Bài đọc: Zec 9:9-10; Rom 8:9, 11-13; Mt 11:25-30.
1/ Bài đọc I: 9 Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ!
Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng reo hò!
Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi:
Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng,
khiêm tốn ngồi trên lưng lừa,
một con lừa con vẫn còn theo mẹ.
10 Người sẽ quét sạch chiến xa khỏi Ép-ra-im
và chiến mã khỏi Giê-ru-sa-lem;
cung nỏ chiến tranh sẽ bị Người bẻ gãy,
và Người sẽ công bố hoà
bình cho muôn dân.
Người thống trị từ biển này qua biển nọ,
từ sông Cả đến tận cùng cõi đất.
2/ Bài đọc II: 9 Nhưng anh em không bị tính xác thịt chi phối, mà được Thần Khí chi phối, bởi vì Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em. Ai không có Thần Khí của Đức Ki-tô, thì không thuộc về Đức Ki-tô.
11 Lại nữa, nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới.
12 Vậy thưa anh em, chúng ta mang nợ, không phải mang nợ đối với tính xác thịt, để phải sống theo tính xác thịt.
13 Vì nếu anh em sống theo tính xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em, thì anh em sẽ được sống.
3/ Phúc Âm: 25 Vào lúc ấy, Đức Giê-su cất tiếng nói: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn.
26 Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha.
27 “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho.
28 “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.
29 Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng.
30 Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.”
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sống hiền hậu và khiêm nhường như Đức Kitô.
Khi so sánh tiêu chuẩn của Nước Trời với tiêu chuẩn của thế gian, chúng ta nhận ra những khác biệt quan trọng: tiêu chuẩn của Nước Trời thường đối nghịch với tiêu chuẩn của thế gian. Các bài đọc hôm nay chỉ cho ta thấy những khác biệt và lý do của chúng.
Trong bài đọc I, ngôn sứ Zechariah (6 BC) tiên báo Đấng Thiên Sai sẽ vào Thành, không bằng những cỗ xe ngựa dành cho những vị vua chiến thắng khải hoàn; nhưng Ngài sẽ cỡi trên lưng một lừa con, vẫn còn theo sau một lừa mẹ. Trong bài đọc II, thánh Phaolô khuyên các tín hữu không được làm nô lệ cho tính ích kỷ của xác thịt; nếu không, họ sẽ chết. Các tín hữu đã được Đức Kitô giải thoát để sống theo Thánh Thần, nếu họ để cho Thánh Thần hướng dẫn, họ sẽ được sống. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu mặc khải Mầu Nhiệm Nước Trời không được mặc khải cho những người khôn ngoan, thông thái; nhưng được mặc khải cho những người bé mọn (nêpios). Ngài mời gọi tất cả những ai đang cảm thấy những gánh nặng, mệt mòi, và chán chường của cuộc sống, hãy đến với Ngài và học hỏi hai nhân đức hiền hòa và khiêm nhường của Ngài, họ sẽ cảm nhận được sự bình an trong tâm hồn.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Người thống trị từ biển này qua biển nọ, từ sông Cả đến tận cùng cõi đất.
1.1/ Đấng Thiên Sai sẽ đến cách hiền lành và khiêm nhường: Trình thuật chúng ta đọc hôm nay được các học giả xếp loại thuộc về Zechariah thứ hay đệ nhị. Phần này ít nhấn mạnh tới việc xây dựng Đền Thờ sau khi lưu đày, nhưng tập trung trong việc loan báo triều đại của Đấng Thiên Sai sắp tới. Trong số 12 tiên tri nhỏ, Zechariah có lẽ là ngôn sứ cho chúng ta biết nhiều chi tiết nhất về cuộc đời của Đấng Thiên Sai.
Trình thuật hôm nay là một điển hình. Ông cho chúng ta thấy trước Ngày Đấng Thiên Sai long trọng vào thành Jerusalem. Đây là dấu chỉ để nhận ra Đấng Thiên Sai: “Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ.” Khi thấy dấu hiệu này, “Hỡi thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Jerusalem, hãy vui sướng reo hò!” Biến cố long trọng vào thành Jerusalem của Chúa Giêsu hoàn thành lời tiên tri này (Mt 21:5-11; Jn 12:12-15).
1.2/ Đấng Thiên Sai sẽ cai trị cả hoàn cầu: Tuy hiền hòa và khiêm nhường như thế; nhưng Ngài sẽ chinh phục cả hoàn cầu và lên ngôi cai trị toàn cõi đất, chứ không phải chỉ cai trị dân tộc Israel mà thôi. Cách Ngài chinh phục và cách Ngài thống trị hoàn tòan khác biệt với cách của các hoàng đế của thế gian: “Người sẽ quét sạch chiến xa khỏi Ephraim và chiến mã khỏi Jerusalem; cung nỏ chiến tranh sẽ bị Người bẻ gãy, và Người sẽ công bố hoà bình cho muôn dân. Người thống trị từ biển này qua biển nọ, từ sông Cả đến tận cùng cõi đất.”
2/ Bài đọc II: Nếu nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em, thì anh em sẽ được sống.
Chương 8 của Thư Rôma phải được đọc chung với chương 6-7. Lý do là vì con người đã được Đức Kitô giải phóng để khỏi làm nô lệ cho tội lỗi, Lề Luật, và sự chết để sống theo Thần Khí. Nhiều người hiểu lầm thánh Phaolô là ngài quảng bá tư tưởng: con người chỉ cần đặt niềm tin vào Đức Kitô là được cứu độ và không cần làm gì cả. Trong chương 8, thánh Phaolô cắt nghĩa con người được Đức Kitô giải phóng khỏi phải làm nô lệ cho tính xác thịt, để được tự do sống theo Thần Khí.
2.1/ Sống theo tính xác thịt: là sống theo các cảm xúc của con người như sự tham lam của con mắt, sự ham muốn của trái tim, và mọi đam mê dục vọng. Người sống theo tính xác thịt chẳng khác chi loài cầm thú, vì chúng hành động theo bản năng tự nhiên; nhưng con người không được phép sống như thế, vì ngoài thân xác, Thiên Chúa còn ban cho con người có linh hồn, trí tuệ, và ý chí để điều khiển các quan năng của xác thịt. Thánh Phaolô diễn tả điều này như sau: “Nhưng anh em không bị tính xác thịt chi phối, mà được Thần Khí chi phối, bởi vì Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em.” Thần Khí của Thiên Chúa cũng là Thần Khí của Đức Kitô ngự trong các tín hữu để hướng dẫn và ban sức mạnh để các tín hữu có thể sống theo sự thật, những gì Đức Kitô dạy bảo: “Những ai bị tính xác thịt chi phối thì không thể vừa lòng Thiên Chúa.”
2.2/ Sống theo thần khí của Đức Kitô: Thánh Phaolô liệt kê ba lợi điểm của những người sống theo Thần Khí:
(1) Thần Khí làm cho con người được sống: Sống theo thần khí mới là sống thật, sống theo tính xác thịt là làm nô lệ cho tội lỗi và hậu quả là cái chết.
(2) Thần Khí làm cho con người được trở nên công chính: bằng tin và thực hành những gì Đức Kitô truyền dạy. Lề Luật không có sức mạnh làm cho con người nên công chính.
(3) Thần Khí sẽ làm cho con người sống lại từ cõi chết: “Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới.”
3/ Phúc Âm: Hãy học với Ta, vì Ta hiền hậu và khiêm nhường trong lòng.
3.1/ Thiên Chúa thích mặc khải cho những kẻ bé mọn: Có mấy từ chuyên môn chúng ta cần hiểu ở đây:
– Giấu (krupto): có hai trường hợp: (1) Cất giấu đi để đừng ai nhìn thấy; ví dụ: giấu vàng trong ruộng. (2) Giấu kín để đừng ai khám phá ra; ví dụ: giấu tông tích hay những điều bí ẩn của mình. Chúa Giêsu muốn nói về trường hợp thứ hai này.
– Mặc khải (apo krupto) có nghĩa làm cho những gì đã giấu kín được tỏ lộ ra, mang ra ánh sáng những gì đang ở trong bóng tối, hay làm cho một người hiểu những gì họ chưa biết hay còn mù mờ.
– Kẻ bé mọn (nêpios): có thể chỉ một trẻ nhỏ hay những ai chưa tới tuổi thành niên như luật pháp ấn định (ví dụ, 18 tuổi).
Chúa Giêsu so sánh giữa những người khôn ngoan và thông thái (sophos, sunetos) với kẻ bé mọn (nêpios), để nói với khán giả: họ cần có thái độ của trẻ thơ là tin tưởng, khiêm nhường, ham học hỏi, để Ngài chuyển thông cho họ những kiến thức về Thiên Chúa. Một thái độ kiêu hãnh và nghi ngờ sẽ ngăn cản họ nhận ra những gì Ngài muốn mặc khải cho họ. Khi con người muốn lãnh nhận kiến thức về Thiên Chúa, họ phải có thái độ của trẻ: cái gì cũng là mới cả với các em.
3.2/ Kiến thức về Thiên Chúa: “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho.”
(1) Chúa Giêsu là người biết về Chúa Cha rõ ràng hơn ai hết: Động từ Hy-lạp dùng ở đây là “epiginôskô,” biết như một con người hay sự vật là. Con người hiểu biết về Thiên Chúa với nhiều cấp độ khác nhau; nhưng chỉ có Chúa Giêsu hiểu biết Thiên Chúa trong cấp độ hoàn hảo nhất. Điều này không ngạc nhiên, vì Chúa Giêsu là chính Lời hay tư tưởng của Thiên Chúa. Ngài và Cha Ngài là một.
(2) Con người biết Thiên Chúa qua mặc khải của Chúa Giêsu: Nếu Thiên Chúa không chọn để mặc khải cho con người, con người không bao giờ có thể biết Thiên Chúa. Đức Kitô chính là mặc khải của Thiên Chúa; Ngài đến để mặc khải cho con người biết về Chúa Cha, như Ngài đã tuyên bố với các môn đệ: “Ai thấy Thầy là thấy Cha.” Hơn nữa, để con người có thể hiểu những mặc khải này, họ cần được Thánh Thần do Chúa Cha sai tới để hướng dẫn và thúc đẩy từ bên trong.
3.3/ Xét mình trước tôn nhan Thiên Chúa: Mệt mỏi có thể là do lao động (thể xác) hay do sức ép của cuộc sống (tinh thần). Mệt mỏi thể xác có thể được phục hồi bằng việc nghỉ ngơi; mệt mỏi tinh thần phải được chữa trị bằng phương cách tâm linh. Chúa chỉ cho con người biết làm sao để tránh những mệt mỏi tinh thần này.
Tại sao chúng ta đã cố gắng hết sức mà vẫn không thành công? Có thể chúng ta đã không biết cách làm việc để đạt kết quả tốt đẹp? Có thể chúng ta lo lắng quá độ những gì không cần phải lo quá như vậy? Có thể chúng ta đang làm theo ý, theo cách, và theo đường hướng của chúng ta mà không phải là ý, cách, hay đường hướng của Thiên Chúa? Đức Kitô mời gọi chúng ta nhìn lại để học cách làm việc sao cho thành công hơn! Ngài muốn chúng ta quẳng đi những mối lo không cần thiết! Hay chú trọng đến những gì là quan trọng thay vì những cái quá nhỏ nhặt thiển cận!
3.4/ Hai điều quan trọng chúng ta cần học hỏi cùng Chúa Giêsu: Người môn đệ tuy vẫn phải mang ách và mang gánh nặng; nhưng họ không mang chúng theo cách của thế gian, mà mang chúng theo cách của Đức Kitô. Để biết mang ách và gánh đúng cách, họ cần phải học với Đức Kitô. Hai nhân đức quan trọng họ cần học nơi Ngài:
(1) Hiền lành: Đây là mối thứ hai trong Bát Phúc. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Ngài có quyền tiêu diệt những ai nói những lời xúc phạm, đánh đòn, và giết chết Ngài; nhưng Ngài đã không làm những chuyện đó. Ngài chọn con đường tha thứ: “Lạy Cha! Xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm.” Ngài hòa giải con người với nhau và với Thiên Chúa. Ngài dạy phải thương yêu, cầu nguyện và làm ơn cho kẻ thù. Con người cũng thường có khuynh hướng yêu thích những ai hiền lành, nhã nhặn, và tha thứ.
(2) Khiêm nhường: là nhân đức diệt trừ tính kiêu ngạo, tội đầu tiên trong bảy mối tội đầu. Không ai thích người kiêu ngạo và tâm lý chung chẳng ai thích người hay “nổ.” Khiêm nhường là biết mình trong mối tương quan với Thiên Chúa và với tha nhân. Người khiêm nhường biết mọi sự mình có được là do Thiên Chúa ban, nên họ không huyênh hoang lên mặt với người khác; nhưng biết dùng tài năng để mở mang Nước Chúa và phục vụ anh em. Người kiêu ngạo đánh cắp công ơn Thiên Chúa và luôn bất an vì sợ người khác hơn họ. Họ bất an khi không nhận được những gì họ muốn và khó chịu với mọi người.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta cần học nơi Đức Kitô cách lãnh đạo: không bằng cách phô trương quyền hành và danh vọng; nhưng bằng cách khiêm nhường phục vụ và yêu thương mọi người.
– Vì Đức Kitô đã giải thoát chúng ta khỏi làm nô lệ cho xác thịt và ban Thánh Thần, chúng ta phải luôn cố gắng để sống theo sự hướng dẫn và thúc đẩy của Chúa Thánh Thần.
– Chúng ta cần học nơi Đức Kitô hai nhân đức: hiền lành và khiêm nhường. Hiền lành để luôn biết đối xử nhân hậu với tất cả mọi người. Khiêm nhường để nhận ra chỗ đứng hèn hạ của mình trong mối tương quan với Thiên Chúa và với tha nhân.
Nguồn: https://loi-nhap-the.com/ch-nht-14-thng-niena/
Suy Niệm
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy Niệm
Khi quy hoạch thành phố tương lai, người ta không quên dành một khu vui chơi giải trí.
Nghỉ ngơi thư giãn là một nhu cầu quan trọng cho những ai sống trong nền kinh tế thị trường.
Nghỉ ngơi không chỉ cần cho thân xác hay trí óc. Nghỉ ngơi còn cần cho tâm hồn.
Cái tâm của chúng ta cần được sống trong an tĩnh giữa sóng gió dao động, giữa chợ đời bon chen.
Nhiều người bị suy nhược thần kinh, bị stress.
Có người tự tử vì không đủ sức để tiếp tục sống.
Đức Giêsu mời chúng ta đến với Ngài, tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề.
Gánh nặng của nỗi đau và vấp ngã trong quá khứ
Gánh nặng của trách nhiệm và yếu đuối hiện tại
Gánh nặng phải mang vì người khác…
Tất cả những ai bị căng thẳng và lo âu, chán chường và mệt mỏi. Tất cả những ai muốn tìm một chút nghỉ ngơi. Hãy đến với Ngài, ta sẽ gặp được sự an tĩnh.
Hãy mang lấy ách của tôi.
Đức Giêsu không ngần ngại nói đến ách của Ngài mà những kẻ đến với Ngài phải mang.
Ngài không giấu ta về những đòi hỏi nghiêm túc, về con đường hẹp mà ít người muốn đi, về thánh giá mà ta phải vác để theo Ngài.
Như thế sự an bình thư thái Ngài hứa ban đâu phải là thứ bình an rẻ tiền, không cần từ bỏ.
Đó là thứ bình an ngay giữa khổ đau và nước mắt, vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương, vì xác tín là mình đang làm đúng ý Thiên Chúa.
Nếu ách của Ngài êm và gánh của Ngài nhẹ, thì là vì chúng được đón nhận trong tình yêu.
Tình yêu làm cho mọi sự trở nên êm nhẹ.
“Chỗ nào có lòng yêu mến, thì không cảm thấy vất vả; mà giả như có vất vả đi nữa thì người ta cũng thích cái vất vả đó” (thánh Âutinh)
Hãy học với tôi.
Đức Giêsu kêu gọi chúng ta làm học trò của Ngài.
Chúng ta học trường Giêsu, học Thầy Giêsu, học bài Giêsu.
Bài học nằm nơi chính trái tim Ngài: “Vì tôi có trái tim hiền hậu và khiêm nhu.”
Khi mang trong mình những tâm tình của Thầy Giêsu thì tâm hồn ta sẽ được bình an trở lại.
Chúng ta cần theo học Thầy Giêsu suốt đời, cần lột bỏ những tự hào về khôn ngoan thông thái, cần sống hồn nhiên khiêm tốn như trẻ thơ.
Chỉ như thế chúng ta mới được Thầy Giêsu mạc khải, và đưa vào thế giới của Thiên Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, đâu là những gánh nặng mà con người hôm nay phải mang vác? Đâu là gánh nặng của người nghèo và của người giàu? Đâu là nỗi vất vả và gánh nặng của người trẻ hôm nay?
Bạn thấy theo đạo có phải là một gánh nặng không? Giữ đạo nặng nề ở điểm nào? Có cách nào làm cho nó nhẹ nhàng hơn không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ, nhở đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói, dễ thấy Chúa hiện diện và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa, xin cho con đừng trở nên cứng cỏi, khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm, vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài, hạnh phúc và được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy Niệm
Khi thi hành sứ vụ, Đức Giêsu nhận ra một điều lạ.
Những người khôn ngoan học thức thường khó đón nhận Tin Mừng,
còn những người đơn sơ, bé mọn lại dễ mở lòng hơn.
Khôn ngoan theo kiểu trần gian làm người ta dễ tự hào, tự mãn.
Học thức, hiểu biết về Kinh Thánh có khi làm người ta khép lại.
Đức Giêsu thấy mình khó chạm được vào trái tim
của những vị kinh sư hay các ông Pharisêu khả kính.
Có biết bao định kiến như thành lũy vây bọc tầm nhìn của họ.
Nhưng Ngài lại thấy dễ rao giảng về Nước Trời
cho đám đông những người ít học bình dân.
Lòng họ như thửa đất đã được cầy bừa, chờ gieo hạt giống.
Đức Giêsu thấy hiện tượng trên đây nằm trong ý định của Cha.
Tâm tình ngợi khen Cha bật ra trên môi Ngài cách hồn nhiên.
“Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Mt 11,26).
Qua Con, Cha muốn mặc khải về chính mình cho mọi người,
nhưng Cha vẫn tôn trọng tự do đón nhận của từng người.
Khi rao giảng, Đức Giêsu cũng muốn đón nhận như Cha.
Có khi Ngài đành chịu thua trước người cứng cỏi chai đá.
Có khi sướng vui trước một trái tim rộng mở đón chờ.
Đức Giêsu ý thức về sự cao cả và vai trò của mình.
Ngài biết Cha đã giao phó cho Ngài mọi sự trên trời dưới đất.
Ngài cũng biết mình là Người Con của Cha,
Người Con duy nhất biết rõ Cha vì luôn ở trong cung lòng Cha,
vì thế cũng là Đấng duy nhất có thể mặc khải về Cha trọn vẹn.
Như thế cả Cha và Con đều là Đấng mặc khải (Mt 11,25.27).
Cha biết rõ Con và mặc khải về Con cho người biết mở lòng.
Cả người khôn ngoan thông thái cũng có thể mở lòng
nếu họ biết khiêm tốn vượt qua những rào cản của thành kiến.
Con biết rõ Cha và mặc khải về Cha cho người biết mở lòng.
Cả những người quê mùa, ít học cũng có thể nắm bắt được
những chân lý cao siêu vượt quá tầm hiểu biết của trí tuệ.
Cha và Con mặc khải về nhau hơn là mặc khải về mình.
Ai đón nhận những mặc khải đó
sẽ được đưa vào thế giới thầm kín nhưng rộng mở của Cha và Con.
Ngay từ trần gian này, người ấy được biết Cha và biết Con
trong mầu nhiệm khôn dò của Thiên Chúa.
Thiên Chúa có một thế giới riêng tư, nhưng lại không khép kín.
Thế giới ấy luôn có những cánh cửa mở ra về phía con người.
Ba Ngôi hạnh phúc viên mãn khi sống cho nhau,
nhưng lại muốn chia sẻ hạnh phúc ấy cho loài người thụ tạo.
Ba Ngôi muốn nhân loại có tương quan thiết thân với từng Ngôi.
Vào thiên đàng là đi vào thế giới hạnh phúc của Thiên Chúa.
Người ta bắt đầu vào thiên đàng ngay từ trần gian này
khi đến thông hiệp với Người Con là Chúa Giêsu.
Hôm nay Chúa Giêsu mời những ai mang gánh nặng nề đến với Ngài,
bất cứ thứ gánh nặng nào mà sức ta không sao mang nổi.
Ngài đổi gánh nặng ấy bằng gánh nhẹ nhàng của Ngài.
Gánh nhẹ nhàng vì Ngài đã điều chỉnh cho vừa vai ta.
Ách êm ái vì ta học được cách mang ách của Ngài,
đón nhận mọi nghịch cảnh với trái tim hiền hậu, khiêm nhu.
Hãy đến với Giêsu, không chỉ để nhận được mặc khải trên cao,
mà còn để được Ngài an ủi vỗ về, dạy dỗ và cho ta bình an.
Cầu Nguyện
Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng,
chẳng có chuyện gì xảy ra mà Chúa không cho phép.
Cả những chuyện xấu xa tồi tệ mà con người làm cho nhau.
Cả sự dữ đang hoành hành do Xatan gây ra trên mặt đất.
Nhiều khi chúng con không hiểu được
tại sao Chúa lại cho phép xảy ra những chuyện như thế.
Nhưng chúng con tin rằng, đối với ai yêu mến Chúa,
mọi sự đều đem lại điều tốt cho họ.
Chúng con tin rằng những gì Chúa cho phép xảy ra
đều vì yêu thương chúng con
và vì ích lợi cho cuộc sống vĩnh hằng của chúng con.
Chúa đau đớn khi phải dùng roi mà sửa dạy
như người cha sửa dạy con mình để mong con nên người.
Xin cho chúng con nhận ra điều Chúa muốn nhắc nhở,
để cải hóa bản thân và điều chỉnh đời mình cho hợp với ý Chúa.
Lạy Thiên Chúa là Cha đầy lòng nhân ái,
trên đường về quê trời,
Chúa muốn chúng con trải qua những thử thách cam go,
như bệnh tật, khổ đau và cái chết,
để chúng con nên cứng cáp và trưởng thành.
Xin cho chúng con đừng nổi loạn trước thử thách,
nhưng biết nhìn lên Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thánh giá,
để nhẫn nại và giữ vững niềm hy vọng,
kể cả khi thấy Thiên Chúa vắng bóng, thinh lặng hay khoanh tay.
Ước gì dịch bệnh làm chúng con ý thức sự bất lực của mình,
để tha thiết cầu xin và tín thác vào tình yêu Chúa.
Ước gì khi Chúa cho chúng con được chữa lành,
chúng con lại thấy sự sống của Chúa chiến thắng vinh quang.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy niệm:
Bài Tin Mừng hôm nay là một lời nguyện tự phát của Đức Giêsu.
Đó là một lời tạ ơn, một lời ngợi khen của Con dâng lên Cha.
Đức Giêsu gọi Thiên Chúa bằng từ Abba thân thương gần gũi,
nhưng Thiên Chúa ấy cũng là Đấng siêu việt ngàn trùng,
Đấng quyền uy tối thượng, Chúa Tể cả trời đất (c. 25).
Đức Giêsu ca ngợi Cha vì hành vi mặc khải của Cha cho con người.
Cha có một kế hoạch cứu độ nhân loại qua Con của Cha là Đức Giêsu.
Và Cha muốn vén mở kế hoạch đó cho con người biết.
Có những người đã thành tâm đón nhận, và có những người cố ý từ chối.
Nhưng tất cả đều không nằm ngoài chương trình của Cha (c. 26).
Lối nói kiểu Do thái của Đức Giêsu có thể khó hiểu đối với ta ngày nay:
“Cha đã giấu các điều này trước những người khôn ngoan thông thái.”
Thật ra, chẳng phải Thiên Chúa ghét bỏ hay phân biệt đối xử,
vì Ngài muốn cho mọi người được cứu độ (1 Tm 2, 4).
Chẳng phải Cha ghét bỏ các người khôn ngoan và cổ võ sự ngu dốt.
Ngài cũng không che giấu mầu nhiệm Nước Trời trước một ai.
Nhưng quả thật ai tự hào, tự mãn với hiểu biết khôn ngoan của mình,
và khép lại trước những gì vượt quá trí hiểu nông cạn của họ,
người ấy sẽ không có cơ may đón nhận được mặc khải của Thiên Chúa.
Một số kinh sư và người Pharisêu giỏi giang về Sách Thánh và truyền thống,
đã không thể đón nhận được cái hoàn toàn mới mẻ nơi giáo lý Đức Kitô,
vì họ quá bám víu vào cái biết cũ mà họ coi là tuyệt đối.
Nhưng các người bé mọn, ít tri thức và sách vở, lại dễ dàng đón nhận hơn.
Họ hồn nhiên mở ra trước mặc khải của Thiên Chúa qua Đức Giêsu.
Chính vì thế họ biết được những điều sức người không thể nào đạt tới.
Câu cuối (c. 27) là một mặc khải lớn của Đức Giêsu trong tư cách là Con.
Ngài cho thấy giữa Cha và Con có sự hiểu biết nhau cách độc nhất vô nhị.
“Không ai biết rõ Con trừ ra Cha và không ai biết rõ Cha trừ ra Con…”
Sự hiểu biết nhau thân tình và sâu xa này
như thể tạo ra một thế giới riêng giữa Cha và Con.
Muốn biết Cha phải nhờ Con, Đấng duy nhất có đủ thẩm quyền mặc khải.
Hơn nữa, muốn biết Con cũng phải nhờ Cha mặc khải.
Phêrô phải nhờ Cha mới biết được Đức Giêsu là ai (Mt 16, 17).
Nói chung Cha và Con làm nên một thế giới riêng tư, nồng ấm.
Nhưng thế giới ấy lại không khép kín, mà mở ra để mời con người vào .
Cha và Con đều muốn mặc khải thế giới ấy cho con người.
Cha đưa ta gặp Con, Con đưa ta gặp Cha.
Chỉ cần gặp Con hay Cha là có thể bước vào thế giới đó, để gặp cả Cha và Con.
Chị Edith Stein là một phụ nữ Do thái được coi là thông thái, trí tuệ.
Chị đậu tiến sĩ triết học với hạng tối danh dự tại Đức.
và là người cộng tác với ông tổ của Hiện tượng luận là triết gia Husserl.
Việc tìm kiếm Chân Lý đã dẫn chị đến với đạo Công giáo.
Chị đã đi tu Dòng Kín Cát Minh và đã bị giết tại trại giam của Đức quốc xã.
Năm 1998 chị Bênêđicta Thánh Giá được Đức Gioan Phaolô II phong thánh.
Sự thông thái khiêm tốn đã giúp Chị gặp được Nước Trời như một kẻ bé mọn.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện
và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,
khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu
để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Vào những lúc gặp khó khăn đau khổ, người ta thường đặt câu hỏi: Thiên Chúa ở đâu? Trong lúc đại dịch viêm phổi Vũ Hán (Covid-19) lan rộng toàn cầu, đã có người đặt vấn nạn: tại sao Thượng đế lại cho phép một dịch bệnh tàn khốc như vậy xảy ra? Đây cũng là câu hỏi đã được đặt ra trước sự kiện Tháp đôi bị đánh sập tại Hoa Kỳ năm 2001. Để trả lời cho vấn nạn này, một tác giả đã nói: Tại sao các bạn lại đổ lỗi cho Thiên Chúa, trong khi chính các bạn đã loại bỏ và xua đuổi Ngài ra khỏi bệnh viện, học đường, gia đình và nơi công cộng? Các bạn bênh vực và cổ võ phá thai, trong khi đó nhiều người có lương tâm trên thế giới phản đối và coi như một tội ác. Các bạn bênh vực hôn nhân đồng tính, trong khi nhiều người lên án như một việc trái tự nhiên. Các bạn ủng hộ ly dị trong khi nhiều người lên án là vô đạo đức. Và, bây giờ tội ác xảy ra thì các bạn lại đổ lỗi cho Thiên Chúa. Quả vậy, khi Thiên Chúa không diện diện trong cuộc đời, thì thay vào đó sẽ là bạo lực, sa đọa và giết chóc. Trong những ngày này, qua đài truyền hình, chúng ta nhận những thông tin thời sự về phong trào biểu tình ở Hoa Kỳ sau cái chết của một người da đen là anh George Floyd. Những người biểu tình cướp phá siêu thị, dỡ bỏ một số tượng đài của các nhân vật lịch sử và cựu tổng thống Hoa Kỳ. Trong cơn bạo loạn, họ đe dọa sẽ phá bỏ tượng Chúa Giêsu. Một đất nước ghi trên đồng tiền đô-la “Chúng tôi trông cậy nơi Chúa – In God we trust” mà lại ngông cuồng đến mức phá bỏ tượng của Chúa. Một nền văn hóa thường kết thúc những diễn văn quan trọng bằng câu” Chúa chúc lành cho nước Mỹ – God bless America!” mà lại phỉ báng chính Con Thiên Chúa. Một khi loại bỏ Thiên Chúa, cuộc đời sẽ chỉ còn là một bãi chiến trường, thảm khốc và đau thương. Cũng may, giữa cảnh náo loạn này, Tổng thống Hoa Kỳ, ông Donald Trump đã cảnh báo: một khi ông còn tại vị tổng thống, không ai được phép phá hủy tượng Chúa Giêsu!
Giữa những xáo trộn của cuộc sống đầy bất an, Kitô hữu là người chọn Chúa Giêsu và tin tưởng phó thác nơi Người. Mặc dù có những nhân vật, những phong trào hùng hổ giơ tay loại trừ Thiên Chúa, vẫn có hàng hàng lớp lớp những người yêu mến, tôn thờ và cậy trông nơi Ngài. Quả vậy, Đức tin vào Chúa không chỉ thể hiện khi được an vui, mà còn cả trong khi bị thử thách. Đức tin cũng không phải là hành động ùa theo đám đông, nhưng là bản lĩnh và là niềm xác tín của con người. Tin Mừng hôm nay là lời cầu nguyện của Chúa Giêsu với Chúa Cha. Không chỉ gồm những tâm tình thân thưa với Chúa Cha, lời cầu nguyện này còn nhằm mạc khải, soi sáng cho các môn đệ về sứ mạng thiên sai của Người. Người từ Chúa Cha mà đến, nên biết rõ Chúa Cha, cũng như biết rõ thánh ý của Ngài. Khi khẳng định những điều này, Chúa Giêsu cũng muốn giúp các môn đệ kiên vững lòng tin, để rồi, những lúc đối diện với khó khăn thử thách, các ông không ngã lòng.
“Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến với tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”. Giữa biển đời đầy sóng gió ba đào, lời mời gọi “Hãy đến với Tôi” của Chúa giúp chúng ta vững tin, nhờ đó ta có thêm can đảm nghị lực vươn lên trong cuộc sống. Bởi lẽ, có những lúc chúng ta cảm thấy đang đứng trước ngõ cụt của cuộc đời mà không tìm được lối thoát. Chúa Giêsu chính là niềm hy vọng và yên ủi cho những ai đang đau khổ và bế tắc trên đường đời. Hãy đến với Người. Người đang chờ đợi chúng ta. Chúa Giêsu hiểu thấu những gian truân của thân phận con người. Người muốn đồng hành với họ để nâng đỡ họ trong hành trình trần gian. Người còn là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Đến với Chúa Cha để hưởng hạnh phúc vĩnh cửu, đó cũng là đích điểm của cuộc sống chúng ta.
“Hãy đến với Tôi”, đó vừa là lời diễn tả sự gần gũi thân tình, vừa là lời khích lệ những ai còn sợ sệt vì thấy mình bất xứng. Lịch sử ghi nhận biết bao người đã đến với Chúa và gánh nặng cuộc đời của họ đã trở nên êm ái nhẹ nhàng hơn. Đến với Chúa, họ vừa được tha thứ tội lỗi, vừa có sức mạnh vươn lên làm lại cuộc đời.
Hãy đến với Chúa để học sự khiêm nhường. Chúa Giêsu là bậc thày. Người dạy chúng ta về sự khiêm nhường. Cuộc đời và giáo huấn của Chúa luôn thể hiện nhân đức khiêm nhường. Vì khiêm nhường mà Chúa đã hạ mình làm người. Vì khiêm nhường mà Chúa đến với mọi người đau khổ. Vì khiêm nhường mà Chúa đã chết trên thập giá. Chúa dạy chúng ta hãy học dưới mái trường của Người, để sống khiêm tốn, hy sinh, vì tha nhân và vì công ích. Sống khiêm nhường hạ mình sẽ giúp chúng ta thanh thản vui tươi hơn, nhờ đó cuộc sống này sẽ tốt đẹp hơn. Khi được thụ giáo tại ngôi trường của Chúa Giêsu, chúng ta sẽ nên giống như Người đến nỗi trở thành đồng hình đồng dạng với Người. Hãy đến với Chúa Giêsu để được Người giáo huấn và dẫn đưa về cùng Chúa Cha. Bởi lẽ Người từ Chúa Cha mà đến.
Đến với Chúa là một hành trình liên lỉ lâu dài. Trên hành trình này, có những cám dỗ cam go. Thánh Phaolô (trong Bài đọc II) đã gọi đó là sự giao tranh giữa Thần Khí và tính xác thịt. Ai thiện chí sống theo Thần Khí thì sẽ chiến thắng mọi cám dỗ, trở nên hoàn thiện, diệt trừ được con người ích kỷ, sống đời sống mới trong Chúa Giêsu Kitô. Lối sống theo xác thịt luôn mang nhiều màu sắc lấp lánh hấp dẫn. Nó dễ làm cho chúng ta ảo tưởng lầm lạc. Nhờ Thần Khí Chúa soi sáng và hướng dẫn, chúng ta biết khôn ngoan chọn lựa những gì đem lại ích lợi lâu bền, vĩnh cửu.
Hành trình đến với Chúa cũng là hành trình nên thánh. Muốn đến được với Chúa, phải học với Người để trở nên khiêm nhường như Người. Trong lời cầu nguyện với Chúa Cha, Chúa Giêsu đã thân thưa: “Con xin ngợi khen Cha vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết mầu nhiệm Nước Trời, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn”. Người “bé mọn” mà Chúa Giêsu nói tới ở đây, chính là những người khiêm tốn, luôn luôn tín thác và cậy trông vào Chúa và chuyên tâm thực thi thánh ý của Ngài. Trong truyền thống Thánh Kinh, những người bé mọn luôn được Chúa yêu thương và bênh vực. Thiên Chúa chúng ta tôn thờ là Thiên Chúa đứng về phía người nghèo khó và bé mọn. Người nghèo trong Thánh Kinh không chỉ là người nghèo khó về vật chất, nhưng còn là người luôn cậy trông vào Chúa, dù phong ba bão táp của cuộc đời.
Nếu chúng ta được mời gọi đến với Chúa, là vì trước hết Người đã đích thân đến với chúng ta. Lịch sử Cứu độ đã chứng minh Thiên Chúa chủ động đến với con người để can thiệp và giải thoát họ. Cuộc gặp gỡ với ông Môisen trong sách Xuất Hành đã chứng minh điều đó. Chúa nói với ông: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của Dân Ta bên Ai Cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than, vì bọn cai hành hạ. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai Cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật…” (Xh 3,7-8). Mầu nhiệm nhập thể của Ngôi Lời là bằng chứng của tình thương Thiên Chúa và việc Ngài chủ động đến với con người. Đức Giêsu khiêm nhường hạ mình mang lấy thân phận con người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Thiên Chúa không còn chỉ ở trên cao, mà “hạ giới” làm người để gặp gỡ những mảnh đời bất hạnh. Người là Emmanuel, tức là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Vì Thiên Chúa hiện diện với chúng ta, nên ngôn sứ Dacaria mời gọi chúng ta hãy vui lên. Ngôn sứ đã nhắc tới hình ảnh rất sinh động và bình dân, đó là các thiếu nữ Sion, trong trang phục truyền thống, múa nhảy reo hò chạy ra đón Đức Vua (Bài đọc I). Đây là ngày hội tưng bừng cho cả toàn dân. Đức tin Kitô giáo phải luôn diễn tả niềm vui và tinh thần của lễ hội, bởi lẽ Chúa hiện diện giữa chúng ta. Đó là niềm vui cao cả và tuyệt vời nhất. Tiếc thay, có nhiều người không cảm nghiệm được niềm vui này, nên cuộc đời của họ luôn âu sầu buồn bã.
