Bài đọc: Sir 27:30-28:7; Rom 14:7-9; Mt 18:21-35.
1/ Bài đọc I: 30 Oán hờn và giận dữ là những điều ghê tởm, về chuyện đó kẻ tội lỗi có biệt tài.
1 Kẻ báo thù sẽ chuốc lấy báo thù của Đức Chúa, tội lỗi nó, Người xem xét từng ly.
2 Hãy bỏ qua điều sai trái cho kẻ khác, thì khi bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được tha.
3 Người với người cứ nuôi lòng hờn giận, thế mà lại xin Đức Chúa chữa lành!
4 Nó chẳng biết thương người đồng loại, mà lại dám xin tha tội cho mình!
5 Nó chỉ là người phàm mà để tâm thù hận, thì ai sẽ xin tha tội cho nó?
6 Hãy nhớ đến ngày tận số mà chấm dứt hận thù, nhớ mình sẽ phải hao mòn và phải chết
mà trung thành giữ các điều răn. 7 Hãy nhớ đến các điều răn mà đừng oán hờn kẻ khác,
nhớ đến giao ước của Đấng Tối Cao mà không chấp nhất điều lầm lỗi.
2/ Bài đọc II: 7 Thật vậy, không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình.
8 Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa; 9 vì Đức Ki-tô đã chết và sống lại chính là để làm Chúa kẻ sống cũng như kẻ chết.
3/ Phúc Âm: 21 Bấy giờ, ông Phê-rô đến gần Đức Giê-su mà hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?” 22 Đức Giê-su đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy.” 23 Vì thế, Nước Trời cũng giống như chuyện một ông vua kia muốn đòi các đầy tớ của mình thanh toán sổ sách. 24 Khi nhà vua vừa bắt đầu, thì người ta dẫn đến một kẻ mắc nợ vua mười ngàn yến vàng. 25 Y không có gì để trả, nên tôn chủ ra lệnh bán y cùng tất cả vợ con, tài sản mà trả nợ. 26 Bấy giờ, tên đầy tớ ấy sấp mình xuống bái lạy: “Thưa Ngài, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả hết.” 27 Tôn chủ của tên đầy tớ ấy liền chạnh lòng thương, cho y về và tha luôn món nợ. 28 Nhưng vừa ra đến ngoài, tên đầy tớ ấy gặp một người đồng bạn, mắc nợ y một trăm quan tiền. Y liền túm lấy, bóp cổ mà bảo: “Trả nợ cho tao!” 29 Bấy giờ, người đồng bạn sấp mình xuống năn nỉ: “Thưa anh, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả anh.” 30 Nhưng y không chịu, cứ tống anh ta vào ngục cho đến khi trả xong nợ. 31 Thấy sự việc xảy ra như vậy, các đồng bạn của y buồn lắm, mới đi trình bày với tôn chủ đầu đuôi câu chuyện. 32 Bấy giờ, tôn chủ cho đòi y đến và bảo: “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, 33 thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao? ” 34 Rồi tôn chủ nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày y trả hết nợ cho ông. 35 Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình.”
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải tha thứ.
Tha thứ là chuyện khó làm mà phải luôn tha thứ là điều quá vượt quá giới hạn của con người, thế mà các Bài đọc hôm nay lại khuyên con người làm chuyện đó. Những lý do làm cho con người khó tha thứ: (1) Tha thứ mãi để cho người ta lợi dụng. (2) Tha thứ mãi để cứ phải chết lần chết mòn. (3) Chắc gì người ta đã muốn nhận tha thứ của mình. (4) Làm sao quên được những đau khổ và xỉ nhục họ gây ra cho mình? Vì thế, nhiều người kết luận “Chúa tha nhưng tao không tha,” hay “sống giữ chết mang theo.” Có người căm hận người khác đến độ “Chúa có bắt xuống hỏa ngục cũng đành chịu chứ không thể tha thứ được!” Những lý do nêu trên đều chính đáng, nhưng không đủ để tránh tha thứ. Các Bài đọc hôm nay cho chúng ta thấy những lý do tại sao phải tha thứ luôn.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tha thứ để được thứ tha.
Lý do đầu tiên và trên hết tại sao phải tha thứ là vì để được thứ tha bởi Thiên Chúa. Đã là con người, ai cũng có tội; nếu đã có tội, cần phải được tha thứ. Con người không những có tội, còn luôn luôn phạm tội; vì thế con người luôn luôn cần được tha thứ. Những lời của Sách Đức Huấn Ca lặp đi lặp lại điệp khúc này:
– Hãy bỏ qua điều sai trái cho kẻ khác, thì khi bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được tha.
– Kẻ báo thù sẽ chuốc lấy báo thù của Đức Chúa, tội lỗi nó, Người xem xét từng ly.
– Người với người cứ nuôi lòng hờn giận, thế mà lại xin Đức Chúa chữa lành!
– Nó chẳng biết thương người đồng loại, mà lại dám xin tha tội cho mình!
Điều làm cho con người khó tha thứ là con người tưởng mình tốt lành và coi người khác là tội nhân. Nếu họ chịu khó xét mình, họ sẽ nhìn thấy rõ hơn tội lỗi của họ. Hơn nữa, nhiều người biết mình có tội nhưng vẫn lên án tha nhân, là vì tội tha nhân đã được phơi ra ánh sáng, trong khi họ nghĩ tội của họ có thể che giấu được. Câu truyện Người Phụ Nữ Ngọai Tình trong chương 8 của Gioan là một ví dụ điển hình. Chúa thách đố mọi người đang muốn ném đá người phụ nữ: “Ai trong các ông không có tội thì hãy quăng viên đá trước.” Không ai dám quăng đá vì họ biết họ có thể giấu mọi người, nhưng không thể giấu chính họ, và Đấng thấu suốt mọi bí ẩn trong lòng họ.
Luôn nghĩ đến Ngày Phán Xét là động lực giúp con người dễ tha thứ: “Hãy nhớ đến ngày tận số mà chấm dứt hận thù, nhớ mình sẽ phải hao mòn và phải chết mà trung thành giữ các điều răn.” Trong ngày này, mọi bí ẩn giấu kín đều được phơi bày ra ánh sáng và Thiên Chúa là Đấng rất công minh sẽ thưởng hay phạt mỗi người tùy theo việc họ đã làm.
2/ Bài đọc II: Dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa.
Tha thứ để được thứ tha là chuyện công bằng nên làm. Tuy nhiên, thánh Phaolô còn cho chúng ta một nguyên lý tích cực hơn để tha thứ: cho Chúa và cho chính chúng ta. Ngài nói: “Thật vậy, không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa.”
Nguyên lý tích cực này đến từ thần học về thân thể của ngài: Mọi người đều là những chi thể của một thân thể là Hội-Thánh và Đức Kitô là Đầu. Theo thần học này, chúng ta được nối kết với nhau trong một tình tương thân tương trợ vì chúng ta cùng được nối kết vào thân thể của Chúa. Các chi thể không thể sống riêng lẻ, nhưng phải kết hợp với thân thể. Nếu một chi thể đau là tòan thân đau; và nếu tất cả các chi thể khỏe mạnh thì tòan thân khỏe mạnh.
Giống như trường hợp hôn nhân giữa hai vợ chồng: họ không còn là hai nhưng trở nên một xương thịt, vì thế cả hai không thể tách rời nhau vì bất cứ lý do gì cho đến chết; chúng ta có thể áp dụng thần học thân thể của thánh Phaolô vào sự tha thứ. Tất cả chúng ta là những chi thể của một thân thể là Chúa Kitô nên chúng ta không thể tách rời nhau vì bất kỳ lý do gì, không những cho đến chết mà còn cả khi sống lại nữa vì Đức Ki-tô đã chết và sống lại chính là để làm Chúa kẻ sống cũng như kẻ chết. Vì vậy, tha thứ là chuyện phải làm để giữ cho thân thể Chúa Kitô luôn được vẹn tòan.
3/ Phúc Âm: Phải luôn tha thứ, không phải đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy.
Chúng ta phải thầm biết ơn sự mau miệng và tính thành thật của Phêrô, vì nhờ thánh nhân mà chúng ta có được sự giảng giải rõ ràng của Chúa Giêsu về một vấn đề hết sức tế nhị và rất khó thi hành. Phải tha thứ bao nhiêu lần? Tục ngữ Việt-Nam có câu “Quá tang ba bận,” và phong tục của người Do-Thái cũng thế “tối đa là 3 lần.” Phêrô muốn tỏ ra chắc ăn, nên đã rộng lượng tăng lên hơn gấp đôi: “7 lần.” Nhưng câu trả lời của Chúa Giêsu đã làm cho Phêrô và chúng ta giật mình: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy.” Các nhà chú giải thường tranh luận “bảy mươi lần bảy là bao nhiêu lần?” Có người cho là 70*7= 490 lần; người khác cho là 707 hay 777, một con số rất to lớn. Điều quan trọng Chúa muốn nhấn mạnh nơi đây là bất cứ lúc nào anh chị em nói lời xin lỗi là chúng ta phải tha. Nhiều người đã lắc đầu và cho rằng: Nếu thánh trên bàn thờ còn phải nhảy xuống để can thiệp thì làm sao con người có thể tha thứ mãi, nhất là với những người cứ tái đi tái lại? Nhưng nếu chúng ta biết trở nên tốt là một tiến trình tập luyện lâu dài thì việc phải kiên nhẫn tha thứ là chuyện tất nhiên phải làm.
Tại sao phải tha thứ? Thay vì đưa ra câu trả lời, Chúa kể một ví dụ rất rõ ràng và có thể giải quyết nhiều vấn nạn khác chung quanh vấn đề tha thứ. Người nói: “Vì thế, Nước Trời cũng giống như chuyện một ông vua kia muốn đòi các đầy tớ của mình thanh toán sổ sách. Khi nhà vua vừa bắt đầu, thì người ta dẫn đến một kẻ mắc nợ vua mười ngàn yến vàng. Y không có gì để trả, nên tôn chủ ra lệnh bán y cùng tất cả vợ con, tài sản mà trả nợ. Bấy giờ, tên đầy tớ ấy sấp mình xuống bái lạy: “Thưa Ngài, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả hết.” Tôn chủ của tên đầy tớ ấy liền chạnh lòng thương, cho y về và tha luôn món nợ.”
Sự tương phản giữ hai món nợ và cách xử cho ta thấy rõ sự ác độc của kẻ đã được tha thứ này. Số tiền anh được tha là mười ngàn yến vàng (ta,lanton) tương xứng với khỏang 4.8 triệu Mỹ-kim (một yến vàng giá 5000-6000 quan tiền) trong khi bạn anh chỉ nợ 100 quan tiền (khỏang 10 Mỹ-kim). Nếu so sánh giữa hai món nợ, số tiền bạn anh nợ chưa đáng số lẻ của món nợ anh được tha. Chúng ta hãy xem cách xử của anh với người bạn nợ: Y liền túm lấy, bóp cổ mà bảo: “Trả nợ cho tao!” Bấy giờ, người đồng bạn sấp mình xuống năn nỉ: “Thưa anh, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả anh.” Nhưng y không chịu, cứ tống anh ta vào ngục cho đến khi trả xong nợ.
