Thứ Bảy Tuần I Mùa Vọng (Kính Thánh Phaxicô Xavie – 03/12/2022)

st francis xavier icon 1

st francis xavier icon

Bài đọc I: 1Cr 9, 16-19. 22-23
“Vô phúc cho tôi, nếu tôi không rao giảng Phúc Âm”.Bài trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông Đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, nếu tôi rao giảng Phúc Âm, thì không phải để làm cho tôi vinh quang, mà vì đó là một nhu cầu đối với tôi. Vô phúc cho tôi, nếu tôi không rao giảng Phúc Âm. Giá nếu tôi tự ý đảm nhận việc ấy, thì tôi có công; nhưng nếu tôi bị ép buộc, thì tôi phải làm tròn nghĩa vụ đã giao cho tôi. Vậy thì phần thưởng của tôi ở đâu? Khi rao giảng Phúc Âm, tôi đem Phúc Âm biếu không, tôi không dùng quyền mà Phúc Âm dành cho tôi. Mặc dầu tôi được tự do đối với tất cả mọi người, tôi đã đành làm nô lệ cho mọi người, hầu thu hút được nhiều người hơn. Tôi đã ăn ở như người yếu đau đối với những kẻ yếu đau để thu hút người yếu đau. Tôi đã nên mọi sự đối với tất cả mọi người, để làm cho mọi người được cứu rỗi. Tất cả những việc đó, tôi làm vì Phúc Âm, để được thông phần vào lợi ích của Phúc Âm.

Đó là lời Chúa.

Đáp Ca – Tv 95, 1.2a, 2b-3. 7-8a. 10

Đáp: Hãy tường thuật phép lạ Chúa giữa muôn dân.

1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, hãy ca mừng Chúađi, toàn thể địa cầu! Hãy ca mừng Chúa, hãy chúc tụng danh Người.

2) Ngày ngày hãy loan truyền ơn Người cứu độ. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa muôn dân và phép lạ Người ở nơi vạn quốc.

3) Hãy kính tặng Chúa, hỡi người chư dân bá tánh, hãy kính tặng Chúa quyền thế với vinh quang, hãy kính tặng Chúa vinh quang xứng với danh Người. Hãy mang lễ vật, tiến vào hành lang nhà Chúa.

4) Người giữ vững địa cầu cho khỏi lung lay. Người cai quản chư dân theo đường đoan chính.

Alleluia – Is 45, 8

All. All. – Chúa phán: “Hãy đi dạy dỗ các dân tộc: Ta ở với các con mọi ngày cho đến tận thế”. – All.

PHÚC ÂM – Mc 16, 15-20

“Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng”.

Bài kết thúc Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Máccô.

Khi ấy, Chúa Giêsu hiện ra với mười một môn đệ và phán: “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép Rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không Tin, sẽ bị luận phạt. Và đây là những phép lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thày, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, cầm rắn trong tay, và nếu uống phải chất độc, thì không bị hại; họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh”. Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo.

Đó là lời Chúa.

1. “Cháy, cháy… trong tim”

Trong cuốn Bạn Đường Chúa Giêsu, cha Hoàng Sóc Sơn viết về thánh Phanxicô Xaviê như sau:

Trong 10 năm truyền giáo, ngài đã vượt gần 100 ngàn cây số đường biển, trên những con tàu buồm mong manh, để đến Ấn Độ, Malaixia, Inđônêxia, Nhật Bản và qua đời trên đảo Thượng Xuyên, đang khi mơ ước vào Trung Hoa […].

 

Ai cũng phải công nhận ngài táo bạo đến mức liều lĩnh. Đường biển thời ấy luôn bị đe dọa vì bệnh dịch, bão tố và hải tặc, nhưng ngài tin tưởng nếu Chúa không cho phép, không có gì làm hại được ngài[1].

 

Với những lao nhọc và thành quả truyền giáo phi thường như thế, thánh Phanxicô được coi là, theo như phần giới thiệu về thánh Phanxicô trong Sách Lễ Phụng Vụ Dòng Tên, một trong những nhà truyền giáo vĩ đại nhất trong lịch sử Hội Thánh, chỉ sau thánh Phaolô. Đối với Dòng Tên, ngài là nhà truyền giáo đầu tiên và số một; ngài được tuyên thánh năm 1622, và được Hội Thánh đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo.