Cuộc sống hôm nay còn bao gian nan vất vả. Tuy vậy, người tin vào Chúa vẫn khám phá những niềm vui. Quả thế, còn gì vui bằng có Chúa ở với chúng ta? Hãy cùng chung tay làm cho niềm vui Đức tin lan tỏa đến mọi nẻo đường của cuộc sống, vì “Cung nỏ chiến tranh sẽ bị bẻ gãy, và Người sẽ công bố hòa bình cho muôn dân, Người thống trị từ biển này qua biển nọ, từ sông Cả đến tận cùng trái đất”. Đó chính là xã hội tương lai mà chúng ta đang cố gắng để đạt tới. Như thế, thay vì bạo loạn đòi phá hủy tượng Chúa Giêsu và loại trừ Người khỏi cuộc sống, thế giới hãy yêu mến tôn thờ Người, vì Người chính là Vua hòa bình và là Đấng Cứu độ trần gian.
5.Hãy học cùng Ta: hiền lành và khiêm cung
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm – ViKiNi.)
Có lần báo chí đăng tin: Một anh tài xế khốn nạn, chịu không nổi vợ, đã mướn ba tên chuyên môn sát nhân để thủ tiêu vợ. Anh bị bắt và điều tra. Anh đáp: “Nó cằn nhằn tôi suốt ngày, làm cho đời tôi thành địa ngục”.
Biết bao kẻ phạm tội ác như thế, chỉ vì không sống hiền lành và khiêm tốn. Chị vợ nóng nảy gắt gỏng đã biến gia đình thành địa ngục, đã biến anh chồng thành kẻ sát nhân.
Vua Salômon đã nói: “Thà phải sống trong lẫm lúa nóng hừng hực còn hơn là sống trong ngôi nhà xinh đẹp với một bà vợ gắt gỏng” (Nguyễn hiến Lê dịch: Carnegie – Giúp chồng thành công trang. 128)
Nhiều gia đình không đến nỗi khủng khiếp như thế; nhưng cũng chất đầy những đau khổ để giết nhau dần dần bằng lối sống bẳn gắt, từ giận chửi nhau đến đánh nhau. Hết chiến tranh nóng lại tới chiến tranh lạnh, buồn bực, âm ỉ, mặt nặng mặt nhẹ, rêu rao bêu xấu, thù vặt.
Muốn sống bình an thật sự, muốn được sống êm ấm, an vui, phải sống theo lời Chúa kêu gọi: “Hãy học cùng Ta, vì Ta có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ mát bồi dưỡng”.
Học cùng Đức Giêsu hiền lành và khiêm tốn như thế nào?
Trong vườn cây Dầu, quân dữ hùng hổ kéo đến tìm bắt Chúa Giêsu. Phêrô giật mình thức dậy, rút gươm đột xuất chém đứt tai tên đầy tớ thầy cả thượng phẩm. Đức Giêsu hiền từ bảo Phêrô: “Hãy xỏ gươm vào bao, ai dùng gươm sẽ chết vì gươm”, rồi Người thương lấy tai đứt ráp lại cho anh được lành. Có ai hiền lành chịu nhục như thế không? Không tức giận, mắng chửi, không đánh phạt quân dữ hung hăng, mà còn thương yêu kẻ thù, làm ơn cho kẻ thù.
Đang cơn đau đớn quằn quại trên thập giá, Đức Giêsu vẫn nhớ cầu nguyện cùng Đức Chúa Cha: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ lầm chẳng biết”. Người không xin Thiên Chúa toàn năng công thẳng kết án, trả thù, giáng phạt quân dữ chết tươi. Người không đe dọa báo oán, không kêu xin cứu mình, nhưng kêu xin Chúa Cha nhân từ tha thứ cứu chữa kẻ giết mình; khác hẳn những nạn nhân loài người thường chửi rủa đe dọa kẻ làm hại mình. Lòng Đức Giêsu rộng rãi bao la vô bờ: che chở bênh vực kẻ thù, cầu khẩn ân xá cho kẻ giết mình. Không thể tìm thấy đâu trên khắp mặt đất, hay dưới gầm trời bốn bể có người nào khoan nhân, dung thứ như Người. Chẳng bao giờ, từ tạo thiên lập địa cho đến tận thế, tìm được ai thương yêu kẻ thù như Người, may ra chỉ có những người theo gương Người, được một phần nào thôi, như Thánh Stêphanô vị tử đạo tiên khởi.
Sự hiền lành của Đức Giêsu không phải là thứ hiền lành nhu nhược, nhút nhát hèn hạ; mà là thứ hiền lành cứu nhân độ thế, hiền lành của tình thương vô cùng: Xin tha cho họ để họ khỏi bị phạt đời đời, xin tha cho họ để họ được cứu độ trở nên con Thiên Chúa, như Người đã tha thứ cho người phụ nữ ngoại tình, tha cho viên sĩ quan đã đâm thấu qua Trái tim Người.
Sự hiền hậu của Đức Giêsu không phải là thứ hiền mù quáng, lầm lạc, mà là thứ hiền lành thẳng thắn, minh chính để trừ khử, sữa sai tội lỗi và sự dữ. Thấy quỷ ác hãm hại người ta, Người đã nghiêm khắc truyền lệnh: “Hãy ra khỏi người này”. Một lệnh truyền dứt khoát, ngắn gọn, mạnh mẽ.
Khi biệt phái chụp mũ Người lấy quyền tướng quỷ mà trừ quỷ. Người vạch rõ ác ý, sai lầm của họ: “Nếu Ta dùng tướng quỷ mà trừ quỷ, thì con cháu các người nhờ ai mà trừ quỷ. Nếu Ta dùng ngón tay Thiên Chúa, thì đó là nước Trời đã đến giữa các ngươi”
Sự hiền lành của Đức Giêsu là thứ hiền lành hạ mình xuống, chứ không phải nâng mình lên; thắng mình chứ không khuất phục người; sẵn sàng chịu nhục, chịu vả má, chứ không vả lại, chịu đánh chứ không đánh lại, chịu chết chứ không giết lại.
Đó là sự hiền lành anh hùng hạ mình xuống như những kẻ bé mọn và được Thiên Chúa như Mẹ Hiền luôn luôn thương giúp những đứa con thơ mọn. Còn những đứa lớn mạnh cậy mình khôn ngoan, thông thái không nhờ đến Mẹ, bất chấp lời Mẹ, nhưng tâm hồn chúng lại đầy mặc cảm, cô đơn, băn khoăn, lo lắng, buồn rầu.
Thánh Matthêu cho thấy Tin mừng của Đức Giêsu bị thất bại đối với các thầy tiến sĩ, luật sĩ, và biệt phái, nhưng lại được đông đảo dân chúng nồng nhiệt đón nhận. Vì thế, Đức Giêsu đã cảm tạ ngợi khen Đức Chúa Cha đã thương mặc khải cho những kẻ bé mọn. Họ đã học được sự hiền lành và khiêm nhường của Người và sống theo lời Người dậy. Tâm hồn họ được nghỉ ngơi bồi dưỡng, trở nên êm ái nhẹ nhàng trước những ách nặng và gồng gánh đầy khổ đau của cuộc đời.
Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường, Chúa đã ưu đãi những kẻ bé mọn thấp hèn. Xin làm cho trái tim con đừng bao giờ kiêu ngạo, trương phình lên như con bò, nhưng hãy vui vẻ sống nhỏ bé như con nhái để mong có thể chui qua lỗ kim mà vào ở nhà tình thương êm ái, ấm cúng của Chúa muôn đời.
Đọc lại Phúc Âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu hay dạy những điều ngược đời. Thực vậy, đang khi thiên hạ tranh nhau ngồi chỗ nhất nơi đám tiệc, hay chiếm lấy một địa vị cao nơi một tập thể, thì Chúa Giêsu lại dạy chúng ta phải tìm chỗ rốt hết: ai muốn cầm đầu thì hãy làm kẻ đầy tớ. Đang khi thiên hạ tìm đủ mọi cách để trưng ra nào bằng cấp, nào địa vị, nào chức tước thì Chúa Giêsu lại cho chúng ta hiểu rằng những kẻ bé mọn là những người chiếm ưu thế nơi tình thương của Thiên Chúa: Con xưng tụng Cha vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn.
Về những điều ngược đời ấy Chúa Giêsu không phải chỉ giảng dạy bằng lời nói, mà còn bằng cả cuộc đời của Ngài. Từ trời cao Ngài đã xuống thế làm người. Khi mở mắt chào đời, Ngài có thể sinh ra nơi đền hờ, vì đền thờ vốn được coi là nhà của Ngài, thế nhưng Ngài đã chọn máng cỏ hang đá Bêlem. Ngài đến trong cương vị của Đấng cứu thế, nhưng Ngài lại bị Hêrôđê tìm giết. Trên đường Ngài đi không có thảm đỏ, không có binh lính dàn chào, cũng không có các tư tế nghinh đón. Những người bạn của Ngài và ngay cả những người Ngài đã chọn để tiếp nối sứ mạng của Ngài đều là những kẻ quê mùa dốt nát, những kẻ thu thuế bị đồng hoá với phường tội lỗi. Cả một thế giới những con người không có chỗ đứng trong xã hội bấy giờ.
Và cuối cùng, bản thân Ngài đã bị treo trên thập giá, một án phát cho hạng người nô lệ. Ngài đã ở vào chỗ rốt hết, chẳng có chi là danh giá.
Trở lại đoạn Tin Mừng, những kẻ bé mọn trước tiên là các tông đồ, rồi đến những kẻ nghèo túng, yếu thế, những kẻ chẳng mấy được quan tâm. Vậy thì họ được Chúa mạc khải cho những gì? Tôi xin thưa họ được Chúa mạc khải cho biết chương trình cứu độ mà Ngài thực hiện. Đồng thời bản thân họ cũng đã đón nhận và tin vào Ngài như vị cứu tinh của họ.
Đứng trước ơn cứu độ Thiên Chúa trao ban, hoàn toàn do sáng kiến tình thương của Ngài, những kẻ không có gì để bám víu, để tự mãn, lại là những kẻ có ưu thế nhất. Và như vậy, kẻ rốt hết lại là kẻ đầu hết. Còn chúng ta thì sao, mặc dù đã nghe và đã biết chủ trương ngược đời của Chúa Giêsu như thế, nhưng trong thực tế chúng ta lại muốn xử sự theo sự khôn ngoan của người đời, bởi vì nhiều khi chúng ta muốn rao giảng Tin Mừng bằng uy quyền, bằng sự phô trương giàu sang và thanh thế, bằng sự xa lánh tất cả những gì mang dấu vết của thập giá, thành thử chúng ta không còn những người môn đệ đích thực của Đức Kitô nữa.
Một vị quan tể tướng đời Đường rất lừng danh và có lòng mộ đạo chân thành. Thầy của ông là một bậc cao tăng. Hai thầy trò rất tâm đồng ý hiệp với nhau, không phân biệt địa vị hay chức quyền. Ngày kia quan tể tướng bèn hỏi: Xin thầy giải thích kiêu căng nghĩa là gì? Thầy liền đổi sắc mặt, trợn mắt hỏi với một giọng khinh miệt: Mi hỏi ta gì đó, đồ ngu. Cử chỉ và lời nói bất ngờ ấy làm cho gương mặt quan tể tưởng đỏ bừng lên. Bấy giờ vị cao tăng mới ôn tồn nói: Thưa, đó chính là sự kiêu căng đấy.
Câu chuyện trên như muốn vạch trần cái gốc rễ của tính kiêu căng. Đó là không chấp nhận những giới hạn của mình, không sẵn sàng đón nhận sự thật. Và tệ hơn nữa, sự kiêu căng còn là nguyên nhân làm cho con người không còn biết mở rộng cõi lòng để đón nhận Thiên Chúa. Chính vì thế mà Kinh Thánh đã xác quyết: Chúa hạ bệ những kẻ quyền hành và nâng cao những người khiêm nhu. Hay nói một cách khác, Chúa chán ghét những kẻ kiêu căng và yêu thương những người khiêm nhường.
Thực vậy, một Lucifer kiêu căng, dám ngang nhiên tuyên bố: Tôi không phục tùng Thiên Chúa nữa. Một Adong Eva kiêu căng muốn trở nên bằng Thiên Chúa, số phận họ như thế nào hẳn chúng ta cũng đã biết: Lucifer và các thần dữ thì lãnh nhận bản án lưu đày hoả ngục. Còn Adong Eva thì bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng với cảnh khổ đau và chết chóc.
Trong khi đó, một David khiêm nhường sám hối đã được Thiên Chúa tha thứ và chọn dòng dõi ông làm nơi phát sinh Đấng Cứu Thế. Một Maria khiêm nhường với thân phận người tôi tá Chúa nên đã được đặt làm Mẹ Ngôi Hai giáng trần. Một Gioan khiêm nhường không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Ngài, đã được khen ngợi là cao trong hơn hết mọi người nam.
Và qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, một lần nữa, Chúa Giêsu lại xác quyết như thế: Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xưng tụng Cha vì Cha đã giấu không cho những bậc khôn ngoan thông thái biết những mầu nhiệm Nước Trời, mà lại mạc khải cho người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là sở thích của Cha.
Từ đó chúng ta có thể kết luận, Chúa yêu thương những người khiêm nhu. Đó là một sự thật, một chân lý, một kinh nghiệm sống ngàn đời không hề đổi thay. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã thực sự sống tinh thần đơn sơ bé nhỏ và khiêm cung như Chúa mong muốn hay chưa?
Mặt trời và gió luôn tranh cãi xem ai mạnh hơn ai. Hôm đó, có một người mặc áo choàng đi trên con đường vắng. Mặt trời nói với gió:
– Ai làm cho người ấy cởi bỏ chiếc áo choàng mau hơn thì sẽ thắng cuộc.
Gió đồng ý và ra tay trước. Chàng ta càng thổi thì người kia lại càng giữ chặt lấy chiếc áo. Cuối cùng chàng gió kiệt sức và đành chịu thua.
Lúc đó mặt trời mới ra tay. Bác ta toả xuống những tia nắng khiến người kia cảm thấy nóng bức. Và thế là người ấy phải cởi áo ra.
Tác giả câu chuyện trên đã kết luận như sau: Bạn có thể thành công nhờ sự hiền lành dễ thương hơn là nhờ bạo lực.
Ngày nay sự hiền lành dễ thương không còn được đánh giá cao như trước, bởi vì ngày nay bạo lực được phổ biến và có mặt khắp nơi, trên báo chí cũng như trên phim ảnh và truyền hình.
Thật khác xa với lời Chúa dạy: Các con hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng.
Tiên tri Isaia đã nói trước về sự hiền lành của Đức Kitô như sau: Ngài không la hét, không to tiếng hoặc ăn nói ồn ào ngoài đường phố. Người không bẻ gẫy cây sậy bị giập, không thổi tắt ngọn đèn còn leo loét.
Một thí dụ tuyệt hảo về sự hiền lành dễ thương của Chúa là cách thức Ngài xử lư đối với người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Ngài chẳng những dễ thương đối với người phụ nữ, mà còn dễ thương với cả những kẻ tố cáo chị ta, vốn tự cho mình là công chính. Chúa Giêsu không la hét, không quát mắng, nhưng Ngài chỉ cúi xuống và viết trên cát.
Ngài khuyên chúng ta bắt chước người mục tử hiền lành trong dụ ngôn con chiên lạc. Người ấy không hề đánh đập hay lôi kéo con chiên về nhà, trái lại đã vác nó trên vai. Ngài cũng khuyên chúng ta bắt chước người cha trong dụ ngôn đứa con hoang đàng. Ông ta đã không quở mắng đánh đập, trái lại đã ôm hôn cậu và mở tiệc ăn mừng.
Đoạn Tin Mừng hôm nay chứa đứng một lời mời gọi quan trọng, đó là hãy noi gương bắt chước Chúa sống hiền lành và khiêm nhường. Cố gắng đối xử với mọi người bằng sự nồng thắm chân tình. Tiếp đến là hãy đối xử với những kẻ làm hại chúng ta theo cách đối xử của Chúa đối với người phụ nữ ngoại tình, của người cha đối với đứa con hoang đàng, của người mục tử đối với con chiên lạc. Nghĩa là hãy cảm thông hơn là kết án.
Và sau cùng là hãy đối xử với những người đang phải mang lấy gánh nặng của khổ đau, của bất hạnh một cách khéo léo và tế nhị, hầu đem lại cho họ sự an ủi và khích lệ. Tóm lại, chúng ta hãy thực thi lời khuyên nhủ của Chúa: Các con hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng.
9.Ách là hiền lành và khiêm nhường
(Suy niệm của Lm. Jos. Quang Nguyễn)
Tục ngữ Việt nam có câu: ách giữa đàng mang vào cổ. Như thế người ta quan niệm cái ách như cái gông, tượng trưng cho cái gì gánh nặng đè nén, làm cho con người mất tự do. Vậy mà hôm nay Chúa Giêsu nói hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta vì Ta có lòng hiền hậu và khiêm nhường trong lòng. Thế nhưng chúng ta hiểu thế nào là ách của Chúa và thế nào là hiền hậu và khiêm nhường của Chúa chưa? Trước hết, cái ách mà Chúa Giêsu nói ở đây có phải là cái ách của con bò được làm bằng gỗ không? Trong Thánh lễ khai mạc sứ vụ Giáo Hoàng, Đức Bênêđitô XVI nói rằng ách của Chúa chính là thánh ý mà chúng ta đón nhận. Và thánh ý Chúa chúng ta đón nhận không phải là gánh nặng bề ngoài đè nén và tước đọat quyền tự do của chúng ta. Trái lại, ách của Chúa nhẹ nhàng, bởi thánh ý của Chúa không làm chúng ta bị tha hóa nhưng thanh tẩy chúng ta dù phải đau khổ, đau thương hay súng sướng. Qủa thế, trong bài đọc 2, Thánh Phaolô nói: “Nếu Đức Ki-tô ở trong anh em, thì dầu thân xác anh em có phải chết vì tội đã phạm, Thần Khí cũng ban cho anh em được sống, vì anh em đã được trở nên công chính”.
Vì vậy, Chúa Giêsu hôm nay nói hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành. Nhưng thử nhìn lại cuộc đời Chúa Giêsu, Chúa Giêsu có hiền thiệt không? Đọc Tin Mừng chúng ta thấy các Thánh sử kể Chúa tức giận quát mắng quỷ dữ cũng như con người. Thánh Máccô kể rằng “Đức Giêsu và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um. Ngay ngày sa-bát, Người vào hội đường giảng dạy. Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư. Lập tức, trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên rằng: “Ông Giêsu Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” Nhưng Đức Giêsu quát mắng nó: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!” (Mc 1,21-24). Hay là: “Gần đến lễ Vượt Qua của người Do-thái, Đức Giêsu lên thành Giê-ru-sa-lem. Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ” (Ga 2,13-15). Như vậy, Chúa Giêsu hiền lành cỡ nào? Như thế mình học nỗi không, theo nỗi không? Có lẽ chúng ta hiểu sai về sự hiền lành của Chúa rồi, bởi vì chúng ta đồng hóa sự hiền lành với nhu nhược. Hiền lành của Chúa Giêsu không phải là như nhược mà có lập trường, lập trường của chân lý. Cụ thể, Chúng ta nhớ lại đi, khi có một anh lính vả vào mặt Chúa Giêsu, Chúa không vả lại, dù Ngài chỉ cần thổi một phát anh đó bay xuống chín tầng đại ngục. Nhưng Ngài không vả, không thổi không phạt gì cả, mà Ngài cũng không im lặng, Ngài hỏi lại anh ta: nếu tôi nói phải sao anh đánh tôi, nếu tôi nói sai thì anh chỉ tôi sai chỗ nào. Rồi trong công cuộc rao giảng, Chúa Giêsu rao giảng giáo lý một cách hiền hòa, không chua cay, nóng nảy, bực tức hay thách đố những người chống đối, xuyên tạc và bắt bẻ Ngài. Đối với các môn đệ quê mùa, nóng tính, tham vọng. Ngài bình thản chấp nhận và nhẹ nhàng dạy bảo. Trước tòa án Do thái, người ta đổ vạ vu oan cho Ngài đủ điều, Ngài chỉ làm thinh. Tại dinh Philatô cũng thế, Ngài không nói nửa lời để minh oan, bào chữa, đến nỗi Philatô phải ngạc nhiên. Bị tát vào má, nhổ vào mặt, đánh trên lưng, đội vòng gai trên đầu, bị nhạo cười mắng nhiếc, Ngài chịu đựng tất cả, không một lời phản đối, bực tức hay phẫn uất. Trên thập giá, Ngài còn biện hộ cho những người làm khổ mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. Như vậy sự hiền lành của Chúa Giêsu là sự hiền lành là tự chủ, kiên nhẫn, chịu đựng và tha thứ hết lòng hầu cho thánh ý Chúa Cha được nên trọn.
Bên cạnh nhân đức hiền lành, Chúa Giêsu khuyên bảo chúng ta học nơi Ngài gương khiêm nhường. Vâng, nói đến sự khiêm nhường chúng ta nghĩ ngay đến sự khiêm nhường của Con Một Thiên Chúa, Đức Giêsu là Đấng Messia khiêm nhường mà Dacaria đã loan báo rằng: “Hãy báo thiếu nữ Xion: kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ” (Mt 21,5). Qủa thế, Đức Giêsu Kitô không phải chỉ là một người phàm, mà còn là Chúa (Rm 8,3) Ngài ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã huỷ mình ra không đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên thập giá để cứu chuộc chúng ta (Pl 2,6tt) nhờ đó chúng ta khỏi hư mất (Lc 19,10).
Lão Tử dạy quân tử trong phép xử thế rằng “Bậc thượng thiện giống như nước; nước thì hay làm lợi cho vạn vật mà không tranh, ở chỗ nào mà người ta đều ghét, nên gần với đạo. Ở thì hay lựa chỗ thấp; lòng thì chịu chỗ thâm sâu, xử thế thích dùng đến lòng nhân” (Đạo Đức Kinh, chương 66), vì vậy, “hãy lấy nhu thắng cương, nhược thấy cường. Lấy cường xử hạ, nhu nhược xử thượng” (Đạo Đức Kinh, chương 76). Qủa thật, khiêm nhường một đức tính không thể thiếu trong mọi tương giao và xử thế bởi; nếu “Tôi kiêu căng sắc xảo, tôi thành tôi sắc tối; mà huênh hoang huyền hoặc tôi thành tôi huyền tồi; tự ái tôi nặng nề tôi thành tôi huyền tội” (Cha Quang Uy, bài hát “đơn giản tôi là”), như thế đời tôi còn ý nghĩa gì? Chẳng đẹp như ước mơ!
Chúa Giêsu mục tử nhân lành, hiền hậu và khiêm nhường đã nêu gương cho chúng ta trước và “Người để lại mẫu gương cho chúng ta dõi bước theo, vì Người không hề phạm tội, chẳng ai thấy miệng Người nói một lời gian dối. Bị nguyền rủa Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà không hề ngăm đe, nhưng một bề phó thác cho Đấng xét xử công minh” (1Pr 2,21-23). Như vậy, Chúa Giêsu dạy chúng ta phải có lòng khiêm nhường thẳm sâu nhất, đó là phục vụ Thiên Chúa và tha nhân, dùng tình yêu mà hạ mình xuống để tôn vinh Thiên Chúa và cứu vớt mọi người. Cho nên, Đức nguyên Giáo Hoàng Bênêđictô khẳng định rằng: “Tình yêu trong sự thuần khiết và vô tư là chứng cớ tốt nhất về Thiên Chúa, Đấng mà chúng ta tin và thúc đẩy chúng ta yêu thương” (Thông Điệp, Thiên Chúa là Tình Yêu, số 31).
Qủa vậy, tình thương của Kitô giáo được xây dựng trên nền tảng sự khiêm nhường, vì chưng, Thánh Tôma Aquinô nói: “Kiêu ngạo là thích được đề cao hơn người khác, và kiêu ngạo là khoe khoang, là cay đắng, là tàn nhẫn, là chỉ nghĩ đến bản thân, cho nên kiêu ngạo khiến ta đố kỵ nhau. Bởi vậy, muốn yêu thương phải bắt đầu để cho tâm hồn mình thấm nhuần sự khiêm nhường và hiền lành”. Cho nên, có khiêm nhường, chúng ta mới nhận được tình yêu của Chúa Kitô thúc bách chúng ta phục vụ yêu thương tha nhân một cách dễ dàng và thanh thản, không so đo tính toán và không vụ lợi. Vì vậy, Thánh Phaolô nói: “Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển chọn, hiến thánh và yêu thương, nên anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm cung, hiền hòa và nhẫn nại để dạy bảo nhau” (Cl 3,12) và “Hãy biểu lộ cho mọi người biết tình yêu Thiên Chúa giữa lòng thế giới, nhờ chứng tá đặc biệt trong sứ mạng của Đức Kitô được hoàn tất khi chúng ta tận hiến hoàn toàn cho Chúa; hãy nêu gương sáng cho mọi người cả Kitô hữu lẫn ngoài Kitô hữu; hãy khiêm tốn, hiền lành và yêu thương phục vụ, nhất là những người bé nhỏ” (Tông huấn Á Châu, số 44) ngõ hầu tất cả mọi người trên mặt đất hiệp nhất trong tình yêu Thiên Chúa nhờ giáo huấn của Chúa Giêsu Kitô, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Vậy, Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta sống nhân đức của Chúa đó là ách của Chúa, chính là sống thánh ý Ngài giữa cuộc sống dù có gian nan, dù khi sung sướng hãy luôn để Thánh ý Chúa được thực hiện nơi chúng ta hầu chúng ta sống dồi dào và bình an. Thứ hai đó là hãy tập sống hiền như Chúa Giêsu hầu tạo nên trong gia đình một bầu khí hòa thuận và êm ấm. Và cũng chính sự hiền lành sẽ bắt được một nhịp cầu cảm thông sẽ tạo được những mối liên hệ tốt ngoài xã hội giữa chúng ta với nhau bởi vì: – Giận quá thì mất khôn. Sự nóng giận là như dầu đổ vào lửa, làm cho lửa bùng cháy lên. Trong khi đó, sự hiền lành bao giờ cũng xoa dịu, cũng hàn gắn.
Lạy Chúa xin cho chúng con biết sẵn sàng mang lấy ách của Chúa và sống hiền như Chúa hầu chúng con càng ngày càng giống Chúa. Amen.
Một đôi khi trong các sách Tin Mừng, các thánh sử ghi lại những lúc Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha. Thường thì các ngài nói vắn tắt rằng, Ngài lên núi cầu nguyện thâu đêm, nhưng trong một vài trường hợp, các ngài ghi lại cả những lời cầu nguyện của Chúa, nhất là trong những lúc ở giữa các môn đệ. Những lời cầu nguyện này thường cho thấy mối liên hệ mật thiết của Ngài với Chúa Cha, một mới liên hệ mật thiết mà chúng ta không thể hiểu được, chứng tỏ rằng Chúa Giêsu với Cha Ngài là một. Ngài không làm gì ngoài ý Chúa Cha. Hôm nay Ngài cầu nguyện và ngợi khen Cha vì đã không cho những người khôn ngoan theo thế gian biết, mầu nhiệm Nước Trời, mà chỉ mạc khải cho những người hèn mọn. Vì sao? Vì những người khôn ngoan theo thế gian thường tự phụ, tưởng rằng mình đã khôn ngoan đủ và không muốn theo ý của ai khác. Họ khép kín trong sự hiểu biết của họ. Chúa chỉ yêu thích những tâm hồn bé mọn luôn rộng mở đón tiếp những gì tốt đẹp của tha nhân mà không đòi hỏi vòng vo. Thánh Phêrô khi tuyên xưng Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, Chúa Giêsu đã nói gì? “Phêrô, anh có phúc vì không phải thế gian hay xác thịt đã cho anh biết điều đó, mà Cha trên trời đã cho anh biết. Phêrô chính là một tâm hồn bé mọn mà Chúa chấp nhận. Hơn nữa, chính Chúa Giêsu đã chúc phúc cho những người nghèo khó. Theo tiếng Do Thái, nghèo khó có nghĩa là thấp hèn, đơn sơ, không tự ái xét nét. Tâm hồn nghèo khó như một trang giấy trắng, luôn sẵn sàng đón nhận nét bút của Chúa. Họ vẫn giữ được nét ngây thơ của tuổi thơ, vì thế, Chúa cũng bảo chúng ta trở nên như trẻ thơ, hồn nhiên và trong sáng, và như thế Chúa Cha mới in lên đó những nét bút của Ngài, vẽ lên nét đáng yêu của Mầu Nhiệm Nước Trời. Mầu Nhiệm đó chính là Giêsu, Con yêu dấu của Chúa Cha, vì không ai biết rõ Người Con, trừ Chúa Cha; cũng không ai biết rõ Chúa Cha, trừ Người Con và kẻ người Con mạc khải cho. Chúa Con chính là hiện thân hữu hình của Chúa Cha. Vì thế, muốn hiểu biết Mầu Nhiệm Nước Trời, phải trở nên hèn mọn như Chúa Giêsu, vì Ngài đến trong thế gian trong thân phận một con người hèn mọn, mặc dù Cha tôi giao phó mọi sự cho tôi.
Tiên tri Dacaria đã nhấn mạnh đến sự thấp hèn của Chúa khi đến với con người. Ngay cả những lúc được tung hô vạn tuế, Ngài chỉ vào thành thánh ngồi trên lưng một con lừa con, vì Ngài đến thực hiện sứ mệnh cứu rỗi của Ngài trong khiêm hạ và nghèo khó. Tất cả những ai muốn bước vào Nước Trời phải đi vào con đường khiêm nhu và hèn mọn đó.
Vì thế, Chúa Giêsu lên tiếng kêu gọi: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, vì tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”.
Chúng ta có nghe tiếng Chúa kêu mời không? Ai trong chúng ta không mang gánh nặng nề, lao đao trong cuộc sống? Ai trong chúng ta luôn sống trong bình an và hạnh phúc? Ngày nào mà không lo toan tính toán đủ mọi thứ? Hãy đến với Chúa, vì Chúa sẽ cùng với chúng ta vượt lên trên mọi khó khăn cực nhọc, thắng vượt những nặng nề của xác thịt, của đam mê vật chất, cho chúng ta được sống trong Thánh Thần là nguồn suối bình an và hoan lạc. Chúa không hứa sẽ cất gánh nặng cho chúng ta, Ngài chỉ hứa cho chúng ta được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Những ai đã nghe lời Ngài, đến với Ngài, đều đã cảm nghiệm được niềm hoan lạc của Thánh Thần, dù sống trong những hoàn cảnh hết sức cùng cực và nguy hiểm. Trong thế gian không có gì bảo đảm cho chúng ta cả. Một cơn bệnh hiểm nghèo, một tai nạn bất thần có thể phá đổ tất cả. Chúa Giêsu mới là nơi an toàn duy nhất thôi. Dù mọi sự quanh ta có thay biến thế nào, Chúa vẫn là nơi ẩn náu duy nhất. Chúa vẫn là thuẫn đỡ khiên che. Và những ai trông cậy vào Chúa sẽ không bao giờ thất vọng.
Chúng ta vẫn được vinh dự ăn lấy Chúa, có thể là mỗi ngày, thì chúng ta còn sợ gì những lao nhọc cực khổ? Chúng ta đã được nuôi dưỡng bằng mình và máu Chúa, đã mang Chúa trong con người thì có gì mà phải e sợ lo lắng? Chỉ khi nào chúng ta tách rời ra khỏi tình yêu Chúa, chúng ta mới sợ, vì lúc đó chúng ta chỉ còn là yếu đuối và mong manh. Tiền bạc và quyền lực thế gian không thể bảo đảm hạnh phúc của chúng ta. Chỉ có Chúa thôi.
Nhưng đến với Chúa, không chỉ là lo hạnh phúc cho chính mình, mà là để đến với anh em. Nếu Chúa là nơi nương ẩn cho chúng ta, chúng ta cũng có thể là nơi nương ẩn cho những người anh em khốn khổ khác, những người chưa biết Chúa là nguồn bình an của họ. Khi đã mang Chúa trong tâm hồn, chúng ta sẽ là sứ gỉả của tình yêu Chúa cho mọi người chung quanh. Đó là điều Chúa mong muốn. Vì Chúa đã thương chúng ta, chúng ta phải yêu thương anh em, đó là lời khuyên nhủ của thánh Gioan. Mầu Nhiệm Nước Trời chính là mầu nhiệm của tình yêu muôn thuở của Chúa đối với nhân loại. Những người hèn mọn đã được mạc khải Mầu Nhiệm Nước Trời, phải dấn thân yêu thương như Chúa đã yêu, nếu không, giữ đạo là một điều vô ích. Người ta sẽ không thể hiểu một người Kitô hữu mà không biết yêu thương. Thánh Gioan cũng nói: “Ai nói mình yêu mến Chúa mà không thương yêu anh em là kẻ nói dối”… Vì Thiên Chúa là Tình Yêu”.
Chúa Giêsu lại buộc chúng ta học một bài học duy nhất mà chúng ta có thể tìm thấy, đó là: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng”. Một bài học duy nhất. Trong Tin Mừng, chỉ có một lần duy nhất Chúa bảo chúng ta phải học với Ngài. Chúng ta có thực sự học bài học đó không? Hiền lành và khiêm nhượng là hai đức tính hiếm hoi trong xã hội loài người. Ai cũng muốn được một chỗ đứng trong mặt trời. Ai cũng muốn danh giá, quyền lực. Ai cũng muốn “có danh gì với núi sông”. Chỉ có Chúa Giêsu dạy chúng ta khiêm tốn và hiền lành. Điều kiện tất yếu của tình yêu. Yêu mà không khiêm nhường là tình yêu giả hiệu, và yêu mà không hiền lành là tình yêu dối trá. Chúng ta đến với anh em không phải để đòi hỏi mà để cho đi. Và cho đi thì phải hiền lành và khiêm tốn, thì việc cho đi mới trọn vẹn. Đó mới là tình yêu đích thực. Hãy nhìn Chúa Giêsu hiền lành và khiêm tốn, chúng ta mới hiểu thế nào là yêu thương.
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha. Vì thế, chúng ta hãy chung lời cầu với Ngài, tạ ơn Chúa Cha. Ngài tạ ơn Cha vì đã thương mạc khải cho những kẻ bé mọn mầu nhiệm Nước Trời. Ngài cầu nguyện cho chúng ta đấy, vì chúng ta chính là những kẻ bé mọn của Ngài. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa Cha vì đã thương chúng ta, đã cho chúng ta biết được mầu nhiệm Nước Trời, nhờ đó chúng ta có niềm hy vọng được chung hưởng với Ngài hạnh phúc mà Ngài dành cho chúng ta, những kẻ bé mọn đã tin vào Ngài, gắn bó với Ngài.
Chúng ta thật diễm phúc vì chúng ta được Ngài thương, vì chúng ta chỉ là những người hèn mọn mà Ngài tìm kiếm và yêu thương!