Tại sao anh làm như thế? Vì anh nghĩ rằng sẽ không ai biết cách cư xử của anh, nhất là vị vua đã tha nợ cho anh. Nhưng tất cả những gì anh làm đã không giấu được các bạn của anh vì những người này có thể cũng là bạn với con nợ của anh. Họ buồn lắm và đến thuật lại cùng vị vua tất cả mọi điều xảy ra. Chúng ta thử tưởng tượng xem phản ứng của nhà vua sẽ ra sao khi biết được tin này: Vua đòi đầy tớ đến mà phán rằng: “Hỡi đầy tớ độc ác kia! Ta đã tha hết nợ cho ngươi vì ngươi cầu xin Ta; tại sao ngươi không thương xót đồng bạn ngươi như Ta đã thương ngươi?” Chủ nội giận, trao anh cho kẻ giữ ngục cho đến khi anh trả xong hết nợ.
Cũng vậy, trong mối tương quan của chúng ta với Chúa: Nếu chúng ta không chịu tha thứ những khuyết điểm nhỏ bé của anh em phạm đến chúng ta như kẻ bất lương hôm nay, làm sao Thiên Chúa có thể tha thứ những tội lớn chúng ta đã xúc phạm đến Ngài? Vì thế, tha thứ không còn là chuyện có thể làm hay không làm, nhưng là một bổn phận phải làm kèm theo hình phạt nếu không làm như Chúa đã báo hôm nay: “Nếu mỗi người trong các ngươi không hết lòng tha lỗi cho anh em mình, thì Cha Ta ở trên trời cũng sẽ xử với các ngươi như vậy.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Tha thứ để được thứ tha.
– Tha thứ cho nhau là giữ cho thân thể của Chúa Kitô được luôn vẹn tòan.
– Phải tha thứ luôn luôn cho tha nhân vì Chúa vẫn hằng tha thứ cho chúng ta mỗi ngày.
(Trích trong ‘Manna’ – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy Niệm
“Và bạn nữa, người bạn của giây phút cuối cùng. Bạn không hiểu điều bạn đã làm. Cầu xin cho hai chúng ta là những người trộm lành được gặp lại nhau trên Thiên quốc,… Chúa là Chúa của hai chúng ta.” Đó là lời trối của cha Christian de Chergé viết cho người Hồi giáo nào đó sẽ ám sát mình, bởi cha biết cái chết là điều không sao tránh khỏi.
Ta không thấy có chút hờn oán nào.
Cha coi kẻ giết mình như một người bạn, một người trộm lành như cha, và cha mong được sống với anh trên trời.
Tha thứ một cách phi thường và hồn nhiên, đó là thái độ của người thấm nhuần Kitô giáo.
Các tôn giáo đều dạy sự tha thứ.
Tha thứ để làm cho oán tiêu tan, để phá vỡ cái vòng oan nghiệt trói buộc con người.
Kitô giáo mời gọi tha thứ vì một lý do khác: Tôi phải tha thứ cho anh em tôi vì Chúa đã liên tục tha thứ cho tôi.
Đời tôi là một chuỗi những vấp ngã, được đan kết với bao thứ tha. Ơn tha thứ như dòng suối chảy vào đời tôi, nếu bị ngăn lại, nó sẽ thành ao tù, nó chỉ trong lành khi được chảy đến tha nhân.
Tha thứ là khả năng của Thiên Chúa.
Tự sức riêng, ta không ra khỏi được vòng oán thù.
Chẳng ngày nào thế giới không có tiếng súng.
Luật mắt đền mắt là luật công bằng, nhưng có thể làm cả thế giới hoá mù. Chỉ sự tha thứ mới đem lại bình an.
Dám tha thứ là dám chịu thiệt thòi, dám tin rằng cuối cùng tình thương sẽ thắng.
Qủa tim chai đá phải tan chảy trước tình thương.
Đức Giêsu mời gọi chúng ta tha thứ, không phải 7 lần, mà là 70 lần 7, nghĩa là tha thứ như Thiên Chúa, tha vô giới hạn.
Cần biết chạnh lòng thương như Thiên Chúa, để sẵn sàng tha cho bạn mình một món nợ nhỏ, vì Chúa đã tha cho mình món nợ khổng lồ.
Chúng ta chỉ biết chắc mình đã được Chúa tha, khi chúng ta không giữ ơn tha thứ cho riêng mình, khi chúng ta mang quả tim thương xót của Đấng hay tha thứ.
Cha Chergé đã bị giết cũng với 6 đan sĩ khác.
Chắc nay cha hiểu rõ hơn câu này: “Vì chính khi thứ tha, là khi được tha thứ.”
Gợi Ý Chia Sẻ
Tha thứ cho người xúc phạm đến danh dự, tài sản, quyền lợi của bạn, bạn thấy điều đó có khó không? Bạn làm gì để vượt qua được ước muốn trả thù?
Ở Angiêri đã có 19 tu sĩ và giáo sĩ Công giáo bị nhóm Hồi giáo quá khích giết hại. Bạn có nghĩ rằng những cái chết hiền lành này sẽ khiến ai đó phải nghĩ lại không?
Cầu Nguyện
Xin hãy dẫn dắt con đi từ cõi chết đến sự sống, từ lầm lạc đến chân lý.
Xin hãy dẫn dắt con đi từ thất vọng đến hy vọng, từ sợ hãi đến tín thác.
Xin hãy dẫn dắt con đi từ ghen ghét đến yêu thương, từ chiến tranh đến hoà bình.
Xin hãy đổ đầy bình an trong trái tim chúng con, trong thế giới chúng con, trong vũ trụ chúng con.
(Mẹ Têrêxa Calcutta)
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy Niệm
Các tôn giáo đều dạy người ta tha thứ cho người làm hại mình.
Trong cuốn Đạo Đức Kinh, Lão Tử dạy: “Dĩ đức báo oán.”
Phật giáo cũng đề cao lòng khoan dung để được thanh thản.
Qua dụ ngôn trên đây, Đức Kitô dạy ta phải tha thứ.
Hơn nữa, Ngài còn cho biết tại sao ta phải tha thứ cho anh em.
Không phải chỉ để oán tiêu tan hay buông bỏ phiền não,
nhưng đơn giản là vì có một tương quan bộ ba gắn bó chặt chẽ
giữa Thiên Chúa, tôi, và người anh em của tôi.
Đức Giêsu kể chuyện anh đầy tớ nợ nhà vua món tiền cực lớn.
Mười ngàn yến vàng tương đương với sáu mươi triệu ngày công.
Người ấy phải làm một trăm sáu mươi bốn ngàn năm mới trả nổi!
Chúng ta không hiểu tại sao anh lại nợ vua món tiền lớn như vậy.
Dù bán anh, bán vợ con, và toàn bộ tài sản của anh cũng chẳng đủ.
Dám hứa trả cho hết số nợ đó là một lời nói dối trơ trẽn (Mt 18,26).
Chỉ một người có thể giải quyết được vấn đề, đó là nhà vua.
Cần một tấm lòng để có thể xóa sạch món nợ trong phút chốc.
Vì chạnh lòng thương, nên nhà vua đã tha nợ và thả anh ta.
Biết đâu sau này anh lại được nhà vua trọng dụng.
Nhưng anh đầy tớ này lại không có lòng thương xót như chủ anh.
Anh không thể tha cho một đầy tớ khác của chủ,
nợ anh một món tiền chỉ bằng hơn ba tháng lương,
dù người đó đã làm y như anh: đã sấp mình, năn nỉ xin tha nợ.
Món nợ này quá nhỏ so với món nợ anh vừa được tha,
nhưng anh vẫn quyết đòi cho bằng được.
Vì không chấp nhận trì hoãn nên anh tống người bạn đó vào ngục.
Câu chuyện đến tai ông chủ, và điều bất ngờ đã xảy ra.
Ông kêu anh lại và gọi anh là “tên đầy tớ độc ác.”
Ông nổi cơn thịnh nộ và rút lại quyết định tha nợ cho anh.
Như thế, món nợ vẫn còn nguyên, và anh sẽ chẳng bao giờ trả hết.
Ông chủ cho biết lý do khiến ông nổi giận và đổi ý:
“Ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin Ta,
há ngươi lại chẳng phải thương xót bạn ngươi,
như chính Ta đã thương xót ngươi sao?” (Mt 18,32-33).
Tội của anh đầy tớ này là tội không có lòng thương xót như chủ.
Dụ ngôn trên đây của Đức Giêsu đòi chúng ta đối xử với nhau
như chính Thiên Chúa đã đối xử với từng người chúng ta.
Tha thứ bắt nguồn từ lòng thương xót.
Tha thứ cho tha nhân được đặt nền
trên tình thương mà mỗi người cảm nhận được từ Thiên Chúa.
Càng cảm nhận mình được Chúa xót thương và tha thứ
ta càng dễ cư xử tương tự với tha nhân.
Càng biết mình đã được tha món nợ lớn
ta càng dễ tha những món nợ nhỏ của anh em.
Tất cả nền luân lý Kitô giáo mời ta bắt chước chính Thiên Chúa.
Hoàn thiện như Ngài, thương xót như Ngài (Mt 5,48; Lc 6,36),
nhân hậu với kẻ xấu và bất chính như Ngài (Mt 5,45; Lc 6,35),
kiên nhẫn với cỏ lùng như Ngài (Mt 13,29-30),
tha thứ cách quảng đại như Ngài (Mt 18,22.27).
Bài Tin Mừng hôm nay thật là một tin mừng,
vì dạy chúng ta cách để vào Nước Trời, đó là tha thứ.
Thiên Chúa đã ban ơn tha thứ cho ta từ trước rồi,
vấn đề là làm sao giữ được ơn ấy cho đến ngày nhắm mắt.
Chúng ta chỉ giữ được nếu chấp nhận chuyển đi cho tha nhân.
Chuyển đi là cách duy nhất để giữ lại (Mt 6,14-15).
Đức Thánh Cha kêu gọi người ta đừng dùng tôn giáo
như phương tiện để kích động lòng thù ghét, cuồng tín cực đoan,
nhưng như con đường để diễn tả lòng bao dung tha thứ.
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày
đón nhận những người khác
là điều vượt quá sức con,
vì con kiêu hãnh, tự hào và yếu đuối.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày
con không thể nào kính trọng kẻ khác được,
vì ý kiến, vì màu da, vì cái nhìn của người ấy.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày
mà yêu mến người khác
làm cho tim con đau nhói,
vì nỗi sợ hãi, nỗi khổ đau
và những giới hạn của bản thân con.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
trong những ngày khó khăn đó,
xin hãy nhắc cho con nhớ rằng
tất cả chúng con đều là con cái Chúa,
và đừng để con quên lời Chúa dạy:
“Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất
Là làm cho chính Ta.”