Đó chính là khuôn mặt của thánh Phanxicô Xaviê mà mọi người thường nói và viết. Tuy nhiên, chúng ta cũng nên tự hỏi: những biến cố nào đã dẫn ngài đến với Phương Đông? Đâu là những kinh nghiệm đem lại cho ngài sức mạnh như vô tận để thực hiện được những điều phi thường như thế? Chắc chắn chúng ta chỉ có thể khám phá ra câu trả lời, khi trở lại với thời gian ngài học ở Paris.

a. Ở cùng phòng

Trước hết, đó là kinh nghiệm ở cùng phòng với thánh I-nhã Loyola[2]. Kinh nghiệm này như các thư của ngài chứng tỏ, sẽ mãi mãi ghi dấu trong tim của thánh Phanxicô. Nhưng làm thế nào I-nhã đã chinh phục được Phanxicô? Điều này mãi vẫn là một bí ẩn giữa hai người, và ở đàng sau, đó là điều bí ẩn của chính Thiên Chúa. Chúng ta có thể so sánh bí ẩn này với bí ẩn của thánh Phaolô.

Có người nói rằng, đó là nhờ vào sự kiên trì của I-nhã rỉ vào tai Phanxicô một câu nói của Đức Giêsu: “Được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì người ta nào có lợi gì?” (Mc 8, 36) Điều này có lẽ là không đủ và chỉ có ý nghĩa tượng trưng mà thôi, bởi lẽ Lời Chúa không thể thấm vào lòng người bằng con đường áp đặt. Điều chúng ta có thể biết chắc chắn, đó là ngài được ví như “nắm bột thô nhất” trong số các bạn của I-nhã.

b. Tình bạn trong Chúa

Tiếp đến, đó là kinh nghiệm tình bạn trong Chúa, một tình bạn được thôi thúc bởi lòng ước ao trở thành những người phục vụ cho sứ mạng của Đức Kitô trong thời đại của các ngài. Tình bạn này được khởi sự và triển nở ngay trong những sinh hoạt rất bình thường của đời sinh viên, như học tập, trao đổi, giải trí, những việc làm thường ngày; tuy nhiên, tình bạn này chỉ trở nên “tình bạn trong Chúa” khi được nuôi dưỡng và trở nên sâu đậm bởi một đời sống thiêng liêng sâu xa của từng người và ngang qua những lúc họp mặt cầu nguyện và chia sẻ.

Tình bạn của thánh Phanxicô và các bạn đạt tới đỉnh cao nơi lời khấn Montmartre, vào ngày 15/08/1534: cùng nhau sống khó nghèo, khiết tịnh và đi hành hương Giêrusalem; sau đó trở về làm việc cho phần rỗi tha nhân, những người tin cũng như chưa tin, rao giảng Lời Chúa và cử hành cách nhưng không các bí tích.

c. Kinh nghiệm Linh Thao

Và sau cùng, phải kể đến kinh nghiệm Linh Thao. Chính thánh I-nhã đã hướng dẫn Linh Thao cho thánh Phanxicô vào cuối tháng 9 năm 1534, nghĩa là ngay sau lời khấn ở Montmartre. Chắc chắn, thánh Phanxicô đã học được rất nhiều điều trong suốt hơn mười năm ở Paris; tuy nhiên, khi đọc các thư của ngài, chúng ta có cảm tưởng rằng nội dung giảng dạy và cách thức ngài hướng dẫn người khác sống đức tin chủ yếu đến từ nội dung và phương pháp của Linh Thao!

