Ai theo Thầy sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có Ánh Sáng dẫn đến cõi trường sinh” (Ga 8,12). Hãy luôn cảm tạ Chúa vì Ngài đã ban cho chúng ta đôi mắt sáng suốt của đức tin, nhờ đó chúng ta biết được ý nghĩa của cuộc đời, thấy được con đường phải đi và những việc phải làm để đạt đến hạnh phúc thật.

Đôi mắt là tuyệt tác của thiên nhiên, là cửa ngỏ tâm hồn. Đôi mắt có thị giác và thị lực. Thị giác là khả năng của đôi mắt có thể thấy. Thị lực là mức độ thấy của khả năng ấy. Thấy nhiều hay ít. Thấy xa hay gần. Thấy rõ hay mờ. Người cận thị chỉ thấy được rất gần. Người viễn thị thì thấy xa hơn. Cần có thị giác tốt và thị lực tốt, đôi mắt mới sáng ngời. Thị lực còn là của trí óc và của con tim. Có người chỉ thấy được cái thế giới chật hẹp và ích kỷ của bản thân mình; có người thấy được hoàn cảnh, tâm tư và nguyện vọng của người khác. Thị lực còn là niềm tin. Người mù tuy mù nhưng lại có thị lực tốt. Anh đã thấy được Đức Giêsu là một ngôn sứ. Anh thấy nhiều cái mà những người sáng mắt không thấy. Anh thấy quyền năng và tình thương của Chúa có thể cho anh được sáng mắt. Anh thấy bằng lòng tin. Chính vì lòng tin này mà Chúa Giêsu đã thương cứu chữa cho anh sáng mắt. Anh mù, mắt không thấy Chúa, nhưng lòng đã thấy Chúa rồi vì anh có lòng tin. Thị lực lòng tin cho anh tiếp nhận ánh sáng tình yêu đầy tràn hy vọng.

Lạy Chúa, xin cho con có đôi mắt với thị giác và thị lực tốt.

Để con nhận ra Chúa nơi anh em với những cái hay cái tốt.

Để con nhận ra Chúa nơi các kỳ công kiệt tác thiên nhiên.

Để con biết nhận ra Chúa nơi các vị Đại Diện Chúa.

Và lạy Chúa, xin cho con được thấy bản thân với những yếu đuối và khuyết điểm, biết nhận ra thân phận thụ tạo lệ thuộc Đấng Tạo Hóa; từ đó con biết được ơn phúc là do lòng Chúa yêu thương ban tặng, để con luôn biết dâng lời cảm tạ, tôn thờ, phụng sự và kính mến Chúa với cả tâm tình con thảo. Amen.