Tạp chí Prier.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Cuộc sống luôn đầy rẫy bất công. Những người nghèo và thấp cổ bé miệng phải chịu nhiều oan ức, nhất là trong những chế độ chính trị hà khắc và độc tài. Con người có xu hướng chịu đựng và buộc chấp nhận, như một thứ luật rừng trong xã hội: cá lớn nuốt cá bé. Trước những bất công, nhiều khi người ta chỉ biết kêu trời.
Phải chăng lúc nào lý cũng thuộc về kẻ mạnh? Phải chăng những người bé mọn luôn phải gánh chịu những thiệt thòi? Lời Chúa hôm nay muốn khẳng định với chúng ta: Không phải như vậy. Thiên Chúa là vị Thẩm phán chí công. Người lắng nghe và bênh vực những người cô thế cô thân và những người bị gạt ra bên lề của cuộc sống.
Trong Bài Tin mừng, vị Thẩm phán được diễn tả như một vị vua và với cách gọi “tôn chủ”, thể hiện người đáng kính trọng và là một người liêm khiết. Vị tôn chủ đã chạnh lòng thương trước lời van xin của người đầy tớ và sẵn sàng tha cho hắn món nợ rất lớn là mười ngàn yến vàng. Chúng ta nhớ đến bài giảng của Chúa Giêsu về ngày tận thế (x. Mt 25,31-46). Lúc đó, vị thẩm phán cũng được gọi là “Đức Vua” xét xử người lành cũng như kẻ dữ, tuỳ theo việc họ đã làm khi còn sống trên dương gian. Trước đó, vị thẩm phán cũng được dùng với danh xưng “Con Người”. “Con Người” hay “Con loài người” là danh xưng chính Chúa Giêsu đã dùng để chỉ bản thân Người. Như thế, vị thẩm phán sẽ xét xử loài người là chính Chúa Giêsu, như chúng ta đọc trong kinh Tin kính: “Ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết”.
Hình ảnh vị tôn chủ trong Tin Mừng hôm nay cho thấy đó là vị Thẩm phán vừa công bằng vừa bao dung nhân hậu. Vị thẩm phán ấy chạnh lòng thương trước nỗi khổ của con người và sẵn sàng tha thứ nếu người ấy khiêm tốn kêu xin. Tuy vậy, ngài cũng nghiêm khắc với kẻ gian manh, chỉ biết khúm núm trước người chủ nợ, mà lại táng tận lương tâm đối với bạn hữu đang mắc nợ mình chỉ có một trăm quan tiền, trong khi món nợ mình được tha có giá trị gấp nhiều lần.
Nếu Thiên Chúa là vị Thẩm phán khoan dung nhân hậu, thì những ai tin vào Ngài cũng phải khoan dung nhân hậu như thế. Những ai cố chấp, hận thù và ích kỷ không thể lãnh nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa. Người đầy tớ có trái tim chai đá trước lời van xin của tha nhân bị ông chủ kết án là đồ gian ác. Hơn thế nữa, anh ta phải vào tù và phải trả món nợ trước đây ông chủ đã có ý tha, vì thấy anh ta đáng thương và vì lời van xin thống thiết. Trong thực tế, con người dễ hạ mình trước mặt Thiên Chúa, nhưng lại xảo trá và mưu mô đối với đồng loại. Lời kết câu chuyện của Chúa Giêsu cũng là tóm lược lời kinh Lạy Cha: “Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình”. Đây cũng là nội dung của Bài trích sách Huấn Ca: “Hãy bỏ qua điều sai trái cho kẻ khác, thì khi bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được tha” (Bài đọc I). Bao dung nhân hậu, tha thứ yêu thương. Đó là cốt lõi của giáo huấn Kinh Thánh, nhất là trong giáo huấn của Chúa Giêsu. Hãy tha thứ vì con người sống trên trần gian đều là bất toàn. Khi tha thứ, ta mở cho người khác một con đường hướng tới tương lai. Giáo huấn Kitô giáo còn khẳng định: khi tha thứ là ta được thứ tha; khi cho đi ta sẽ nhận lãnh. Tha thứ sẽ đem lại cho chúng ta niềm vui, sự thanh thản và yêu đời. Người Việt Nam chúng ta thường nói” đời có vay có trả”, “gieo nhân nào gặt quả nấy”. Có người bức xúc vì thấy kẻ gian ác cứ sống nhơn nhơn, bất chấp đạo lý luân thường, ấy vậy mà họ vẫn giàu có hoặc may mắn. Nếu họ chưa phải trả giá cho sự gian ác họ đã gây ra cho người khác, là vì chưa đến thời đến buổi đó thôi, vì “lưới trời lồng lộng, thưa mà khó thoát”, như cổ nhân đã dạy.
“Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải đến bảy lần không?” Ông Phêrô vừa đặt câu hỏi, vừa tự đưa ra câu trả lời. Khi khẳng định tha thứ bảy lần, ông cũng cho mình là rất quảng đại, vì thói quen của người Do Thái thường tha cho một người xúc phạm mình hai lần (Theo Anselm Grün, một chuyên viên Kinh Thánh). Số 7 cũng là con số hoàn thiện. Câu trả lời của Chúa Giêsu muốn khẳng định rằng, Phêrô cũng như những ai tin vào Chúa phải tha thứ vô biên, không giới hạn và lặp đi lặp lại nhiều lần tới mức không đếm xuể. Chúa Giêsu so sánh chúng ta với người đầy tớ cứng lòng không tha cho bạn mình, trong khi Thiên Chúa là Đấng bao dung. Ngài đã tha hết mọi nợ nần cho chúng ta trong Con của Ngài. Xin lưu ý chữ “đồng bạn” được sử dụng năm lần trong đoạn Tin Mừng này để chỉ mối tương quan giữa hai người cùng là con nợ. “Đồng bạn” ở đây có nghĩa là tha nhân và là người cùng phục vụ một tôn chủ
Trong hành trình cuộc đời, con người sống với và sống cho tha nhân. Chỉ khi nào ý thức được điều này, chúng ta mới tìm được hạnh phúc. Một cuộc sống biết chia sẻ cảm thông sẽ đong đầy niềm vui. Cũng vậy, ý thức sống hay chết đều thuộc trọn về Chúa sẽ giúp chúng ta cảm nhận được tình thương của Ngài giữa những khó khăn trắc trở trong cuộc đời. (Bài đọc II). Chúa Giêsu là mẫu gương cho chúng ta về tâm tình phó thác. Người cũng là mẫu mực cho chúng ta triết lý sống vì hạnh phúc của tha nhân. Trên cây thập giá, Chúa đã xin ơn tha thứ cho những kẻ hành hạ mình. Yêu thương và tha thứ, cầu nguyện cho kẻ thù, những đức tính này làm cho chúng ta nên giống Đức Giêsu Kitô.
4.Hết lòng tha thứ cho nhau – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Lịch sử Việt Nam kể lại một cuộc tha thứ cho hàng vạn quân Minh như sau: “Lê Lợi sai tướng đem chiến lợi phẩm thu được ở trận Chi Lăng vào tận doanh trại của chủ tướng Tàu là Mộc Thạch. Mộc Thạch biết Liễu Thăng bị chết, đại quân bị bại, hoảng sợ chạy về Tàu. Vương Thông đóng quân ở Đông Quan, khiếp đảm, xin cầu hòa – Lê Lợi đồng ý, còn cung cấp lương thực, thuyền bè, sửa chữa cầu đường tạo điều kiện cho quân Minh nhanh chóng rút về nước. Nhờ sự tha thứ cho hàng vạn kẻ thù, dân nước được sống hòa bình thịnh vượng. Đó là kết quả của sự tha thứ trong lịch sử Việt Nam.
Còn một sự tha thứ vĩ đại hơn nữa trong lịch sử loài người, là sự tha thứ của Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa xuống thế làm người được Gioan tẩy giả giới thiệu: “Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” (Ga. 1, 29).
Ngài là Đấng xóa tội trần gian, nên Ngài nói với người phụ nữ tội lỗi: “Tội chị đã được tha rồi” (Lc. 7, 48).
Ngài cũng tha tội cho người bại liệt: “Này con, cứ yên tâm, con đã được tha tội rồi” và cho anh đứng dậy vác chõng về (Mt. 9, 2). Dù các kinh sư và Pharisiêu dựa vào luật Môisê kết án người phụ nữ ngoại tình, Ngài vẫn tha thứ cho chị: “Tôi không lên án chị đâu, chị cứ về và từ nay đừng phạm tội nữa”. Thế là Ngài đã tha tội, tha chết cho chị, và không ai có quyền lên án chị nữa (Ga. 8, 11).
Ngài đã tha thứ, và Ngài dậy chúng ta phải tha thứ như người cha tha thứ và vui mừng đón rước đứa con phung phá (Lc. 15, 11-32). Ngài dậy chúng ta phải cầu nguyện để biết tha thứ cho kẻ có nợ chúng ta như Chúa Cha đã tha nợ cho chúng ta (Mt. 6, 9-15).
Nhưng lòng con người quá hẹp hòi, cứng cỏi, cùng lắm chỉ tha được đến ba lần: “quá tam ba bận” hoặc hơn chút nữa như luật sĩ tha đến bốn lần. Phêrô tưởng mình tha đến bảy lần thì đã xứng đáng làm tông đồ của Thầy rồi. Không ngờ, Thầy dậy phải tha đến bảy mươi lần bảy: một con toán khổng lồ hàng tỉ lần, thời đó không thể đếm được. Cụ thể hơn nữa, cho ông và mọi người hiểu một cách thấm thía, lòng thương yêu tha thứ vô cùng của Thiên Chúa đối với con người, và lòng độc ác dã man của con người với con người. Qua câu chuyện đầy xúc động sau: Một đầy tớ nợ ông chủ 10.000 nén vàng, nếu bán hết vợ con, tài sản và y đi, cũng không trả đủ. Thế mà, y xin tha, chủ tha luôn. Nhưng bạn y, chỉ nợ y có 100 đồng bạc, chẳng đáng chút nào cái nợ y nợ ông chủ, thế mà bạn y xin khất ít lâu sẽ trả. Y không tha, lại túm lấy, bóp cổ, đánh đập, bỏ tù bạn y.
Không còn cái cảnh bi đát nào tả được lòng độc ác của con người không biết tha thứ cho nhau nữa!
Phêrô nghĩ sao? Chúng ta nghĩ sao? Khủng khiếp đến chừng nào khi không biết tha thứ cho anh em?