Chúa Giêsu, khi còn ở trần gian đã làm như thế, Ngài tìm những người mà Ngài gọi là những kẻ nghèo khó, những người có tâm hồn đau thương giập nát, những người mà thế gian cho là điên rồ, những người bị chà đạp khinh chê. Ngài tìm những Mađalêna, những người thu thuế như Giakêu, Matthêu, những người như người nữ Samari, người đàn bà ngoại tình, những kẻ bệnh hoạn tật nguyền, không ích lợi gì cho xã hội, những người bị loại trừ, những kẻ tội lỗi, những gì đã hư mất, những con chiên lạc…
Chúng ta được diễm phúc vì Chúa Giêsu đã thương mạc khải cho chúng ta mầu nhiệm Nước Trời. Nhưng chúng ta biết mầu nhiệm Nước Trời là gì không?
Nước Trời, chính Chúa Giêsu nói ra chúng ta mới biết. Thế nào là Nước Trời? Nhiều người sẽ không thể trả lời, và nếu trả lời thì chỉ vu vơ, Nước Trời là một cõi nào đó, hạnh phúc. Nước Trời không chỉ là như thế mà sâu xa hơn, Nước Trời chính là tình yêu của Chúa Cha. Chúa Giêsu cho chúng ta thấy mối tình liên kết Chúa Cha và Chúa Con: “Chúa Cha giao phó mọi sự cho tôi”. Chúng ta hiểu thế nào? Chúng ta không thể hiểu hay chúng ta chỉ biết sơ sài. Lời đó chứng tỏ quyền tuyệt đối của Chúa Con: “Và Chúa Con làm gì cũng do Chúa Cha. Ngài không làm gì tự ý mà luôn nhìn nơi Chúa Cha, Ngài làm những gì đẹp ý Chúa Cha”. Đó mới là tình yêu tuyệt đối. Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta mối tình thần linh đó, và chúng ta được sống trong tình yêu đó: “Không ai biết rõ Người Con, trừ Chúa Cha; và cũng không ai biết rõ Chúa Cha trừ người Con và những kẻ mà người Con mạc khải cho”. Đó mới thực sự là Nước Trời. Ai sống trong người Con mới hiểu được mối tình thần linh đó. Từ “biết” của Kinh Thánh có nghĩa là biết theo nghĩa tình yêu, như hai vợ chồng biết nhau. Chúa Con biết Chúa Cha và Chúa Cha biết Chúa Con, nghĩa là Chúa Cha yêu thương Chúa Con và Chúa Con yêu thương Chúa Cha. Mối tình đó chính là Chúa Thánh Thần. Chúng ta nhận được mạc khải tuyệt vời đó qua Chúa Con. Đừng để nó mờ nhạt đi, nhưng càng phải làm cho nó sáng lên trong cuộc sống hôm nay của chúng ta.
Bằng cách nào? Bằng cách kết hiệp mật thiết với Chúa Con, gắn bó với Ngài tha thiết hơn, nhờ đó mạc khải tình yêu sẽ rõ nét hơn. Hãy ăn lấy Chúa Con để Ngài có thể sống trong chúng ta, yêu thương Chúa Cha trong chúng ta. Chúng ta không thể tự mình yêu mến Chúa Cha, mà chỉ nhờ Con của Ngài thôi. Người Con ấy đã đến với chúng ta thật gần, chúng ta có thể tin vào Ngài và nhờ Ngài yêu mến Cha, vì Cha chính là nguồn cội, là sự sung mãn. Trong Chúa Con chúng ta nhận lãnh ơn này đến ơn khác từ sự sung mãn của Ngài.
Những người tự mãn sẽ không thể chấp nhận được mạc khải của tình yêu. Điển hình là những ông Pharisêu đầy tự mãn kiêu căng. Họ tự cho rằng họ biết quá nhiều và khinh thường những kẻ bé mọn. Họ khăng khăng từ chối sứ điệp của Chúa, cho rằng chỉ có những kẻ dốt nát và quân tội lỗi mới tin tên Giêsu đó. Và họ cho rằng Chúa Giêsu bị quỉ ám. Họ đã ra mù quáng đến nỗi không thể nhìn thấy những dấu lạ hiển nhiên Chúa làm trước mắt họ. Họ chỉ tin cậy vào sự hiểu biết của họ, không cần đến ai. Những kẻ bé mọn như anh mù bẩm sinh, người đàn bà Samari thì nhìn thấy được Đấng đã đến mang bình an cho con người, cứu con người khỏi tội lỗi và cho chúng ta được làm con Chúa Cha như Ngài.
Chúng ta hãy trở nên như Chúa Giêsu đã dạy: “Hãy trở nên như trẻ thơ”, nghĩa là hãy nhỏ bé, hãy tin tưởng không ngờ vực. Biết mình không thể làm gì tự mình, luôn cảm thấy mình cần đến Chúa. Hãy nhìn Chúa Giêsu. Ngài hoàn toàn là trẻ thơ trong tay Cha Ngài. Ngài dùng từ abba: cha ơi của trẻ thơ để gọi Cha, cho thấy Ngài thực sự là một em bé trong tay Cha Ngài. Vì thế mà Chúa Cha trao hết mọi sự trong tay Ngài.
Chúa Giêsu lên tiếng mời gọi: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến với tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.” Vì Ngài nắm mọi sự trong tay, Ngài có thể là nơi nương tựa cho chúng ta. Lời mời gọi thật êm đềm! Chúng ta có cảm thấy sung sướng khi nghe tiếng mời gọi đầy yêu thương đó không? Ngài biết chúng ta phải nặng gánh như thế nào. Cuộc sống là một gánh nặng. Thân xác, con người của chúng ta cũng là một gánh nặng. Tất cả đều là gánh nặng và chúng ta ai cũng rên siết dưới gánh nặng đó. Hơn nữa chúng ta còn mang gánh nặng của bao nhiêu yếu đuối lỡ lầm, những tật xấu không chừa, những đam mê luôn thôi thúc. Phải luôn chiến đấu để sống còn, để trung thành với Chúa. Còn bao nhiêu gánh nặng đang đè trên vai chúng ta, gánh nặng của một xã hội đầy tội ác, hận thù, gánh nặng của gia đình…
Hãy đến với Ngài. Chỉ có Ngài mới có thể giúp chúng ta bước tới, lướt thắng mọi trở ngại trên con đường dẫn tới hạnh phúc thật. Chỉ có Ngài mới giúp chúng ta gánh cái gánh của cuộc sống mà không rên siết, mà nụ cười vẫn không tắt trên môi.
Đến với Ngài, Ngài sẽ dạy chúng ta bài học duy nhất là hiền lành và khiêm nhượng.
Trong suốt bốn sách Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu chỉ dạy chúng ta một bài học duy nhất đó thôi. Hiền lành và khiêm nhượng, những nhân đức mà thế gian không bao giờ muốn có. Thực ra bài học này nằm trong tám mối phúc, nhưng Chúa đặc biệt chú ý đến. “Phúc cho những ai hiền lành vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp” và “phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước trời là của họ”. Nước Trời thuộc về họ là hôm nay, chứ không phải ngày mai. Chúng ta có thấy như thế không? Những người khiêm nhượng không ham mê gì khác mà chỉ có một mình Chúa làm gia nghiệp, thì quả đúng như thế, họ đã được Nước Trời ngay từ hôm nay. Đây có thể là một điều không tưởng? Không, đây là sự thật. Ai sống khiêm nhượng thật sẽ thấy rõ điều đó. Chỉ một điều là chúng ta không khiêm nhượng, chúng ta chưa thấy được điều đó thôi.
Chúa lại bảo chúng ta mang ách của Ngài. Nói tới cái ách, ai cũng cảm thấy nặng nề khó hiểu. Tại sao ách mà nhẹ nhàng? Những người yêu nhau, họ có cho là nặng nề không? Tình yêu chính là một cái ách, nhưng sao nó nhẹ nhàng và dễ chịu thế? Ách của Chúa phải chăng là tình yêu, một tình yêu vô vị lợi, tình yêu không tính toán, là cho đi và cho hết. Chúng ta dám tin vào Chúa đến nỗi chúng ta dám làm bất cứ điều gì cho Chúa không? Các thánh tử đạo đã chấp nhận cái chết đau đớn mà vẫn vui? Tại sao? Những nhà truyền giáo sống kham khổ với những người khốn khổ suốt đời vẫn cảm thấy vui tươi nhẹ nhàng và hạnh phúc? Tại sao? Ách của Chúa nhẹ nhàng là như thế đó. Vì ách của Chúa là tình yêu trọn vẹn. Và tình yêu đích thực bao giờ cũng mang lại hạnh phúc. Là sự nghỉ ngơi trong Chúa.
12.Thiên Chúa yêu thương người nghèo
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Người đời thường coi trọng người khôn ngoan giầu sang quyền quý, nhưng Tin Mừng hôm nay cho thấy Thiên Chúa yêu thương người nghèo, và mặc khải những gì kín ẩn cho những người bé nhỏ nghèo hèn.
1. Thiên Chúa yêu thương cả những người khôn ngoan
Những người khôn ngoan thông thái, học cao hiểu rộng, thường được mọi người tôn trọng. Người ta thường hiểu rằng những người này dễ dàng đón nhận chân lý, và hiểu biết những điều mà những người bình dân ít học không hiểu được. Tuy vậy, Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Yêsu tạ ơn Thiên Chúa Cha, vì Ngài đã dấu những điều kín ẩn với những người khôn ngoan quyền thế, nhưng lại mặc khải cho những kẻ bé mọn.
Người “bé nhỏ” được Thiên Chúa mặc khải ở đây, là những người có tinh thần mở rộng, sẵn sàng đón nhận sự thật, sẵn sàng để được dạy dỗ từ bất cứ ai, sẵn sàng đón nhận chân lý từ bất cứ người nào. Những người “khôn ngoan thông thái” là những người cho mình là người hiểu biết, không sẵn sàng mở lòng học nơi người khác vì họ cho rằng họ hơn người khác, được học hơn người khác, hiểu biết hơn người khác, thông minh hơn người khác. “Tạ ơn Cha vì Cha đã che dấu những người khôn ngoan thông thái nhưng mặc khải cho những người bé mọn nghèo hèn”. Không phải Thiên Chúa không yêu thương và không mặc khải cho những người khôn ngoan giầu sang, nhưng vì những người này không thể đón nhận những gì Thiên Chúa mặc khải khi họ cho rằng họ không có gì để học nơi những người “bình thường” như Đức Yêsu.
Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người. Ngài yêu thương cả người khôn ngoan giầu có quyền năng cũng như những người nghèo. Ngài làm mặt trời mọc trên kẻ dữ lẫn người lành. Đức Yêsu tạ ơn Cha, vì những người nghèo đã mở lòng đón nhận điều Thiên Chúa mặc khải qua Ngài.
2. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa
Theo kinh nghiệm, không phải những người “có học” lập gia đình với nhau là có lối sống văn minh và đời sống hạnh phúc. Kiến thức và mức độ trưởng thành về đời sống nhân bản là hai lãnh vực khác nhau. Kinh nghiệm cho thấy có những người có bằng cấp, ăn nói rất giỏi, lý luận vững chắc nhưng lại có đời sống nhân bản không cao lắm. Với những người “hữu tài mà vô đức”, ai sống với họ quả là một bất hạnh. Một người có tài mà không có đức là một mối họa cho xã hội nhiều hơn là một người vô đức nhưng bất tài.
Một người có học, có thể học biết nhiều để nói về Thiên Chúa, học biết những điều những người khác hiểu về Thiên Chúa. Tuy vậy, không phải tất cả những người có học đều là những người hiểu biết và gặp gỡ Thiên Chúa hơn những người ít học. Lời Chúa viết trong thư thứ nhất của thánh Yoan: “Ai yêu thương thì biết Thiên Chúa, ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu”. Một người có học thường nói giỏi về điều mình học, nhưng không hàm chứa sống điều đó hơn người khác. Một người học thần học, không luôn luôn hàm chứa người đó yêu mến Thiên Chúa hơn những người bình dân không được học nhiều về thần học; một người học về tâm lý, không luôn luôn hàm chứa người đó có cách cư xử đẹp lòng người hơn người không học tâm lý.
Biết và sống là hai lãnh vực khác nhau. Một người có thể biết hay nói giỏi nhưng lại sống rất dở. Một người có thể có bằng cấp thần học, nhưng lại “mất đức tin”. Một người có thể có tiếng là Kitô-hữu nhưng lại sống không giống như một Kitô-hữu: “không phải tất cả những kẻ nói Lạy Chúa Lạy Chúa là được vào nước Thiên Chúa, nhưng là kẻ làm theo ý Thiên Chúa.”
3. Hãy mang lấy ách của Ta
Có một số người cho rằng “là Kitô-hữu” là một bất lợi, vì họ phải giữ mười giới răn nên không được ăn trộm ăn cắp, không được lang chạ vợ chồng, phải đi lễ ngày Chúa Nhật, phải sống lương thiện, không được thù ghét nhưng phải sống yêu thương. Tuy nhiên, suy nghĩ của những người này không đúng, vì lối sống của Kitô-hữu là lối sống mang lại cho người ta hạnh phúc đích thực. Người ta không thể sống hạnh phúc, nếu người ta không sống theo lương tâm, không ăn ngay ở lành, không sống yêu thương.
Cái ách của Đức Yêsu, chính là lề luật của Thiên Chúa, là những điều Đức Yêsu dạy. Sống theo điều Đức Yêsu dạy, theo lề luật của Thiên Chúa, cũng đòi người ta phải hy sinh, phải chống lại những xu hướng bình thường của xác thịt. Tuy nhiên, khi làm như vậy, người ta sẽ sống bình an; những người sống bên cạnh người đó cũng cảm thấy an toàn hơn; và người ta sẽ hạnh phúc hơn.
Lý tưởng mỗi người, là chính Đức Yêsu Kitô. Đức Yêsu đã sống an bình, Ngài đã chỉ cho con người cách sống đem lại hạnh phúc đích thực. Lối sống của Ngài, làm con người sống hạnh phúc không chỉ ở đời sau, nhưng ngay ở đời này nữa. Lối sống của Ngài, không chỉ làm Ngài sống an bình hạnh phúc, nhưng giúp người khác sống an bình và hạnh phúc nữa.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo đạo, có là một gánh nặng đối với bạn không? Tại sao?
2. Đâu là điều tuyệt nhất của đạo đối với bạn?
3. Xin bạn so sánh cuộc sống của bạn và cuộc sống của Đức Yêsu về khía cạnh kinh tế, tương quan xã hội, cảm nghiệm hạnh phúc, và ao ước làm cho thế giới này tươi đẹp hơn.
13.Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Minh
“Thiên Chúa mặc khải mầu nhiệm Nước Trời cho những kẻ bé mọn”
I. Dẫn vào phụng vụ lời Chúa:
Sau khi khiển trách những thành ven biển hồ đã không tin Ngài vì cậy vào sự thông thái của mình, Chúa Giêsu lên tiếng tạ ơn và chúc tụng Chúa Cha đã mặc khải mầu nhiệm nước trời cho những kẻ bé mọn, tức là những người “nghèo trong tinh thần” mà Ngài đã nói trong bát phúc: những người tội lỗi, những kẻ ít học.
Ngài còn nói: “vì ý Cha muốn an bài như vậy”. Nghĩa là thái độ hoặc tin hoặc cứng tin mà Chúa Giêsu gặp chẳng phải là chuyện may rủi, cũng chẳng phải do tài năng hoặc bất tài của Ngài, mà là chương trình khôn ngoan của Thiên Chúa: Ngài luôn ưu ái những kẻ bé mọn và hạ bệ những hạng khôn ngoan thông thái tự cao.
Con người có thể khước từ Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa thì không bao giờ từ bỏ con người: Ngài luôn mời gọi con người trở về để lãnh nhận ân sủng và sự sống của Ngài. Thiên Chúa mời gọi mỗi người không phân biệt, nhưng để đáp trả con người có thể có một trong hai thái độ: thái độ của những kẻ bé mọn khiêm tốn để cho Chúa dạy dỗ; và thái độ của những kẻ thông thái tự cao, cho mình là nhóm nhỏ tách khỏi đại đa số dân chúng. Những kẻ thông thái được Chúa Giêsu trực tiếp nhắm đến trong Tin Mừng hôm nay là nhóm biệt phái đang đứng trong hàng lãnh đạo sinh hoạt Tôn Giáo và chống đối Chúa. Họ cho rằng chỉ cần am tường luật Môsê trong Kinh Thánh cũng như những tập tục truyền khẩu là con người có thể đến với Chúa: họ tự phụ mình biết Thiên Chúa, nhưng thực ra họ lìa xa Ngài.
Kinh Thánh, nhất là Tân ước hay đối lập kẻ nghèo hèn bé nhỏ với người giàu sang quyền thế, và người nghèo hèn bé mọn thường được đề cao. Chính Đức Maria trong bài ca “Magnificat” cũng đã thốt lên: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1,52-53).
II. Đức Giêsu hân hoan dâng lời tạ ơn và ca tụng Chúa Cha
Hôm nay, Chúa lại nói trong bài Tin Mừng: con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết mầu nhiệm nước trời, nhưng lại mạc khải cho những kẻ bé mọn (Mt 11,25).
Người bé mọn là người sống khiêm tốn đơn sơ chất phác, dễ dàng tin vào lời dạy dỗ khôn ngoan vì hứa hẹn thành tín của Thiên Chúa, không thắc mắc nghi nan, không kiêu hãnh tự mãn mà biết tìm tới chân lý và thuận phục ý Chúa.
Chúng ta cần trở nên những người bé mọn theo tinh thần Phúc âm, để cảm mến tin theo và sống hiệp thông với Thiên Chúa. Một con người khiêm tốn có thể có đức tin sâu xa hơn một nhà thông thái. Đức tin là một hồng ân cần được lãnh nhận hơn là kết quả của sưu tầm trí thức của con người. Thánh Têrêsa Avila, tuy không học hành nhiều, nhưng đã có kinh nghiệm sống động về Thiên Chúa và đã trình bày kinh nghiệm thiêng liêng của mình một cách tốt đẹp, đến nỗi đã được đặt làm tiến sĩ Hội thánh, vì giáo huấn của thánh nữ để lại là kho tàng thiêng liêng quí báu giúp mọi thành phần Giáo hội đến với mầu nhiệm Thiên Chúa.
Dĩ nhiên, ở đây Chúa Giêsu không có ý loại trừ những bậc khôn ngoan thông thái, nhưng chỉ có ý cảnh tỉnh những ai cậy dựa vào sự thông thái của họ mà tự mãn chối bỏ niềm tin vào Đức Kitô sẽ không gặp được Thiên Chúa, không thể đạt được tới sự hiệp thông với Thiên Chúa và được cứu rỗi.
Nói chung con đường Chúa Giêsu mạc khải để giúp con người đến với Thiên Chúa chính là tâm hồn đơn sơ khiêm tốn.
III. Đức Giêsu mời gọi lắng nghe sứ điệp của Người (c.28-30)
Một tư tưởng nữa của Tin mừng hôm nay đó là lời kêu gọi những kẻ đói khát, những ai mệt nhọc hãy đến với Ngài: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề hãy đến cùng Tôi, Tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” và “anh em hãy học với Tôi, vì Tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường.”
– Trong ngôn ngữ Thánh Kinh “gánh” chỉ lề luật.
– “Mang lấy ách” là một kiểu nói bóng của các Thầy Rabbi xưa quen dùng, hàm ý nhận ai làm Thầy.
– Ách và gánh của Chúa Giêsu là đạo lý Tin Mừng, đạo lý này bao gồm 3 điểm:
* Tin: Thụ giáo để trở thành môn đệ.
* Khiêm nhường: là thái độ của người môn đệ đối với Chúa.
* Hiền lành: là thái độ của người môn đệ đối với tha nhân.
– Học với Chúa Giêsu là học được tính hiền lành và khiêm tốn.
– Luật của Ngài là luật yêu thương.
– Bởi thế ai mang lấy ách của Ngài và học với Ngài thì tâm hồn người đó sẽ gặp được bình an.
Những kẻ vất vả mang gánh nặng mà Tin Mừng hôm nay nhắc đến được các nhà chú giải hiểu là những con người đơn sơ khiêm tốn, sẵn sàng để Thiên Chúa dạy dỗ hướng dẫn, như được nói đến trong đoạn Tin Mừng trước đó.
Tâm hồn họ đã sẵn sàng, giờ đây Chúa Giêsu mời gọi họ đến với Ngài để được Ngài nâng đỡ bổ sức cho, để Ngài giải thoát khỏi gánh nặng – Gánh nặng nào? Đó là gánh nặng của lề luật mà các nhà thông luật chất trên vai những con người đơn sơ, hèn mọn. Họ bó gánh nặng lên vai người khác, còn chính họ thì không muốn động ngón tay vào, như lời Chúa trách cứ thái độ giả hình của những người biệt phái, tinh thần vụ luật, vụ hình thức đã làm cho những vị lãnh đạo Do Thái giáo không còn có quả tim thông cảm nữa.
Chúa Giêsu mời gọi dân chúng đến với Ngài để được Ngài giải thoát khỏi gánh nặng và được nâng đỡ bổ sức. Chống lại những người biệt phái, Chúa Giêsu đề ra một cái ách mới cho những ai chấp nhận Ngài. Đây chẳng phải là không còn lề luật, bởi vì giáo huấn của Chúa Giêsu đòi hỏi không thua gì lề luật của Môsê. Nhưng điều làm cho luật của Chúa trở thành êm ái đó là tình yêu, và những kẻ tuân giữ luật Chúa được sức mạnh tinh thần nâng đỡ an ủi, đó là sức mạnh của Thánh Thần mà Ngài đã ban cho các môn đệ để họ tuân giữ luật Chúa, và như vậy luật Chúa trở nên nhẹ nhàng, dễ chu toàn.
Người tín hữu không lẻ loi một mình, không tự sức mình tuân giữ luật Chúa. Hàng ngày họ được nuôi dưỡng bằng chính Mình Máu Thánh Ngài và được ban cho tràn đầy Thánh Thần. Sống theo ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, họ sẽ cảm nghiệm được rằng đời sống đức tin với tất cả những hệ lụy, những đòi buộc của nó sẽ không còn là gánh nặng, mà là niềm tin và sức mạnh trong mọi biến cố, mọi hoàn cảnh cuộc đời.
Xin Chúa cho chúng con biết lắng nghe lời mời gọi đến với Chúa, tin tưởng vào Chúa và lấy tình yêu đáp trả tình yêu để “ách Chúa trở nên êm ái và gánh Chúa trở nên nhẹ nhàng cho chúng con”. Vì chỉ nơi Chúa, chúng con mới kín múc được niềm vui và sự bình an đích thực.
14.Sống theo tinh thần – Lm Minh Vận, CRM
Có cặp vợ chồng trẻ kia thường hay gây lộn với nhau theo tính nóng nảy của bản năng tự nhiên. Một hôm, người vợ không còn cầm hãm được lòng tức bực muốn trả thù, nên cô ta đã lên xe hơi, rồ ga lái một vòng lả lướt trêu ngươi trước xe chồng, khiến anh ta nổi xung cũng rồ máy tông luôn vào xe vợ cho hả dạ. Thế là hai chiếc xe mới của vợ, cũ của chồng bị tan tành; đồng thời, chẳng may lại còn đâm luôn vào xe hơi của một ông bạn Mỹ ở nhà bên cạnh nữa. Kết quả, anh chồng bị cảnh sát tống giam và bị tòa kết án là tội cố sát.
I. SỐNG THEO XÁC THỊT SẼ PHẢI CHẾT
Theo y khoa ngày nay những người mắc các chứng bệnh sau đây: Nghiện thuốc hút bị ung thư phổi. Say sưa bia rượu nhậu nhẹt quá trớn bị bệnh đau dạ dầy, lở loét, hư thận, da vàng. Ăn đồ ngọt quá nhiều cũng bị bệnh tiểu đường. Nghiện xì ke ma túy sẽ bị bệnh thần kinh, khiến con người mất quân bình, mát mát, khùng khùng. Nóng giận khiến con người mất khôn, làm tan cửa nát nhà, gia đình ly tán. Dâm ô xác thịt mê đắm sinh bệnh Aids, là thứ bệnh ghê tởm vô phương chữa trị của thời đại hôm nay, chỉ còn đợi thần chết. Đó cũng là thứ tội dân thành Sodoma và Gomora xưa, bị Chúa sai Thiên Sứ khiến lửa bởi trời xuống thiêu rụi bọn họ. Đúng theo lời Thánh Phaolô: “Nếu anh em sống theo xác thịt, anh em sẽ phải chết” (Rom 8:13).
II. SỐNG THEO TINH THẦN SẼ ĐƯỢC VĨNH SINH
Còn chúng ta là con cái Chúa, Thánh Phaolô dạy: “Chúng ta không phải là những kẻ mắc nợ xác thịt, để sống theo tính hư nết xấu của xác thịt” (xem Rom 8). Nhưng: “Nhờ tinh thần, chúng ta đã giết chết được các hành động lố lăng của xác thịt, của đam mê, của thú tính và dục vọng lăng loàn” (xem Rom 13).
Thực nghiệm trong cuộc sống, nếu chúng ta được giải thoát khỏi những đam mê của thân xác, khỏi những ràng buộc của tội lỗi, khỏi những kìm hãm của dục vọng; chúng ta sẽ thấy lương tâm an vui, tâm hồn thoái mái; được hưởng an bình hạnh phúc và hoan lạc vô tận… tâm hồn chúng ta sẽ vươn lên cao cả, trải rộng bao la, hiếu hòa, an vui với mọi người.
Bao lâu bị những đam mê vây bọc, chúng ta thấy con người trở nên tối tăm, trí khôn ra u mê, lương tâm mất sáng suốt để phân biệt phải trái, khiến linh hồn trở thành nô lệ cho thân xác, thân xác trở thành bày tôi cho thú tính, thú tính xúi dục làm những điều xằng bật đồi tệ, mất hết cả nhân phẩm, hạ thấp và làm ô danh cho chức vị, tuổi tác… Vua Salomon là một vị vua được Chúa ban ơn khôn ngoan nhất trần gian đến nỗi đã được Chúa khen: “Chưa hề có ai được trí khôn ngoan như ông và sau này cũng sẽ không có ai hơn ông”. Thế mà chỉ vì mê sắc dục, chiều theo thú tính, vua đã trở nên đồi bại, thờ ngẫu tượng, xúc phạm tới Thiên Chúa. Như vậy, cần phải thoát ly những đam mê thú tính, những dục vọng lăng loàn, chúng ta sẽ được tự do tận hưởng hạnh phúc chân thật của Chúa.
III. HẠNH PHÚC THẬT CỦA CON CÁI CHÚA
Là con cái yêu dấu, sống theo tinh thần Chúa, chúng ta sẽ thấy mình vượt lên trên trần thế, thưởng nếm được an bình hạnh phúc và hương vị siêu nhiên Thiên Đàng ngay trên trần gian này, vì chính Chúa sẽ ban cho chúng ta được hiểu biết và cảm nghiệm được chính Chúa là Nguồn Hạnh Phúc chân thật. Chúa Giêsu đã tỏ cho chúng ta thấy hạnh phúc cao cả vĩ đại đó qua lời nguyện Ngài dâng lên Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa trời đất, Con ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho những bậc hiền triết, khôn ngoan thông thái hiểu biết những mầu nhiệm đó, mà lại mặc khải cho những kẻ khiêm nhu bé mọn” (Mt 11:25).
Nhưng điều kiện để đạt được hạnh phúc đó, Chúa kêu gọi chúng ta: “Hãy đến với Cha, vì Cha nhân từ và khiêm nhu, các con sẽ được an bình tâm hồn” (Mt 11:29). Nhân từ và khiêm nhu là điều kiện Chúa đòi, để chúng ta được hưởng hạnh phúc chân thật. Nhân từ và khiêm nhu là bài học Chúa truyền chúng ta phải học nơi Chúa. Nếu bài học đó khó khăn, gương mẫu đó khó noi theo bắt chước thì Chúa mới kêu gọi chúng ta: “Hãy đến với Cha, hỡi các con là những kẻ gánh vác nặng nề, Cha sẽ bổ sức cho các con. Các con hãy mang lấy ách của Cha, hãy học cùng Cha vì Cha nhân từ và khiêm nhu thành tâm, rồi các con sẽ chiếm được sự an bình chân thật trong tâm hồn; vì ách của Cha thì êm ái và gánh của Cha thì nhẹ nhàng” (Mt 11:28-30). Nếu chúng ta biết học nơi Chúa bài học khiêm nhu và sống theo mẫu gương khiêm nhu của Chúa, chúng ta sẽ được nếm hưởng nguồn an bình hạnh phúc ngay trên trần gian này, và còn được sự sống đời đời trong hạnh phúc vĩnh cửu.
KẾT LUẬN
Xin Mẹ giúp chúng con biết học nơi Chúa bài học khiêm nhu và sống theo tinh thần khiêm nhu của Chúa như Mẹ, để Chúa cũng được hài lòng với chúng con như đã hài lòng với Mẹ, và được cùng Mẹ tận hưởng Chúa là chính nguồn hạnh phúc chân thật và vĩnh cửu.
15.Mối liên lạc giữa trời và đất
(Suy niệm của Br Nguyễn Kim Thanh, CRM)
Tại một bệnh viện, một bé gái được đưa vào phòng giải phẫu. Sau khi chuẩn bị dụng cụ phẫu thuật đầy đủ, trước khi chính thức bắt tay vào việc. Bác sĩ nói với cháu bé: “Công việc làm cho cháu đầu tiên bây giờ là phải chích thuốc để cháu ngủ mê”. Cháu gái dịu dàng thưa bác sỹ: “Cháu xin phép bác sỹ trước khi cháu đi ngủ, cháu cần ít phút cầu nguyện với Chúa của cháu, vì đây là thói quen mà má cháu đã dạy cháu phải cầu nguyện trước lúc đi ngủ”. Thế rồi em bé quỳ gối lên, cầu nguyện một cách thật sốt sắng, cầu nguyện xong, em nói với bác sỹ:”Thưa bác sỹ, bây giờ cháu đi ngủ được rồi”.
Sau đó, chính lúc em bé được giải phẫu thì vị bác sỹ cũng trong tư thế tâm sự và cầu nguyện với Thiên Chúa của ông, đây cũng là lần đầu tiên ông cầu nguyện sau hơn 30 năm tỏ ra lạnh nhạt và thờ ơ với Chúa chẳng khác một người vô đạo.
Cầu nguyện chính là sức mạnh, là mối giây liên lạc mật thiết giữa Thiên Chúa và chúng ta. Sự đơn sơ, chân thành qua việc cầu nguyện của cháu bé bệnh nhân đã không chỉ đem lại cho em niềm vững tin chịu đựng, chấp nhận đau khổ, mà còn phát sáng niềm tin, thu hút đánh động lòng người khác trở lại sau một thời gian dài” lãng quên” Thiên Chúa.
Kinh nguyện chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống Chúa Cứu Thế. Thánh Kinh đã nhiều lần ghi lại. Thánh sử Luca đề cập đến 11 lần. Thánh Matthêu kể đến 3 lần, Thánh Maccô và Gioan ghi lại 4 lần việc Chúa cầu nguyện. Nếu chúng ta so sánh việc cầu nguyện của Chúa Kitô với loài người chúng ta, thì có chút khác nhau. Khác nhau ở chỗ là khi Chúa cầu nguyện không có tâm tình sám hối, tâm tình nhận mình là hèn hạ, bất lực, vì Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa. Mà tâm tình cầu nguyện của Chúa là tạ ơn, ngợi khen qua công trình cứu độ của Ngài được uỷ thác bởi Chúa Cha.
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy việc cầu nguyện của Chúa Kitô. Thánh Matthêu ghi lại thật chi tiết: “Vâng lạy Cha, ý Cha muốn như vậy, mọi sự đã được Cha trao phó cho Con, không ai biết Cha trừ ra Con, không ai biết Con trừ Cha và những kẻ Cha muốn mạc khải cho”.
Chúa Giêsu ngước mặt lên trời và đối thoại với Cha trên trời. Một cuộc đối thoại thần linh giữa Cha và Con. Cha Con thật sự hiện diện, trao đổi, lắng nghe, luận bàn. So sánh cuộc sống thường hằng trong ngành bưu chính viễn thông, chúng ta thấy mỗi ngày, không biết cơ man nào là thư từ được gởi đi cũng như nhận vào. Những cuộc trao đổi chuyện trò trên điện thoại cũng như những hình thức khác qua mạng thông tin đã đem lại cho con người biết bao là tiện lợi. Trên lãnh vực tinh thần cũng thế, cầu nguyện chính là đối thoại giữa Thiên Chúa và loài người, giữa trời và đất. Nguyên nhân cầu nguyện chính là một nhu cầu, được phát xuất từ tình yêu Thiên Chúa là chính. Cầu nguyện cũng đôi khi còn là một lời cầu cứu van xin. Hiệu quả sau khi cầu nguyện, người thành tâm sẽ có một tâm hồn an bình, biết tin tưởng và phó thác. Đôi lúc niềm đau và sự hụt hẫng vẫn còn trong thực tế, nhưng sau khi cầu nguyện họ sẽ trở nên kiên vững và biết chấp nhận. Giả sử như chúng ta vô ý, bất cẩn bị gãy chân trong tai nạn xe hơi, chúng ta rất lo lắng khi đang một mình trong hiện trường tai nạn. Sự đau đớn càng tăng khi nhận thấy máu chưa được cầm, có thể đưa đến mất mạng. Thế rồi sau khi được băng bó và chữa trị, chúng ta sẽ cảm thấy an tâm ngay khi biết sự thật tình trạng thương tích và nhất là sự còn sống của mình. Cầu nguyện cũng tương tự như thế, được Thiên Chúa quan tâm và cứu vớt khiến ta trở nên an tâm và tin tưởng.
Cầu nguyện còn là một mạc khải của trời cao. Mạc khải này chỉ phát đúng sóng và trao đúng nguồn cho ai muốn nhận. ” Cha đã dấu những bậc khôn ngoan thông thái điều này, nhưng lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha (Mt 11,25-26).
“Kẻ bé mọn” chính là sắc phục riêng làm cho ” Vị Chỉ Huy” của họ nhận ra họ trong trận chiến. Vậy kẻ bé mọn là ai?
Họ chính là những hạng đói khó được no đầy ơn phúc.
Họ là chú chiên đi lạc được chủ tìm về hội tụ với bầy đàn.
Họ là những diễn viên trên sân khấu trần gian, mà vai diễn của họ gắn liền với cuộc sống.
Đại diện họ là người mang tên Laziarô lở loét, đói meo, mon men đến bàn ăn của người phú hộ nhà giầu để được sự nguyền rủa, chửi mắng chứ đâu được no bụng dầu chỉ là xương thừa, canh cặn! Họ cũng còn là những người núp ẩn dưới hình ảnh người phụ nữ ngoại tình bị cộng đoàn lôi ra ngoài ném đá. Họ cũng là đứa con hoang đàng phung phá hết gia tài của cha già, nhưng đã biết hồi tâm, sám hối trở về với cha.Họ cũng là dáng dấp của kẻ tội lỗi nhưng sau khi nhận ra thì quyết tâm chừa cải như Madalena, như người trộm lành cùng đóng đinh với Đức Giêsu trên thập giá… Và còn rất nhiều những kẻ bé mọn khác chúng ta có thể gặp họ cách thường xuyên trong cuộc sống thường hằng. Nhưng, chỉ có điều chúng ta tìm gặp họ để làm gì?
Tìm gặp họ để chúng ta cảm thông như Đức Kitô đã cảm thông với người trộm lành trên thập tự giá.
Tìm gặp họ để cho họ thực sự trở về như trường hợp của ông Giakêu đã trở về với Chúa sau khi được Chúa đến nhà thăm ông.
Tìm gặp họ để họ được trở lại con đường ánh sáng mà họ đang tránh lẩn như trường hợp của ông Sao lô tức Thánh Phaolô trở lại sau này.