*  *  *

Bạn “cùng phòng” với thánh Inhã, tình bạn trong Chúa và tháng Linh Thao, theo một cách thức thích ứng với từng người, cũng chính là những kinh nghiệm mà mỗi người chúng ta đều đã và đang thực sự trải qua. Đối với chúng ta, kinh nghiệm bạn “cùng phòng” với thánh I-nhã phát xuất cách nào đó từ việc đọc và học Trình Thuật của thánh Inhã; kinh nghiệm này cần được nuôi dưỡng để không bị nhạt nhòa, ngang qua việc đọc đi đọc lại Trình Thuật và đọc thêm các bản văn khác của ngài, và đặc biệt ngang qua những hoạt động mừng kính ngài hằng năm (chẳng hạn như viết bài chia sẻ, sáng tác nhạc, ngâm thơ, hát vọng cổ, đóng kịch về thánh nhân). Kinh nghiệm cho thấy rằng, chúng ta càng hiểu và yêu mến thánh I-nhã, như thánh Phanxicô đã hiểu và yêu mến, chúng ta càng sẵn sàng để cho Chúa biến đổi và lòng chúng ta càng “bùng cháy” với niềm khát khao phụng sự Đức Kitô, Chúa chúng ta, như bài hát về thánh I-nhã của cha Hữu Thu diễn tả: “Cháy, cháy… trong tim”. Thánh I-nhã có tài thông truyền “ngọn lửa” này cho những ai chịu “nói chuyện” với ngài và thực sự chịu để cho ngài hướng dẫn.

Những kinh nghiệm này là ân sủng, đúng hơn là “đặc sủng”, vì Chúa ban một cách thật đặc biệt và với nhiều ưu ái cho thánh Phanxicô và tiếp tục ban cho mỗi người chúng ta theo cùng một cách thức. Ước gì “đặc sủng” này cũng làm cho con tim chúng ta bùng cháy để trở thành những người phục vụ “phi thường” cho sứ mạng của Đức Ki-tô hôm nay.

 2. « Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ »

Trong Linh Thao, thánh Phan-xi-cô Xa-viê đã chiêm ngắm cuộc đời của Đức Giê-su, từ mầu nhiệm Nhập Thể đến mầu nhiệm Đức Ki-tô chết và phục sinh và đã được Người ban ơn hiểu biết và yêu mến Người.

Ngài đã đi theo Đức Ki-tô và làm chứng cho Người đến cùng, đến cùng của thế giới và đến cùng của sự sống. Vì thế, ngài cũng đã lắng nghe cùng một lời mời gọi của Đấng Phục Sinh, mà chúng ta lắng nghe trong Thánh Lễ mừng kính ngài hôm nay.

aLắng nghe lời chứng (c. 14)

Trước khi Đức Ki-tô phục sinh sai các tông đồ đi loan báo Tin Mừng : « Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ… », Ngài đã khiển trách các ông đã không tin và cứng lòng đối với lời chứng của các chứng nhân : « Người tỏ mình ra cho chính Nhóm Mười Một đang khi các ông dùng bữa. Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy » (c. 14).

Như thế, Đức Ki-tô phục sinh rất coi trọng việc chúng ta làm chứng cho nhau, lời của của người khác dành cho chúng ta, lời chứng của chúng ta dành cho người khác. Trước khi trở thành chứng nhân, chúng ta được mời gọi mở lòng ra để lắng nghe các chứng nhân. Và điều này phải làm chúng ta ngặc nhiên : kinh nghiệm này cũng phải có, ngay cả đối với các tông đồ, vốn là các chứng nhân ưu tuyển ! Thật vậy, trước khi trở thành chứng nhân, chính các tông đồ cũng đã phải trải qua kinh nghiệm lắng nghe các chứng nhân khác, vốn đã được ban ơn nhận ra Đức Ki-tô phục sinh trước. Đó là chứng từ của bà Maria Magdala và chứng từ của hai môn đệ từ Emmau trở về (c. 9-13). Bởi vì chính Đức Ki-tô phục sinh hiện diện nơi lời chứng mà chúng ta chia sẻ cho nhau.

b. Ra đi làm chứng (c. 15-18)

Tuy vậy, một đàng Người khiển trách các môn đệ, đàng khác Đức Ki-tô phục sinh vẫn tin tưởng trao sứ mạng cho ông. Chúng ta hãy dừng lại suy gẫm từng lời của Đức Ki-tô :

Người mời gọi các môn đệ đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Đó là chiều kích phổ quát của việc loan báo Tin Mừng, bởi vì Tin Mừng của Đức Ki-tô và Tin Mừng của thế giới sáng tạo là một (x. Rm 10, 18 trích Tv 19, 5).