Hình như Phêrô cũng như chúng ta chẳng thay lòng đổi dạ gì khi nghe câu chuyện có thực trăm phần trăm đó. Vì chính Phêrô vừa mới rước Mình và Máu thánh Thầy đổ ra cho muôn người được tha tội, thế mà, ông đã hăng tiết rút gươm ra chém đứt tai kẻ đến bắt Thầy (Mt. 26, 27-51). ông không thể tha thứ được. Chỉ khi ông được Thầy tha tội chối Thầy (Mt. 26, 74-75), chỉ khi ông thấy Thầy bị treo trên Thập giá mà vẫn cầu nguyện xin tha cho kẻ thù của Thầy: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ lầm chẳng biết” (Lc. 23, 34) và nhất là khi thấy Thầy sống lại đầy uy quyền mà Thầy vẫn không trách cứ ông, và không hề trả thù đứa quân dữ nào; chỉ khi đó Phêrô mới thấm thía sâu sắc: “Phải hết lòng tha thứ cho anh em”, chỉ khi đó Phêrô mới thực sự thuộc về Chúa Kitô, mới sống cho Chúa Kitô và cùng chết với Người (Rm. 14, 7-9 – Bài đọc II)
Lạy Chúa, xin cho con nhớ rằng: “Kẻ báo thù sẽ chuốc lấy sự báo thù của Chúa. Kẻ nuôi lòng hờn giận, thế mà dám xin Chúa ban ơn lành, nó chẳng biết thương đồng loại, mà lại dám xin ơn tha tội cho mình” (Hc. 27, 30-28. 1-5 và Mt. 6, 14-15). Lạy Cha, xin cho con luôn luôn tụng niệm lời cầu xin của Đức Kitô: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ lầm chẳng biết”, để con được Cha tha tội cho con. Amen.
Đọc lại Phúc Âm chúng ta thấy Chúa Giêsu đã dùng nhiều câu chuyện để xác quyết rằng: Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta một cách nhưng không. Đúng thế, khi người con hoang đàng đang kéo lê những bước chân mệt mỏi trở về, thì cha cậu, thoạt nhìn thấy, đã vội chạy tới, ôm choàng lấy cậu mà hôn, rồi lại còn truyền cho gia nhân đem áo cho cậu mặc, nhẫn cho cậu đeo, giày cho cậu đi, rồi giết con bê báo mở tiệc ăn mừng. Người cha đã tha thứ cho cậu một cách nhưng không.
Cũng thế qua đoạn Tin Mừng chiều hôm nay, tên đầy tớ mắc nợ ông chủ một món nợ khổng lồ. Hắn không có gì để trả. Thế nhưng ông chủ đã xoá bỏ tất cả cho hắn, để hắn được tự do trở về gia đình. Ông chủ đã tha cho hắn một cách nhưng không.
Trong cuộc sống của Chúa Giêsu, chúng ta cũng thấy Ngài đã tha thứ rất nhiều lần. Ngài đã tha thứ cho Madalena, cho người thiếu phụ ngoại tình, cho Phêrô và cho tên trộm vào những giây phút cuối cùng trên thập giá.
Tuy nhiên Chúa chỉ đòi hỏi chúng ta một điều kiện rất nhỏ mọn đó là chúng ta cũng phải biết tha thứ cho nhau. Trong kinh Lạy Cha, chúng ta vốn thường đọc: Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Trong câu chuyện hôm nay chúng ta thấy ông chủ đã xử trí như thế nào đối với tên đầy tớ độc ác? Vì hắn không tha cho bạn hắn món nợ cỏn con là 100 đồng, lại còn tống giam người bạn khổ sở ấy. Thì bây giờ ông chủ cũng sẽ đối xử với hắn như thế, nghĩa là tống hắn vào ngục cho đến khi trả xong món nợ kếch xù ấy. Và Chúa Giêsu đã kết luận: Thiên Chúa cũng sẽ đối xử với các ngươi như thế nếu các ngươi không biết tha thứ cho nhau. Nếu chúng ta không biết tỏ ra khoan dung tha thứ cho người khác, thì chúng ta sẽ chẳng được hưởng nhờ lòng khoan dung tha thứ của Thiên Chúa.
Trong cuộc nội chiến xảy ra tại Tây Ban Nha vào năm 1936, có một vị linh mục bị bắt và bị tống giam. Trước khi ra mặt trận, đoàn quân muốn giết tất cả những tù binh mà họ giam giữ. Thế là một tốp lính được lệnh giải ngài tới một nghĩa trang để xử bắn. Thế nhưng trước khi hành quyết, ngài đã xin một đặc ân cuối cùng đó là được ôm hôn tất cả tốp lính sẽ bắn ngài. Hành vi này muốn nói lên một sự chân thành tha thứ, khiến cho một tên lính đã xúc động và sau này anh ta đã trở về với Giáo Hội. Cũng như Chúa Giêsu, trên thập giá Ngài đã tha thứ cho tất cả bọn lý hình đã nhúng tay vào máu Ngài: Lạy Cha xin Cha tha cho chúng vì chúng chẳng biết việc chúng làm.
Hãy tha thứ cho nhau để rồi Thiên Chúa mới sẽ tha thứ cho chúng ta.
(Suy niệm của Lm Ignatiô Trần Ngà)
Khi bị người khác xúc phạm, có người cảm thấy bị tổn thương nghiêm trọng, nên lồng lên dữ dội như con thú bị trúng thương; có người cảm thấy máu sôi lên trong huyết quản, người nóng bừng lên, hơi thở dồn dập, mặt đỏ gay.
Trong hoàn cảnh đó, phản ứng thông thường của đa số là tìm cách trả đũa thật đích đáng. Thậm chí có người cho rằng thà chịu chết còn hơn chịu nhục. Thế là giông tố sẽ bùng lên, những trận đòn thù như vũ bão sẽ ập đến, hậu quả không biết đâu mà lường!
Trong khi đó, Chúa Giêsu, trong thân phận con người, và nhất là trong cuộc thương khó của Người, đã bình thản đón nhận mọi sỉ nhục, nhạo cười, lăng mạ, phỉ nhổ, chịu hành hạ, chịu đánh đòn, chịu đội mão gai, chịu vác thập giá, chịu chết trần truồng, chịu vô vàn đau thương chồng chất và chịu chết tủi nhục trên thập giá mà không hề oán hận hay nguyền rủa những con người bội bạc xúc phạm đến mình, trái lại còn đem lòng thương xót và cầu xin Chúa Cha tha thứ cho họ. (Luca 23, 33)
Đối mặt với vô vàn xúc phạm đủ mọi hình thức, Chúa Giêsu sẵn sàng tha thứ và kêu mời mọi người hãy tha thứ cho nhau, tha thứ liên tục không ngừng.
“Bấy giờ, ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?” Đức Giêsu đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy.” Nói như thế có nghĩa là Chúa dạy hãy tha thứ liên tục không ngừng.
Quả là một đòi hỏi vượt quá sức người. Làm sao con người đầy sân hận lại có đủ bản lãnh và khí phách để thực hiện lời truyền dạy của Chúa Giêsu?
1. Con người mắc phải lầm lỗi vì mù quáng, vì thế họ đáng thương chứ không đáng trách.
Chúa Giêsu không những tha thứ mà còn yêu thương những kẻ kết án và đóng đinh Người vì Người biết họ hành động cách mù quáng, mà mù quáng thì đáng thương hơn là đáng trách. Họ mù quáng nên không nhận ra Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Họ tưởng rằng khi kết án Chúa Giêsu là họ bảo toàn vinh quang Thiên Chúa, không để cho uy danh Thiên Chúa bị xâm phạm bởi một người phàm làng Nadarét ngạo mạn xưng mình là Con Thiên Chúa.
Charlie Charplin nhận định: “người ta mắc phải lầm lỗi là do sự mù quáng của mình. Thế nên người ngu thì lên án họ; người khôn thì thương xót họ.”
Không giống như bao nhiêu người thiếu hiểu biết thường vội vàng kết án người khác căn cứ vào hành vi lầm lỗi bên ngoài của tội nhân, Chúa Giêsu là Đấng khôn ngoan thấu suốt lòng dạ con người; Người biết rằng phần lớn những tội người ta phạm là do mù quáng, do thiếu hiểu biết mà ra, vì thế, thay vì lên án, Người thương xót những kẻ mắc phải lỗi lầm và tha thiết cầu xin Chúa Cha tha thứ cho họ. “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” (Lc 23, 33)
2. Không ai cố tình làm điều ác.
Ngoài ra, nhà hiền triết Socrate cũng có cùng quan điểm như thế. Ông nhận định rằng: “không ai cố tình làm điều ác” và “sở dĩ người ta làm điều ác là vì mù quáng, thiếu hiểu biết”
Dale Carnegie, một học giả trứ danh người Mỹ nổi tiếng với nhiều tác phẩm bán chạy nhất thế giới quả quyết rằng: “Tôi đã bỏ ra gần 70 năm trong đời để khám phá ra chân lý nầy là dù người ta có lỗi nặng đến đâu, thì trong 100 lần phạm lỗi, thì có đến 99 lần người ta tự cho là mình vô tội.” Phần lớn các phạm nhân cho rằng mình vô tội vì nghĩ rằng những hành động họ làm được thúc đẩy bởi lòng tốt chứ không phải bởi ác tâm.
Xét lại bản thân mình, chúng ta thấy rằng dù mỗi người chúng ta đã từng phạm nhiều lầm lỗi trong cuộc sống, nhưng chưa bao giờ chúng ta hành động vì ác tâm. Từ đó suy ra, trong phần đông nhân loại, không mấy ai cố tình làm điều ác. Vì thế chẳng nên kết tội người khác nhưng hãy sẵn sàng thứ tha cho họ.
Tóm lại, để có thể tuân giữ lời mời gọi tha thứ liên lỉ, tha thứ không ngừng của Chúa Giêsu, chúng ta cần xác tín như nhà hiền triết Socrate rằng: “Không ai cố tình làm điều ác”, “sở dĩ con người phạm phải lầm lỗi là do sự mù quáng của mình”.
Và hãy ghi tâm lời nhận định của Charlie Charplin: “con người mắc phải lầm lỗi là do sự mù quáng của mình. Thế nên, người khôn thì thương xót họ, người ngu thì lên án họ.”
Và nhất là học theo gương Chúa Giêsu, cảm thông sâu sắc với người tội lỗi, cầu xin Chúa Cha tha thứ cho họ vì họ mù quáng, “không biết việc họ làm” (Lc 23,33).
(Suy niệm của Lm Ignatiô Trần Ngà)
Một số tín hữu nghĩ rằng: Khi có tội, chỉ cần đi xưng tội và làm việc đền tội; thế là mọi tội đều được tha thứ; rồi sau đó, cứ thản nhiên phạm tội tiếp mà chẳng áy náy chút nào.
Tuy nhiên, qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su bác bỏ cách nghĩ, cách làm sai lầm như thế. Ngài dạy ta biết rằng chỉ có những ai tha thứ cho người khác thì kẻ ấy mới được thứ tha; còn ai không biết thứ tha, sẽ không được tha thứ.
Dụ ngôn “Người tôi tớ bất lương” (Mt. 18, 21-35) trong Tin mừng Mát-thêu được trích đọc hôm nay soi sáng cho chúng ta thấy rõ điều này.
Sau khi nhà vua biết tên đầy tớ vừa được vua tha cho món nợ khổng lồ, lại nhẫn tâm tống giam người bạn của y vào ngục chỉ vì người này chưa thể trả món nợ nhỏ cho anh ta, thế là vua liền nổi giận, truyền bắt tên đầy tớ ác ôn đó đến và phán:
“Hỡi tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta. Sao ngươi không tha nợ cho bạn người như ta đã tha cho ngươi? Thế rồi vua nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày trả hết nợ cho ông.”