Tìm gặp họ ở những nơi, những chốn mà tình đời cũng như trường đời cho là trái nghịch, dở hơi. Đó lại là những yêu sách của tình yêu là đem yêu thương vào nơi oán thù, đem hoà bình vào nơi chinh chiến…
Tất cả những điều trên một khi nhận ra được tính xác thực của chúng qua cầu nguyện, Thiên Chúa sẽ tăng thiện chí cho những ai thành tâm, rồi cứ như cơn gió tạt vào đám cháy cũng sẽ thiêu rụi tất cả những phiền toái, những phức tạp, những nguy hiểm để thực hành đức ái. Người biết cầu nguyện cũng là người biết nhận ra tình yêu Thiên Chúa thể hiện qua cuộc sống thực tế thường ngày.
Chúng ta hãy cùng nhìn xem, một người bị cụt cả hai chân, hầu như cưa hết cả hai bắp đùi, hằng ngày ngồi trên một tấm gỗ, tấm gỗ này được đóng phía dưới năm bánh xe nhỏ. Phía trước mặt đặt một cái nón cói rách đang gò lưng bò về phía trước giữa phố chợ đông người hầu để kiếm sống qua ngày nhờ lòng hảo tâm bố thí của mọi người. Vậy mỗi khi gặp cảnh này, chúng ta có thái độ thế nào? Có khi nào chúng ta vẫn tỉnh bơ như không có gì xảy ra, vì chúng ta cho rằng đây là việc tất nhiên, xui ai, nấy chịu? Chúng ta chỉ có được sự thương cảm thật sự khi việc cầu nguyện giữa ta và Thiên Chúa gắn liền nhau cả trong tư tưởng và hành động.
Cầu nguyện là mối giây liên kết giữa Chúa và loài người. Thực hành cầu nguyện là loài người biết yêu thương nhau, chia sẻ và thông cảm cho nhau như chính Chúa đã làm cho loài người.
Lạy Mẹ Maria, chúng con khẩn nài Mẹ ban cho chúng con tình mến của Mẹ trong sự hợp nhất và mật thiết kết hợp với Thiên Chúa. Mẹ đã có một đời sống cầu nguyện vững vàng. Trái tim Mẹ luôn mãi thuộc về chỉ một mình Thiên Chúa. Và kết quả của sự cầu nguyện liên lỷ trong Mẹ là một hành trình đức ái yêu thương. Việc Mẹ đến thăm Bà Isave là một hiệu quả của cầu nguyện. Xin Mẹ ban cho chúng con mau chóng trở nên giống Mẹ trong cầu nguyện và thực hành việc cầu nguyện.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúng ta thường tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, phép tắc vô cùng. Khi tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, ta thường nghĩ đến một Thiên Chúa oai nghi bệ vệ, cao sang quyền thế, xa cách. Ta không nghĩ hay không dám nghĩ rằng Thiên Chúa thật rất khiêm nhường. Thực sự Thiên Chúa rất khiêm nhường.
Vì khiêm nhường nên Thiên Chúa ẩn mình trong vô hình. Ở đời, một người quyền thế chiếm rất nhiều không gian của người khác. Người quyền thế ở nhà lớn, ngồi ghế rộng. Sự hiện diện của họ khiến mọi người khép nép, nói năng mất tự nhiên, đi đứng phải nhìn trước nhìn sau. Nếu bây giờ Thiên Chúa hiện hình đứng giữa chúng ta. Chắc hẳn chúng ta chẳng thể ngồi thoải mái như bây giờ. Trái lại chúng ta sẽ quì sụp xuống, gục đầu, đấm ngực ăn năn. Nhưng Thiên Chúa đã che giấu dung nhan. Người ẩn mình trong vô hình để cho ta được tự do. Người nhường không gian cho con người. Người tự trở nên một Đấng nghèo hèn, bé nhỏ đến độ bị người đời quên lãng.
Vì khiêm nhường nên Thiên Chúa im lặng. Trong xã hội, người uy quyền thường nói nhiều. Người nhỏ phải nghe người lớn, người nhỏ có muốn nói cũng bị tiếng người lớn át đi. Thiên Chúa đã tự trở nên bé nhỏ. Người im lặng nhường lời cho con người. Người lắng nghe con người cả khi họ chỉ trích, chống đối, lên án Người. Người trở nên một Đấng bé nhỏ nghèo hèn, khép nép, im lặng trong thế giới ồn ào của loài người.
Vì khiêm nhường nên Thiên Chúa đã cúi xuống thân phận con người. Con người chẳng là gì mà Chúa vẫn thương. Người còn cúi xuống sâu hơn nữa trước những kẻ tội lỗi để nâng họ lên. Khi người ta cúi xuống trước một kẻ cao trọng, sự khiêm nhường ấy đáng nghi ngờ. Nhưng khi người ta cúi xuống trước một thân phận tội lỗi, nghèo hèn, sự khiêm nhường ấy rất chân thực.
Chính sự khiêm nhường thẳm sâu làm chứng quyền năng vô biên của Thiên Chúa. Thông thường ở đời, quyền năng là để chiến thắng, để chế ngự, để đè bẹp. Ai chống lại quyền lực, quyền lực sẽ nghiền nát người ấy. Trái lại, nơi Thiên Chúa, quyền năng là để chịu thua, để yêu thương, để tha thứ. Sức mạnh không ở nơi quyền lực. Quyền lực bộc phát là quyền lực không tự kiềm chế được. Trái lại, khiêm nhường là chế ngự được sức mạnh của mình. Đó mới chính là quyền năng thực sự mạnh mẽ.
Thiên Chúa vô hình. Có lẽ ta sẽ khó mà hiểu biết sự khiêm nhường của Thiên Chúa, nếu ta không nhìn thấy sự khiêm nhường của Chúa Giêsu.
Cuộc đời Chúa Giêsu là một cuộc đời khiêm nhường. Vì khiêm nhường nên Ngài không ngừng đi xuống. Từ trời cao Người đã hạ mình xuống thế. Từ thân phận là Thiên Chúa Người đã hạ mình xuống làm một người bình thường. Là Thiên Chúa cao sang, Người đã tự nguyện xuống làm một người dân dã nghèo hèn. Là thánh thiện vô cùng, Người đã tự nhận lấy thân phận tội đồ. Là Đấng hằng sống, Người đã tự nguyện chết đi. Suốt cuộc đời, Người đã không ngừng cúi xuống những thân phận tăm tối, nghèo hèn, tội lỗi, bị loại trừ. Và một cử chỉ không thể nào quên là trong bữa tiệc ly, Người đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Người đã hạ mình xuống tận cùng, không còn có thể xuống hơn được nữa.
Vì Thiên Chúa khiêm nhường luôn tìm đường đi xuống, nên những ai kiêu căng tìm nâng mình lên sẽ chẳng bao giờ gặp được Người. Thiên Chúa khiêm nhường nên chỉ ai khiêm nhường nhỏ bé mới gặp được Người.
Hôm nay Chúa Giêsu tha thiết mời gọi: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Hãy ghi danh vào học trường Chúa Giêsu. Hãy học bài học khiêm nhường. Hãy học bài học Giêsu. Hãy học với Thầy Giêsu. Hãy bước theo Thầy Giêsu xuống những bậc thang khiêm nhường thẳm sâu. Ở bậc thang cuối cùng, Thiên Chúa đang chờ đợi ta, ta sẽ gặp được Người. Ta sẽ kết hiệp với Người. Ta sẽ rũ sạch mọi vất vả lo âu. Ta sẽ được bình an.
Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Xin uốn lòng con nên giống như trái tim Chúa. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1. Những dấu nào cho thấy sự khiêm nhường của Chúa?
2. Có quyền ăn nói, nhưng im lặng nhường lời cho người khác. Có vị thế cao, nhưng ẩn mình nhường chỗ cho người khác. Có dễ không?
3. Sức mạnh bùng nổ trên người khác. Và sức mạnh chế ngự chính mình. Đàng nào mạnh hơn?
4. Thiên Chúa tuyệt đối khiêm nhường. Khám phá này có tác động gì trên bạn không?
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Trong tập “Những ngụ ngôn của Ê-xốp”có một câu chuyện ngụ ngôn kể về cuộc tranh cãi giữa mặt trời và gió. Hai nguồn năng lượng này cãi nhau xem ai mạnh hơn ai.
Ngày nọ, một cơ hội xảy đến giúp cả hai dàn xếp được cuộc tranh cãi. Hôm đó, có một người mặc áo choàng đang đi trên một con đường quê hoang vắng. Mặt trời liền thách thức với gió: “Ai làm cho người ấy cởi bỏ chiếc áo choàng ra mau hơn thì người ấy là người thắng cuộc”. Gió ta chẳng những đồng ý mà con quyết định ra tay trước. Chàng gió bèn thổi tới tập, nhưng càng thổi thì người kia càng giữ chặt lấy chiếc áo choàng, sợ nó tung bay mất. Cuối cùng, kiệt sức, gió ta đành phải chịu thua. Lúc đó mặt trời mới ra tay. Ông mặt trời chiếu toả hết vinh quang của mình ra. Chỉ trong mấy phút, người nọ nóng quá phải cởi bỏ chiếc áo choàng ra.
Cuối câu chuyện ngụ ngôn, Ê-xốp bàn luận: “Bạn có thể thành công nhờ sự dịu hiền dễ thương hơn là nhờ bạo lực”.
Anh chị em thân mến,
Trong một thế giới mà những quy luật “mạnh được yếu thua”, “lý của kẻ mạnh bao giờ cũng thắng”, hoặc “được làm vua thua làm giặc”, gần như là tất yếu và phổ biến, thì lời giảng dạy của Chúa Giêsu về đức hiền lành và khiêm nhường, quả thực rất khó được chấp nhận và xác tín, nếu không muốn nói là chướng tai và ngược đời.
Hôm nay, Lời Chúa vẫn tiếp tục mời gọi chúng ta: “Hãy học cùng Thầy vì Thầy có lòng hiền hậu và khiêm nhường”. Hiền lành và khiêm nhường là hai đức tính đặc biệt nhất ở nơi Chúa Giêsu. Thánh Phaolô đã nói: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế, Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8). Phải chăng đó là một sự khiêm nhường tột cùng của một Thiên Chúa làm người; hạ mình xuống rốt chót mọi người, lãnh nhận cái chết của tên nô lệ bị đóng đinh thập giá.
Trong Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu còn cho biết: những người có tâm hồn bé nhỏ, khiêm nhường là những người được Chúa yêu thương đặc biệt và được Chúa tỏ ra cho biết những Mầu nhiệm Nước Trời. Vì chỉ những ai có tâm hồn bé nhỏ mới có tinh thần và trái tim rộng mở đón nhận Lời Chúa. trong lời cảm tạ Chúa Cha, Chúa Giêsu đã nói: “Lạy Cha, Con ngợi khen Cha vì đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết mầu nhiệm Nước Trời, mà lại mạc khải cho người bé mọn”.
Nhưng ai là những kẻ bé mọn?
Theo Tin Mừng Thánh Matthêu, những kẻ bé mọn là những người nghèo khổ, những người yếu thế, những kẻ đang vất vả và phải mang gánh nặng. Trong Do Thái giáo, cái ách hay là gánh nặng thường là hình ảnh của những luật lệ. Các thầy thông luật tự cho mình là khôn ngoan thông thái, thường hay bày vẽ ra đủ thứ luật lệ mà những kẻ đơn sơ, bé mọn dù cố gắng đến đâu cũng chẳng thể nào tuân giữ trọn vẹn được. Làm sao đầu óc đơn sơ chất phác của họ phân biệt nổi cái gì chính yếu, cái gì thứ yếu trong những luật lệ chi li lắt léo mà đầu óc mấy ông Pharisêu, những kẻ có tinh thần nệ luật, chỉ biết sống nô lệ, như cái máy, đã chỉ có khả năng là giăng lưới gài bẫy, khiến những kẻ đơn sơ chất phác không thể nào lọt vào được bên trong cái thế giới thánh thiêng cao cả mà họ đã dựng lên. Chúa Giêsu không thể chấp nhận một thứ vương quốc của Thiên Chúa chỉ dành riêng cho những kẻ khôn ngoan thông thái và những kẻ đạo đức giả chỉ biết cậy vào thành tích giữ luật của mình. Ngài đã đến như một người nghèo sống giữa người nghèo và loan báo Tin Mừng cho người nghèo. Nước Trời mà Ngài loan báo là một vương quốc mở ra cho những người bé mọn, nghèo hèn, nghèo về thể chất đã đành, nhưng cũng nghèo về tinh thần nữa, nghĩa là những người tội lỗi.
Nhưng Chúa Giêsu không phải là người chủ trương vô luật lệ. Ngài cũng có những đòi hỏi của Ngài. Nhưng luật lệ của Ngài là “cái ách êm ái”, “cái gánh nhẹ nhàng”. Vì ách đó, gánh đó chính là lòng yêu thương. Lòng yêu thương này Ngài mời gọi chúng ta cùng chia sẻ với Ngài. Nhưng để có thể yêu thương, con người phải biết sống hiền từ và khiêm tốn. Bởi vì kẻ kiêu ngạo không thể biết yêu thương: họ chỉ biết chiếm đoạt và thống trị. Họ cũng không thể hiền từ với tha nhân, trái lại, luôn luôn là những kẻ độc ác.
Thưa anh chị em,
Cuộc đời của Chúa Giêsu thật đơn sơ giản dị. Ngài sống giữa loài người như một người anh em nhỏ bé nghèo hèn, không thích giàu sang, chẳng muốn dùng quyền để thống trị và cũng chẳng tỏ ra khinh khi chê ghét một người nào, cho dù là kẻ tội lỗi. Trái lại Ngài đã đặc biệt ưu ái những người này, tới mức bị thiên hạ dị nghị, coi Ngài là bạn thân của những người tội lỗi. Sở dĩ như thế là vì chân lý Ngài mặc khải không phải là thứ chân lý trừu tượng cao siêu mà những bậc khôn ngoan thông thái của trần gian ưa suy luận, nhưng chân lý của Chúa là chân lý của tình thương mà tình thương là ngôn ngữ mà cả trẻ thơ măng sữa cũng hiểu được.
Nhân loại chúng ta có quá nhiều những nhà bác học, những nhà hiền triết thông hiểu những điều cao siêu huyền bí. Và trong Giáo Hội chúng ta cũng không thiếu những bậc khôn ngoan thông thái, nhưng có lẽ chúng ta hơn bao giờ hết lại cần đến thứ ngôn ngữ giản dị nhất, đó là tình thương, một thứ ngôn ngữ có khả năng tuyệt vời để mặc khải chân lý của Chúa, bởi vì Thiên Chúa là tình thương và chỉ có ai yêu thương mới biết Thiên Chúa, còn ai không yêu thương thì không biết Ngài. Mà đã không biết Thiên Chúa thì làm thế nào có thể rao giảng hay làm chứng về Ngài được?
Là con cái của Chúa và là anh chị em của nhau, chúng ta hãy lấy tình thương, lòng hiền hoà mà đối xử với nhau, thay vì tàn nhẫn, xâu xé lẫn nhau. Hãy khiêm tốn phục vụ nhau, thay vì tự tôn, tự phụ mà đè đầu cỡi cổ người khác. Chính tình yêu làm cho con người trở nên đơn sơ, hiền hoà và khiêm tốn. Cũng chính tình yêu làm cho con người sẵn sàng nâng đỡ gánh nặng cho người khác, hơn làm khổ cho người mình yêu. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu, Đấng là hiện thân của chân lý tình thương lại sống đơn sơ, hiền từ, khiêm tốn và đã mời gọi chúng ta hãy đến học với Ngài.
Là Kitô hữu, chúng ta tin rằng sự dịu hiền của Chúa Kitô và tình yêu của Ngài cuối cùng sẽ thắng được bạo lực và áp bức.
18.Ở hiền gặp lành – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Cha ông ta vẫn thường dạy con cái: “Ở hiền gặp lành”. Người ăn ở hiền lành, người sống có nhân, có nghĩa ắt trời sẽ ban cho nhiều phúc lộc dư tràn. Ngược lại, nếu sống ác nhân ác đức, trời sẽ quả báo những tai hoạ khó lường.
Thế nhưng, hiền lành có phải là “tĩnh tọa như Bụt”? Ai muốn làm gì thì làm hay không? Thưa không, mà hiền lành ở đây là biết sống đúng với vị trí của mình. Là biết sống đúng với phẩm giá của mình. Là biết tôn trọng phẩm giá của mình. Một con người có phẩm giá cao đẹp là một con người có lý trí đủ để suy biết điều hay lẽ phải, có ý chí vững mạnh để không bị sự gian ác làm hại bản thân và tha nhân, có sự chọn lựa đúng đắn và chuẩn mực về cái hay, cái đẹp, cái phải, cái trái. Là người phải biết phân biệt phải quấy. Biết nói không với điều ác. Không thỏa hiệp với gian tà. Vì “im lặng là đồng lõa” và hùa theo là “đồng phạm”. Người không có trí khôn, làm theo lời người khác thì không có tội, nhưng người hiền lành không thể làm chuyện ác, chuyện lừa dối để rồi đổ lỗi cho hoàn cảnh. Nếu đổ lỗi cho hoàn cảnh thì trên đời này ai phạm tội cũng vì hoàn cảnh mà ra. “Túng quá hóa liều”, “Nóng mất khôn”, “Tức nước vỡ bờ”. Trong một phân tích về lý do phạm tội của các tù nhân thì có 80% tội nhân cho rằng mình phạm tội là do hoàn cảnh. Như vậy, sự hiền lành là một thái độ sống dung hoà với mọi người. Sự hiền lành sẽ giúp cho con người hành xử theo tình, theo lý và theo lẽ phải nhưng với một thái độ ôn hoà với đầy lòng bác ái bao dung.
Hôm nay Chúa nói: “hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Sự hiền lành của Chúa không phải là đi tìm sự thỏa hiệp với thế gian. Chúa không im lặng trước sự dữ. Chúa đã từng lên án gắt gao thói giả hình và gian tà của những kẻ biệt phái. Chúa đã từng xô đuổi con buôn ra khỏi đền thờ. Chính vì những điều Chúa làm, những lời Chúa nói đã ảnh hưởng đến miếng cơm manh áo, đến địa vị, chỗ đứng của các biệt phái mà người ta tìm cách giết Chúa. Sự hiền lành của Chúa là vì công lý mà chịu nhiều thiệt thòi không kháng cự. Vì dám nói sự thật mà phải chết nhục nhã trên cây thập giá, nhưng Ngài không oán hận, và còn xin cùng Chúa Cha tha cho họ vì họ không biết việc họ làm. Chúa đấu tranh nhưng bất bạo động, vì “ai dùng gươm sẽ chết vì gươm”, “oán báo oán, oán chập chùng” và còn tha thứ cho sự xúc phạm của tha nhân không chỉ “7 lần mà là 70 lần bảy”.
Trong tám mối phúc, Chúa đã chúc phúc những cho ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nườc Trời là của họ. Như thế hiền lành ở đây là sống thật và làm chứng cho sự thật. Không nhượng bộ, không thỏa hiệp với dối gian. Cho dù vì lẽ công chính mà mình bị bách hại, bị thiệt thòi vẫn chấp nhận, vì phần thưởng của chúng ta là Nước trời.
Sự hiền lành của Chúa còn hệ tại ở sự cảm thông với lỗi lầm của người khác. Không thành kiến đối với những người bị xã hội ruồng bỏ. Ngài yêu thương họ. Ngài đến để đối thoại với họ. Ngài mở cho họ một con đường mới. Ngài giúp họ làm lại cuộc đời như Madalena, như Giakêu, hay như người thiếu phụ bên bờ giếng Giacóp.
Sự hiền lành thường đi song song với khiêm tốn. Hiền lành để tha nhân dễ gần chúng ta và khiêm tốn để ta dễ hòa đồng với tha nhân. Tuy hai nhưng là một mục đích. Tạo cơ hội cho chúng ta đến với tha nhân và tha nhân đến với ta. Kẻ kiêu căng thường phân loại để chơi. Người khiêm nhường thì đối xử mọi người như nhau. Người hiền lành ai cũng muốn tới gần. Kẻ gian ác ai cũng chạy xa. Chúa Giêsu Ngài hiền lành và khiêm nhường nên ai cũng có thể tiếp xúc với Ngài, và Ngài cũng có thể gặp gỡ trao đổi với mọi người. Từ em bé đến người già. Từ người giầu có đến kẻ hèn. Từ người công chính đến tội lỗi.
Xin Chúa giúp chúng ta biết học nơi trái tim yêu thương của Chúa: “sự hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Ngài không ở trên cao nhưng tự hạ mặc lấy thân phận con người. Ngài còn dạy chúng ta bài học khiêm tốn khi quỳ gối rửa chân cho các môn đệ. Một cử chỉ khiêm tốn đến nỗi Phêrô đã bộc trực thốt lên: “Không đời nào Thầy lại rửa chân cho con sao?”. Đó là một sự tự hạ không ủy mị hay luồn cúi mà là bài giáo huấn sống động về tinh thần hy sinh phục vụ lẫn nhau. Ngài đã dạy chúng ta hãy sống đúng với thân phận con người là lệ thuộc vào Chúa. Ngài đã dạy chúng ta hãy hạ mình để sống hòa hợp với tha nhân. Đừng tự cao tự đại để gạt Thiên Chúa ra bên ngoài như Adam – Evà năm xưa chỉ dẫn tới diệt vong. Đừng tự cao tự đại đến nỗi đè bẹp người khác để mình được tôn vinh. Đừng khinh bỉ người tội lỗi, bất hạnh nhưng yêu thương và tôn trọng họ. Và trên hết, hãy mang lấy tâm hồn trẻ thơ để luôn đơn sơ và bé nhỏ trước mặt Chúa, trước mặt tha nhân. Vì sự đơn sơ và bé nhỏ là dấu chỉ đặc thù của sự hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Đây cũng là phương thế để chúng ta đón nhận mạc khải Nước Trời và đón nhận tình thương của Chúa tuôn đổ xuống trên cuộc đời chúng ta. Amen.
19.Dịu hiền – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Truyện kể: Thánh Jean Vianney, lúc còn là chủng sinh học hành rất chậm. Ngày kia, một giáo sư thần học thừa lệnh Đức giám mục, đến khảo sát Vianney xem có đủ khả năng học vấn để tiến tới chức linh mục không. Vianney không thể trả lời xuông sẻ câu hỏi nào cả. Vị giáo sư nổi nóng đập bàn nói: Vianney, anh dốt đặc như con lừa. Với một con lừa như anh, Giáo Hội hy vọng làm nên trò trống gì? Vianney khiêm tốn bình tĩnh trả lời: Thưa Thầy, ngày xưa Samson chỉ dùng một cái xương con lừa mà đánh bại 3 ngàn quân Philistin. Vậy với cả một con lừa này, Thiên Chúa không làm được việc gì sao?
Sách tiên tri Giacaria được xếp vào áp cuối của bộ sách Cựu Ước. Giacaria sinh sống tại Giêrusalem và thi hành sứ vụ tiên tri vào khoảng năm 520-518 trước Công nguyên. Với việc lên ngôi của Zerubbabel, dòng dõi vua Đavid, Thiên Chúa khai mở triều đại mới trong vinh quang và sang giầu cho Giêrusalem. Thiên Chúa muốn Zerubbabel và Joshua xây dựng lại Đền Thờ và lập lại hàng giáo sĩ giữ việc thờ phượng và dâng hương tại đó. Giacaria cũng là một trong những người Do-thái bị lưu đầy được trở về Giêrusalem. Ông cùng được dự phần trong nhóm các tiên tri Do-thái. Ông phấn chấn lòng dân về tin mừng của Đấng cứu độ: Đây Chúa phán: Hỡi thiếu nữ Sion, hãy nhảy mừng; hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy reo mừng: Nầy vua ngươi đến với ngươi. Người là Đấng công chính và là Đấng cứu độ. Người khiêm tốn ngồi trên lừa con của lừa mẹ (Zach 9, 9). Tiên báo về Đấng công chính ngồi trên lưng lừa con bước vào thành thánh Giêrusalem với lời tung hô vạn tuế. Con cái Sion tung hô nhảy mừng ca hát: Vạn tuế, tung hô Đấng nhân danh Chúa mà đến.
Người đời hãnh diện với danh vọng và quyền lực để cai trị nhân dân. Có nhiều người tự cao tự đại làm như họ sở hữu mọi gia sản trên đời. Sự khôn ngoan, tài trí, sức mạnh và cả sự sống đều là ân huệ được trao ban. Mỗi người có khả năng để phát triển tất cả kho tàng qúi báu được ẩn dấu và phú bẩm. Không có sự gì chúng ta sở hữu mà không do ơn trên ban cho. Cho dù có thông giỏi, quyền thế và uy lực, con người cũng không thể hiểu thấu chính mình và vũ trụ chung quanh. Chúa Giêsu Đấng trung gian vạn vật đã lên tiếng nói rằng: Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã dấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn (Mt 11, 25). Thiên Chúa mạc khải nước trời cho những tâm hồn đơn sơ và chân thành. Không phải cứ thông minh hiền triết là nắm giữ được chìa khóa của sự khôn ngoan. Sự khôn ngoan gắn liền với sự đơn sơ khiêm tốn.
Sau khi chịu chức linh mục, cha Jean Vianney vì nổi tiếng nhân đức, giáo dân các giáo họ lân cận tuôn đến tham dự thánh lễ, nghe giảng và xưng tội. Một cha sở kia tức giận vì tín hữu bỏ mình đến với cha Vianney. Ông cha này đã viết thơ nhục mạ cha Vianney. Cha Vianney nhận thơ, vội tìm tới xin cha sở kia tha lỗi và khẩn khoản xin cha sở kia giúp trình Đức giám mục đổi Vianney đi vùng khác hay tốt hơn cho nhập dòng nào đó để khỏi làm phiền các cha lân cận. Trước thái độ khiêm hạ đó, cha sở kia quì mọp xuống xin lỗi và từ đó chọn cha Vianney là cha linh hướng.
Hãy tìm học với Chúa Kitô: Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an (Mt 11, 29). Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa toàn năng toàn mỹ. Chúa cư ngụ giữa xã hội con người đầy tội lỗi, yếu đuối và mỏng dòn. Dù tình trạng con người xấu xa đến mức nào đi nữa, Chúa vẫn yêu thương, chữa lành và cứu độ. Chúa không loại trừ sự dơ dáy tanh hôi của bệnh tật và tội lỗi. Một Thiên Chúa tốt lành vô cùng lại phải đối đầu với sự tà tâm của con người. Chúa đã nhiều lần tranh luận, thuyết phục, răn dậy, sửa sai, hướng dẫn và dậy dỗ cả các Thượng tế, Tư tế, Biệt Phái, Luật sĩ, các Đầu mục các phái, các vị lãnh đạo và toàn dân. Với lòng thương xót tuyệt đối, ánh sáng của Chúa chiếu dọi vào từng tâm hồn. Chúa muốn chúng ta hãy học nơi Chúa sự dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng.
Trong khi loài người, gọi là đồng loại, thì phân biệt và cách biệt. Phân biệt chủng tộc, tôn giáo, văn hóa, ngôn ngữ, truyền thống, mầu da, sắc tộc, giầu nghèo, học thức, chức vị và muôn ngàn cách thế dị biệt. Hình như nhiều người luôn tìm cách đánh giá sự hơn thua và vinh nhục ở đời như là cùng đích. Dân tộc nào cũng muốn trội hơn. Người nào cũng muốn khoe tài, khoe của. Đâu mấy ai khoe sự khó nghèo, khiêm nhường hay hiền lành. Nếu cứ mải mê chạy đua tìm kiếm những triều thiên giả tạo, chúng ta sẽ bị chìm đắm trong vòng xoáy tục lụy trần đời. Biết rằng, sống là phải vươn lên và phấn đấu không ngừng. Cho dù đứng trong bất cứ địa vị nào trong xã hội, chúng ta cũng chỉ là một con người đầy khuyết điểm và yếu đuối. Đức Giáo Hoàng Phanxicô, đấng kế vị thánh Phêrô, đã tiếp nhận được bài học qúi giá của sự dịu hiền và khiêm hạ. Từng việc cụ thể ngài thực hiện trong những ngày tháng qua đã làm nổi bật sứ vụ của đấng thay mặt Chúa. Đến để phục vụ, chứ không phải để được phục vụ.
Chúa Giêsu là mẫu gương tuyệt đối cho mọi người trong mọi thời. Là môn đệ của Chúa, chúng ta cần suy tư sâu lắng tất cả những lời chỉ dậy và hành động gương sáng của Chúa. Chúa giảng về sự tha thứ, thương xót, bác ái, khó nghèo, trong sạch, hiền lành, khiêm nhường, chịu đựng, hy sinh và ngay cả chết cho bạn hữu. Chúa đã giảng và đã thực hành. Trong khi chúng ta thích khoe mẽ, nói nhiều mà chẳng muốn áp dụng. Lời nói chẳng đi đôi với việc làm, đôi khi còn ngược lại, nói một đường, làm một nẻo. Khuyên dậy, giảng giải, trình bầy và thuyết phục điều hay lẽ phải thì ai cũng có thể làm được, nhưng thực hành những điều này cần có một ý chí và quyết tâm cao. Thực hành sống đạo cũng thế, chúng ta cần có thái độ chọn lựa dứt khoát bước theo lề phải. Tu thân tích đức từng bước mỗi ngày. Các thói quen tốt lành sẽ trở thành các nhân đức. Nhân đức dẫn chúng ta tiến gần trên con đường trọn lành.
Thánh Phaolô khuyên dậy: Vì chưng, nếu anh em sống theo tính xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ thần trí mà anh em đã giết được các hành động thân xác, thì anh em sẽ được sống (Rm 8, 13). Thân xác con người vốn có bản năng yếu đuối. Các cơn cám dỗ luôn rình rập kéo lôi chúng ta trở lại tình trạng man rợ xa Chúa. Nhờ thần trí hướng dẫn, chúng ta có thể thắng vượt những cạm bẫy giăng mắc quanh môi trường cuộc sống. Xác thịt thì nặng nề yếu đuối nhưng thần trí cần phải dũng mạnh và cương trực. Thân xác là máng chuyển các ơn huệ vào tâm hồn. Chúng ta cần bồi dưỡng sức mạnh cho cả xác lẫn hồn để có hồn trong, xác mạnh. Sứ mệnh và cùng đích của toàn diện cuộc sống con người là sự sống viên mãn ngày sau.
Lạy Chúa, dòng nước sẽ tuôn chảy về chỗ thấp trũng. Ơn sủng của Chúa cũng tuôn đổ vào những tâm hồn biết khiêm nhượng đón nhận. Xin cho chúng con biết mở rộng tâm hồn đón nhận hồng ân của Chúa.
(Suy niệm của Lm. Minh Anh)
“Ai yêu thương, người ấy mới có thể khiêm nhượng;
Ai khiêm nhượng, người ấy mới có thể yêu thương”.
Kính thưa Anh Chị em,
Một trong những chủ đề chính của phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay là dịu hiền và khiêm nhượng. Thiên Chúa dịu hiền và khiêm nhượng, Chúa Giêsu dịu hiền và khiêm nhượng mời gọi chúng ta dịu hiền và khiêm nhượng như Ngài, “Hãy học cùng Tôi, vì Tôi dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng”.
Nói đến yêu thương, trước hết phải nói đến Thiên Chúa và nói đến khiêm nhượng, cũng phải nói đến Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu, một tình yêu đời đời nên Người khiêm nhượng lặng lẽ ra khỏi mình liên lỉ để trao ban; dẫu quyền uy vô song nhưng Người cũng là một Thiên Chúa ẩn mình, luôn luôn ẩn mình. Lần giở các trang Thánh Kinh, chúng ta đọc thấy tính cách yêu thương và khiêm nhượng của Thiên Chúa như đan quyện nhau để trở thành một tính cách duy nhất nơi Người. Vì yêu thương, Thiên Chúa không dè giữ cho mình một điều gì nhưng ra khỏi chính mình để cho đi sự sống, cho đi hơi thở; Người ban cho mọi loài mọi vật, ban cho con người sự sống của chính mình. Khi con người sa ngã, Thiên Chúa lại ra khỏi mình một lần nữa để làm lại từ đầu; Người tha thứ, đợi chờ và Thiên Chúa đó quá yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình. Ai trong chúng ta cũng đã ít nhiều trải nghiệm thế nào là được Thiên Chúa yêu thương, được Người thứ tha và chữa lành.
Bài đọc thứ nhất hôm nay là một minh chứng cho tình yêu khiêm hạ của Thiên Chúa. Sách ngôn sứ Zacharia cho thấy đó là một Thiên Chúa dịu hiền và khiêm nhượng khi Người quên hết mọi lỗi phạm của dân để hạ mình, tái tạo và chữa lành; cũng Thiên Chúa đó, Người hứa cho dân mà Người đã trót yêu một tương lai hạnh phúc; Người hứa với họ không còn phải lưu đày nhưng được an cư lạc nghiệp và nhất là hứa ban cho họ một đấng Messia, đấng ấy là vua hoà bình, sẽ xuất hiện và khai mạc một vương quốc an bình bao la rộng lớn, “Hỡi thiếu nữ Sion, hãy nhảy mừng; hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy reo mừng! Này vua ngươi đến với ngươi. Người là Đấng công chính và là Đấng cứu độ; Người khiêm tốn ngồi trên lừa con, con của lừa mẹ”. Qua đó, Thiên Chúa muốn nói với dân rằng, từ nay, Người sẽ hiện diện giữa họ; sẽ không còn chiến tranh, sẽ không còn binh đao. Vua chúa ngày xưa vẫn ngồi trên lưng lừa hoặc la, hình ảnh con lừa tượng trưng cho thời không còn chiến tranh. Đấng Messia ngồi trên lưng lừa cũng sẽ đối xử dịu hiền và khiêm nhượng với những ai thuộc Nước mới của Ngài.
Chúa Giêsu, Đấng thiên sai ấy lên tiếng trong Tin Mừng hôm nay. Ngài nói đến các công dân của Nước Ngài, đó là những tâm hồn bé mọn được Chúa Cha mặc khải những mầu nhiệm Nước Trời, những mầu nhiệm vốn không dành cho kẻ kiêu căng tự phụ, “Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì ý Cha muốn như thế”. Tin Mừng cho thấy những con người bé mọn đã đến với Chúa Giêsu. Họ là những bệnh nhân, người tội lỗi, người nghèo… họ đã đến và từ Ngài, lãnh nhận bao ơn lành hồn xác đang khi người biệt phái tự kiêu đã không nhận ra Ngài cũng không đón nhận ơn cứu độ Ngài ban. Đấng thiên sai nhu mì đó được Isaia diễn tả thế này, “Người không bẻ gãy cây lau bị dập, không dập tắt tim đèn còn khói”. Ngài khiêm nhượng và hạ mình cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự nên Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài lên như thánh Phaolô xác tín.
Hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta trong mọi đấng bậc, làm cha mẹ, làm anh làm chị và mọi người đến với Ngài, “Hãy học cùng Tôi, vì Tôi dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn anh em sẽ gặp được bình an”. Ngài biết, kiêu ngạo có dây mơ rễ má từ tội nguyên tổ vốn là một gánh nặng, rất nặng đối với mọi người. Kiêu căng khiến chúng ta bất an; tự phụ khiến chúng ta gánh nặng. Cha Karl Rahner nói, “Trong nỗi giày vò của sự thiếu hụt tất cả mọi thứ mong đạt được; cuối cùng, chúng ta biết rằng, trong cuộc đời này, tất cả mọi bản hoà âm đều phải dang dở. Để rốt cuộc, tất cả chúng ta chết đi với một cuộc đời chưa hề được hoàn thành trọn vẹn. Và chuyện đó đâu dễ chấp nhận! Mọi sự trong con người chúng ta vùng lên chống lại nó và hầu hết tất cả chúng ta sống trong sự thống khổ của một tình trạng vô danh, chúng ta chỉ được công nhận và nổi danh trong những giấc mơ hão huyền; sự vĩ đại của chúng ta chẳng ai biết đến. Và chuyện đó cũng không dễ chấp nhận”. Khắc khoải và gánh nặng đó chỉ có thể nhẹ nhàng; bất an chỉ trở thành bình an khi chúng ta biết chạy đến với Chúa Giêsu, Đấng bổ sức cho mỗi người. Học biết sự dịu hiền và khiêm nhượng nơi Chúa chính là học biết yêu thương như Ngài, cúi xuống như Ngài và quên mình như Ngài.