Rồi Chúa Giê-su kết luận: “Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình” (Mt 18,35).
Như vậy, nếu không tha thứ cho người khác, chúng ta phải gánh lấy hậu quả đáng sợ như thế đó!
Có tha thứ thì mới được thứ tha là một quy luật quan trọng được Chúa Giê-su lặp lại nhiều lần:
Khi dạy ta cầu nguyện với Chúa Cha qua kinh Lạy Cha, Chúa Giê-su nói:
“Xin tha tội cho chúng con cũng như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con” (Mt 6,12).
“Nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6,14-15).
Và qua Tin mừng Luca, Chúa Giê-su dạy tiếp:
“Anh em hãy tha thứ thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha” (Lc 6, 37).
Đến đây, chúng ta tự hỏi: Tại sao phải tha thứ thì mới được thứ tha?
Ta biết rằng mọi sự trên đời đều vận hành theo những quy luật mà Thiên Chúa đã quy định. Minh họa: Nước ở nhiệt độ bình thường thì ở thể lỏng, khi bị đun nóng thì bốc hơi, khi ở nhiệt độ dưới 0 thì đông thành đá, khi ở nhiệt độ vừa phải thì tan chảy thành nước… Nước luôn tuân theo quy luật đó, không thể khác được.
Minh họa thứ hai: Ta gieo hạt cam xuống đất thì sẽ có cây cam; gieo hạt cỏ thì sẽ mọc cỏ… Mọi vật, mọi sự trên đời đều vận hành theo quy luật như thể, không thể làm khác được.
Tương tự như thế, nếu ta trao ban sự tha thứ cho người thì ta sẽ gặt được thứ tha; nếu ta gieo rắc hận thù thì phải gặt oán thù.
Quy luật này được Chúa Giê-su xác định như sau: “Ai đong bằng đấu nào thì sẽ được đong lại bằng đấu ấy” (Lc 6,38) (đấu là dụng cụ đo lường ngũ cốc, thường làm bằng gỗ) và thánh Phao-lô cũng phát biểu tương tự như thế: “Ai gieo giống nào thì sẽ được gặt giống đó” (Galat 6,7).
Đây là quy luật muôn đời bất di bất dịch. Cũng như mọi quy luật khác, quy luật này không thể nào thay đổi được.
Vì thế, ai không thứ tha thì không thể nhận được sự tha thứ, cũng như không gieo hạt cam xuống đất thì sẽ chẳng có cây cam.
Thế là lời Chúa trong Tin mừng hôm nay buộc chúng ta phải chọn lựa dứt khoát một trong hai điều:
– Một là đừng thứ tha cho ai cả, để rồi chẳng được Chúa thứ tha và đành phải mang tội suốt đời;
– Hai là xóa bỏ giận hờn, dẹp qua một bên lòng tự ái… để thứ tha cho người khác khi họ xúc phạm đến ta; bù lại, ta được Chúa tha cho muôn vàn tội lỗi.
Lạy Chúa Giê-su,
Xin cho chúng con hiểu rằng khi giận hờn và không tha thứ cho người, chúng con sẽ rước họa vào thân, phải mang tội suốt đời; trái lại, khi sẵn sàng thứ tha cho tha nhân, chúng con sẽ được Chúa xóa bỏ mọi tội tình; nhờ đó, tâm hồn chúng con được an bình thư thái và cuộc sống sẽ hạnh phúc hơn.
(Suy niệm của Lm Ignatiô Trần Ngà)
“Bấy giờ, ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?”
Khi đặt vấn đề như thế, Phêrô tưởng chừng như vậy là tốt lắm rồi, đáng được Chúa hài lòng rồi. Nào ngờ Chúa Giêsu lại nói: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy.” Nói như thế có nghĩa là Chúa dạy hãy tha thứ liên tục không ngừng.
Làm sao mà tha thứ cho nổi khi người khác cứ mãi xúc phạm đến ta?
Làm sao có đủ bản lãnh và lòng bao dung để thực hiện lời truyền dạy thứ tha không ngừng của Chúa?
Để có thể tha thứ cho người khác, trước hết ta nên biết rằng: sở dĩ con người mắc phải lầm lỗi là do sự mù quáng của họ, vì thế họ đáng thương hơn là đáng trách.
Người lầm lỗi thì đáng thương hơn đáng trách
Khi thấy một người mù quờ quạng dò đường đi mà không có ai dẫn dắt, nên có khi thì sa xuống hố bị trặc chân; khi thì xông vào bụi rậm bị gai nhọn châm chích khắp người; khi thì vướng vào hàng rào nên bị kẽm gai móc rách cả thịt da, quần áo… thì những người chung quanh có thái độ nào?
Trong hoàn cảnh đó, chỉ có những người ngu dốt, thiếu đạo đức mới la mắng nhiếc móc người đó; còn bất cứ ai có lương tri đều tỏ lòng thương xót và sẽ ân cần dìu dắt người ấy bước đi an toàn.
Tương tự như thế, khi có người vì bị mù, không phải là mù mắt, nhưng là mù tâm trí, còn gọi là mù quáng, nên không thấy đường ngay nẻo chính; vì thế phải sa xuống hố sâu lầm lạc hoặc phải đắm chìm trong vũng bùn tội ác, thì ta nên có thái độ nào?
Trong hoàn cảnh đó, chỉ có những người thiếu hiểu biết với tầm nhìn hạn hẹp mới lên án hay oán ghét người ấy; còn những ai có lương tri, hiểu biết và khôn ngoan đều tỏ lòng thương xót và sẵn sàng tha thứ cho người vì mù quáng mà phạm lỗi, vì người mù quáng còn đáng thương hơn kẻ mù lòa.
Con người mắc phải lầm lỗi là vì mù quáng.
Triết gia Socrate nhận định một cách chắc nịch rằng: “Không ai cố tình làm điều ác. Sở dĩ con người mắc phải lầm lỗi là vì không hiểu biết”, nghĩa là vì mù quáng.
Nếu tôi có đôi mắt tinh tường, tôi sẽ thấy rõ đường đi nước bước và tôi sẽ cứ đường ngay nẻo chính mà đi. Nhất định tôi không dại gì để cho mình bị sa xuống hầm, sập xuống hố, đâm vào bụi gai hay lội xuống sình lầy tanh hôi.
Tương tự như thế, nếu tôi không bị mù quáng, tức đôi mắt tâm trí tôi còn sáng suốt, thì tôi sẽ thấy điều hay lẽ phải và chắc chắn tôi sẽ không để cho mình sa vào hố sâu tội lỗi hoặc đâm vào bờ bụi sai lầm.
Chỉ khi nào đôi mắt tâm trí tôi bị mù quáng bởi lòng tham, bởi ích kỷ, bởi dục vọng đê hèn, bởi kiêu căng tham vọng… thì tôi mới phải rơi vào những hố sâu tội lỗi mà thôi.
Vì thế, người lầm lỗi cần được thương xót và thứ tha.
Diễn viên kiêm đạo diễn bậc thầy người Mỹ tên là Charlie Charplain nhận định: “Sở dĩ con người mắc phải lầm lỗi là do sự mù quáng của họ. Vì thế, người khôn thì thương xót họ, còn người ngu thì lên án họ.”
Chúa Giêsu cũng nhận định như thế nên khi bị hành hình đau đớn và nhục nhã, Người thừa biết những kẻ đóng đinh Người đều hành động vì mù quáng, không ai trong họ biết Người là Con Thiên Chúa mà lầm tưởng Người chỉ là người phàm tự xưng mình là Con Thiên Chúa… nên mới kết án Người. Vì thế, Chúa Giêsu không hề oán trách họ; trái lại còn hết lòng yêu thương họ nên đã khẩn khoản nài xin Chúa Cha tha thứ cho họ: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm.” (Lc 23, 34)
Lạy Chúa Giêsu,
Thật là độc ác khi con lên án người mù vì mang đôi mắt mù lòa mà phải sa hầm sập hố hay sa xuống chỗ sình lầy.
Và cũng thật là thiếu khôn ngoan và bác ái nếu con lên án những người khác vì họ mù quáng, tức mù lòa trong tâm trí, mà gây ra những vấp phạm đối với những người chung quanh.
Xin cho con luôn nhớ rằng: “Sở dĩ con người mắc phải lầm lỗi là do sự mù quáng của mình. Thế nên người khôn thì thương xót họ, còn người ngu thì lên án họ” để nhờ đó, con biết cư xử như một người khôn ngoan, biết thương xót và tha thứ cho những người lỗi phạm như Chúa đã nêu gương cho con. Amen.
9.Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ đề: Hãy tha thứ để được thứ tha (Mt 18,22)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Chúa Giêsu đã nói: “Khi con đi dâng lễ vật trên bàn thờ mà sực nhớ có người anh em đang bất hòa với con, thì hãy để lễ vật lại, trở về làm hòa với người anh em ấy trước đã, rồi mới trở lại dâng lễ vật sau”. Ðó là một cách nói mạnh, nhằm khuyến khích chúng ta tha thứ cho người khác.
Chắc hẳn hiện giờ trong lòng anh chị em, ai cũng có một ít điều gì đó không vui đối với một vài anh chị em của mình. Chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta thêm lòng quảng đại để có thể tha thứ cho những người ấy. Ðây thực là một việc cần thiết phải làm trước khi chúng ta dâng Thánh lễ.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta hẹp lòng hẹp dạ không chịu tha thứ cho người khác.
Nhiều chuyện buồn rất lâu rồi mà chúng ta cữ giữ mãi trong lòng.
Chúng ta không tạo cơ hội cho kẻ có lỗi hòa giải với mình.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Hc 27,30-28,7)
Ðể khuyến khích người ta tha thứ, Ben Sira đưa ra nhiều lý lẽ:
Có tha thứ cho người khác thì khi ta cầu nguyện ta mới đáng được Chúa thứ tha.
Ðang tích lòng giận ghét người ta mà dám xin Chúa cứu chữa mình sao?
Chẳng thương xót người đồng loại mà còn cầu xin Chúa thương xót mình sao?
Người phàm xác thịt mà tích lòng thịnh nộ thì dám xin Chúa tha thứ sao?
Hãy nghĩ đến điều sau hết, tức là cái chết, để chấm dứt hận thù.
Hãy nghĩ đến giao ước của Chúa, tức là giao ước yêu thương, để bỏ qua sự lầm lỗi của kẻ khác.
2. Ðáp ca (Tv 102)
Tv này ngợi khen tấm lòng từ bi bao la của Chúa: Ngài đã tha thứ tội lỗi cho ta, Người không xử với ta như ta đáng tội và không trả cho ta theo lỗi của ta…
3. Tin Mừng (Mt 18,21-35)
Ðức Giêsu đưa ra một dụ ngôn về hai con nợ:
Một ông quan mắc nợ nhà vua một món tiền rất lớn (10 ngàn nén vàng), nhưng đã được nhà vua tha hết.