Trong những tuần qua, các cơn mưa như trút nước ở Trung Quốc khiến hàng triệu người phải khốn khổ khi lũ lụt lăm le nhấn chìm nhiều thành phố của họ. Các con sông êm ả thường ngày nay trở nên những con nước cuồng nộ khiến bao người khiếp hãi. Thế nhưng, hình ảnh nước cũng cho chúng ta những bài học lớn lao. Nước thật mạnh mẽ nhưng cũng thật dịu dàng. Nước chảy đến đâu, đem sự sống và niềm vui đến đó, nước thật vô vị lợi; khi chảy xuống, nước không lưỡng lự dựa vào vách đá, nước thật khiêm tốn; nước nhẵn nhụi nhưng cũng có thể tạo thành vực sâu ẩn kín, nước thật khôn ngoan. Gặp chướng ngại cản lối, nước chảy vòng vòng, nước biết nhịn nhục; nước hoạt động ngày đêm để chiến thắng vật cản, nước thật kiên trì. Dù bao nghịch cảnh, nhưng không một giây phút nào nước đánh mất đi hướng đi vĩnh cửu của mình là chảy ra biển khơi, nước ý thức cùng đích. Và cho dù có khi vẩn đục, nước luôn cố gắng trong sạch trở lại, nước luôn canh tân chính mình.
Anh Chị em,
Khiêm nhượng không là hèn nhát và chỉ ai mạnh mẽ mới có thể khiêm nhường. Thiên Chúa mạnh mẽ vô song nhưng Người cũng khiêm nhượng vô lường. Càng cao cả, Người càng cúi xuống; Chúa Giêsu đã làm người rốt hết, không ai dành được chỗ rốt của Ngài, Ngài đã cúi xuống; Mẹ Maria đã cúi xuống, Mẹ Têrêxa và các thánh đã cúi xuống, các ngài được Chúa nâng lên. Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy học trở nên như Thiên Chúa, trở nên như Chúa Giêsu, trở nên những dòng nước yêu thương trao ban sự sống và niềm vui.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, kiêu ngạo khiến con cứng cỏi, khiêm nhượng giúp con mềm mỏng. Xin cho con trở
nên trũng thấp để hứng được nhiều, từ đó, biết chảy xuống để yêu thương nhiều”, Amen.
21.Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật và là người thật. Với bản tình loài người, Ngài có đầy đủ mọi đức tính mà người đời cần học hỏi. Nhưng ít khi Ngài mời gọi con người học theo các đức tính của Ngài, có chăng cũng chỉ là gián tiếp thôi. Vậy mà, Tin mừng hôm nay lại cho chúng ta biết, Ngài trực tiếp mời gọi các môn đệ và mỗi người chúng ta hãy học theo Ngài để sống hiền lành và khiêm nhường. Điều đó, chứng tỏ, đức tính hiền lành và khiêm nhường hết sức quan trọng trong đời sống chúng ta.
Vậy, Đức Giêsu sống hiền lành và khiêm nhường như thế nào?
Trước hết, Ngài vốn dĩ là Thiên Chúa nhưng đã tự hạ mình xuống, làm người như chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Như thế, Đức Giêsu cũng chấp nhận mang nơi mình sự thấp hèn, yếu đuối, đau khổ của con người. Cụ thể, Tin Mừng cho biết Đức Mẹ sinh Ngài trong hoàn cảnh thiếu thốn, rét mướt, bị người đời từ chối (x. Mt 2,7). Sau đó, Ngài sống với Thánh Giuse và Mẹ Maria trong tinh thần khiêm nhường vâng phục (x. Mt 2,51).
Khi ra giảng đạo, Ngài nêu cao tinh thần hiền lành và khiêm nhường. Ngài dạy các môn đệ hãy trở nên như trẻ nhỏ: “Nếu các con không trở nên như trẻ nhỏ, các con không được vào nước trời.” (Mt 18,3). Trong bài giảng về hiến chương nước trời, Ngài tuyên bố: “Phúc thay ai hiền lành vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.” (Mt 5,4). Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết, Đức Giêsu tạ ơn Chúa Cha vì Người đã quý chuộng những kẻ bé mọn và khiêm nhường. Chính Người đã tiết lộ bí mật của Người cho họ trong khi lại giấu không cho kẻ khôn ngoan và thông thái biết những điều ấy (x. Mt 11,25). Rồi, Ngài mời gọi mọi người sống hiền lành và khiêm nhường như Ngài: “Hãy học cùng Ta vì ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29). Khi dân chúng tôn Ngài lên làm vua, Ngài khiêm nhường không đón nhận như họ tưởng mà trái lại, Ngài lánh lên núi cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha (x. Ga 6,15). Trong bữa tiệc ly, trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Ngài đã thể hiện sự khiêm nhường cách tột cùng khi cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Đồng thời, Ngài dạy các môn đệ hãy rửa chân cho nhau (x. Ga 13,14). Trong ngày khải hoàn vào Thành Giê-ru-sa-lem, mặc dầu được dân chúng tung hô, nhưng Ngài vẫn khiêm nhường ngồi trên lưng lừa. Cử chỉ đó đã được tiên tri Isaia báo trước mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc thứ nhất: “Người khiêm tốn ngồi trên lừa con, con của lừa mẹ. Người đã loại bỏ các chiến xa khỏi Ép-ra-im, và ngựa khỏi Giê-ru-sa-lem. Cung tên chiến trận sẽ được phá huỷ. Người sẽ công bố hoà bình cho các dân tộc” (Dcr 9,9-10). Ngài hiền lành khi không kết án người phụ nhữ ngoại tình (x. Ga 8,2-11). Ngài hiền lành như người mục tử đi tìm con chiên lạc (x. Lc 15,3-7). Ngài hiền lành như người cha đợi chờ đứa con đi hoang trở về (x. Lc 15,1-32). Ngài hiền lành khi để cho Giuđa, kẻ phản bội hôn lên má mình và để cho quân dữ bắt trói đem đi (x. Mc 14: 43 -50; Lc 22: 47 -53; Ga 18: 3-11 ). Ngài hiền lành khi không có một phản ứng gì trước cảnh dân chúng nhạo cười hay bị kết án bất công. Đặc biệt, Ngài chấp nhận những đòn roi, chịu đội mạo gai, chịu đóng đinh trên thập giá… tất cả đều thể hiện sự hiền lành và khiêm nhường của Ngài.
Chúng ta không chỉ thấy đức tính hiền lành và khiêm nhường nơi Đức Giêsu mà còn thấy đức tính hiền lành và khiêm nhường nơi Đức Maria và các Thánh.
Nơi Đức Maria: Khi được Thiên thần Gabriel chào “Bà đầy ơn phúc” và cho Mẹ biết Thiên Chúa đã chọn Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria đã thưa với Thiên Thần rằng: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền”(Lc 1,38). Rồi Mẹ quy hướng tất cả những gì mình có được về cho Thiên Chúa bằng lời kinh Magnificat (x. Lc 1, 46-55). Từ đó, Mẹ sống một cuộc sống phó thác trọn vẹn trong bàn tay quan phòng của Thiên Chúa bằng việc khiêm nhường chấp nhận mọi đau khổ sẽ đến với mình: sinh con trong hang đá nghèo hèn; đem con trốn sang Ai-cập; lạc mất con trong đền thờ; thấy con vác thập giá và cuối cùng là chấp nhận đứng nhìn Con yêu dấu chết tất tưởi trên thập giá trước những kẻ nhạo báng Người.
Hầu hết các thánh cũng đã sống hiền lành và khiêm nhường. Xin được đơn cử một số các thánh sau đây:
Thánh Giuse: Khi biết Mẹ có thai, nhưng vì bản tính hiền lành và khiêm nhường nên Ngài không tố cáo Mẹ mà dự định âm thầm bỏ trốn. Ngài khiêm nhường vâng lời đón Đức Mẹ về nhà làm vợ mình, đưa Đức Giêsu trốn sang Ai-cập và lại đưa Mẹ con về cho dù lệnh truyền đó chỉ là lời của Thiên thần trong giấc mơ. Suốt cuộc đời của Thánh Giuse, Ngài đã sống hiền lành và khiêm nhường trong tinh thần phục vụ chương trình của Thiên Chúa nơi Đức Maria và Chúa Giêsu một cách âm thầm.
Thánh Gioan Tẩy Giả: Khi được dân chúng ca tụng vì tưởng Ngài là Đấng Cứu Thế, là Đấng phải đến, thì Gioan đã khiêm nhường giải thích rằng: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa… Đấng đến sau tôi cao trọng hơn tôi, tôi không xứng đáng để xách dép cho Người” (Lc 1,23-27). Vì biết sứ mạng của mình chỉ là người dọn đường, nên khi Đức Giêsu đến, Thánh Gioan đã âm thầm rút lui: “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (Ga 3, 30).
Thánh Phêrô cũng đã sống rất khiêm nhường. Sự khiêm nhường đó được thể hiện qua những hành động sau đây: Khi Ngài vâng lời thả lưới và đánh bắt được rất nhiều cá (x. Lc 5, 1-11). Khi thấy “mẻ cá lạ lùng”, Phêrô đến sụp lạy dưới chân Chúa và thưa Người rằng: “Lạy Thầy, xin hãy tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi” (Lc 5,8). Khi lún xuống nước, ông kêu xin Chúa rằng: “Lạy Thầy, xin cứu con” (Lc 14,30). Sau khi chối Thầy ba lần, ông đã ra ngoài ăn năn khóc lóc (x. Lc 22,62). Khi chịu chết tử đạo, ông xin được đóng đinh đầu lộn ngược xuống đất vì nghĩ mình không xứng đáng để nên giống Thầy mình. Như vậy, Phêrô là một vị thánh hết sức khiêm nhường.
Thực tế trong xã hội hôm nay, chúng ta thấy đâu đâu cũng có bạo lực xảy ra: nơi gia đình, nơi trường học, nơi các cơ quan công quyền, ngoài xã hội. Người ta vẫn cứ muốn giải quyết mọi thứ bằng bạo lực. Vì thế, đức tính hiền lành và khiêm nhường hầu như vắng bóng, không được chú trọng, không được để ý lưu tâm. Không những thế, nhiều khi người ta còn cho rằng: người sống hiền lành là người đần độn, hèn nhát; người sống khiêm nhường thì được được coi là tự ti, rụt rè, biếng nhác.
Nhưng xét về phương diện tu đức và dưới nhãn quan của Kitô giáo, thì hiền lành và khiêm nhường luôn là hai đức tính nền tảng cần thiết cho bản thân, gia đình, Giáo hội và xã hội. Vì khiêm nhường là mẹ của các nhân đức khác, là nền móng để xây dựng đời sống thiêng liêng. Người sống hiền lành thường để lại nhiều điều tốt cho hậu thế, như người ta nói: “Cha mẹ hiền lành để đức cho con.” Người hiền lành và khiêm nhường luôn biết sống hoà thuận với tất cả mọi người, coi trọng mọi người, không phân biệt sang hèn giàu nghèo. Người khiêm nhường và hiền lành thì không làm hại người khác. Người hiền lành và khiêm nhường luôn đem lại niềm vui và bình an cho mọi người. Không những thế, người hiền lành và khiêm nhường luôn được Chúa ban ơn (x. 1 Pr 5,5). Trong cuốn Nhật Ký về Lòng Thương Xót của Thánh Nữ Faustina Kowalska, Chúa Giêsu nói với Thánh Nữ về nhân đức hiền lành và khiêm nhường rằng: “Con hãy đem đến Ta các tâm hồn hiền hòa, khiêm tốn và những tâm hồn trẻ thơ. Hãy nhận chìm họ vào đại dương Thương Xót của Ta. Những tâm hồn này giống Trái Tim hơn hết. Họ tăng nghị lực cho Ta để Ta bước vào cơn hấp hối đau thương. Ta thấy họ như những Thiên Thần trần thế, chầu chực quanh các bàn thờ của Ta. Ta đổ tràn trên họ những dòng thác lũ ân sủng. Duy chỉ những tâm hồn khiêm nhường mới có khả năng đón nhận ân huệ của Ta. Ta đặc biệt tín nhiệm nơi những tâm hồn đó.”
Qua những trình bày trên đây chúng ta thấy Đức Giêsu, Đức Mẹ và các thánh đã quý trọng đức hiền lành và khiêm nhường. Mặt khác, người hiền lành và khiêm nhường mang lại nhiều lợi ích cho gia đình, xã hội và được Chúa thương ban ơn. Vậy, chúng ta hãy cố gắng học tập đức tính hiền lành và khiêm nhường của Đức Giêsu, Đức Mẹ và các thánh. Để được như vậy, trong những sinh hoạt thường ngày, qua các mối tương quan trong gia đình, ngoài xã hội chúng ta hãy dẹp bỏ tính nóng nảy để tập sống hiền lành và khiêm nhường.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con biết thực hiện lời dạy và gương sáng của Chúa để sống hiền lành và khiêm nhường, hầu mang lại sự bình an cho gia đình, Giáo hội và xã hôi. Amen.
22.Hãy đến với Ta – Ts. Trần Quang Huy Khanh
“Tất cả hãy đến với ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng. Ta sẽ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách ta và hãy học cùng ta, vì ta dịu hiền và khiêm nhường trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ được bình an. Vì ách của ta êm ái, gánh của ta nhẹ nhàng” (Mt 11:30).
Ôi! Còn lời êm ái, dịu ngọt, và thân tình nào hơn những lời mà Chúa đã nói với con hôm nay? Còn tấm lòng nào yêu thương và quan tâm lo lắng cho con hơn tấm lòng Chúa đang dành để yêu thương và quan tâm lo lắng cho con? Những gì mà Chúa nói hôm nay, nếu đem kết hợp lại với những gì mà Chúa đã nói ở nhiều trường hợp khác như việc biết con được dệt trong lòng mẹ lúc nào và bằng những chất liệu nào. Việc đếm những sợi tóc của con, và biết sợi nào ngày nào đang đen hóa trắng, sợi nào rụng xuống vì lý do gì, sẽ là một bài ca tuyệt mỹ ru con vào lòng thương xót Chúa.
Trấn an con lúc con gặp sầu buồn, lo lắng chưa đủ: “Sự khó ngày nào để cho ngày nấy, ngày mai mai lo”. Hôm nay, Chúa còn tình nguyện mang vác những gánh nặng của cuộc đời con. Chúa muốn đổi những gánh nặng cồng kềnh con đang mang bằng gánh nặng nhẹ nhàng, êm ái của Chúa. Chúa còn hứa ban bình an cho con nữa. Con dâm ra ngờ vực Chúa:
– Chúa ơi! Nhưng sao con thấy hơi ngại ngùng quá. Nghi ngờ quá. Con đến với Chúa cả mấy năm nay, tốn bao nhiêu tiền xin lễ mà bệnh cao máu, đau dạ dầy và mất ngủ của con vẫn y nguyên.
Con đau khổ, khóc lóc mấy chục năm mà người chồng bê bối, rượu chè, cờ bạc, bê tha, người vợ lăng loàn, se xua vẫn không thấy quay về với bổ phận gia đình, chăm lo con cái. Đứa con trai, con gái của con vẫn tiếp tục lang thang với chúng bạn, nghiện hút, và băng đảng. Bao nhiêu nước mắt, bao nhiêu lời cầu, hết đền thánh này đến vương cung thánh đường khác, mà chưa thấy Chúa nghe.
Con lao đao, xuôi ngược, chạy hết hãng xưởng này đến hãng xưởng khác mà vẫn không có việc làm. Gia đình con vẫn lâm vào cảnh thiếu thốn, chật vật. Còn Chúa, Chúa vẫn lặng thinh.
Nước mắt, than van, và đau khổ. Con đến với Chúa, con cầu xin Chúa vậy mà Chúa vẫn làm thinh. Chúa vẫn chẳng trả lời con. Vậy thì làm sao con tin được Chúa muốn đỡ gánh nặng của con. Làm sao con tin được rằng Chúa sẽ nâng đỡ con. Chúa ơi! Con nghi ngờ quá, phân vân quá.
Không giận hờn, và không chấp nhất, Chúa chỉ nhỏ nhẹ nói với con:
– Này con. Con không tin rằng cha thương con và yêu con vì con quá khổ sở, vì con quá buồn phiền, và vì cha không trả lời con, không cho con những gì con xin. Nhưng con có bao giờ nghĩ rằng, chính cha đây trước cơn hấp hối kinh hoàng tại vườn Cây Dầu, cũng phải đau khổ thốt lên: “Lậy cha nếu có thể được, xin cất chén này cho con”. Vậy mà sau đó, cha cũng phải lủi thủi một mình chuốc lấy đau khổ, vác thập giá một mình lên núi Sọ. Chúa Cha xử với cha như thế đó. Con trả lời cha đi, trường hợp ấy, con sẽ cư xử ra sao?!
Ngay hôm nay, cha vẫn lủi thủi một mình trong các nhà tạm. Ở đó để chờ dịp gần gũi với chúng con. Ở đó để sẵn sàng chia sẻ với chúng con những khó khăn cuộc đời. Nhưng có được mấy người đáp lại.
Ngay cả con nữa. Có mấy lần con đến thăm cha?! Và những lần như vậy, con đến với cha như thế nào, và với tâm tình gì? Hay như con vừa kể lể cũng với tâm tình đòi hỏi, xin xỏ, và rầy rà?! Và khi không được như ý thì con đau khổ, chán nản, và bực bội. Rồi từ chán nản, buồn bực, con đâm ra nghi ngờ tình thương cha, nghĩ rằng cha không thương con.
Từ bình minh sáng tạo, con đã có trong thượng trí của cha. Con đã hiện hữu trước mắt cha. Con làm gì, đi đâu, và như thế nào thì cha đã biết rõ hết. Và trong cái biết ấy, cha đã dành cho con một sự săn sóc hết sức đặc biệt mà cha chỉ dành cho một mình con. Chỉ có con, trong những bối cảnh riêng mới có những săn đón ấy, mới có những yêu thương, chiều chuộng ấy. Một sự yêu thương và săn sóc đặc thù, riêng tư nhưng rất mực thiết tha.
Và tâm hồn con đã ngập tràn hạnh phúc, và để lòng mình trào lên lời tri ân mối tình bao la của Thiên Chúa:
– Vâng!. Lậy Chúa. Từ hôm nay, Chúa cứ việc tự tiện làm chủ và hướng dẫn đời con đi. Chúa làm gì mặc ý, con không dám phàn nàn, không dám cự nự nữa. Con sẽ mang ách của Chúa, và con sẽ cố học bài học hiền lành và khiêm nhường để thấy rằng ách Chúa êm và gánh Chúa nhẹ, và để con cảm được cái bình an tâm hồn.
Cái ách. Vâng, mỗi chiếc xe phải có một cỗ máy, tuy nặng, nhưng nhờ đầu máy ấy mà chiếc xe chạy như bay trên xa lộ, tưởng chừng như cái đầu máy không có và không phải là khối sắt nặng nề. Nhưng hơn thế nữa, tất cả sức mạnh, lực đẩy, và khả năng hoạt động của chiếc xe lại hoàn toàn tùy thuộc vào cái đầu máy, đến nỗi thiếu nó, hoặc nếu nó bị hư là cả chiếc xe nằm ụ.
Cái đầu máy xe kia chính là ách của Chúa, là luật Chúa, là sự tin tưởng, phó thác, và chấp nhận. Mới nghe ra, con tưởng như nặng nề, và khó khăn, vất vả. Nhưng nếu có nó, nếu giữ nó, và nếu thực hành nó, thì cả gánh nặng cuộc đời con dù có chất đầy chiếc xe khổ ải, thì nó vẫn cảm thấy nhẹ tâng, và chạy nhanh trên hành trình cuộc sống.
Sự bình an của Chúa, như lực đẩy của chiếc đầu máy, sẽ làm cho mọi nặng nề, bế tắc, và khó khăn trở nên dễ dãi. Với nó, con không phải lê bước một mình, và không phải tự mình mang vác lấy cái nhọc nhằn, vất vả, mà là chính Chúa, vì Chúa đã tình nguyện đỡ nâng, mang vác lấy thay cho con. Vậy lậy Chúa, này con xin đến với Chúa.
Một người quá thông minh và nhiều kiến thức có thể trở thành kiêu căng về những gì mình đạt được. Người Hy lạp vốn nổi tiếng về khôn ngoan và thông biết đã coi việc giảng dạy của Phaolô về Thập giá của Đức Giêsu Kitô là sự điên rồ. Nhà du hành vũ trụ người Nga Gadadin đã kiêu căng nói rằng: “Tôi đã bay khắp cùng trái đất mà chẳng thấy bóng dáng của Thiên Chúa ở đâu cả”. Quả thật, sự hiểu biết của những con người kiêu căng đã làm cho họ xa rời Thiên Chúa vốn là nguồn gốc của mọi sự khôn ngoan. Triết gia Bacon đã nói: “Kiến thức nông cạn đưa con người xa rời tôn giáo, ngược lại kiến thức sâu xa dẫn đưa con người lại gần Tôn giáo”. Như thế, những hiểu biết của con người dù có uyên thâm cỡ nào đi nữa mà làm cho họ trở nên xa cách tôn giáo hay xa cách Thiên Chúa thì chỉ là những kiến thức hàm hồ và nông cạn theo nghĩa sâu xa nhất của nó.
Tin mừng hôm nay chó chúng ta thấy được rằng: Những con người đơn sơ và khiêm tốn sẽ được hiểu biết về Thiên Chúa nhờ họ biết đón nhận Đức Giêsu Kitô và những lời giảng dạy của Ngài. Trong khi đó, những con người tự kiêu, tự phụ về sự thông hiểu của mình đã khước từ Đức Giêsu Kitô và cho Ngài là kẻ mất trí và bị quỷ ám.
Cuộc đời của Đức Giêsu Kitô là một mầu nhiệm, một siêu lý đối với con người, nên con người không thể biết rõ về Ngài nếu không được Thiên Chúa ban ơn hiểu biết ấy. Mầu nhiệm nơi Đức Giêsu Kitô “không phải là một vách tường chận đứng trí óc của chúng ta, nhưng là một biển cả, trong đó trí óc chúng ta chìm đắm” (Gustave Thibon). Chính sự khiêm nhường sẽ đưa dẫn con người đến với Thiên Chúa. Khuôn mẫu của sự khiêm nhường ấy chính là Đức Giêsu Kitô “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” Chính Ngài là vị Vua Messia hiền lành và khiêm nhu mà sách tiên tri Dacaria nói đến trong bài đọc một hôm nay.
Đức Giêsu Kitô đã mặc khải cho chúng ta về Chúa Cha bởi lẽ Ngài biết rõ về Cha và Cha cũng biết rõ Ngài. Chữ “biết” trong Thánh kinh có nghĩa là có sự liên hệ cá nhân với người mình biết và có sự tiếp xúc thân mật với người đó. Như thế, biết Thiên Chúa chính là nhập vào sức sống lớn lao và một dòng ánh sáng vĩ đại phát ra từ trái tim Thiên Chúa và trở lại với Ngài.
Nhờ Đức Giêsu Kitô, chúng ta biết được Thiên Chúa Cha. Đây là một hồng ân cao vời mà con người đã đón nhận một cách nhưng không. Ân ban này hoàn toàn miễn phí, chỉ cần người nhận biết mở lòng mình ra và đơn sơ đón nhận. Nhưng đây không phải là chuyện dễ dàng đối với những người quá thông minh và hiểu biết! Bởi đó, rất có thể sự khôn ngoan của loài người là nguyên cớ cản trở lớn nhất cho việc họ tìm đến với Thiên Chúa. Khi thấy mình quá giỏi, quá tài, con người chỉ lo củng cố mình và coi mình quá lớn lao đến nỗi không còn chỗ cho Thiên Chúa trong cuộc đời của họ nữa. Họ thấy mình quá quan trọng đối với nhân loại và nghĩ rằng mình có thể cứu nhân loại khỏi những đau khổ trong cuộc đời này. Sai lầm này xem ra chẳng tốt đẹp cho tha nhân mà cũng chẳng tốt lành gì cho bản thân của họ nữa.
Chuyện kể rằng: “Có một máy bay nhỏ chở hành khách đang bay ở độ cao trung bình và với vận tốc vừa phải. Hành khách trên máy bay gồm một vị giáo sĩ, một hướng đạo sinh, một giám đốc sản xuất điện toán. Đang bay trên bầu trời thì bỗng nhiên động cơ của máy bay không hoạt động nữa. Gió rít mạnh làm chiếc máy bay rơi nhanh. Ba chiếc dù được đưa ra, nhưng trên máy bay có tất cả bốn người. Làm sao đây?
Viên phi công khóc và nói: “Tôi phải có một cây dù, vì tôi có vợ và ba đứa con thơ.” Nói đoạn, viên phi công nhanh tay chộp lấy một cái dù và nhảy vội ra khỏi máy bay. Ba người còn lại nhìn nhau. Ông Giám độc điện toán kêu lên: “Ồ, chắc là tôi phải cần một cái dù. Tôi là người thông minh nhất thế giới và thế giới đang cần tôi”. Nói chưa dứt lời, ông nhanh tay luồn dây vào vai rồi vội nhảy ra ngoài.
Vị giáo sĩ thở dài buồn bã, quay sang nói với anh hướng đạo sinh: “Này con, con hãy lấy chiếc dù cuối cùng và nhảy ra đi. Cha đã già rồi, cha sẵn sàng để đi gặp Chúa. Con còn trẻ, tương lai huy hoàng đang chờ đợi con. Con không thể chết được”. Nhưng người hướng đạo sinh mỉm cười nói: “Cha già đáng kính và dễ thương của con ơi. Cha hãy yên tâm. Vẫn còn đủ dù cho hai cha con mình. Người tự hào là thông minh nhất thế giới vừa nhảy ra khỏi bằng chiếc ba lô của con”.
Hãy tự khiêm tự hạ trước mặt Thiên Chúa để chính Ngài sẽ hành động trên chúng ta. Hạnh phúc cho những ai biết nép mình bên Chúa như đứa con thơ trong tay người mẹ hiền của mình.
Hãy học biết Thiên Chúa theo ơn Ngài ban cho chúng ta và theo những gì Đức Giêsu Kitô đã dạy chúng ta. Biết Thiên Chúa chính là sống thân tình với Ngài, là bơi lội trong biển tình thương và ân sủng của Ngài. Đừng đòi hỏi Thiên Chúa bất cứ điều gì chỉ nhằm làm thoả mãn tình hiếu kỳ và kiêu căng của chúng ta. Chúa luôn ở gần những tâm hồn đơn sơ, khiêm hạ và không ngừng ban ơn cho họ.
24.Trở nên hèn mọn – AM Trần Bình An
Năm 1979, trên đường trở về từ Oslo, sau khi nhận giải Nobel Hòa Bình, mẹ Têrêsa Calcutta dừng lại tại Roma. Các ký giả chen chúc chờ đợi gặp mẹ trong khuôn viên nhỏ bé của ngôi nhà cộng đoàn các nữ tu Thừa Sai Bác Ái ở Monte Celio. Mẹ Têrêsa không để cho các ký giả tấn công. Trái lại, mẹ tiếp họ như những người con. Mẹ nhẹ nhàng đặt vào tay mỗi người một ảnh đeo Đức Mẹ Vô Nhiễm. Các ký giả ráo riết bao vây mẹ để chụp hình và để phỏng vấn. Một ký giả táo bạo hỏi:
– “Thưa mẹ, năm nay mẹ 70 tuổi. Khi mẹ qua đời thế giới cũng sẽ như trước! Vậy đâu có gì thay đổi sau bao nhiêu cực nhọc?” Mẹ Têrêsa đăm đăm nhìn chàng ký giả trẻ tuổi và nở một nụ cười thật tươi, nụ cười như một cái vuốt ve trìu mến, rồi mẹ từ tốn nói:
– “Anh thấy đó, tôi không bao giờ nghĩ rằng mình có thể thay đổi thế giới. Tôi chỉ tìm cách trở thành một giọt nước trong, một giọt nước lóng lánh rạng ngời Tình Yêu Thiên Chúa, thế thôi. Anh cho là quá ít sao?” Chàng ký giả trẻ tuổi lúng túng. Các ký giả khác đứng im không nhúc nhích. Mẹ Têrêsa thản nhiên tiếp tục cuộc đối thoại:
– “Anh cũng nên cố gắng trở thành một giọt nước trong, như thế, sẽ có hai giọt nước trong. Anh lập gia đình chưa?”.
– “Dạ rồi,” chàng ký giả đáp.
– “Vậy anh cũng nên nói với vợ và như thế chúng ta sẽ là ba giọt nước trong. Anh có con chưa?”
– Thưa mẹ, ba đứa!
– “Tốt lắm. Vậy anh cũng nên nói với các con anh, và như thế, tất cả chúng ta sẽ là 6 giọt nước trong! (Sr Jean Berchmans Minh Nguyệt. Mẹ Têrêsa Calcutta)
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Chúa Giêsu cảm tạ, ngợi khen Đức Chúa Cha đã thương yêu mặc khải cho những kẻ bé mọn mầu nhiệm Nước Trời. Mẹ Têrêsa Calcutta cũng tự nhận mình bé mọn, chỉ là một giọt nước trong, một giọt nước long lánh rạng ngời Tình Yêu Thiên Chúa, dù Mẹ đã làm biết bao kỳ công giúp đỡ người nghèo khổ tại Ấn Độ và khắp nơi trên thế giới.
Hèn mọn bản thân
Khi Chúa Giêsu giáng sinh tại Bêlem với dáng dấp hài nhi bé bỏng yếu đuối, thì những kẻ chăn chiên, những mục đồng bé mọn lại là những người đầu tiên được vinh dự đến thăm Hài Nhi. Đến khi đi rao giảng, Người mời gọi mọi người hãy sống đơn sơ, ngây thơ, trong trắng, chân chất, thật thà, thân thiện, hòa nhã như trẻ em, để được Ơn Cứu Độ: “Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không quay trở lại, mà nên như trẻ em, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.”(Mt 18, 3)
Bí quyết cải lão hoàn đồng không phải trẻ lại thân xác mau hư nát, mà canh tân, đổi mới tâm hồn, bỏ đi những thói hư tật xấu, toan tính, lọc lừa, tất cả cái khôn ngoan thế gian, mà sống vô tư, phó thác hoàn toàn vào Chúa Quan Phòng, như em bé âu yếm nép vào lòng mẹ che chở.
Trở nên hèn mọn như Mẹ Maria tự cảm nhận qua Kinh Maginificat: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới,” chính là gương mẫu hoàn hảo cho toàn thể Kitô hữu noi theo, để xứng đáng ân hưởng tình yêu Chúa.
Hèn mọn với tha nhân
Trở nên bé mọn với tha nhân là khiêm nhường, hạ mình xuống, nhu mì, nhân ái, xóa tan đi cái tôi tự cao, tự đại, mà tình nguyện coi mình là người đầy tớ phục vụ tha nhân, như Đức Giêsu đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. “Vậy nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau.” (Ga 13, 14)
Trở nên bé mọn là hiền lành và nhẫn nhục, nhường nhịn, nhân ái, không còn kiêu căng, ngạo mạn, củng cố địa vị, chỗ đứng, so đo, ganh đua, kèn cựa với bất kỳ ai. “Ai muốn kiện tụng hầu đoạt chiếc áo cánh của ngươi, hãy nhường cả áo ngoài cho họ. Ai bắt ngươi đi một dặm đường, ngưoi hãy đi với nó hai dặm nữa. Ai xin ngươi cứ cho, họ muốn vay mượn ngươi đừng từ chối.” (Mt 6, 40-42)
Trở nên hèn mọn là vui lòng chịu đựng những sự khốn khổ do cường quyền, ác nhân áp bức, hành hạ, tra tấn, bỏ tù, sát hại, bức tử vì danh Chúa. “Đừng chống cự với người ác. Trái lại, nếu ai tát má bên phải ngươi, hãy đưa má kia cho họ nữa.” (Mt 6, 39)
Thánh Phaolô cũng hết lòng khuyên nhủ sống khiêm hạ: “Đừng làm chỉ vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình.” (Pl 2,3)
Hèn mọn với Thiên Chúa
Noi gương Đức Giêsu, Người trở nên hèn mọn trước mặt Đức Chúa Cha, hóa thân làm phàm nhân, người Kitô hữu cũng nhìn nhận mình là tạo vật hèn mọn, chẳng là chi cả trước Thiên Chúa, như bắt chước người thu thuế đứng đàng xa, thậm chí chẳng dám ngước mặt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng:” Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.“ ( Lc 18, 13 )
Hoặc khi làm được bất cứ việc chi tốt lành, hãy nhận lấy thân phận hèn mọn, đầy tớ bất xứng mà thưa cùng Chúa, như Người đã từng dạy: “Chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm.”(Lc 17, 10)
Thánh Phêrô còn minh định thêm về đức khiêm nhường: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường. Vậy anh em hãy tự khiêm tự hạ dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa, để Người cất nhắc anh em khi đến thời Người đã định.” (1Pr 5, 5-6)
Khi một viên chức cao cấp của chính phủ Ấn Độ chúc mừng Mẹ Têrêsa được trao giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 1979, thì Mẹ vui vẻ đáp lại: “Tất cả vì vinh quang Chúa!”
“Người khiêm nhượng như hạ mình sát đất, không còn ngã xuống đâu nữa. Người kiêu ngạo như leo trên tháp cao, rất dễ nhào và ngã nặng khủng khiếp.” (Đường Hy Vọng, số 517)
Lạy Chúa Giêsu, luôn hiền hậu và khiêm nhường, xin ban cho chúng con biết sống hèn mọn ngay với bản thân, với tha nhân và nhất là với Thiên Chúa cao cả, để có hiệp thông vào mầu nhiệm Nước Trời.
Lạy Mẹ Maria, kính xin Mẹ dạy chúng con noi gương Mẹ, trở nên đầy tớ hèn mọn, để được Chúa đoái thương nhìn đến. Amen.
25.Ai vất vả mang gánh nặng nề
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
“Hãy đến với ta….!” Đối tượng của lời kêu mời tâm tình nhất Đức Giêsu từng làm là ‘những ai đang vất vả mang gánh nặng nề’. Nhưng họ là những ai? Câu trả lời không viển vông chút nào và rất cần thiết, vì nếu không xác định rõ, rất có thể chính tôi sẽ tự loại mình ra khỏi số đối tượng được Chúa kêu mời cách khẩn thiết nhất.
Tra cứu một số nhà chú giải kinh thánh để tìm đáp án, tôi đã khám phá ra điều đáng kinh ngạc. Ngoài ý nghĩa gánh nặng luật pháp mà người Do Thái thời đó phải gánh chịu, với vô vàn các nghi lễ và qui định đè nặng trên đầu trên cổ, căn cứ vào đoạn sách Công Vụ Tông Đồ 15,10, phần đa các tác giả, dựa vào Thánh Vịnh 38 (37), nhất trí coi ‘ai mang gánh nặng nề’ là những kẻ tội lỗi “Tội chồng chất ngập đầu ngập cổ, như gánh nặng vượt quá sức con (câu 5). Xin đan cử ra đây lời chú giải tiêu biểu của Barnes: ‘Không còn nghi ngờ gì nữa, đối tượng Ngài kêu mời chủ yếu là các tội nhân đáng thương, lầm lạc và quị ngã: những con người bị đè bẹp dưới gánh nặng của ý thức những lỗi lầm đã phạm, run rẩy trước hiểm nguy bị luận phạt, và tìm mọi cách để được giải cứu. Trước tình trạng đó, một lối thoát đã được mở ra. Đức Ki-tô kêu mời họ tới với Ngài, tin vào Ngài, và phó thác cho Ngài, và chỉ mình Ngài mà thôi, hầu được giải thoát và cứu rỗi. Thực hành điều này, Ngài sẽ cho họ an nghỉ – an nghỉ khỏi tội lỗi mình phạm, an nghỉ khỏi lương tâm cắn rứt, an nghỉ khỏi các luật pháp đáng khiếp sợ, và an nghỉ khỏi nỗi sợ hãi phải trầm luân muôn đời.’
Cuộc thổ lộ tâm tình nhất của Thánh tâm Giêsu (Thánh Phanxicô Sa-lê gọi là ‘heart speaks to hearts’) có đối tượng duy nhất là các tội nhân. Ai tự cho mình là thánh thiện, là đạo đức, là khôn ngoan thông thái… đều tự tách mình ra khỏi lời mời gọi này. Quả không sai khi Người dâng lời tạ ơn lên Chúa Cha vì ‘… đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn!’ Điều này hoàn toàn ăn khớp với lời Người từng tuyên bố ngay từ thời gian đầu của sứ vụ rao giảng: ‘Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năm’ (Lc 5, 31-32). Trong thổ lộ tâm tình này, tầng số mà hai con tim cùng rung lên, cùng đập để rồi gắn chặt lại với nhau là cực thấp cực trầm. Tầng số đó không gì khác hơn là khiêm hạ, khiêm nhường thẳm sâu. “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường”. Về phía Thiên Chúa, khiêm hạ có vẻ là điều không tưởng vì địa vị quyền uy tột bậc của ngài, nhưng qua Đức Giêsu trong việc nhập thể trở nên giống chúng ta mọi đàng, nó đã trở thành nét đặc sắc nhất của Thiên Chúa. Còn lại là phía chúng ta. Vẫn tưởng rằng khiêm nhường sẽ dễ lắm, nhưng thực tế không phải vậy. Kinh nghiệm cho thấy, gợi nhớ sự thấp hèn và tội lỗi của thân phận mình vẫn là điều cực kỳ khó khăn, kinh tởm, hầu như không thể vượt qua nổi đối với phần đa mọi người chúng ta. Thậm chí ngay trong nỗ lực sống lành thánh, nhiều khi ta vẫn còn thấy lởn vởn đâu đó nỗi sợ hãi phải nhìn nhận thân phận tội lỗi và thấp hèn của mình.
Lòng tôn sùng Thánh Tâm vì thế đòi nơi tôi điều kiện sine qua non là đi sâu vào con người vất vả gánh nặng của mình. Con tim tôi càng nặng nề, Trái Tim Chúa càng dễ dàng tiếp nhận và bao bọc lấy; đồng thời, trong cái lỗ vết thương sâu hoắm của tội lỗi và luận phạt, nó càng có khả năng đón nhận trọn vẹn lòng nhân từ và thương xót của Thiên Chúa. Vinh quang lớn nhất của Thánh Tâm Chúa chính là đây, “Lạy Cha là Chúa tể trời đất, con xin ngợi khen cha!”
Lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa được phổ biến sâu rộng trong thế kỷ 17 với thánh nữ Magarita A-la-cốc (1647-1690) đã dẫn tới tôn sùng lòng thương xót Chúa vào thế kỷ 20 với thánh nữ Faustina (1905-1938). Mong rằng hai ‘tôn sùng’ này không dừng lại ở một vài việc đạo đức, mà sớm trở thành nét nổi bật nhất của Tin Mừng (cả trong suy tư thần học nữa), để giúp Ki-tô hữu chúng ta khám phá ra dung mạo đích thực nhất của Thiên Chúa.
Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, qua vết thương do lưỡi đòng khoét sâu nơi con tim Chúa, thánh Gioan đã nhận ra tình yêu ‘làm của lễ đền tội’ (1Ga 4,10). Con biết mình chỉ có thể vào sâu trong Trái Tim Chúa khi chân thành thú nhận tội lỗi mình đã phạm. Xin cho con học thuộc bài học khiêm nhường mà Thánh Tâm Chúa là thày dạy lỗi lạc nhất. Xin dìm con ngập sâu trong tội lỗi mình để con suy tôn và thờ lạy Thánh Tâm Giêsu Tình Yêu cách chân thật nhất. Amen.
26.Sống hiền hậu và khiêm nhường như Đức Kitô
(Suy niệm của Lm. Anthony Đinh Minh Tiên, OP)
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sống hiền hậu và khiêm nhường như Đức Kitô.
Khi so sánh tiêu chuẩn của Nước Trời với tiêu chuẩn của thế gian, chúng ta nhận ra những khác biệt quan trọng: tiêu chuẩn của Nước Trời thường đối nghịch với tiêu chuẩn của thế gian. Các bài đọc hôm nay chỉ cho ta thấy những khác biệt và lý do của chúng.
Trong bài đọc I, ngôn sứ Zechariah (6 BC) tiên báo Đấng Thiên Sai sẽ vào Thành, không bằng những cỗ xe ngựa dành cho những vị vua chiến thắng khải hoàn; nhưng Ngài sẽ cỡi trên lưng một lừa con, vẫn còn theo sau một lừa mẹ. Trong bài đọc II, thánh Phaolô khuyên các tín hữu không được làm nô lệ cho tính ích kỷ của xác thịt; nếu không, họ sẽ chết. Các tín hữu đã được Đức Kitô giải thoát để sống theo Thánh Thần, nếu họ để cho Thánh Thần hướng dẫn, họ sẽ được sống. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu mặc khải Mầu Nhiệm Nước Trời không được mặc khải cho những người khôn ngoan, thông thái; nhưng được mặc khải cho những người bé mọn (nêpios). Ngài mời gọi tất cả những ai đang cảm thấy những gánh nặng, mệt mòi, và chán chường của cuộc sống, hãy đến với Ngài và học hỏi hai nhân đức hiền hòa và khiêm nhường của Ngài, họ sẽ cảm nhận được sự bình an trong tâm hồn.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Người thống trị từ biển này qua biển nọ, từ sông Cả đến tận cùng cõi đất.
1.1/ Đấng Thiên Sai sẽ đến cách hiền lành và khiêm nhường: Trình thuật chúng ta đọc hôm nay được các học giả xếp loại thuộc về Zechariah thứ hay đệ nhị. Phần này ít nhấn mạnh tới việc xây dựng Đền Thờ sau khi lưu đày, nhưng tập trung trong việc loan báo triều đại của Đấng Thiên Sai sắp tới. Trong số 12 tiên tri nhỏ, Zechariah có lẽ là ngôn sứ cho chúng ta biết nhiều chi tiết nhất về cuộc đời của Đấng Thiên Sai.
Trình thuật hôm nay là một điển hình. Ông cho chúng ta thấy trước Ngày Đấng Thiên Sai long trọng vào thành Jerusalem. Đây là dấu chỉ để nhận ra Đấng Thiên Sai: “Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ.” Khi thấy dấu hiệu này, “Hỡi thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Jerusalem, hãy vui sướng reo hò!” Biến cố long trọng vào thành Jerusalem của Chúa Giêsu hoàn thành lời tiên tri này (Mt 21:5-11; Jn 12:12-15).
1.2/ Đấng Thiên Sai sẽ cai trị cả hoàn cầu: Tuy hiền hòa và khiêm nhường như thế; nhưng Ngài sẽ chinh phục cả hoàn cầu và lên ngôi cai trị toàn cõi đất, chứ không phải chỉ cai trị dân tộc Israel mà thôi. Cách Ngài chinh phục và cách Ngài thống trị hoàn tòan khác biệt với cách của các hoàng đế của thế gian: “Người sẽ quét sạch chiến xa khỏi Ephraim và chiến mã khỏi Jerusalem; cung nỏ chiến tranh sẽ bị Người bẻ gãy, và Người sẽ công bố hoà bình cho muôn dân. Người thống trị từ biển này qua biển nọ, từ sông Cả đến tận cùng cõi đất.”
2/ Bài đọc II: Nếu nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em, thì anh em sẽ được sống.
Chương 8 của Thư Rôma phải được đọc chung với chương 6-7. Lý do là vì con người đã được Đức Kitô giải phóng để khỏi làm nô lệ cho tội lỗi, Lề Luật, và sự chết để sống theo Thần Khí. Nhiều người hiểu lầm thánh Phaolô là ngài quảng bá tư tưởng: con người chỉ cần đặt niềm tin vào Đức Kitô là được cứu độ và không cần làm gì cả. Trong chương 8, thánh Phaolô cắt nghĩa con người được Đức Kitô giải phóng khỏi phải làm nô lệ cho tính xác thịt, để được tự do sống theo Thần Khí.
2.1/ Sống theo tính xác thịt: là sống theo các cảm xúc của con người như sự tham lam của con mắt, sự ham muốn của trái tim, và mọi đam mê dục vọng. Người sống theo tính xác thịt chẳng khác chi loài cầm thú, vì chúng hành động theo bản năng tự nhiên; nhưng con người không được phép sống như thế, vì ngoài thân xác, Thiên Chúa còn ban cho con người có linh hồn, trí tuệ, và ý chí để điều khiển các quan năng của xác thịt. Thánh Phaolô diễn tả điều này như sau: “Nhưng anh em không bị tính xác thịt chi phối, mà được Thần Khí chi phối, bởi vì Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em.” Thần Khí của Thiên Chúa cũng là Thần Khí của Đức Kitô ngự trong các tín hữu để hướng dẫn và ban sức mạnh để các tín hữu có thể sống theo sự thật, những gì Đức Kitô dạy bảo: “Những ai bị tính xác thịt chi phối thì không thể vừa lòng Thiên Chúa.”
2.2/ Sống theo thần khí của Đức Kitô: Thánh Phaolô liệt kê ba lợi điểm của những người sống theo Thần Khí:
(1) Thần Khí làm cho con người được sống: Sống theo thần khí mới là sống thật, sống theo tính xác thịt là làm nô lệ cho tội lỗi và hậu quả là cái chết.
(2) Thần Khí làm cho con người được trở nên công chính: bằng tin và thực hành những gì Đức Kitô truyền dạy. Lề Luật không có sức mạnh làm cho con người nên công chính.
(3) Thần Khí sẽ làm cho con người sống lại từ cõi chết: “Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới.”
3/ Phúc Âm: Hãy học với Ta, vì Ta hiền hậu và khiêm nhường trong lòng.
3.1/ Thiên Chúa thích mặc khải cho những kẻ bé mọn: Có mấy từ chuyên môn chúng ta cần hiểu ở đây:
– Giấu (krupto): có hai trường hợp: (1) Cất giấu đi để đừng ai nhìn thấy; ví dụ: giấu vàng trong ruộng. (2) Giấu kín để đừng ai khám phá ra; ví dụ: giấu tông tích hay những điều bí ẩn của mình. Chúa Giêsu muốn nói về trường hợp thứ hai này.
– Mặc khải (apo krupto) có nghĩa làm cho những gì đã giấu kín được tỏ lộ ra, mang ra ánh sáng những gì đang ở trong bóng tối, hay làm cho một người hiểu những gì họ chưa biết hay còn mù mờ.
– Kẻ bé mọn (nêpios): có thể chỉ một trẻ nhỏ hay những ai chưa tới tuổi thành niên như luật pháp ấn định (ví dụ, 18 tuổi).
Chúa Giêsu so sánh giữa những người khôn ngoan và thông thái (sophos, sunetos) với kẻ bé mọn (nêpios), để nói với khán giả: họ cần có thái độ của trẻ thơ là tin tưởng, khiêm nhường, ham học hỏi, để Ngài chuyển thông cho họ những kiến thức về Thiên Chúa. Một thái độ kiêu hãnh và nghi ngờ sẽ ngăn cản họ nhận ra những gì Ngài muốn mặc khải cho họ. Khi con người muốn lãnh nhận kiến thức về Thiên Chúa, họ phải có thái độ của trẻ: cái gì cũng là mới cả với các em.
3.2/ Kiến thức về Thiên Chúa: “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho.”
(1) Chúa Giêsu là người biết về Chúa Cha rõ ràng hơn ai hết: Động từ Hy-lạp dùng ở đây là “epiginôskô,” biết như một con người hay sự vật là. Con người hiểu biết về Thiên Chúa với nhiều cấp độ khác nhau; nhưng chỉ có Chúa Giêsu hiểu biết Thiên Chúa trong cấp độ hoàn hảo nhất. Điều này không ngạc nhiên, vì Chúa Giêsu là chính Lời hay tư tưởng của Thiên Chúa. Ngài và Cha Ngài là một.
(2) Con người biết Thiên Chúa qua mặc khải của Chúa Giêsu: Nếu Thiên Chúa không chọn để mặc khải cho con người, con người không bao giờ có thể biết Thiên Chúa. Đức Kitô chính là mặc khải của Thiên Chúa; Ngài đến để mặc khải cho con người biết về Chúa Cha, như Ngài đã tuyên bố với các môn đệ: “Ai thấy Thầy là thấy Cha.” Hơn nữa, để con người có thể hiểu những mặc khải này, họ cần được Thánh Thần do Chúa Cha sai tới để hướng dẫn và thúc đẩy từ bên trong.
3.3/ Xét mình trước tôn nhan Thiên Chúa: Mệt mỏi có thể là do lao động (thể xác) hay do sức ép của cuộc sống (tinh thần). Mệt mỏi thể xác có thể được phục hồi bằng việc nghỉ ngơi; mệt mỏi tinh thần phải được chữa trị bằng phương cách tâm linh. Chúa chỉ cho con người biết làm sao để tránh những mệt mỏi tinh thần này.
Tại sao chúng ta đã cố gắng hết sức mà vẫn không thành công? Có thể chúng ta đã không biết cách làm việc để đạt kết quả tốt đẹp? Có thể chúng ta lo lắng quá độ những gì không cần phải lo quá như vậy? Có thể chúng ta đang làm theo ý, theo cách, và theo đường hướng của chúng ta mà không phải là ý, cách, hay đường hướng của Thiên Chúa? Đức Kitô mời gọi chúng ta nhìn lại để học cách làm việc sao cho thành công hơn! Ngài muốn chúng ta quẳng đi những mối lo không cần thiết! Hay chú trọng đến những gì là quan trọng thay vì những cái quá nhỏ nhặt thiển cận!
3.4/ Hai điều quan trọng chúng ta cần học hỏi cùng Chúa Giêsu: Người môn đệ tuy vẫn phải mang ách và mang gánh nặng; nhưng họ không mang chúng theo cách của thế gian, mà mang chúng theo cách của Đức Kitô. Để biết mang ách và gánh đúng cách, họ cần phải học với Đức Kitô. Hai nhân đức quan trọng họ cần học nơi Ngài:
(1) Hiền lành: Đây là mối thứ hai trong Bát Phúc. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Ngài có quyền tiêu diệt những ai nói những lời xúc phạm, đánh đòn, và giết chết Ngài; nhưng Ngài đã không làm những chuyện đó. Ngài chọn con đường tha thứ: “Lạy Cha! Xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm.” Ngài hòa giải con người với nhau và với Thiên Chúa. Ngài dạy phải thương yêu, cầu nguyện và làm ơn cho kẻ thù. Con người cũng thường có khuynh hướng yêu thích những ai hiền lành, nhã nhặn, và tha thứ.
(2) Khiêm nhường: là nhân đức diệt trừ tính kiêu ngạo, tội đầu tiên trong bảy mối tội đầu. Không ai thích người kiêu ngạo và tâm lý chung chẳng ai thích người hay “nổ.” Khiêm nhường là biết mình trong mối tương quan với Thiên Chúa và với tha nhân. Người khiêm nhường biết mọi sự mình có được là do Thiên Chúa ban, nên họ không huyênh hoang lên mặt với người khác; nhưng biết dùng tài năng để mở mang Nước Chúa và phục vụ anh em. Người kiêu ngạo đánh cắp công ơn Thiên Chúa và luôn bất an vì sợ người khác hơn họ. Họ bất an khi không nhận được những gì họ muốn và khó chịu với mọi người.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta cần học nơi Đức Kitô cách lãnh đạo: không bằng cách phô trương quyền hành và danh vọng; nhưng bằng cách khiêm nhường phục vụ và yêu thương mọi người.
– Vì Đức Kitô đã giải thoát chúng ta khỏi làm nô lệ cho xác thịt và ban Thánh Thần, chúng ta phải luôn cố gắng để sống theo sự hướng dẫn và thúc đẩy của Chúa Thánh Thần.
– Chúng ta cần học nơi Đức Kitô hai nhân đức: hiền lành và khiêm nhường. Hiền lành để luôn biết đối xử nhân hậu với tất cả mọi người. Khiêm nhường để nhận ra chỗ đứng hèn hạ của mình trong mối tương quan với Thiên Chúa và với tha nhân.
Ai trong chúng ta cũng đã hơn một lần đi xa cùng với cái cảm giác quay trở về. Trên chặng đường vất vả, với sự chờ đợi cho đến nơi.
Khi đến nơi thì bao nhiêu nhọc nhằn vất vả không còn nữa. Sự mệt nhọc của con đường đi, với những nắng mưa của thời tiếc, những cơn nóng bức, những làn gió mạnh, những bụi bẩn hoà lẫn với khói xe, tất cả những thứ dường như không tồn tại trên đời. Không phải vì chúng ta đã đến được nơi an toàn, nhưng vì chúng ta đã về bên những người thân yêu của mình. Ở bên cạnh những người thân yêu để tận hưởng cuộc sống với họ thì còn hơn cảm giác bình an của riêng mình. Cũng chính vì đến được bên cạnh những người thân yêu, nên bao nhiêu sự mệt nhọc, lo sợ đều tan biến đi. Giờ đây chỉ còn cảm giác êm ái nhẹ nhàng. Tình yêu thương làm cho cuộc sống con người trở nên nhẹ nhàng và có ý nghĩa hơn.
Chúa Giêsu kêu mời: “Hãy đến với Ta, tất cả những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho”.
Ngài nhìn thấy con người bị biết bao sức nặng của trần thế chồng chất trên đôi vai nhỏ bé của họ. Ngài nhìn thấy những người đang gục ngã thảm hại, trước những khó khăn nhọc nhằn mà họ không thể nào vượt qua được. Ngài cũng nhìn thấy có những người đang lê lết, bước đi nặng nề, nhưng họ không muốn cho gánh nặng của mình nhẹ đi, nên họ đang chết dần chết mòn trong những gì mà họ mang lấy. Họ tưởng rằng như thế là vinh quang, như thế là hạnh phúc, họ chỉ bám vào những gì mình suy tưởng, chính vì thế họ không còn nhìn thấy gì ngoài bản thân mình. Họ không còn biết lắng nghe, không tiếng nói nào có thể thâm nhập được vào trong con người của họ. Họ tưởng mình tài năng, tưởng mình đạo đức thánh thiện, họ sống bám vào những ý tưởng đó, họ cũng sẽ chết với những gì họ suy nghĩ, vì không chịu vượt ra khỏi chính mình để biết nhìn, biết lắng nghe và thay đổi cách sống mà chạy đến với Chúa để Ngài nâng đỡ bổ sức cho. Họ là những người khôn ngoan mà Chúa Cha đã không cho nhìn thấy những ý định của Thiên Chúa.
Nếu giờ nầy Chúa Giêsu hiện diện trước mặt mỗi người chúng ta, Ngài sẽ cám ơn Chúa Cha như thế nào về mỗi người trong chúng ta? Ngài cám ơn vì chúng ta là những người bé mọn biết chạy đến với Thiên Chúa, biết mang lấy gánh nhẹ nhàng của Ngài vì chúng ta nhìn thấy, nhận biết thánh ý Chúa để tuân giữ và thi hành trong cuộc sống. Hay Ngài cám ơn vì mọi việc không cho chúng ta nhìn thấy, không cho chúng ta nhận biết, bởi chúng ta chỉ biết có chính mình mà không còn lắng nghe, không còn nhìn thấy gì ngoài con người ích kỷ của chúng ta. Như vậy thì Hồng Ân cứu rỗi của Ngôi Hai Thiên Chúa có ích lợi cho biết bao người, còn bản thân chúng ta thì không được gì hết sao?
Chúng ta để ra một ít phút nhìn lại đời sống, nhìn vào những việc làm đã qua: chúng ta không có thời gian đủ để lo cho công việc cứ bao vây, chìm ngặp trong những tính toán cùng với biết bao dự án cho tương lai. Chúng ta cũng nhìn thấy những người chung quanh mình sao quá tệ, họ không biết làm ăn, không biết toan tính cho cuộc sống, không nhìn thấy những lợi lộc, không biết nhanh nhạy để chộp lấy thời cơ, họ không đủ khôn ngoan. Những lúc đó, là sự khôn ngoan của con người, sự khôn ngoan để tìm những lợi lộc trần thế, sự khôn ngoan mà Chúa Giêsu cảm tạ Chúa Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết Mầu Nhiệm về Thiên Chúa, vì mãi đi tìm những điều không thuộc về Thiên Chúa.
Nếu chúng ta cũng sống với tất cả những gì của trần thế để lo cho cuộc sống của mình và cho nhiều người khác, đồng thời chúng ta dâng lên Chúa những lo toan, những tính toán của mình, xin Chúa hướng dẫn để biết sống theo thánh ý Chúa. Chúng ta cũng nếm trải những khó khăn vất vả, những khổ nhọc của con người và vượt qua cách tốt đẹp vì có Chúa ở cùng. Đó là chúng ta biết đến với Chúa, cùng làm việc với Chúa, cùng mang những gánh của Chúa, nên chúng ta đã vuợt qua thật êm ái và nhẹ nhàng. Ở bên Chúa mọi khổ nhọc như tan biến đi, chỉ còn tình yêu ngự trị.
Xin Chúa ban thêm đức tin cho mỗi người để biết siêng năng chạy đến với Chúa trong từng giây phút của cuộc đời.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Mở đầu đoạn Tin Mừng hôm nay là lời chúc tụng tạ ơn của Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha. Khi Chúa cầm lấy chén, tạ ơn (x. Mt 26,27); Lời tạ ơn diễn tả tâm tình của tạo vật đối với Đấng Tạo Hóa. Chúa Kitô thường quen tạ ơn. Người tạ ơn vì biết trước rằng Chúa Cha đã nhận lời. Người tạ ơn vì sức mạnh uy quyền toàn năng của Thiên Chúa hiển hiện nơi Người để Người tỏ uy quyền toàn năng của Đấng Tạo Hóa ra trước mặt thiên hạ. Người tạ ơn vì công trình cứu chuộc Người đã hoàn tất, và Người tạ ơn vì việc Người làm để tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh.
Như vậy, hiện tại hóa hy tế đời đời của Chúa Kitô trên thập giá trong Thánh Lễ được hiểu như là một hành động tạ ơn cao cả nhất. Chính trong nghĩa đó mà từ “Thánh Thể” là hành động tạ ơn được nên trọn vẹn. Chúa Giêsu đã dâng hiến thân mình thay cho mọi tạo vật trên thế giới. Người cũng mời gọi các tạo vật phải tạ ơn Đấng Tạo Hóa cho xứng.
Tiếp theo hành động tạ ơn là lời Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đến trường Giêsu và học bài “Hiền Lành Và Khiêm Nhường”. Bài đọc I cho thấy, Đấng Messia mà Giacaria nói tới trong Cựu Ước, Đấng ấy không đến trong quyền uy với vũ khí hủy diệt, nhưng đến với một thứ vũ khí đặc biệt là “hiền lành và khiêm nhường”. Vua hòa bình ngồi trên lưng lừa, không đến để giết chết mà để cứu sống (x. Dcr 9,8-10).
Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu tạ ơn Chúa Cha vì Ngài quí chuộng những kẻ bé mọn, hiền lành và khiêm nhường. Chính Ngài đã mạc khải cho họ, trong khi lại giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy (x. Mt 11,25-30).
Nhân dịp này, Chúa Giêsu cũng khuyên những người bé mọn đó hãy “mang lấy ách của Chúa” và “hãy học cùng Chúa” bài học: “Hiền lành và khiêm nhường” trong cuộc sống hằng ngày để làm môn đệ Chúa.
Hiền lành, theo nguyên ngữ Hy lạp được dùng trong Kinh Thánh thì nó có nghĩa là dịu dàng, ngọt ngào, không thô bạo, cứng cỏi. Như thế hiền lành phải có cả bên trong lẫn bên ngoài. Bên trong thì phải êm ái, hòa nhã, yêu thương, khoan dung, thông cảm. Bên ngoài thì phải nhẹ nhàng, không có hành động cứng rắn hay thô bạo. Hiền lành thì phải tránh tính nóng nảy. Hiền lành hay hiền hậu là đức tính tốt lành của người có lòng thương người, không độc ác, nhưng có đức hạnh và hay làm điều thiện.
Lịch sử minh chứng, con người ở mọi nơi mọi thời thường say mê quyền lực và muốn thống trị, sai khiến người khác theo ý mình, nên theo một số người thì hiền lành và khiêm nhường có thể bị coi như một thái độ hèn nhát, nhu nhược. Trái lại, cũng có rất nhiều người cho rằng, người có bản lĩnh vững vàng cao thượng mới có thể thực hiện được nhân đức khiêm nhường và hiền lành, họ đáng được ca tụng.
Hiền lành và khiêm nhường ngày nay không còn được đánh giá cao như xưa. Trước kia, lời khen ngợi tốt nhất mà ta có thể trao tặng cho người khác khi gọi họ là “người hiền lành khiêm nhường”. Nhưng ngày nay, bạo lực lại phổ biến hơn hiền lành dễ thương.
Người hiền triết và khôn ngoan, thường khó đi vào trong các mầu nhiệm Nước Trời, vì họ không mở lòng mình ra để đón nhận các mạc khải của Thiên Chúa; Thiên Chúa không ngừng mạc khải chính mình, nhưng họ thì lại tự tin vào hiểu biết của chính mình; vì thế, mạc khải của Thiên Chúa không làm họ ngỡ ngàng được. Trái lại, người đơn sơ như trẻ nhỏ lại đón nhận được mạc khải của Thiên Chúa; họ giống như tấm bọt biển khô hấp thấm nước vậy, họ ngỡ ngàng và thán phục trước mạc khải của Thiên Chúa. Dĩ nhiên, cũng có trường hợp, họ là học giả khôn ngoan, nhưng khiêm tốn trước Thiên Chúa, họ có thể hiểu biết về Thiên Chúa.
Ngược lại với thái độ của những kẻ tầm thường chỉ biết hành động theo tình tư dục, những bậc hiền nhân quân tử có cái nhìn khác. Những kẻ tầm thường không có cái suy nghĩ và hành động như các vị đó.
Thánh Francois de Sales nói: “Tất cả đều được chinh phục bởi hiền lành chớ không phải bạo lực”.
Nhà hiền triết Mạnh Tử nói: “Thiên đạo vô thân. Thường dữ thiện nhân (Đạo trời không riêng một người, Luôn gia ân cho kẻ hiền lành).
Ông Gandhi nói: “… Tôi tin rằng Ấn độ không phải là vô lực. 100.000 người Anh làm gì mà đến 300 triệu người Ấn kia phải sợ? Bất bạo động đâu phải chịu lụy kẻ làm hại mình. Bất bạo động, là dùng sức mạnh của cả tâm hồn để chống lại với cường quyền của kẻ độc tài”.
“Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” là thông điệp Đức Giêsu gửi đến mỗi người chúng ta. Người đã làm gương trước, chúng ta chỉ việc học đòi bắt chước Người thôi.
Vậy, chúng ta hãy thực hiện được lời Chúa dạy, cố gắng vượt thắng tính nóng nảy và hay trả thù của mình. Đứng trước tấm gương của những người hiền lành nhịn nhục, không ai dám coi họ là những người hèn nhát mà phải suy tôn họ là anh hung.
Trong bài giảng “Tám Mối Phúc Thật” (Mt 5,1-12). Chúa Giêsu đã khẳng định: “Phúc cho ai có tinh thần hiền lành vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa”. Chỉ có người theo học trường Giêsu, quyết học bài học hiền lành và khiêm nhường cả đời, chỉ có người biết cư xử với lòng khoan nhân, mới tìm được an bình và hạnh phúc trên cõi đời nầy cùng sự nghỉ ngơi miên viễn khi đã ‘ra trường’.
Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết khiêm nhường thật trong lòng, để chúng con được kể vào số những kẻ bé mọn của Tin Mừng, những người Thiên Chúa Cha hứa mạc khải cho biết mầu nhiệm Nước Trời. Amen.
29.Mang ách của Chúa, sẽ gặp được bình an
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Sống trong một thế giới mà người nghèo, kẻ yếu, người bị áp bức luôn phải lo lắng, vật lộn với cuộc sống đầy vất vả. Không những thế, họ còn bị đồng loại chất lên vai những gánh nặng trong khi những người kia lại chẳng buồn đưa lấy một ngón tay để nhấc những gánh nặng ấy. Lời mời gọi của Đức Giêsu “hãy đến với Ta” thật ý nghĩa và đầy nguồn an ủi cho những ai vất vả mang gánh nặng nề. Đến với Chúa Giêsu, gánh nặng sẽ vơi đi, mang ách của Người ta sẽ cảm thấy thoải mái nhẹ nhàng, vì ách của Chúa là ách của tình yêu và tha thứ.
Lời Chúa Giêsu thân thưa với Cha Người: “Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn” (Mt 11, 25). Chúa Giêsu hứa ban cho tất cả “sự bổ sức”, nhưng đặt một điều kiện, đó là: “Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng” (Mt 11, 29). Cái “ách đó” là gì, mà thay vì đè nặng thì lại làm vơi nhẹ, thay vì nghiền nát thì lại nâng lên?” Ách của Chúa Giêsu là luật của tình yêu thương, là giới răn mà Người đã để lại cho các môn đệ Người (x. Ga 13, 34; 15, 12).
Nói đến cái “ách”, luật Do thái được xem như đặc quyền của họ, vì sự khôn ngoan là hồng ân của Thiên Chúa thể hiện trong sống hàng ngày. Chúa Giêsu coi mình như là sự khôn ngoan của Thiên Chúa và ban tặng những cái ách ấy cho ai đón nhận Người. Chúa Giêsu chính là mặc khải trọn vẹn về Thiên Chúa và ý muốn của Thiên Chúa cho con người. Người mời gọi: “Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng” hãy đến với Người, hãy tin vào Người, “Người sẽ nâng đỡ bổ sức cho” (Mt 11, 28).
Ách, với mục đích là giúp con vật kéo cầy, kéo xe một cách dễ dàng. Cũng thế, khi chúng ta mang ách của Chúa Giêsu, Người không làm gì khác hơn là giúp đỡ chúng ta bớt đi những gánh nặng. Người mời gọi chúng ta đến mang lấy ách của Người, Người cùng vác ách với chúng ta. Chúa Giêsu mang ách ấy trước hết và đứng bên cạnh chúng ta. Khi hai người cộng tác với nhau kéo chung một cái ách, chắc chắn hơn một khỏe mạnh. Đó chính là điều Chúa Giêsu làm cho mỗi người trong chúng ta.
Thật là lạ, Chúa Giêsu mời gọi kẻ khó nhọc đến với Người để được nghỉ ngơi dưỡng sức, nay Người lại trao thêm ách. Ách là một công cụ để làm việc. Ách là để thi hành một tác vụ, phục vụ Đức Kitô. Chúng ta có đón nhận cái ách mà Đức Giêsu ban cho hay không? Ách của Người không phải là gánh nặng nhưng là êm ái và nhẹ nhàng (x. Mt 11, 30). Thánh Phaolô nói cái ách này sẽ dẫn chúng ta đến tự do, nên khi đón nhận cái ách của Đức Giêsu là chúng ta cũng đón nhận một người “cùng mang ách” với chúng ta.
Ở đoạn trước trong Tin mừng Matthêu, Chúa Giêsu chúc phúc cho những ai “có tinh thần nghèo khó” (Mt 5,3) như thể đã có được nước trời làm sản nghiệp. Hôm nay, Đức Giêsu nói đến “những kẻ bé mọn” (Mt 11, 25) nghĩa là những người hèn mọn và khiêm nhường. Theo nghĩa Kinh Thánh, họ là những người không có uy thế, quyền lực, địa vị hay chức vụ cao sang, chẳng có gì để có thể khoe khoang. Vì thế, họ chấp nhận phó thác nơi Thiên Chúa mà không chút do dự hay kiêu hãnh giả tạo nào.
Tiên tri Dacaria nói đến Vị vua Mêssia lên Giêrusalem cưỡi trên con lười con là con của lừa mẹ, nhắc lại rằng Chúa Giêsu liên kết với chúng ta, dưới ách nặng của sự khiêm nhường và dịu dàng, Người đã mang thân phận người như chúng ta, chịu khổ nạn để cứu chuộc chúng ta. Từ trên nơi cao thẳm, Người đã cúi xuống đất để nghe tiếng van nài, Người đã hạ mình xuống để giải thoát chúng ta khỏi chết.
Chúa Giêsu đề nghị chúng ta mang lấy ách của sự khiêm nhường và hiền hầu, của niềm tin vào tình thương Thiên Chúa và phó thác trong tay Người, xin Người cứu giúp: “Trẻ trung thì mệt, thì mỏi, tráng đinh nghiêng ngả bổ nhào, song những ai trông vào Thiên Chúa, sẽ có sức mạnh luôn luôn đổi mới, chúng mọc cánh như những phụng hoàng; chúng chạy mà không mỏi, chúng đi mà không mệt” (Is 40, 30-31). Thật hạnh phúc biết bao khi chúng ta đón nhận vào lòng sự hiện diện của Chúa, chúng ta sẽ tìm thấy liều thuốc bổ sức như lời Người hứa; và giảm bớt gánh nặng đè trên chúng ta, vì có Chúa vác đỡ chúng ta.
Có người viện cớ hỏi: Vậy tại sao Thiên Chúa không cất đi gánh nặng nơi con người, giải thoát con người một lần cho tất cả các gánh nặng? Thưa là vì Ngài không muốn cứu chúng ta mà không có chúng ta. Thiên Chúa dành cho chúng sự tôn trọng và yêu thương trong lúc ấy.
Chúng ta đang đứng trước một mầu nhiệm. Mầu nhiệm này là chỉ mạc khải cho những kẻ bé mọn nghĩa là những người không cậy dựa và sức riêng mình để tự cứu mình mà chỉ cậy dựa vào Chúa, những người không đặt an toàn vào sự hiểu biết nhân loại nhưng trong Người Con đã được mạc khải cho họ, bởi vì họ biết ngoài Người ra, họ không thể làm gì được.
Niềm vui cả thể của con người là được gắn bó với Đức Kitô và phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa là Cha. Biết được Chúa Cha yêu mến, kết hợp với Ngài và tin tưởng vào Ngài như người con bé nhỏ đặt an toàn trong tay bố của mình.
Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết khiêm nhường thật trong lòng, để chúng con được kể vào số những kẻ bé mọn của Tin Mừng, những người Thiên Chúa Cha hứa mạc khải cho biết mầu nhiệm Nước Trời.
Lạy Đức Trinh Nữ Maria, Nữ Vương của lòng từ mẫu, xin giúp chúng con “ học” nơi Chúa Giêsu sự khiêm nhường thật, cương quyết mang lấy ách êm ái Người trao, để sống an bình nội tâm, và giúp chúng con an ủi các anh chi em khác đang mệt nhọc bước đi trên con đường cuộc sống. Amen.
30.Cha đã mặc khải cho kẻ bé mọn
(Suy niệm của Lm. Gioan Trần Khả)
“Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những ngưòi hiền triết khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn.”
Một nguời giầu kia luôn luôn đầy nỗi lo lắng. Tuy ông có tất cả mọi cái mà những nguời trên thế gian này muốn có, lòng của ông vẫn không đuợc vui. Ngược lại, ông có một nguời đầy tớ biết đặt niềm tin vào Thiên Chúa. Một hôm, khi nguời đầy tớ này thấy chủ mình qúa lo lắng buồn rầu tuởng chừng chết đi được, anh liền đến nói với ông chủ, “Thưa ông, có phải Thiên Chúa đã là người cai quản cái thế giới này trước khi ông được sinh ra không ạ?”