Khi ông quan này trở ra gặp một người bạn chỉ thiếu mình có 100 nén bạc (chỉ bằng 1 phần triệu số nợ đối với nhà vua) và đã khẩn thiết van xin bằng chính những lời lẽ mà ông quan đã xin với vua, ông quan ấy nhất định không tha.
Ðược biết việc ấy, nhà vua bắt giam ông quan cho tới khi trả hết đồng xu cuối cùng.
Dụ ngôn này muốn so sánh cho chúng ta thấy tội của chúng ta đối với Thiên Chúa nặng gấp triệu lần tội người khác phạm tới ta; đồng thời cũng muốn cho biết rằng nếu ta không tha cho người khác để đưa đến kết quả là Chúa không tha cho ta, thì quả là ta rất ngu dại.
4. Bài đọc II (Rm 14,7-9)
Văn mạch: Chương 14 của thư Phaolô đề cập đến hai trường hợp khiến các kitô hữu rôma hay xét đoán nhau: 1/ có người sợ ăn lầm nhằm đồ cúng nên không dám ăn thịt mà chỉ ăn rau, có người khác nghĩ rằng lương tâm mình vững vàng nên dám ăn mọi thứ, rồi người này chỉ trích người kia; 2/ Có người tin dị đoan nên cho rằng ngày này tốt ngày kia xấu, người khác không tin cho rằng ngày nào cũng tốt, rồi hai bên lại chỉ trích nhau.
Thánh Phaolô dạy: đừng để ý đến người khác, cũng đừng để ý đến mình, nhưng tất cả hãy quy chiếu vào Chúa, vì “không ai sống cho chính mình, cũng không ai chết cho chính mình… Chúng ta sống hay chết thì đều thuộc về Chúa”.
IV. Gợi ý giảng
1. “Nợ” và “trả nợ”
Theo nguyên tắc, mắc nợ thì phải trả nợ, cho mượn nợ thì có quyền đòi nợ. Nợ – đòi – trả: đó là cách cư xử công bình.
Nhưng trên thực tế, có rất nhiều thứ nợ không thể trả nổi: chẳng hạn con nợ đã sạt nghiệp trắng tay, con nợ thiếu nhiều quá sức chi trả v.v. Gặp những trường hợp ấy, ngay cả tòa án cũng đành phải bó tay: cùng lắm là tịch thu tài sản bán được bao nhiêu trả bấy nhiêu, rồi bắt người thiếu nợ phải ngồi tù. Các chủ nợ dù muốn hay không cũng đành phải chịu mất hoặc nhiều hoặc ít. Trường hợp thứ hai này là: Nợ – không đòi được – đành bỏ: đây là cách cư xử không theo phép công bình.
Nghĩa là ngay cả trên bình diện cư xử tự nhiên, có nhiều trường hợp không thể xử công bình được. Huống chi trên bình diện đạo đức, siêu nhiên.
Nói cụ thể hơn, thiếu tiền nhau (“nợ” đúng nghĩa) thì còn có thể đòi nhau theo công bình, còn có tội, có lỗi với nhau (“nợ” theo nghĩa rộng hơn) thì khó tính toán công bình với nhau được.
Bài Tin Mừng này đề cập đến thứ “nợ” theo nghĩa rộng, nghĩa là những tội lỗi người ta phạm đối với Chúa và đối với nhau. Ðối với loại này, chỉ có cách là tha thứ.
Bài Tin Mừng đưa Thiên Chúa ra làm gương tha thứ trước: Tội lỗi chúng ta phạm đến Chúa là thứ nợ không thể nào trả hết được. Như lời Thánh vịnh “Nếu Chúa chấp tội thì ai nào đứng vững được”. Bởi vậy Thiên Chúa đã tha thứ.
Và bài Tin Mừng khuyến khích ta noi gương Chúa, đồng thời cho biết làm như thế chỉ có lợi cho ta mà thôi.
2. Những dây chuyền phản ứng khác nhau
Con người quen sống theo dây chuyền trả đũa: Mắt đền mắt, răng thế răng, phỏng đền phỏng, bầm đền bầm, sưng đền sưng, mạng đền mạng… Thứ dây chuyền này sẽ kéo theo hết mắt này đến mắt khác, răng này đến răng khác, mạng này đến mạng khác…
Trong Tin Mừng, có một dây chuyền ngược lại: Xin Cha tha cho chúng con – như chúng con cũng tha cho kẻ mắc nợ chúng con; Hãy tha – thì sẽ được tha lại; Hãy cho – thì sẽ được cho lại dư đầy . Thứ dây chuyền này dẫn đến tình nghĩa, tình yêu ngày càng đậm đà, nồng ấm.
Ðức Giêsu muốn các môn đệ mình đừng theo dây chuyền thứ nhất, mà hãy theo dây chuyền thứ hai.
3. “Hãy nhớ đến điều sau hết, và chấm dứt hận thù”
Ðó là một câu của Ben Sira, người có công sưu tập kho tàng khôn ngoan ngàn đời của nhân loại. Câu này rất chí lý.
Ta hãy ra nghĩa địa mà nhìn: những con người đã một thời ăn thua đủ với nhau nay đều nằm cạnh nhau, bất lực, im lìm – còn làm chi nhau được nữa!
Và nếu ta có thể nhìn lên cao, để thấy lúc những người ấy ra trình diện trước tòa phán xét của Chúa. Người nào người nấy cũng đầy nợ với Chúa nhưng đồng thời vẫn khư khư nắm chặt tờ giấy ghi nợ của người khác đối với mình. Quan toà nói sao? “Hỡi tên ác độc kia, Ta đã tha hết nợ cho ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn ngươi như Ta đã thương ngươi”, rồi quan toà tống giam kẻ ấy vào ngục cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng.
Sau đó ta hãy nhìn lại những nấm mồ ấy, và tự hỏi: Họ đã trả hết đồng xu cuối cùng chưa?
Bởi thế, Ben Sira khôn ngoan đã khuyên: “Hãy nhớ đến điều sau hết, và chấm dứt hận thù”.
4. Xin lỗi
Bài Tin Mừng hôm nay nhắc đến một việc chúng ta cần làm trong mùa Chay, đó là tha thứ. Nhưng tha thứ là một việc song phương, nghĩa là không phải việc của một người mà của cả hai người: người tha và người xin tha. Trong những va chạm thường xuyên của cuộc sống chung, có khi chúng ta là người bị xúc phạm cho nên tư thế của chúng ta là người tha, có khi chính chúng ta là người gây xúc phạm nên tư thế là người phải xin tha.
Tha và xin tha, việc nào khó hơn? Thiết nghĩ, trong những tập thể khá đạo đức như một giáo xứ chẳng hạn thì tha là việc dễ hơn: mình bị một anh chị em nào đó xúc phạm. Nếu anh chị em đó tới xin lỗi mình thì chắc là mình tha liền. Việc khó hơn chính là việc xin tha. Vậy chúng ta hãy cùng nhau suy nghĩ về việc này. Xin bắt đầu bằng một câu chuyện xảy ra ở nước Ba lan:
Trên một chuyến xe lửa chạy về Varsava có 3 thương gia ở chung một toa đang chơi đánh bài. Ðến một trạm nọ, thêm một người bước lên nữa. 3 thương gia thấy có thêm người liền rủ người ấy cùng chơi cho đủ 4. Nhưng người khách từ chối khéo. Họ cố mời mãi nhưng người khách vẫn cương quyết từ chối. Thế là họ nổi giận và chửi rủa nặng lời. Người khách cũng làm thinh. Khi tàu đến ga cuối, mọi người đều xuống. 3 thương gia thấy một đám người rất đông cầm hoa đến đón người khách ấy. Họ hỏi một trong những người đó: Ông ta là ai mà được nhiều người hâm mô thế? Người khách trả lời: Ðó là Rabbi Salomon, một Rabbi nổi tiếng khắp nước về lòng nhân từ và đạo đức. Khi ấy 3 thương gia mới hối hận vì những lời chửi rủa của mình. Một người tiến đến Rabbi Salomon ngỏ lời xin lỗi. Nhưng vị Rabbi quay mặt đi, chẳng chịu tha. Các tín đồ của ông ngạc nhiên quá, hỏi: “Thầy vốn là một người nhân từ và đạo đức. Nhưng sao thầy không tha cho một kẻ đã biết lỗi và xin lỗi thầy?”. Vị Rabbi giải thích: “Kẻ mà anh ta đã chửi không là một hành khách tầm thường. Còn người mà anh ta xin lỗi là Rabbi Salomon. Anh ta đã xin lỗi lầm người rồi”.
Câu chuyện có ý nói rằng: người ta dễ xin lỗi đối với những người có địa vị cao, có quyền lực lớn. Nếu thương gia nọ không biết người mình đã chửi là một nhân vật nổi tiếng thì chắc chắn anh ta không xin lỗi đâu.
Câu chuyện trên cũng dạy chúng ta bài học này là: muốn xin lỗi thì ta phải khiêm tốn, hạ mình:
Nhiều khi chúng ta không thể mở miệng xin lỗi được đối với những người nhỏ hơn mình. Ta cho rằng chỉ có người nhỏ xin lỗi người lớn chứ không bao giờ ngược lại.
Nhiều khi chúng ta không mở miệng xin lỗi được vì chúng ta còn tự ái, cho rằng làm như thế là nhục.
Nhiều khi chúng ta không mở miệng xin lỗi được vì cho rằng như thế là tự nhận rằng mình sai.
Ta tưởng rằng như thế là tự trọng. Nhưng đó là sự tự trọng không đúng chỗ và là biểu hiện của tính xấu kiêu ngạo. Satan chống lại Chúa. Sau đó nó biết lỗi nhưng nó không bao giờ xin lỗi. Giuđa sau khi bán Chúa cũng biết lỗi nhưng cũng không xin lỗi.
Cách đây vài năm, ÐGH Gioan Phaolô II đã ngỏ lời xin lỗi với cả thế giới về những lầm lỗi của Hội Thánh trong quá khứ. Trước khi ÐGH làm việc này, nhiều người trong Hội Thánh đã cản ngăn ngài vì nghĩ rằng làm như thế là hại đến uy tín của Hội Thánh. Tuy nhiên sau khi ÐGH làm việc đó thì lạ thay, người ta chẳng những không che cười, trái lại còn khen ngợi ngài; uy tín của Hội Thánh chẳng những không giảm mà còn tăng thêm.
Tóm lại, Lời Chúa hôm nay bảo chúng ta tha thứ. Nhưng Lời Chúa cũng bảo chúng ta làm một việc khác khó hơn, đó là biết xin lỗi. Muốn thế, chúng ta phải khiêm tốn hạ mình. Chúng ta nên biết rằng hạ mình xin lỗi không phải là nhục nhã, trái lại sẽ sinh nhiều kết quả rất tốt: đối với bản thân, nó làm tăng uy tín của mình, đối với cuộc sống chung, nó hàn gắn những vết thương do những va chạm gây ra và giúp cho cuộc sống chung được ấm êm hạnh phúc hơn.