“Đúng như thế!” Ông chủ đáp.
Nguời đầy tớ lại hỏi tiếp, “Thưa ông, có phải chính Thiên Chúa sẽ tiếp tục cai quản thế giới này sau khi ông qua đi không ạ?”
Ông chủ lại trả lời, “Đúng như thế!”
Người đầy tớ hỏi lại, “Như vậy không lẽ không thể để cho Thiên Chúa cai quản cái thế giới này trong khi ông đang sống hay sao?” (Vaswani, “The Good You Do Return”, 58).
Thánh Matthêu liệt kê thứ tự lời của Đức Giêsu trong bài phúc âm:
Ngợi khen Thiên Chúa Cha (25-26).
Nhận diện danh tánh cuả Đức Giêsu (27).
Lời kêu mời đến với Đức Giêsu (28-30).
Ngợi Khen Thiên Chúa Cha
Bắt đầu bằng công thức cầu nguyện theo truyền thống của Do Thái giáo, Đức Giêsu ca ngợi Thiên Chúa Cha vì Ngài đã không tỏ lộ chân lý cho những nguời thông thái học cao hiểu rộng, nhưng cho những kẻ bé mọn, đơn sơ. Chính những nguời bình dân, bé mọn, đơn sơ, thiếu học thức lại là những nguời đã theo Đức Giêsu ngày này qua ngày khác để nghe những lời giảng dạy của Ngài. Họ đã nhận biết Đức Giêsu là ai để rồi đặt niềm tin tuởng nơi Ngài. Còn những nguời thông thái như Pharisiêu và các luật sỹ thì lại ngày đêm lo lắng bày mưu tìm kế bắt bẻ Đức Giêsu và tố cáo Ngài là kẻ lộng ngôn phạm thượng. Họ đã dựa vào sự khôn ngoan thông thái thế gian, và kết qủa là không biết Đức Giêsu là ai. Nguời đầy tớ đơn sơ và khiêm tốn trong câu truyện trên đây đã dạy cho ông chủ của anh một bài học thật đáng gía giống như tinh thần của lời Chúa. Sự giầu sang, quyền qúy khôn ngoan ở đời này không thể dạy và đưa chúng ta đến với Thiên Chúa.
Nhận diện Danh Tánh Đức Giêsu
Nhiều nguời thời nay cũng không khác gì những nguời trong thời của Đức Giêsu. Trong các giáo xứ chúng ta thâý không thiếu bóng dáng những ngừời giáo dân đơn sơ chân thành qùy gối tôn thờ trưóc Thánh Thể hoặc mân mê chuỗi mân côi lâm râm cầu kinh trưóc toà Đức Mẹ với tấm lòng thành kính tin yêu. Trong khi đó chúng ta cũng không thiếu những nguời dành thời giờ đọc sách, đọc báo và tìm những lý lẽ để bắt bẻ đạo lý của Giáo Hội. Có những nguời đã cho mình là khôn ngoan hiểu biết, bận rộn trích dẫn kinh thánh cách sai lạc, thâu băng, viết thư để bài bác bôi nhọ những lời giảng dạy của các linh mục. Họ đã quên không dành thời giờ để tạo cho mình một lối sống gần gũi với Thiên Chúa và tha nhân. Gần đây nhất, là trong khi Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II và các Hồng Y Hoa Kỳ hội họp để tìm ra giải pháp đối phó với vấn đề tội phạm lạm dụng tình dục đối với trẻ vị thành niên của một số linh mục theo tinh thần của Lời Chúa, thì thay vì xây dựng thêm, nhiều nguời lại tìm mọi lý lẽ để bài bác, phê bình chỉ trích tinh thần phục vụ cuả các vị lãnh đạo trong Giáo Hội Công Giáo. Họ cho rằng các ngài tiếp tục bưng bít và bao che sự xấu xa. Nhiều nguời đã về hùa với báo chí để mạnh lời chỉ trích hàng linh mục và coi như lối sống độc thân của hàng linh mục Công Giáo là lỗi thời. Nhiều nguời đã hiểu lầm cho là tại vì Giáo Hội đòi buộc các linh mục sống độc thân cho nên mới gây nên những tội trạng xúc phạm tới trẻ em như thế. Nguời ta đã không hiểu được lời của Đức Giêsu, “Không phải ai cũng hiểu được câu nói ấy, nhưng chỉ những ai được Thiên Chúa cho hiểu mới hiểu. Qủa vậy, có những nguời không kết hôn vì từ khi lọt lòng mẹ, họ đã không có khả năng; có những nguời không thể kết hôn vì bị người ta hoạn; lại có những nguời tự ý không kết hôn vì Nước Trời. Ai hiểu được thì hiểu” (Mt 19:11-12). Nguời ta đã quên đi tinh thần tha thứ, nhân từ và thương yêu để rồi nặng lời chỉ trích Giáo Hội và không còn tình thương xót khi lên án những nguời đã phạm tội. Nguời ta đã không hiểu rằng Đức Giêsu đến không phải để kêu gọi nguời công chính, nhưng là để kêu gọi những nguời tội lỗi biết ăn năn xám hối. Ngài đến để cứu chữa những nguời yếu đau bệnh tật. Cũng chính vì tinh thần của Đức Giêsu mà nhiều nguời trẻ thay vì muốn tiến thân làm giầu ở xã hội, đã dấn thân dâng hiến đời mình trong đời sống tu trì để phục vụ tha nhân, chăm lo cho những nguời yếu đau bệnh tật, và thăm hỏi những tội phạm trong các nhà giam. Lời cuả Đức Giêsu hôm nay lại là một thách đố cho chúng ta luợng định xem mình thuộc hạng nguời nào? Khôn ngoan thông thái, hay khiêm nhường bé mọn? Thực sự hiểu lời Chúa hay không hiểu lời Chúa? Biết Thiên Chúa hay không biết Thiên Chúa?
Đến Với Đức Giêsu
Để hiểu đưọc lời Chúa và biết Thiên Chúa, phuơng tiện duy nhất là đến với Đức Giêsu. Không ai biết đưọc Thiên Chúa Cha trừ ra Đức Giêsu, và những nguời được Đức Giêsu chỉ dạy cho. Báo chí và các nhà bình luận muốn nói gì thì nói, nhưng chúng ta chỉ có thể hiểu biết Thiên Chúa qua Tin Mừng của Đức Giêsu và các lời giảng dạy, giáo huấn của Giáo Hội mà thôi. Thêm nữa có thể vì nghe biết về tội lỗi của một số linh mục và cả giám mục xẩy ra trong Giáo Hội làm cho chúng ta phần nào cảm thấy mệt mỏi, buồn nản và chán chường. Đây cũng là lý do và là thời điểm để chúng ta lắng nghe lời mời gọi của Đức Giêsu, “Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ và bổ sức cho các nguơi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhưòng trong lòng, và tâm hồn các nguơi sẽ gặp được bình an” (Mt 11:28-30). Ách của Đức Giêsu là ách của tinh thần hiền lành và khiêm tốn, chứ không phải ách của tôị lỗi, của thù hận, của nguyền rủa và lên án.
31.”Hãy học cùng Ta…” – PM. Cao Huy Hoàng
Cuối mỗi cấp, học sinh hoặc sinh viên phải thi lấy bằng tốt nghiệp ra trường, gọi là tốt nghiệp trung học, tốt nghiệp đại học. Không biết có ai đã dùng từ tốt nghiệp cho những người học Giáo Lý, Giáo Lý Dự Tòng, Giáo Lý Hôn Nhân không, nhưng hình như mới đây, hai từ “tốt nghiệp” cũng dành cho những Đại Chủng Sinh hoàn tất chương trình Đào Tạo Linh Mục tại các Đại Chủng Viện.
Thiết tưởng, ấy cũng chỉ là chuyện từ ngữ theo cách của xã hội mà thôi.
Điều quan trọng ở chỗ: học không phải chỉ để tốt nghiệp, càng không phải để lấy bằng tốt nghiệp, nhưng là để có một cuộc biển đổi nên người trưởng thành. Học sinh nên người trưởng thành là có ý thức và trách nhiệm về tư tưởng, lời nói việc làm của mình. Cũng vậy, người học Giáo Lý nên người trưởng thành, ấy là có ý thức chuẩn xác về ơn gọi được làm con cái Thiên Chúa, nhờ Chúa Giêsu Kitô, và có trách nhiệm sống cho ra người con của Thiên Chúa.
Tin Mừng hôm nay cũng nhắc đến chữ “học”: “Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an”.
Trong Tin Mừng, tất cả những câu mệnh lệnh của Chúa Giêsu đều nói đến việc “làm”, như: “Hãy tin”, “hãy từ bỏ”, “hãy cầu nguyện”, “hãy tha thứ”, “hãy yêu nhau”… “Đừng thù oán”, “đừng lên án”… Và chỉ có một câu duy nhất này, Chúa bảo “hãy học”.
Như vậy, hẳn là môn học mà Chúa Giêsu bảo chúng ta hãy học, ấy là môn học quan trọng lắm. Đã vậy Chúa lại bảo “hãy học cùng Ta”, không học ở nơi thầy nào khác, cho thấy rằng chỉ có Chúa Giêsu mới xứng đáng là thầy dạy môn học nầy. Môn học đó là “hiền lành và khiêm nhượng trong lòng”.
Hãy học cùng Chúa Giêsu, vì Chúa hiền lành và khiêm nhượng trong lòng.
Quả thật, chỉ có Chúa Giêsu mới là người hiền lành kiểu mẫu, hiền lành đến mức chấp nhận thương tích mà không đánh trả, hay báo thù; hiền lành vì yêu và yêu cả người phản bội, sỉ nhục, thóa mạ hay hành hung tàn nhẫn… đúng như Ngôn Sứ Isaia đã tiên báo: “Người hiến thân vì Người tình nguyện và không mở miệng như con chiên hiền lành bị đem đi giết, và như chiên non trước mặt người xén lông, Người thinh lặng chẳng hé môi” (Is 53, 7). Và Thánh Vịnh 30 mô tả chân dung của Chúa Giêsu: “Con đã nên trò cười cho thù địch và cho cả hàng xóm láng giềng. Bạn bè thân thích đều kinh hãi, thấy con ngoài đường, ai cũng tránh xa” (Tv 30).
Sự hiền lành ấy còn mang nét đẹp trung tín đến ngàn đời, không có gì thay đổi được bản tính “hiền lành, hay thương xót” của Thiên Chúa Cha, phản chiếu nơi Chúa Giêsu, Người Con chí ái. Ấy vậy, Ngôn Sứ Giêrêmia nói: “Tôi giống như con chiên trung tín bị đem đi giết, và tôi không hề biết họ đang trù tính những điều độc ác chống lại tôi” (Gr 11, 19).
Chỉ có Chúa Giêsu mới là người khiêm tốn, như Ngôn Sứ Dacaria ca tụng: “Này vua ngươi đến với ngươi. Người khiêm tốn ngồi trên lừa con, con của lừa mẹ” (Dcr 9, 9).
Và Thánh Tông Đồ Phaolô còn khẳng định lòng khiêm nhượng của Chúa Giêsu sâu thẳm đến mức không giữ cho mình địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng lại khiêm hạ vâng phục Thiên Chúa Cha mọi đàng: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. (Pl 2, 6-8)
Bài học “hiền lành và khiêm nhượng” của Chúa Giêsu quả là một bài học khó nuốt, vì có vẻ như bài học ấy muốn dẫn học viên đến cái chết vì yêu, như Ngài đã chết vì yêu vậy. Hơn nữa, lại không thấy Chúa nói gì đến lễ tốt nghiệp, hay được vinh quang gì khi tốt nghiệp.
Thực ra, Chúa đã nói đến lễ tốt nghiệp ấy rồi: “và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an”.
Chúa muốn chúng ta được bình an trong cuộc đời. Bình an có một giá trị lớn lao trong đời sống con người, vì khi có bình an hồn xác, ta mới có được hạnh phúc. Bình an là kết quả của lòng hiền lành khiêm nhượng, vì Chúa biết khi không có lòng hiền lành và khiêm nhượng thì chỉ chuốc lấy đau khổ, khó nhọc và gánh nặng.
Vì muốn chúng ta được bình an, Chúa Giêsu đang mời gọi chúng ta đến và học cùng Ngài: “Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái, và gánh của Ta thì nhẹ nhàng”.
Nhìn lại cuộc sống chúng ta, quả là đang khó nhọc và gánh nặng.
Khó nhọc, gánh nặng là vì chưa khiêm nhượng trong lòng đủ để có thể ký thác đường đời cho Chúa, lại ảo tưởng với trí tuệ, khả năng, sự khôn khéo của mình có thể giải quyết mọi vấn đề để mang lại cho mình bình an hạnh phúc.
Khó nhọc và gánh nặng là vì không đủ hiền lành nhẫn nhịn chấp nhận sự thua kém, lại nông nổi lao mình vào chỗ tranh chấp hơn thua để chuốc lấy cái mất bình an cứ dày vò, đày đọa tâm hồn.
Khó nhọc và gánh nặng cho nhau trong cuộc đời, là vì không đủ hiền lành và khiêm tốn nhìn nhận mỗi sự hiện diện của người bạn đời, của tha nhân, kể cả của người nghèo hèn thấp kém, mất tư cách, mất phẩm hạnh… đều có thể mang lại cho ta một hồng ân quí giá của Thiên Chúa.
Khó nhọc và gánh nặng vì lòng tự phụ, vì tính chủ quan của người lớn hoặc tự cho mình là lớn, hoặc chỉ thích “chức” quyền, mà không chấp nhận thi hành nhiệm “vụ”, chắc chắn sẽ có lúc vấp ngã trên đường đời, để lộ chân tướng dối trá của lòng mình ra cho thiên hạ đàm tiếu.
Khó nhọc và gánh nặng là vì mình đành lòng chấp nhận làm nô lệ cho những đam mê xác thịt hay hư nát này: hư danh, lạc thú, giàu sang, hưởng thụ…dẫn đến sự suy sụp tinh thần, kiệt quệ sức lực, mất cả ý chí nghị lực trong cuộc đời.
Thánh Phaolô khuyến cáo: “Chúng ta không phải là những kẻ mắc nợ xác thịt, để chúng ta sống theo xác thịt. Vì chưng, nếu anh em đã sống theo xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Trí mà anh em đã giết được các hành động xấu xa của thân xác, thì anh em sẽ được sống” (Rm 8, 11 – 13).
Vâng, chính những món nợ xác thịt làm cho chúng ta ra khó nhọc và gánh nặng, ra đau khổ và mất bình an. Món nợ hư danh, món nợ nhục dục, món nợ của cải phù vân, món nợ hưởng thụ. Như tâm sự của một tác giả:
…Tôi đã vay của trần gian,
mấy ngàn mảnh hữu danh vô thực
Tôi đã mượn của thân xác phù vân,
những thoáng mơ màng hạnh phúc
Tôi phải trả cho người,
bằng sự nô lệ cả đời tôi
Tôi phải trả cho phù vân,
bằng sự chết nghìn thu tan tác.
Có còn được nghe niềm bình an ca hát
Nơi vực thẳm lòng kiêu ngạo của tôi?
Ôi! Đức Khiêm Hạ trên cao vời
Hãy nhỏ xuống lòng tôi,
mấy giọt ân tình lòng thứ tha, thương xót
một kiếp đời không chịu học Chúa Giêsu.
(Tuyết Mai Texas)
Chúa Giêsu luôn mời gọi chúng ta sống “hiền lành và khiêm nhượng” theo gương Ngài, không phải để chúng ta phải chết, nhưng là để chúng ta được vinh dự chết cái tôi kiêu hãnh, cái tôi mặt dày mặt dạn của mình, cái tôi khó từ bỏ của mình để sống cho người khác được sống; để chúng ta cất được những khó nhọc, những gánh nặng do làm nô lệ tính xác thịt của mình; và cuối cùng, là để tâm hồn chúng ta được bình an.
Lạy Chúa Giêsu hiền lành khiêm nhượng trong lòng, xin cho chúng con biết yêu mến Chúa, tin tưởng Chúa và học cùng Chúa sự hiền lành khiêm nhượng, để chúng con được thanh thản, bình an, hạnh phúc trong Chúa luôn. Amen.
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta một bài học rất quý báu. Xét về mặt tâm linh hay tu đức thì đây là một bài học có tác dụng giúp ta có những phẩm chất đạo đức đáng quý; xét về mặt đối nhân xử thế thì bài học nầy cống hiến cho ta bí quyết thu phục nhân tâm.
Bài học nầy được Chúa Giêsu rút ra từ kinh nghiệm cuộc sống của Ngài và truyền dạy lại cho chúng ta, đó là:
“Hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng.”
Người dịu hiền khiêm nhường là người nhận ra thân phận mình vốn thấp hèn yếu đuối nên biết hạ mình xuống thấp.
Nước lúc nào cũng chảy về chỗ trũng; cũng thế, tình thương và ân sủng của Thiên Chúa cùng với tình thương và lòng quý mến của mọi người thường tuôn về với những người có đức tính dịu hiền và khiêm nhượng.
Vậy ai học được tâm tình dịu hiền và khiêm nhượng như Chúa Giêsu, người ấy sẽ được đón nhận tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa cũng như của mọi người chung quanh. Ay là người thành đạt nhất, hạnh phúc nhất.
Tôi xin mượn lại hai câu chuyện sau đây để làm sáng tỏ chân lý nầy.
Chuyện ngụ ngôn của Esop: gió và mặt trời.
Ngày nọ, thần gió gặp thần Mặt Trời và hai bên muốn so tài hơn thua. Mặt trời nói với gió:
– Ai trong chúng ta lột được áo choàng của người bộ hành đang đi kia được là người chiến thắng.
Gió chấp nhận ngay cuộc so tài và đòi ra tay trước. Nó thổi tới tấp, cát bụi tung bay mịt mù, nhưng càng thổi mạnh bao nhiêu thì người bộ hành càng ghì chặt chiếc áo choàng của mình bấy nhiêu. Cuối cùng gió kiệt sức và nhường lại cho Mặt Trời thi thố tài năng.
Mặt trời từ từ chiếu dọi ánh sáng của nó xuống, cách nhẹ nhàng nhưng tạo nên sức nóng hầm hập, khiến người bộ hành không chịu nổi hơi nóng đành phải cởi áo khoác ra.
Thế là mặc dù Gió hung bạo mạnh mẽ nhưng đành thua cuộc; còn Mặt Trời dùng đường lối êm dịu nhẹ nhàng mà dành được chiến thắng.
Đó mới là chuyện ngụ ngôn tây phương, có tính cách sáng tạo để răn đời, còn đây mới là chuyện thực, vào đời chiến quốc bên Trung quốc.
Liêm Pha và Lạn Tương Như
Vua Triệu phong Lạn Tương Như làm tướng quốc. Liêm Pha cậy mình có công hơn mà lại đứng dưới nên tức giận, hăm hễ gặp mặt Lạn Tương Như là giết.
Tương Như nghe nói thế thì tìm cách lánh mặt Liêm Pha mãi.
Một hôm, Tương Như ra đường, gặp toán lính tiền đạo của Liêm Pha, vội bảo tên đánh xe đi tránh vào trong ngõ, đợi Liêm Pha đi qua rồi mới đi ra.
Bọn xa nhân thấy thế tức giận, bèn họp nhau hỏi Tương Như:
“Chúng tôi bỏ nhà cửa, xa thân thích đến đây hầu ngài, tức coi ngài là bậc trượng phu nên yêu mến mà đi theo. Nay ngài cùng Liêm tướng quân cùng hàng mà hạng thứ lại ở trên. Liêm tướng quân doạ ngài, ngài đã không báo lại, đã tránh ở triều nay lại tránh ở ngoài đường. Sao ngài lại sợ quá thể vậy? Chúng tôi thật lấy làm xấu hổ, vậy xin đi thôi, không ở nữa.”
Tương Như nói: “Các ngươi xem Liêm tướng quân có hơn được vua Tần không?”
Bọn xa nhân thưa: “Không”.
Tương Như nói: “Lấy như cái oai của vua Tần, thiên hạ không ai dám chống, Tương Như nầy một mình dám mắng giữa triều đình, lại làm nhục cả quần thần nữa. Tương Như dẫu hèn, há lại sợ một Liêm Tướng Quân ư? Nhưng ta nghĩ Tần sở dĩ không dám đánh Triệu là vì ngại có ta và Liêm tướng quân. Nay hai con hổ tranh nhau, tất không cùng sống. Tần mà nghe tin ấy tất thừa cơ đánh Trịêu. Ta sở dĩ chịu nhục tránh Liêm tướng quân là vì coi việc nước là trọng mà thù riêng là nhẹ vậy thôi”.
Bọn xa nhân quỳ mọp tâu rằng: “Tiểu nhân chúng tôi trí hẹp làm sao độ nổi đại chí của tướng công”.
Liêm Pha hay được tin nầy, cả thẹn than rằng: “Ta thật còn kém Lạn Tương Như nhiều lắm”, bèn trần vai áo đến trước cửa Tương Như tạ tội: “Tính tôi thô bạo, đội ân tương quốc bao dung, nghĩ lấy làm hổ thẹn quá!”
Tương Như đỡ dậy, nắm tay cùng khóc và kết bạn sống chết có nhau.
(Trích lại của Thu Giang Nguyễn Duy Cần, trong cuốn: ‘Thuật xử thế của người xưa’)
Thế là bằng đường lối nhịn nhục, hiền lành và khiêm nhượng, Lạn Tương Như hoàn toàn chiến thắng và chinh phục được cả con người lẫn tâm hồn Liêm Pha.
Đúng như Pascal nhận xét: “Người ta chỉ thực sự vĩ đại khi biết quỳ gối xuống….”
Người tự cao tự đại cho mình là giỏi, cho mình là đúng, không cần học ai, nên không bao giờ giỏi, không bao giờ thành công trên đường đời; trái lại chỉ thu tích thêm căm ghét của người khác.
Người khiêm tốn là người thấy được mình còn nhiều mặt yếu kém, nên sẵn sàng nghe người khác chỉ giáo cho và nhờ đó sẽ trở thành người khôn ngoan và giành được thắng lợi.
Nhưng nói cho cùng, cái thắng lợi lớn nhất đời người là được mọi người chung quanh yêu thương quý mến và chỉ có những ai có tâm hồn dịu hiền khiêm nhượng mới đón nhận được diễm phúc nầy.
33.Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà
HỌC SỐNG HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỢNG VỚI CHÚA GIÊSU
Nhiều người cho rằng muốn trở nên hùng mạnh và thắng được người khác thì mình phải hung tợn hơn, tàn ác hơn, phải dùng sức mạnh để quật ngã, phải dùng khí giới để huỷ diệt và khủng bố kẻ thù… Nhưng suy nghĩ như thế là thiển cận và sai lầm.
Lịch sử loài người cho thấy những bạo chúa hung tàn bậc nhất như Nê-rô thời xưa, Hitler, Polpot thời nay hay bất kỳ một thế lực bạo tàn nào… tuy họ nắm được quyền lực trong tay và dùng bạo lực cường quyền để uy hiếp người khác, nhưng rốt cuộc, họ đều bị hạ bệ, bị người đời lên án và chuốc lấy thất bại não nề.
Trong khi đó, lịch sử đánh giá rất cao những con người hiền lành, khiêm nhượng, ôn hoà bất bạo động như Mahatma Gandhi, Martin Luther King và nhiều hiền nhân khác đã biết dùng sự hiền hậu, dịu dàng để chiến thắng sự hung bạo một cách hiệu quả và vẻ vang. Nhân loại qua bao thời vẫn nhìn nhận họ là những bậc vĩ nhân đáng ngưỡng mộ, biết dùng “nhu để thắng cương”, biết “dụng nhược để thắng cường” (Lão Tử).
Thế nên, mặc dù Chúa Giêsu có rất nhiều phẩm chất cao đẹp đáng nêu gương, nhưng phẩm chất đầu tiên mà Ngài kêu gọi mọi người nên học với Ngài là đức tính hiền hậu và khiêm nhường. Qua Tin mừng Mát-thêu chương 11 câu 29, Chúa Giêsu mời gọi: “Hãy học với tôi vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhượng.” (Mt 11, 29) và “Phúc thay ai hiền lành vì họ sẽ được Đất Nước làm cơ nghiệp” (Mt 5, 4).
Hiền hậu là lợi khí của người khôn
Trong vườn Dầu, khi Phê-rô tuốt gươm ra để bảo vệ Chúa trước đám đông binh lính xông đến bắt Ngài, Chúa Giêsu bảo ông: “Hãy xỏ gươm vào bao. Ai dùng gươm sẽ phải chết vì gươm.” (Mt 26,52)
Bạo lực không là giải pháp khôn ngoan, nên người khôn không bao giờ dùng bạo lực để kháng cự bạo lực, không dùng hận thù để trả đũa hận thù, nhưng biết dùng tính khiêm nhường hiền hậu để ứng xử với mọi người, ngay cả khi bị người khác đối xử tàn ác, thô bạo với mình.
Khi búa tạ tấn công vào đá; đá sẽ dùng sự cứng rắn của mình để kháng cự lại nên bị vỡ tan. Đá thất bại hoàn toàn.
Khi búa tấn công nước; nước sẽ dùng sự mềm mại dịu hiền của mình để đối lại. Bằng cách nầy, nước không hề bị sứt mẻ hư hao, còn búa thì bị chìm lĩm xuống tận đáy bùn! Thế là nước thắng lớn, búa thua to.
Khi búa hung hăng đập vào tường; bức tường sẽ dùng sự cứng rắn của mình chống lại sự thô bạo của búa; thế là bức tường cao sẽ bị sập xuống. Tường thất bại.
Thế nhưng, khi búa đập vào bức màn; tấm màn sẽ dùng sự dịu dàng của mình né tránh sự thô bạo của búa. Màn bình yên vô sự, còn búa sẽ bị mất thăng bằng và bị lao vào khoảng không. Thế là màn chiến thắng.
Như thế, với tấm lòng hiền hậu, khiêm nhường, dịu dàng, mềm mại… người ta có thể thắng được sự thô bạo, hung hăng của người khác.
Ngoài ra, với đức tính khiêm nhường hiền hậu, người ta không chỉ thắng được những lực đối kháng bên ngoài mà còn chinh phục được lòng người. Như nước luôn luôn chảy về chỗ trũng, thì lòng yêu thương quý mến của nhiều người khác cũng dồn về cho những người có tâm hồn hiền hậu, khiêm nhường.
Gương hiền hậu, khiêm nhường của Chúa Giêsu
Trong cuộc khổ nạn, tấm gương hiền lành và khiêm nhường của Chúa đã được nêu cao: Mặc dù là Thiên Chúa quyền năng cao cả, là Con Một của Thiên Chúa Cha, Ngài đã chấp nhận cho người đời hèn mọn nhạo cười, phỉ báng, lăng nhục, khạc nhổ vào mặt, đánh đập tơi bời, lại còn chịu vác thập giá, chịu đóng đinh và chết ô nhục trên thập giá… mà vẫn không oán hờn hay kháng cự; hơn nữa, còn cầu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ gây đau khổ cho mình.
Lạy Chúa Giêsu,
Khiêm nhường và hiền hậu là tính cách nổi bật nhất nơi con người và cuộc đời của Chúa.
Khiêm nhường và hiền hậu là nhân đức được toả sáng trong cuộc thương khó của Ngài.
Khiêm nhường và hiền hậu là một trong những bài học quan trọng nhất mà Chúa kêu mời chúng con phải học với Chúa từng ngày.
Lẽ nào chúng con là những môn đệ đã chọn Chúa làm Thầy và là mẫu mực cho mình, lại gạt bỏ ra khỏi tâm hồn mình bài học quý báu nầy sao!
Xin cho chúng con luôn noi gương bắt chước Chúa để sống khiêm nhường hiền hậu như Chúa đã nêu gương.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Chúa Giêsu không chỉ giảng dạy về đời sống đức tin và siêu nhiên mà còn dạy cách sống nhân bản. Những ai học theo giáo huấn của Người sẽ trở thành con người sống dễ thương, dễ mến và do đó sẽ thành công trong cuộc đời.
Sứ điệp Chúa Giêsu gởi đến Chúa nhật hôm nay là: “Anh em hãy học với Tôi, vì Tôi hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11,29).
– Hiền lành là dịu dàng, ngọt ngào, không thô bạo, không cứng cỏi. Hiền lành là nhân đức bao gồm tâm thế bên trong và phản ứng bên ngoài. Tâm thế bên trong luôn êm ái, hoà nhã, nghĩ tốt về người khác, yêu thương, khoan dung, thông cảm; phản ứng bên ngoài luôn nhẹ nhàng, tôn trọng.
– Khiêm tốn là chấp nhận đứng thấp, ở dưới như Gioan Tẩy Giả khiêm tốn “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ bé lại”.
Chúa Giêsu hiền lành, dễ thương trong lòng. Người luôn yêu thương người khác. Đặc biệt là những người bé mọn. Người luôn muốn và làm điều tốt cho mọi người. Người không lên án, không thành kiến với những người mà xã hội coi là xấu xa, tội lỗi. Lời nói và hành động của Người luôn toả ra sự dịu dàng, nâng đỡ, khích lệ, ủi an. Người không nặng lời, không kết án, Người sống bằng tình thương. Người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, Chúa Giêsu chẳng những dễ thương với người phụ nữ mà còn dễ thương đối với những người đã tố cáo chị ta. Những người này tự cho mình là công chính. Chúa Giêsu không la, không quát, không hét, không hò, Người chỉ thinh lặng cúi xuống hiền từ dùng ngón tay viết lên cát. Bị hỏi mãi Chúa mới trả lời: “Ai trong các ông sạch tội, hãy ném đá trước đi”. Họ rút lui bắt đầu từ những người lớn tuổi. “Tôi cũng không kết án chị đâu, chị hãy ra về và từ nay đừng phạm tội nữa” (x.Ga 8,1-11).
Chúa Giêsu dạy chúng ta sống hiền lành, dễ thương. Người khuyên chúng ta bắt chước người mục tử trong dụ ngôn “Con chiên lạc” (Lc 15, 4-7). Người mục tử không hề đánh đập, giận dữ, quát tháo, hay kéo lê con chiên lạc về mà lại tử tế đặt nó lên vai mình, vác về đàn. Chúa Giêsu cũng khuyên chúng ta bắt chước người cha trong dụ ngôn “Đứa con hoang đàng” (Lc 15,11-32). Người cha không mắng chửi đứa con đầy lầm lỗi trở về, cũng không cãi cọ, không xua đuổi mà lại ôm hôn và dọn tiệc ăn mừng. Chúng ta có thể kể rất nhiều ví dụ trong Phúc âm về sự hiền lành, dễ thương của Chúa Giêsu.
Cuộc đời Chúa Giêsu là một cuộc đời khiêm nhường. Vì khiêm nhường nên Người không ngừng đi xuống. Từ trời cao, Người đã hạ mình xuống trần thế. Từ thân phận là Thiên Chúa, Người đã hạ mình xuống làm một người lao động bình thường. Là Thiên Chúa cao sang, Người đã tự nguyện xuống làm một người dân dã nghèo hèn. Là Đấng thánh thiện vô cùng, Người đã tự nhận lấy thân phận tôi đòi. Là Đấng Hằng Sống, Người đã tự nguyện chết khổ đau. Suốt cuộc đời, Người không ngừng cúi xuống những thân phận tăm tối, nghèo hèn, tội lỗi, bị loại trừ. Người đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Thiên Chúa đã quỳ trước mặt nhân loại, Thiên Chúa rửa chân cho con người. Ôi lạ lùng thay! sự khiêm nhường thẳm sâu của Thiên Chúa. Trong khi con người kiêu ngạo, muốn vươn lên làm Chúa thì Thiên Chúa lại hạ mình xuống làm người. Trong khi con người thấp hèn, muốn nâng mình lên bằng cách chà đạp người khác thì Thiên Chúa cao cả lại hạ mình xuống nâng con người lên. Khiêm tốn như Chúa Giêsu không phải là hèn nhát mà trái lại là dũng mãnh cam đảm, hạ mình để phục vụ. Khiêm tốn như Chúa Giêsu không phải là nô lệ, nhưng trái lại là một cử chỉ đầy tình yêu. Hạ mình là con đường của Thiên Chúa. Khiêm tốn là khuôn mặt của Thiên Chúa. (ĐTGM Ngô Quang Kiệt).Vì Thiên Chúa khiêm nhường luôn tìm đường đi xuống nên những ai kiêu căng, tìm cách nâng mình lên sẽ chẳng bao giờ gặp được Người. Thiên Chúa khiêm nhường nên chỉ ai khiêm nhường, nhỏ bé mới gặp được Người. Vì thế, Chúa Giêsu đã “ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp lòng Cha” (Mt 11,25-26).
Trang Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu tha thiết mời gọi: Hãy học cùng Tôi vì Tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng. (Mt 11,29).
Vậy hãy ghi danh vào học trường Giêsu. Hãy học bài học hiền lành, dễ thương, không những chúng ta sẽ gặp được Thiên Chúa mà Thiên Chúa sẽ rũ sạch mọi vất vả, âu lo và chúng ta sẽ tìm được nguồn bình an cho tâm hồn (Mt 11,28). Hãy học bài học Giêsu, hãy học với Thầy Giêsu.
Augustinô là một thanh niên có tư chất thông minh nhưng lỡ đi lạc đường. Về phương diện trí thức, Augustinô ỷ mình thông thái, dùng kiến thức của mình để truy tìm những học thuyết uyên bác. Kết quả là lạc vào bè rối Manikê. Về phương diện luân lý, Augustinô sống buông thả theo những đòi hỏi của xác thịt, kết quả là một cuộc sống tội lỗi. Thế rồi một hôm, trong lúc tâm hồn đang trống rỗng, vô vị, Augustinô bỗng nghe một tiếng nói từ đâu đó vang lên: “Tolle et lege” (hãy cầm lấy và đọc). Augustinô thấy trước mặt một cuốn Kinh Thánh, Ngài cầm lên, mở ra và gặp ngay đoạn thư Thánh Phaolô gởi giáo đoàn Rôma: “Đừng sống theo xác thịt nữa, mà hãy sống theo Thánh Thần”. Cuộc hoán cải của Augustinô đã được dọn đường nhờ sự cầu nguyện và hãm mình của mẹ Ngài là thánh Monica, nhưng chính câu Thánh kinh này là yếu tố quyết định thay đổi cuộc đời Thánh nhân. Trở nên một giáo phụ, một triết gia, một thần học gia, một vị thánh lỗi lạc, rất mực thánh thiện của Giáo hội, Augustinô nhờ việc học hỏi về Chúa Giêsu qua Thánh kinh.
Chúng ta cũng hãy học với Thầy Giêsu qua Lời Chúa mỗi ngày. Yêu mến Lời Chúa, sống Lời Chúa để Lời Chúa biến đổi đời chúng ta sống theo hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Hãy học hỏi Tin mừng và hãy để Tin Mừng soi sáng lòng trí của mình. Hãy múc lấy sức mạnh từ ân sủng của Bí tích Hoà Giải và Bí tích Thánh Thể. Hãy siêng năng Chầu Thánh Thể. Đó là sứ điệp Lời Chúa gởi đến cho chúng ta trong Chúa nhật này.
Học với Thầy Giêsu suốt đời, lột bỏ những tự hào về khôn ngoan thông thái, sống hồn nhiên khiêm tốn như trẻ thơ, đó là điều cần thiết để mỗi người được Thầy Giêsu mạc khải và đưa vào thế giới của Thiên Chúa.
35.Gạn sạch tâm hồn – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Bấy giờ, Đức Giêsu cất tiếng nói: “Lạy Cha là Chúa tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn.”
Thoạt nghe câu nói trên, có người tưởng rằng Thiên Chúa phân biệt đối xử, bạc đãi những người khôn ngoan thông thái và ưu ái những người bé mọn.