5. Chuyện minh họa
a/ Tha thứ
Ngày nọ, Ðức giám mục John Selwyn thấy một cậu con trai người bản xứ cư xử thô bạo với các trẻ khác, ngài gọi cậu lại khiển trách. Chẳng những không chịu nghe, cậu ta còn vung tay đánh vào mặt vị giám mục. Mọi người thấy vậy đứng chết trân. Nhưng vị giám mục không cho họ làm gì. Rồi ngài quay lưng và lặng lẽ bỏ đi.
Nhiều năm sau, một nhà truyền giáo được mời đến với một bệnh nhân. Ông sắp chết và xin được rửa tội. Khi nhà truyền giáo hỏi anh muốn lấy tên thánh là gì. Anh đáp: “Xin đặt là John Selwyn, vì chính ngài đã dậy cho tôi biết Ðức Kitô là ai khi tôi đánh ngài.”
b/ Xin tha
Satan phàn nàn với Chúa: “Ngài không công bằng. Nhiều tội nhân làm điều sai trái và Ngài lại đón nhận họ. Thật ra, có người trở lại sáu bảy lần và Ngài vẫn nhận. Tôi chỉ phạm một lỗi lớn mà Ngài kết án tôi đời đời.” Chúa nói: “Ðã bao giờ ngươi xin tha thứ hoặc ăn năn chưa?”.
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Thiên Chúa là Cha nhân từ hay thương xót, lúc nào Ngài cũng sẵn sàng tha thứ mọi lỗi lầm cho những ai thật lòng sám hối ăn năn. Luôn tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa, chúng ta cùng tha thiết nguyện xin.
1. Hội Thánh là một bà mẹ hiền / đầy lòng bao dung đối với lỗi lầm của con cái mình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử / biết luôn quảng đại tha thứ mọi xúc phạm / mọi đau khổ do kẻ khác gây ra cho mình.
2. Trong cuộc sống thường ngày / người ta vẫn còn có khuynh hướng ăn miếng tả miếng / sẵn sàng chém giết nhau / chỉ vì chưa tha thứ cho nhau như Chúa đã dạy / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa cho tinh thần tha thứ của Ðức Kitô / tác động đến mọi sinh hoạt thường ngày của xã hội.
3. Tha thứ / nhất là tha thứ luôn luôn / trong thực tế là một việc làm con người không thể thực hiện được / nếu không có ơn Chúa trợ giúp / Vậy Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban ơn giúp sức cho hết thảy các kitô hữu / để họ có thể tha thứ được như Chúa đã dạy.
4. Ðức Giêsu nói / “Hãy tha thứ để được thứ tha” / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết sẵn sàng tha thứ lỗi lầm của người khác / hầu xứng đáng lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa.
CT: Lạy Chúa Giêsu, Chúa dạy chúng con phải tha thứ cho nhau, nếu muốn được Chúa tha thứ mọi lỗi lầm. Nhưng lạy Chúa, nói tha thứ thì dễ, còn thực hành tha thứ thì rất khó. Vậy xin Chúa ban ơn trợ giúp để chúng con có thể sống như Chúa đã dạy. Chúa hằng sống và hiển trị…
VI. Trong Thánh Lễ
Trước kinh Lạy Cha: Hôm nay chúng ta hãy hết sức thật lòng khi đọc câu “Xin Cha tha nợ cho chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.
Chúc bình an: Qua cử chỉ chúc bình an, chúng ta hãy thật lòng tha thứ cho những kẻ làm mất lòng chúng ta, dù đang có mặt hay vắng mặt trong Nhà thờ này.
VII. Giải tán
Tuần này, chúng ta hãy cố gắng hòa giải với những người đã bất hòa với mình, và tha thứ cho những kẻ xúc phạm đến mình.
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Thiên Chúa là Đấng nhân từ và giầu lòng thương xót. Xưa nay Kitô-hữu biết như vậy, và thường dựa vào đó để nài xin Thiên Chúa nhân hậu tha thứ tội lỗi cho mình, nhưng ít khi ao ước khao khát trở nên nhân hậu theo mẫu tuyệt hảo là Thiên Chúa. Một khi con người sống nhân hậu thì họ trở nên hoàn hảo và sống hạnh phúc hơn.
1. Hận thù ghen ghét
Hận thù và ghen ghét, muốn làm hại người khác, muốn người khác khổ, muốn những tai họa đổ xuống trên đầu người mình thù ghét và những người thân của họ, không muốn người khác sung sướng hạnh phúc, điều này làm người khác và chính mình sống trong buồn bực lo lắng bất an.
Người hận thù cưu mang, nuôi dưỡng tư tưởng làm hại người khác trong lòng họ. Những giây phút họ thoải mái là những giây phút họ quên ý định hận thù, nhưng khi họ nhớ tới, là họ bị nung nấu và họ không thoải mái hạnh phúc. Có những người luôn nghĩ xấu cho người khác, cho rằng người khác luôn suy nghĩ và tìm cách làm hại mình, muốn điều xấu cho mình; khi cưu mang suy nghĩ như vậy, chính người đó cũng bất an cực khổ. Dưới một khía cạnh nào đó có thể nói, ai sống trong thù hận ghen ghét, luôn nghĩ xấu cho người khác, đã phần nào sống trong hoả ngục rồi, nếu hiểu hoả ngục là tình trạng không hạnh phúc, luôn bị dày vò day dứt đau khổ. Và cũng trong ý nghĩa này người ta nhận ra, Thiên Chúa không tạo nên hoả ngục, nhưng chính con người tạo ra hoả ngục cho chính mình.
Yêu thương là muốn điều tốt cho người khác, muốn người khác trở nên tốt lành hầu họ nhìn nhận đúng thực tại, để họ bình an và hạnh phúc hơn. Khao khát cho mình và cho người khác trở nên trọn lành, ngay cả những người không ưa hay ghét mình, là khởi đầu của tình yêu đối với tha nhân và đối với Thiên Chúa.
2. Không thương xót là không yêu thương
Trong Tin Mừng ngày hôm nay, Đức Yêsu cho chúng ta nghe một dụ ngôn về lòng thương xót. Một người mắc nợ chủ, không có gì để trả, đáng lẽ phải bị bán làm nô lệ để trả nợ; anh ta van xin và nhận được lòng thương xót của chủ, và anh ta đã không bị bán nữa mà còn được tha cả món nợ. Thế nhưng anh ta đã không thương xót người bạn, khi người bạn chỉ nợ anh ta một chút xíu so với cái nợ to lớn của anh ta đối với chủ mà anh ta đã được tha “nhưng không.” Anh ta đưa người bạn ra tòa, để rồi người bạn phải vào tù vì “thiếu công bằng,” vì đã không hoàn trả nợ khi đến thời hạn. Theo “luật” công bằng, anh ta có thể làm như vậy, vì ai mắc nợ thì phải trả; tuy nhiên khi làm như vậy, anh ta đã không có lòng thương xót như anh ta đã van xin lòng thương xót của chủ.
Không lòng thương xót, không động lòng trước nỗi khổ của người khác, không động lòng trước sự bất lực của người khác, đòi phải “công bằng” khi người ta không thể trả nợ được, là điều bất nhân. Công bằng đúng nghĩa, phải luôn luôn hàm chứa yêu thương. Nếu không có yêu thương, không có công bằng. Con người là một giá trị “tuyệt đối” theo một nghĩa nào đó. Lòng thương xót đòi phải thông cảm ngay cả những giới hạn yếu đuối của con người, ngay cả khi họ “sa ngã” phạm tội. Khi nói sa ngã, hàm chứa lúc yếu đuối họ làm như vậy nhưng bây giờ họ không muốn như vậy nữa. Thông cảm và tha thứ, là dấu chỉ của tình yêu. Ai không tha thứ, là không yêu thương, và như vậy không hành xử giống như Thiên Chúa, không là con của Thiên Chúa.
Thánh Yoan nói, Thiên Chúa là Tình Yêu. Thiên Chúa là Đấng luôn yêu thương. Ai yêu thương là sống như Thiên Chúa, ai không yêu thương là không sống như Thiên Chúa, là không sống như con cái Thiên Chúa. Kitô giáo là đạo yêu thương, chính vì vậy thánh Phaolô nói: yêu thương là chu toàn tất cả lề luật. Đức Yêsu nói: “Thầy để lại cho anh em một giới răn mới, là hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” Cái mới của giới răn Đức Yêsu dạy các môn đệ của Ngài, là hãy yêu thương như Ngài đã yêu thương. Ngài đã yêu thương đến hiến mạng sống cho người khác, cho tất cả mọi người bao hàm cả chúng ta; và đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải yêu thương nhau như Ngài đã yêu thương chúng ta.
3. Tình thương và hạnh phúc
Thiên Chúa yêu thương con người. Ngài tạo dựng con người để cho con người chia sẻ hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài. “Thiên Chúa muốn mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1Tm.2, 4). Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ tất cả lỗi lầm cho con người, mỗi khi con người trở lại với Ngài. Hơn nữa, chính Thánh Thần Thiên Chúa đang hoạt động nơi lòng mỗi người, mời gọi con người sống yêu thương, mời gọi thúc đẩy tội nhân sám hối trở lại với Thiên Chúa.
Thiên Chúa muốn tất cả được cứu độ, nhưng tuỳ con người. Ngài mời gọi, và con người có tự do. Ngài liên lỉ mời gọi con người hãy sống trong tình yêu của Ngài và với người khác, Ngài kiên nhẫn với con người, với tội nhân cho tới giây phút cuối đời mỗi người. Nếu ai cố tình từ chối lời mời gọi tình yêu, nếu ai cố tình sống trong thù hận như ma quỷ là những thần linh thù ghét Thiên Chúa và không muốn con người sống hạnh phúc, thì những người đó mới phải vào hoả ngục thôi. Và hoả ngục, cũng chính là do họ chứ Thiên Chúa không muốn con người đau khổ. Thiên Chúa không muốn ai đau khổ và bất hạnh.
Yêu thương là khởi đầu của một đời sống hạnh phúc. Yêu thương, thông cảm với nỗi khổ và yếu đuối của người khác, tha thứ khi họ xúc phạm đến mình, muốn cho người khác những điều tốt lành, tìm cách làm cho người khác được vui hơn, hạnh phúc hơn, đỡ cô đơn hơn, là cách hành xử của những người đang sống như con cái Thiên Chúa, đang sống trong yêu thương. Và chắc chắn những người sống như vậy, họ cảm nghiệm hạnh phúc, hạnh phúc khi làm cho người khác vui và hạnh phúc hơn.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Tha thứ, hệ tại điều nào?
2. Thiên Chúa có sẵn sàng tha thứ cho kẻ ngoan cố không? Tại sao?
3. Không yêu thương là bất hạnh. Bạn nghĩ sao về quan điểm này?
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Khi anh em con xúc phạm đến con, con phải tha cho họ mấy lần?
Phải tha cho họ mấy lần, đặc biệt là những người đã nhiều lần xúc phạm đến chúng ta?! Liệu phải tha cho họ đến lần thứ bảy chăng?