Thiên Chúa là Cha chung của mọi người, của người giàu cũng như kẻ nghèo, của người khôn cũng như kẻ dại… Mọi người đều được yêu thương và đối xử như nhau. Thế thì tại sao Thiên Chúa lại che giấu “kho tàng” của Ngài đối với những bậc khôn ngoan thông thái mà lại mạc khải cho những người bé mọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa đối xử bất công với con cái Ngài sao?
Chắc chắn Thiên Chúa không thiên vị ai, nhưng sở dĩ có người được nhận nhiều hồng phúc của Chúa, kẻ khác không được gì, là do con người chứ không phải do Thiên Chúa.
Hai hình ảnh sau đây giúp ta hiểu rõ điều này:
Hình ảnh thứ nhất:
Có hai chiếc ly được đặt cạnh nhau, ly lớn chứa đầy cát còn ly nhỏ thì rỗng không. Nếu ta muốn rót sữa hay một thức uống bổ dưỡng cho đầy hai chiếc ly đó thì chỉ có chiếc ly nhỏ nhận được đầy tràn chất dinh dưỡng, còn chiếc ly lớn thì chẳng được chút nào. Như thế, không phải vì người rót thiên vị, nhưng là vì chiếc ly lớn đã đầy cát thì không thể đón nhận thêm bất cứ thứ gì.
Những người tự cao tự đại, tự cho mình khôn ngoan thông thái, học rộng tài cao… lẽ ra phải nhận được nhiều điều khôn ngoan của Thiên Chúa, thế nhưng, vì tâm hồn họ tràn đầy kiêu căng tự phụ, giống như những chiếc ly đầy cát, nên Thiên Chúa không thể rót gì thêm vào tâm trí họ được.
Trong khi đó, tâm hồn những người bé mọn, khiêm nhu, chất phác… giống như những chiếc ly rỗng, sẵn sàng đón nhận thiên ân, nên được Thiên Chúa đong đầy.
Hình ảnh thứ hai:
Một ao nước có đầy dẫy rác rến cũng như rong rêu sinh trưởng dày đặc trong đó, khiến nước ao trở nên dơ bẩn, đen ngòm… nên không thể in bóng những cụm mây lướt qua bầu trời bên trên mặt nước.
Trái lại, một ao nước khác rất trong lành, không bị vẩn đục vì rác rưởi, không bị các thứ rong, tảo hoặc các loại bèo… xâm chiếm, chắc chắn sẽ in được cả những gợn mây rất mỏng, cả những cánh én nhỏ bé bay qua vòm trời và mỗi khi đêm về, có thể in bóng vô số vì sao trên bầu trời khuya.
Tương tự như thế, những tâm hồn bị vẩn đục bởi tính tự mãn tự kiêu, tự cho mình là khôn ngoan thông thái… thì không thể đón nhận chân lý do Thiên Chúa mặc khải được. Còn tâm hồn của người người đơn sơ khiêm tốn… như một hồ nước trong veo, sẽ dễ dàng đón nhận sự khôn ngoan đích thực do Thiên Chúa thông ban.
Hãy làm rỗng chiếc ly của mình
Vào thời Minh Trị Thiên Hoàng ở Nhật (1860-1912), có một vị thiền sư tên là Nan-in đón tiếp một giáo sư đại học đến hỏi về thiền. Nan-in mang trà đãi khách. Ông rót trà đầy tách của khách nhưng vẫn tiếp tục rót thêm. Vị giáo sư ngồi nhìn nước trong tách trà tràn ra cho đến khi không kìm mình được nữa nên thốt lên: “Thưa thầy, tách trà đầy quá rồi, xin đừng rót nữa.”
Vị thiền sư trả lời: “Thưa ngài, đầu óc của ngài cũng đầy ắp những quan niệm, những tư tưởng… làm sao tôi có thể bày tỏ thiền cho ngài được, trừ phi ngài làm cạn cái tách của ngài trước đã.”
Lạy Chúa Giêsu,
Nếu tâm hồn chúng con như chiếc ly đầy cát, đó là tính kiêu căng tự phụ, tự cho mình khôn ngoan thông thái, thì xin giúp chúng con đổ hết thứ cát bẩn này ra, để được Chúa đong đầy ân phúc.
Nếu tâm hồn chúng con như ao nước đục ngầu vì bị ô nhiễm bởi nhiều loại rác rến như đam mê tội lỗi, ước vọng thấp hèn… thì xin giúp chúng con gạn sạch tâm hồn để hình bóng Chúa được in sâu.
Nguyện xin Chúa giúp chúng con dứt khoát trút bỏ tất cả những gì làm cho tâm hồn trở nên hẹp hòi, khô cứng… để tâm hồn chúng con như chiếc ly rỗng, như tách trà không… nhờ đó, được Chúa rót đầy ân sủng và tình yêu.
36.Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà
HỌC SỐNG HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỢNG VỚI CHÚA GIÊSU
Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng (Mt 11, 29-30).
Người đời tưởng rằng muốn trở nên hùng mạnh và thắng được người khác thì mình phải hung tợn hơn, tàn ác hơn, phải tôn mình lên và hạ bệ người khác xuống, phải dùng sức mạnh để quật ngã, phải dùng khí giới để huỷ diệt và khủng bố kẻ thù… Nhưng nghĩ như vậy là thiển cận và sai lầm.
Lịch sử loài người đã tỏ cho thấy cho dù những bạo chúa hung tàn nhất như Nê-rô hay Tần Thuỷ Hoàng chẳng hạn, cũng chỉ có thể dùng cường quyền và bạo lực để chiếm lấy ngai vàng trong một thời gian nhưng không thể chinh phục được lòng người. Những nhân vật nầy cũng chưa hề được xem là hùng mạnh, là anh dũng. Trong khi đó, lịch sử đánh giá rất cao những con người hiền lành, khiêm nhượng, ôn hoà bất bạo động như Mahatma Gandhi, Martin Luther King… Lịch sử nhân loại nhìn nhận họ là những bậc vĩ nhân đáng ngưỡng mộ, biết dùng sự hiền hoà, bất bạo động để chiến thắng bạo tàn, biết “dùng nhu để thắng cương, biết dụng nhược để thắng cường” (Lão Tử).
Thế nên, mặc dù Chúa Giêsu có rất nhiều phẩm chất cao đẹp đáng nêu gương, nhưng phẩm chất đầu tiên mà Người kêu gọi mọi người nên học nơi Người là đức tính hiền hậu và khiêm nhường. “Hãy học với tôi vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhượng.” (Mt 11, 29) và “phúc thay ai hiền lành vì họ sẽ được Đất Nước làm cơ nghiệp” (Mt 5, 4)
Câu chuyện sau đây minh chứng cho thấy sự hiền lành khiêm nhu có thể chiến thắng hung hăng và thô bạo.
Thời chiến quốc, vua nước Triệu phong Lạn Tương Như làm tướng quốc. Tướng Liêm Pha cậy mình có công lớn hơn mà lại bị đặt dưới quyền Tương Như nên đâm ra căm tức, thề rằng nếu gặp mặt Lạn Tương Như là giết.
Tương Như nghe nói thế bèn tìm cách lánh mặt Liêm Pha hoài. Một hôm, Tương Như ra đường, gặp toán lính tiền đạo của Liêm Pha đi tới, vội bảo tên đánh xe đi tránh vào trong ngõ, đợi Liêm Pha đi qua rồi mới đi ra tiếp tục hành trình.
Bọn xa nhân thấy thế tức giận, bèn hỏi Tương Như: “Chúng tôi tưởng ngài là bậc đại trượng phu nên đem lòng quý trọng, từ bỏ nhà cửa, xa lìa thân thích để đến đây hầu ngài. Nay thấy ngài là tướng quốc, thứ hạng còn cao hơn Liêm tướng quân, lại để Liêm tướng quân doạ giết mà không đáp lại; ngài đã tránh mặt Liêm tướng quân ở triều đình, nay lại tránh ở ngoài đường. Sao ngài lại sợ Liêm tướng quân quá vậy? Chúng tôi rất lấy làm xấu hổ, vậy chúng tôi xin rút lui, không theo hầu ngài nữa.”
Tương Như nói: “Các ngươi xem Liêm tướng quân có oai phong, cao trọng bằng vua Tần không?” Bọn xa nhân thưa: “Không”.
Tương Như nói: “Uy danh của vua Tần, thiên hạ đều kinh sợ không ai dám chống, vậy mà một mình Tương Như nầy dám mắng nhà vua giữa triều đình, lại dám làm nhục cả đám quần thần nữa. Tương Như dẫu hèn, há lại sợ một Liêm Tướng Quân ư? Nhưng ta nghĩ sở dĩ Tần không dám đánh nước ta là vì ngại có ta và Liêm tướng quân. Nay hai con hổ tranh nhau, tất không cùng sống. Tần mà nghe tin ấy tất sẽ thừa cơ tiến đánh nước ta. Sở dĩ ta chịu nhục tránh Liêm tướng quân là vì coi việc nước là trọng mà thù riêng là nhẹ đó thôi”.
Nghe vậy, bọn xa nhân quỳ mọp tâu rằng: “Tiểu nhân chúng tôi trí hẹp làm sao hiểu được đại chí của tướng công”.
Liêm Pha hay được tin nầy, cả thẹn than rằng: “Ta thật còn kém Lạn Tương Như nhiều lắm”, rồi trần vai áo đến trước cửa nhà Tương Như tạ tội: “Tính tôi thô bạo, đội ơn tướng quốc bao dung, nghĩ lấy làm hổ thẹn quá!”
Tương Như đỡ Liêm Pha dậy, hai người nắm tay nhau khóc và thề nguyền kết bạn suốt đời sống chết có nhau.
(Trích “Thuật xử thế của người xưa” của Thu Giang Nguyễn Duy Cần).
Thế là bằng đường lối nhịn nhục, hiền lành và khiêm nhượng, Lạn Tương Như hoàn toàn chiến thắng và chinh phục được cả con người lẫn tâm hồn của Liêm Pha. Đúng như Pascal nhận xét: “Người ta chỉ thực sự vĩ đại khi hạ mình quỳ xuống.”
Một trong những hình tượng rất sinh động để diễn tả sự khiêm hạ là hình tượng về nước. Nước luôn tỏ ra mềm mỏng, dịu dàng, tránh va chạm và xô xát. Cho dù nước có bị tấn công thô bạo, nước cũng không hề kháng cự bao giờ.
Khi người ta dùng búa tạ đập vào khối đá rắn chắc, đá dùng sự cứng rắn của mình để kháng cự lại nên bị vỡ tan. Khi người ta dùng búa tạ giáng vào nước, nước dùng sự mềm mại dịu hiền của mình đối lại, thế là nước không hề bị sứt mẻ hư hao, còn búa thì bị chìm lĩm xuống tận đáy bùn!
Nước luôn luôn tìm chỗ rốt hết, tìm chỗ thấp mà chảy xuống, chẳng bao giờ muốn leo cao, nên nước luôn được bảo toàn.
Tuy mềm mại và luôn tìm chỗ thấp hèn như thế, nhưng nước lại có sức mạnh phi thường.
Khi có một đám cháy rừng bộc phát thiêu rụi hàng ngàn mẫu rừng nguyên sinh và trong khi bao nhiêu nỗ lực của con người với những phương tiện hiện đại nhất không tài nào dập tắt được, thì người ta chỉ còn biết cầu mưa! Khi mưa trút xuống hàng tỉ mét khối nước thì thần hỏa mới chịu bó tay và rừng xanh mới có thể phục hồi.
Nước tuy mềm mại dịu dàng nhưng có thể bào mòn đá cứng. Nước tuy không cánh nhưng có thể bay tới mây trời; nước không có mũi dùi mũi khoan nhưng có thể thấm nhập đến tầng sâu nhất trong lòng đất. Nước đi đến đâu thì đem lại sự sống dồi dào cho nơi đó.
Như thế, nước tuy thấp kém, mềm mỏng, dịu hiền nhưng lại có sức mạnh vô song.
Những minh hoạ trên đây giúp chúng ta xác tín hơn vào lời dạy đầy khôn ngoan của Chúa Giêsu được trích đọc trong Tin Mừng hôm nay: “Hãy học với tôi vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhượng.” (Mt 11, 29) và “phúc thay ai hiền lành vì họ sẽ được Đất Nước làm cơ nghiệp” (Mt 5, 4).
37.Suy niệm của Lm. Giuse Trương Đình Hiền
KHI CÁI ÁCH MANG TÊN TÌNH YÊU
Kính thưa ông bà và anh chị em,
Trong những tuần lễ qua, cả hành tinh đang nóng lên cùng với quả bóng đang lăn trên các sân vận động tại quốc gia Brazil. Nước mắt và nụ cười, thành công hay thất bại, ở lại hay ra đi…tất cả đã làm nên một bức tranh tuyệt vời của cuộc sống, của xã hội, của kiếp người.
Có một điều không ai phủ nhận là, nét đặc trưng của kỳ world cup nầy chính là hình ảnh của bức tượng Chúa Cứu Thế, một biểu tượng của thành phố lớn Rio de janeiro, luôn thấp thoáng trên màn ảnh tv trong các chương trình world cup. Đó là chưa kể, trong mọi cuộc thi đấu bóng đá, hầu hết các cầu thủ của vùng Nam Mỹ, Trung Mỹ và một số các nước Châu Âu như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nhà, Croatia, Ý…mỗi khi ra sân hay rời sân, họ đều làm Dấu Thánh Giá, một cử chỉ, một biểu tượng của niềm tin vào Chúa Giêsu…
Mà không chỉ biểu tượng thôi đâu! Cả câu chuyện của Thánh Kinh cũng được nhắc đến. Chẳng hạn như trong trận Hà Lan gặp Costa Rica, một bình luận viên trên kênh VTV3 đã ví von rằng: đội Costa Rica như một chàng Đa-vít tí hon đang chiến đấu với gã khổng lồ Goliat Hòa Lan…
Trong Kinh Thánh Cựu Ước, chàng chăn chiên Đa-vít, con út của Giê-sê, thuộc dân Ít-ra-en chiến đấu tay đôi với đại tướng Goliat của dân Philitinh, và đã chiến thắng ngoạn mục chỉ với vài viên đá cuội và chiếc ná. Tuy nhiên, trước đó, khi đối diện với tên Goliat, Đa-vít đã mạnh mẽ và xác tín tuyên bố rằng: “Mầy mang gươm, mang giáo, cầm lao đến với tao. Còn tao, tao đến với mầy nhân danh Đức Chúa các đạo binh là Thiên Chúa các hàng ngũ Ít-ra-en mà mầy thách thức…” (1 Sm 17,45).
Có lẽ đây là mô hình mẫu cho mọi cuộc chiến đấu của niềm tin mà Thiên Chúa đã vạch ra trên suốt chiều dài của lịch sử cứu độ. Ngài đã sử dụng những con người, những phương tiện xem ra bé nhỏ, giản đơn, nghèo hèn, để chiến thắng những đầu óc ngông cuồng, những trái tim kiêu căng hợm hĩnh. Một Môsê bé bỏng trôi nổi bồng bềnh trong cái thúng đã vươn lên chiến thắng Pharaô kiêu hùng…; một Juđitha liễu yếu đào tơ đã chặt đầu đại tướng Hôlôphecnê (Gđt 13, 1-17), một Esther hoàng hậu cùng với dân tộc Ít-ra-en đứng bên bờ vực thẳm của sự tiêu diệt, đã quật ngược thế cờ (Et 7, 1-10)… Và đến thời Tân ước, lại những chuyện lạ lụng, vĩ đại vẫn cứ được ký thác nơi những thân phận bé nhỏ nghèo hèn: Đức Maria, Thánh Giuse, các anh dân chài chất phác, thất học bên bờ hồ Gailiê, cô gái làng chơi Maria Mađalêna…Vâng, chính những con người bé mọn ấy, những thân phận khiêm tốn ấy đã làm cho công trình cứu độ vĩ đại của Thiên Chúa từng bước hiện thực trong lịch sử trần gian, đã mang Tin Mừng Cứu Độ giải sáng khắp thế giới.
Và trên hết, như cách diễn tả của sứ ngôn Gia-ca-ri-a trong Bài đọc 1 hôm nay, Đấng Cứu Thế là “Đấng chính trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ…”. Nhưng lại là Đấng “quét sạch chiến xa khỏi Ep-ra-im và chiến mã khỏi Giê-ru-sa-lem…”. Đó chính là hình ảnh tiên trưng về Chúa Giêsu, Đấng đã tiến vào Giê-ru-sa-lem cũng trong cung cách hiền lành như thế để hoàn tất sứ mệnh cứu thế bằng cái chết tủi nhục thương đau trên thập giá, một sự hạ mình khiêm nhượng thẳm sâu, một sự hiền lành cho đến mức cuối cùng.
Chắc chắn, chính trong cái trực cảm sâu sắc và đầy xác tín nầy, Chúa Cứu Thế đã thốt lên lời nguyện tạ ơn sốt sắng với Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã dấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết mầu nhiệm nước Trời, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn…”.
Và như thế, bài học đầu tiên, xuyên suốt và cuối cùng mà Đức Ki-tô đề nghị với chúng ta hôm nay vẫn là hoán cải để trở nên khiêm hạ, bé nhỏ: “hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền lành và khiêm nhường”.
Thế nhưng, đối với nhiều người, chấp nhận đi con đường của Đức Ki-tô, chấp nhận thực hành bài học khiêm nhường và hiền lành của Chúa Cứu Thế, con đường của Tám Mối Phước Thật…vẫn luôn là một cái “ách”, một “gánh nặng” mà họ không thể mang nổi, hay nếu có mang, thì cũng trầy trật, dở dang, chẳng đem lại ích lợi gì. Bằng chứng là đã có biết bao người đã ra đi khỏi mái nhà Hội Thánh, đã chọn những bước chân tự do của Giu-đa Is-ca-ri-ốt ra đi trong “bóng tối” với 30 đồng bạc phản bội, thay vì ở lại nơi Bàn Tiệc Lý với Thầy và anh em.
Cũng y chang như thế, ngày hôm nay, có biết bao đôi vợ chồng đã vất đi cái “ách của bí tích Hôn Phối” mà họ đã long trọng cử hành để được được tự do chạy theo những xúc cảm và đam mê của riêng mình; đối với họ đã “xưa rồi diễm ơi cái thứ hôn nhân một túp lều tranh hai trái tim vàng”, còn chăng chỉ là một “của nợ” phải thanh toán, một địa ngục phải thoát ra…. Biết bao bạn trẻ đã khức từ cái “gánh nặng của nhân đức khiết tịnh, trong sạch” để được tự do luyến ái trước hoặc ngoài hôn nhân; biết bao những người mẹ, ông cha sẵn sàng vất đi mạng sống của chính con mình vì sợ “gánh nặng phải đẻ đau, nuôi dạy hay những phiền phức khác cho hạnh phúc cá nhân…”…
Nói chung, vẫn còn biết bao người Ki-tô hữu vẫn xem các giá trị của Tin Mừng và bao lề luật khác của Chúa và Hội Thánh như một cái “ách khó chịu” chẳng cần phải giữ, và mọi cuộc dấn thân để phục vụ cho Tin Mừng và xây dựng Hội Thánh như một “gánh nặng nề” chẳng đáng để dấn thân…Bởi vì trên đôi vai và cái cỗ của họ không bao giờ xuất hiện một bóng dáng tình yêu như trên vai và trên cỗ của người cha Lê Văn Hồng, đã cõng người con là Lê Xuân Bách suốt 18 năm[1], hay đã lâu rồi, như trên cuộc đời thủy chung, tha thiết của tình yêu nơi người chồng Trương Văn Chín và người vợ tật nguyền đi xe lăn Nguyễn Thị Phương[2]…
Và như thế, với sứ điệp lời Chúa được đề nghị hôm nay, chúng ta lại được dẫn tới một bài học thứ hai: để học được với Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhượng thì trước hết và trên hết, chúng ta phải đón nhận tất cả trong tình yêu, phải nhận ra cái “ách” và cái “gánh nặng” trên đôi vai cuộc đời chính là “tình yêu”.
Thế nhưng, muốn được như thế, Lời Chúa hôm nay lại đề nghị: phải cầu nguyện với Chúa Thánh Thần. Bởi vì, chỉ có những ai mang Thần Khí của Đức Ki-tô thì mới thuộc về Ngài và mới có cuộc sống mới để bước đi trên những nẻo đường của Ngài (Bđ 2). Nói cách khác, chính Chúa Thánh Thần sẽ biến đổi con tim và cuộc sống để từ hôm nay, cái “ách” và “gánh nặng” của Tin Mừng, của Chúa Giêsu sẽ mang một tên mới, đó là “Tình Yêu”. Amen.
——————————–
[1] Ông Lê Văn Hồng cõng con là thí sinh Lê Xuân Bách, bị teo cơ, lên Hà Nội thi vào Đại học. Ông đã cõng con như thế suốt từ 18 năm nay, kể từ Lê Xuân bách lên 4 tuổi. bản tin của trang mang vnExpress đăng ngày 5/7/2014.
[2] Chị Nguyễn Thị Phương, người phụ nữ nằm liệt giường suốt 9 năm trời, và anh Trương Văn Chín, một người đàn ông khỏe mạnh bình thường, đã vì tình yêu cũng như tình thương sâu sắc mà hy sinh cuộc đời, chấp nhận làm chồng của chị mặc dầu chị bị tật nguyền.
Nếu phải kể ra những điều chúng ta cần học hỏi nơi Chúa Giêsu, thì hẳn là nhiều lắm. Tuy nhiên, cái khó là phải bắt đầu từ đâu? May thay chính Chúa Giêsu đã chỉ rõ cho chúng ta bài học đầu tiên và cần thiết nhất, đó là lòng khiêm tốn, đức từ bi và nhân hậu. Chính Người đã nói: Các con hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng.
Khi xây một căn nhà, thì trước hết chúng ta phải làm nền, phải xuống móng. Nền móng càng sâu, càng chắc thì ngôi nhà càng có thể xây lên cao. Nền móng đâu có phải được làm bằng những vật liệu quí giá và đẹp đẽ, nó chỉ là đá cát, đôi khi cả xà bần, gạch vụn được nện sâu và nện thật chắc. Nó là cái phải không phải để khoe khoang, nhưng luôn bị chôn vùi, bị che đậy và bị người ta chà đạp lên trên. Quả thế, khi chúng ta bước vào bên trong một tòa lâu đài, một hoàng cung hay một ngôi nhà tầm thường nào cũng vậy, chẳng ai để ý đến cái nền, chẳng ai thắc mắ xem nó được làm bằng gì, và chứa đựng những cái chi ở bên trong, nhưng chúng ta sẽ dẫm bước lên nó mà đi.
Con người xét về phương diện cá nhân cũng như tập thể, cũng là một công trình xây dựng, mà nền móng phải là lòng khiêm tốn. Không có nền móng này, không sớm thì muộn chúng ta cũng sẽ bị sụp đổ, bởi vì ai nâng mình lên, thì sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xống, thì sẽ được nâng lên. Hơn thế nữa, trong lời kinh Ngợi Khen, Mẹ Maria đã xác quyết: Chúa hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao mọi kẻ khiêm nhau.
Lão Tử ngày xưa cũng đã nói: Giàu sang mà kiêu căng là tự rước lấy họa vào thân. Kẻ tự cao tự đại giống như kẻ nhón gót chân để cao hơn người, xoạc chân ra để lớn hơn người. Như vậy sẽ chẳng thể đứng vững và tiến bước. Trái lại bậc thánh nhân cho đến ngày cùng, vẫn không cho mình là lớn, nên mới thành được việc to.
Lịch sử cho chúng ta đầy rẫy những mẫu gương về những cá nhân cũng những tập thể, đặc biệt là những đế quốc hùng mạnh, nhưng kiêu căng, đã bị sụp đổ như thế nào. Những con người như Néron, Napoléon, Hitler…Nhưng đế quốc như Rôma, Mông Cổ…ngày xưa đã thảm bại ra sao, thì ai cũng đều biết. Sự tự cao tự đại thường đi đôi với lòng tạn bạo và bất nhân. Bởi vì kẻ kiêu căng thường bắt mọi người phải khuất phục mình, làm nô lệ cho mình và không ngần ngại dùng bạo lực để đàn áp, chế ngự và tiêu diệt những ai không chịu khuất phục.
Thế nhưng, Chúa Giêsu thì khác. Người đã dạy chúng ta: Ai muốn làm đầu, thì phải trở nên rốt hết và hầu hạ mọi người. Chính Người, trong suốt cả cuộc đời, đã sống khiêm nhu và trong giờ từ biệt các môn đệ, để ra đi chịu chết, Người đã không ngần ngại quì xuống rửa chân cho các ông, để nêu gương khiêm nhường, dồng thời kèm theo đó là bài học bác ái yêu thương, như lời Người đã phán: Con người đến không phải để được hầu hạ, nhưng đến để hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.
Xưa nay trong Hội Thánh vãn có thói quen đề cao đức khiêm nhường. Nhưng đức khiêm nhường ấy thường được ghép đôi với sự vâng phục. Như vậy xem ra khiêm nhường chỉ là nhân đức của kẻ bề dưới. Trong khi đó, Chúa Giêsu đã liên kết đức khiêm nhương với lòng bác ái và tinh thần phục vụ. Người coi đó là đức tính của người lãnh đạo, của bậc bề trên. Bởi vì chỉ kẻ khiêm nhường mới có khả năng yêu thương thực sự. Và chỉ kẻ yêu thương thực sự mới thích phục vụ người khác.
Như thế, khiêm nhương không phải là thái độ của kẻ hèn nhát, sẵn sàng chịu khuất phục, nhưng là đức tính của bậc anh hùng, của người đã làm chủ được bản thân mình.
39.Mạc khải cho kẻ bé mọn – R. Veritas
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)
Bài Phúc Âm của Chúa nhật XIV Mùa thường niên hôm nay được trích trong một đoạn văn hay nhất của thánh Matthêu, người ta gọi đoạn văn này là “Hạt Ngọc Quý Nhất” của Thánh Matthêu. Dòng tư tưởng của đoạn Phúc Âm này thật cao siêu và êm dịu, chúng ta thấy ngay về sự bay bổng và suy tư về Nước Trời. Có lẽ lời cầu nguyện này được thốt ra khi Chúa Giêsu nghe các Tông đồ đi truyền giáo trở về và kể lại cho Chúa các điều họ đã thực hiện, các mối liên lạc giữa Chúa và Chúa Cha về sứ mệnh cứu rỗi làm trung gian, và mời gọi mọi người đến với Ngài. Điều ấy là các mầu nhiệm Nước Trời.
Thánh Phaolô đã cảm nghiệm được mạc khải này cho chính mình và cho các Tông đồ: “Hết thảy những ai khó nhọc và gánh nặng…” Theo mạch văn và ý muốn của Chúa mà chúng ta hiểu, đây là những người Do thái đang bị đè nặng bởi lề luật và các truyền thống của những biệt phái. Chúa Giêsu đã giải thoát họ khỏi ách lề luật và đem họ đến chỗ thảnh thơi. Vì từ nay những ai đến với Chúa phải đến với tất cả tâm hồn, phải được ghi khắc lề luật mới là luật của Thánh Thần ở bên trong và tự nguyện.
Đoạn văn này rất súc tích tư tưởng, không bao giờ khám phá ra hết, song ít ra chúng ta có thể nhận thấy chính những tư tưởng sau:
Trước hết là lời cầu nguyện của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu chúc tụng Cha Ngài trên trời vì đã mạc khải những điều này cho các trẻ nhỏ, mà lại không cho những kẻ thông thái và quân tử biết. Những nhà thông thái tự cao tự đại thường cho rằng mình biết tất cả. Lòng tự ái tự cao làm cho họ không nhận ra Lời Chúa, còn những bậc quân tử thì lại tự mãn về lối sống của mình, tự cho mình là chân chính và không cần đến sự giúp đỡ của Thiên Chúa, không cần ơn cứu rỗi của Ngài. Trái lại những kẻ bé mọn lại biết rằng mình dốt nát trước sự cao cả của Thiên Chúa, họ thấy mình bé nhỏ khốn nạn, và sẵn sàng đón nhận với lòng biết ơn về những hồng ân của Thiên Chúa, sẵn sàng đón nhận ơn cứu rỗi, cảm thấy cần Chúa: “Chúa hạ người quyền hành xuống khỏi vị cao và nâng người hèn mọn lên”.
Chúa Giêsu tự mạc khải Ngài: “Sự thực đã được Cha trao phó cho Ta và không ai biết Cha trừ ra Ta, và cũng không ai biết Ta trừ ra Cha” (Mt 11,27). Lời đó mạc khải về Chúa Giêsu, Ngài đồng bản tính với Thiên Chúa Cha. Một mình Cha biết đầy đủ về Con, vì Cha đã sinh ra Con trong trí và do sự hoàn toàn sung mãn của Ngài. Và chỉ có Con mới biết đầy đủ về Cha và hình ảnh của Con là sự trung thực nhất, là tư tưởng, ý nghĩ của Cha. Chỉ có Thiên Chúa mới hiểu biết Thiên Chúa, chỉ có Thiên Chúa mới hiểu biết đầy đủ về Thiên Chúa. Đây là một mạc khải vô cùng quí báu cho chúng ta. Chúa Giêsu sống giữa chúng ta, song không phải hoàn toàn như chúng ta: “Mọi sự đã được Chúa Cha trao, không ai biết Con trừ ra Cha, và kẻ nào Con muốn mạc khải cho”.
Một tư tưởng nữa của Phúc Âm hôm nay đó là lời kêu gọi những kẻ đói khát, những ai mệt nhọc hãy đến với Ngài: “Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những kẻ khó nhọc gánh nặng, Ta sẽ bổ sức lại cho”.
Lời kêu gọi đầy lòng nhân hậu và giàu lòng thương xót mà Chúa hứa cho những ai đói khát, những ai mệt nhọc, Chúa sẽ nâng đỡ và Chúa luôn luôn trung thành giữ lời hứa của Ngài. Qua mọi thời đại, tất cả những ai đói khát công chính đều no nê, những ai nặng trĩu tội lỗi đến với Ngài đều được nhẹ nhõm, được bổ sức và được tha thứ. Chỉ có Chúa Giêsu mới nói được: “Tội con đã được tha thứ” (Mt 9,2), và chỉ có Chúa Giêsu mới nói được: “Đừng sợ, Ta đã thắng thế gian”, (Ga 16,33) và “Ách Ta thì êm ái, gánh Ta thì nhẹ nhàng”, (Mt 11,30).
Chúng ta hết thảy đều phải mang gánh nặng và vất vả, nhưng ở đây chúng ta không có ý nói đến những gánh nặng bên ngoài đè trên vai của mình. Như khốn nỗi, chính trong lãnh vực của tâem linh, thường thì chúng ta cũng phải vất vả nặng nề, xác thịt đè nặng, các ham muốn của tình dục, nhiều tật xấu nào đó kìm hãm tinh thần con người, và sức nặng nào đó đã cản trở con người cũ, không chịu buông tha cuộc đời chúng ta để chúng ta được đi theo Chúa một cách an vui.
Hôm nay Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta hãy đến với Ngài, Ngài muốn cất gánh nặng đi cho chúng ta. Đúng hơn, Ngài muốn đặt trên vai chúng ta một ách khác êm ái hơn, Ngài đến để phục hồi con người vất vả của chúng ta. Chính Ngài đã nói: “Hãy mang lấy ách của Ta và hãy thụ giáo với Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và các ngươi sẽ tìm ra được sự nghỉ ngơi cho tâm hồn”. (Mt 11, 29-30).
Vậy chúng ta hãy năng chạy đến với Chúa, để tìm được nguồn an vui và sự bình an trong tâm hồn. Amen.
Chưa bao giờ Chúa Giêsu nói về Cha Ngài một cách long trọng như vậy: “Lạy Cha là Chúa trời đất”. Đây là một trong những lúc mãnh liệt nhất của Tin Mừng. Chúa Giêsu chứng tỏ Ngài biết rõ vị Chúa tể trời đất đến nỗi chúng ta ngạc nhiên về những ánh sáng đầu tiên của mầu nhiệm khôn lường này: nơi Thiên Chuá duy nhất có những động thái tình yêu, những mối “quan hệ” mà chúng ta trình bày bằng những tiếng: Cha, Con và Thánh Thần. Tôi nghĩ rằng phải dành ra một lúc để chiêm ngắm và cảm tạ vì những ánh sáng đã không thể đến với chúng ta được: “Con chúc tụng Ngài, lạy Cha, Đấng mạc khải cho những kẻ bé mọn”. Có lúc chúng ta nghĩ rằng chúng ta không là gì cả. Điều này không đúng. Thiên Chúa không yêu thương cái không là gì cả. Chúng ta là một cái gì đó và thậm chí vĩ đại bởi vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Đến sống cuộc sống của chúng ta và biết rõ cuộc sống đó, nhất là cuộc sống của những người bé mọn, Ngài nói với chúng ta: “Hãy đến cùng Ta, hỡi tất cả những ai mỏi mệt và gánh nặng”.
Gánh nặng nào? Gánh nặng của cuộc đời hết sức khó khăn và đôi khi người ta còn chất thêm luật lệ tôn giáo quá đáng hay được chỉ dẫn không đúng. Thế là người ta cảm thấy sợ hãi không thể tuân giữ các giới răn, không bao giờ có thể làm vui lòng Chúa. Điều đó lấy mất tự do nội tâm và niềm vui của chúng ta, tước mất Thiên Chúa khỏi chúng ta. Nếu Ngài là Đấng làm cuộc sống chúng ta nặng nề, thế thì Ngài đâu phải là Thiên Chúa Tình yêu?
Chúa Giêsu đã mạnh mẽ tố giác những kẻ làm gương xấu cho những người bé mọn: “Các luật sĩ và Pharisêu nói mà không làm: họ đặt những gánh nặng lên vai những người khác trong khi họ không muốn đụng ngón tay vào: (Mt 23,3-4).
Có lẽ chúng ta đã bị chấn thương do những kẻ ra sức làm cho chúng ta trở thành những người luôn luôn có mặc cảm tội lỗi. Thật rất khó mà thoát ra được một sự giáo dục vụng về. Tôi chỉ biết có mỗi một cách là không ngừng đến với Chúa Giêsu, chiêm ngắm Ngài, lắng nghe Ngài, hoàn toàn tin tưởng vào Ngài là Đấng đã nói: “Ta, Ta có thể cho người nghỉ ngơi an bình cùng với Chúa”.
Đó không phải là một an bình với một Thiên Chúa giả hiệu là Đấng luôn luôn bằng lòng với chúng ta theo giá rẻ mạt, Chúa Giêsu nói: “Hãy mang lấy ách của Ta”. Đây thật là một cái ách bởi vì đây là một điều luật. Không ai có thể bỏ qua điều luật, và luật của Chúa Giêsu, tức luật tình yêu, cho dầu bó buộc nhất, vẫn là một sự đòi hỏi vô cùng. Nhưng đây là một sự nghịch lý được Chúa Giêsu khẳng định nếu không thì chúng ta khó mà chấp nhận: “Ách ta êm ái, gánh ta nhẹ nhàng”. Luật của Chúa Giêsu duy trì chúng ta trong sự cố gắng nhưng để cho chúng ta được an bình. Nếu một gánh nặng làm tê liệt chúng ta và làm cho chúng ta buồn khổ thì chắc hẳn đó không phải là gánh nặng của Chúa Giêsu.
Tin cùng chuyên mục:
Dự án Nhà Mẹ Lavang-Fatima và đại lễ khánh thành và làm phép tượng đài Đức Mẹ Lavang-Fatima do Đức Tổng Giám mục Giuse Nguyễn Năng chủ tế
Ngôn ngữ của tình yêu
Sứ điệp của Đức Thánh Cha nhân Ngày Thế giới Truyền giáo 2023
Thứ tư tuần XXVI thường niên, Thánh Phaxicô Assisi: Không có gì quí hơn là Thập Giá của Đức Kitô