Yêu thương tha thứ
Thiên Chúa yêu thương tha thứ cho chúng ta, ngay khi chúng ta còn là tội nhân (Rm.5, 8). Đã bao lần chúng ta đã xúc phạm đến Thiên Chúa! Thiên Chúa luôn luôn tha thứ không kể số lần chúng ta xúc phạm Ngài!
Sách Huấn Ca dạy: “Hãy tha thứ cho kẻ làm hại ngươi, thì khi cầu nguyện ngươi sẽ được thứ tha” (Sir.28, 2). Nếu một người còn nuôi lòng thù hận, thì sao họ lại dám xin Chúa tha thứ cho họ? Nếu một người không muốn tha thứ cho kẻ có lỗi với họ, thì họ cũng không thể đón nhận ơn tha thứ! Không phải vì Thiên Chúa không tha thứ, nhưng họ không thể đón nhận ơn tha thứ!
Thánh Phêrô hỏi Đức Yêsu: “khi anh em con lỗi phạm đến con, con phải tha cho họ đến mấy lần, đến bảy lần chăng?”. Đức Yêsu trả lời: không phải đến bảy lần, nhưng là bảy mươi lần bảy!
Để trở nên con cái Thiên Chúa, phải tha thứ cho những người xúc phạm đến mình!
Món nợ không thể trả
Thiên Chúa là Đấng hay thương xót. Ngài thương cảm nỗi khổ đau của con người, Ngài cứu giúp con người, giải phóng con người khỏi mọi nô lệ.
Người đầy tớ trong dụ ngôn (Mt.18, 27) không thể trả nợ! Người chủ đã động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho người đầy tớ không thể trả nợ cho mình.
Món nợ chúng ta mắc với Thiên Chúa cũng không thể trả, vì chúng ta- thân phận con người- xúc phạm đến Thiên Chúa, một lỗi vô cùng lớn, làm sao chúng ta có thể trả?!
Thiên Chúa đã tha thứ tất cả cho chúng ta!
Nếu chúng ta không tha thứ cho anh em chúng ta, chúng ta đâu có giống Thiên Chúa. Nếu chúng ta không biết thương xót, chúng ta đâu có là con Thiên Chúa!
Anh em chớ mắc nợ nhau điều gì, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu thương thì đã chu toàn Lề Luật (Rm.13, 8).
Tình yêu, thương xót, là nét đặc trưng của con người.
Chúng ta thuộc về Thiên Chúa
Dù sống hay chết, chúng ta đều thuộc về Thiên Chúa (Rm.14, 8).
Chúng ta là của Thiên Chúa, vì chính Thiên Chúa đã chuộc chúng ta! Chúng ta thuộc về Thiên Chúa, ngay cả lúc sống cũng như lúc chết!
Không còn gì là của riêng mình! Nếu có gì, cũng là của Thiên Chúa.
Chúng ta thuộc về Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ bảo vệ, và sẽ làm cho chúng ta mọi điều tốt lành. Chúng ta là dân riêng của Thiên Chúa, là “của riêng” của Thiên Chúa.
Hãy an tâm, vì chúng ta thuộc về Thiên Chúa.
Hãy yêu thương tha thứ, hãy có lòng thương xót, vì Thiên Chúa là Đấng thương xót.
Chỉ khi sống như vậy, chúng ta mới được hạnh phúc.
Ở bên Nhật, có một tên sát nhân khét tiếng đã từng giết hại nhiều người, hắn chẳng may bị bắt và bị tống giam trong ngục, chờ ngày lãnh nhận bản án tử hình. Thế rồi có hai phụ nữ đạo đức đã tới thăm viếng và trò truyện với hắn, nhưng hắn đã đáp lại bằng một cái nhìn hằn học. Trước khi ra về, họ đã để lại cho hắn cuốn Phúc âm với hy vọng mong manh là hắn sẽ đọc.
Quả thật, vì chẳng có việc gì làm, nên hắn đã tò mò mở ra, và rồi hình như có một sức thu hút nào đó, khiến hắn tiếp tục đọc, đọc mãi cho đến lời cầu của Chúa Giêsu trên thập giá:
– Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm.
Hắn đã dừng lại và nói:
– Sự kiện trên đã làm cho tôi xúc động và tôi cảm thấy dường như sự hung dữ và tàn bạo của tôi đã tan biến, bởi vì tôi đã tin.
Câu chuyện trên làm cho chúng ta nhớ tới người trộm lành trên thập giá. Mặc dù quãng đời dĩ vãng chồng chất những tội lỗi, nhưng rồi anh đã được Chúa tha thứ. Chính Ngài đã nói với anh:
– Ta bảo thật, ngay hôm nay anh sẽ được ở trên thiên đàng với Ta.
Tên sát nhân ở Nhật Bản, cũng như người trộm lành đều là những kẻ tàn bạo, thế mà Chúa đã xót thương, cho ăn năn sám hối vào những giây phút cuối cùng của cuộc đời, thì tự hỏi làm sao chúng ta lại khước từ, chẳng tha thứ cho nhau.
Chính Ngài đã khẳng định qua đoạn Tin mừng sáng hôm nay:
– Thầy không bảo các con phải tha thứ đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy lần, có nghĩa là phải tha thứ cho nhau mãi mãi.
Và để xác minh cho sự thật trên người ta đã đưa ra một câu chuyện cụ thể đó là câu chuyện về tên đầy tớ độc ác. Như chúng ta thấy, khi mắc nợ ai, chúng ta phải hoàn trả cho họ, đó là bổn phận của đức công bằng.
Cũng vậy, tên đầy tớ mắc nợ nhà vua mười ngàn nén bạc, mà hắn thì không có gì để trả, vì thế, nhà vua cứ dựa theo sự công bằng để ra lệnh bán y cùng tất cả vợ con và tài sản mà trả nợ. Thế nhưng, nhà vua đã không hành động như thế. Ông đã không cư xử với hắn theo sự công bằng, mà theo lòng thương xót, bởi thế ông đã tha bổng cho y, và đòi y cũng phải thương xót đối với những người chung quanh:
– Ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, thì đến lượt ngươi, ngươi cũng phải thương xót bạn ngươi như ta đã thương xót ngươi.
Trong mối liên hệ giữa người với người, chúng ta thấy công bằng phải đi trước bác ái và làm nền tảng cho bác ái, bởi vì nếu không có công bằng thì cũng chẳng có bác ái. Thế nhưng nhiều lúc chúng ta phải vượt lên trên cái nền tảng công bằng này để biểu lộ một tình yêu thương và tha thứ.
Còn chúng ta thì sao, liệu chúng ta có sẵn sàng tha thứ cho anh em để rồi bản thân chúng ta sẽ được hưởng nhờ lòng thương xót của Chúa hay không?
(Suy niệm của Lm. Mark Link, SJ.)
Chủ đề: “Khi nào chúng ta thấy khó lòng tha thứ cho kẻ khác thì chúng ta nên quay về Chúa Giêsu, cầu xin Ngài giúp đỡ.”.
Corri ten Boom sống tại Amsterdam (Hoà Lan) trong thế chiến thứ hai. Gia đình cô làm một cửa tiệm đồng hồ. Khi bọn Ðức Quốc Xã xâm chiếm Hoà Lan, gia đình cô bắt đầu giúp đỡ dân Do Thái đang bị truy nã có hệ thống và bị đem đi đến các trại tử thần. Cuối cùng có kẻ đã tố cáo gia đình cô. Thế là gia đình cô bị gởi đến trại tập trung. Corrie và em gái cô là Betsy bị gởi đến trại Ravens ô nhục. Cả gia đình Corrien chỉ mỗi mình cô còn sống sót sau cơn thử thách. Sau chiến tranh, cô đi du lịch khắp Aâu Châu rao giảng về sự tha thứ và hoà giải. Sau một cuộc nói chuyện ở Munich thuộc Ðức, một người đàn ông đã tiến đến cám ơn cô về bài nói chuyện. Corrie không thể nào tin nổi vào mắt mình. Gã này chính là một trong những tên lính gác Quốc xã từng có nhiệm vụ coi sóc phòng tắm vòi sen của phụ nữ tại trại Ravensbruck. Gã ta tiến tới tính bắt tay Corrie. Corrie như đông cứng người lại không thể nào giơ tay ra bắt được. Sự ghê tởm trại tập trung kèm theo cái chết của người em gái chợt trở lại trong ký ức của cô. Lòng cô tràn ngập nỗi oán hờn và ghê tởm. Corrie không thể tin được cách trả lời của cô. Chính cô vừa mới giảng một bài thật cảm động về lòng tha thứ, thế mà bây giờ cô lại không thể nào tha thứ được. Cô bị xúc động quá đến nỗi không thể nào bắt tay gã lính gác nọ được.
Thỉnh thoảng trong cuộc sống, tất cả chúng ta đã từng cảm nghiệm đôi điều tương tự như Corrie. Chúng ta cảm thấy mình không thể nào tha thứ cho một kẻ nào đó. Chúng ta thấy tình cảm mình như bị chận đứng lại đối với một kẻ nào đó đã từng gây đớn đau thương tích cho chúng ta.
Ðiều này nêu ra một vấn nạn xốn xang đau đớn. Làm sao chúng ta có thể xử lý một vấn đề như thế? Chúng ta phải làm gì đây khi không thể nào tha thứ cho một ai đó? Làm thế nào để thoát ra khỏi sự bế tắc tình cảm đang bít kín mọi nỗ lực tốt nhất của chúng ta nhằm để tha thứ? Làm thế nào thi hành giáo huấn về sự tha thứ mà Chúa Giêsu đưa ra trong phúc âm hôm nay? Thái độ của chúng ta phải như thế nào trước những lời cảnh cáo trong bài đọc thứ nhất hôm nay. Lời cảnh cáo đó là: nếu chúng ta từ chối không xót thương anh chị em mình, thì đừng mong Thiên Chúa sẽ thương xót chúng ta.
Hãy trở lại với câu chuyện của chúng ta về Corrie. Hãy xem cô ta xử lý trường hợp của mình thế nào. Trong lúc người cô như bị đông lạnh co cứng. Corrie liền im lặng cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, con không thể tha thứ cho người này. Xin ban cho con sự tha thứ của Chúa”. Ngay lúc đó, Corrie nói hình như có một sức mạnh của ai khác đẩy tới, tay cô bỗng nắm lấy tay gã lính gác trong niềm tha thứ thực sự. Và ngay lúc đó cô chợt khám phá ra một chân lý vĩ đại. Không phải dựa trên sự tha thứ của riêng chúng ta mà thế giới quanh ta được chữa lành mà chính là dựa trên sự tha thứ của Chúa Giêsu. Khi truyền bảo chúng ta yêu kẻ thù, Chúa Giêsu cũng trao cho chúng ta ân sủng cần thiết kèm theo để tha thứ cho họ. Như thế, phương cách thứ nhất để xử lý vấn đề không thể thứ tha cho một ai đó là cầu xin Chúa Giêsu ơn tha thứ. Phương cách thứ hai để xử lý vấn đề trên được nhắc đến trong bài phúc âm hôm nay, đó là làm điều mà viên chức nọ đã không làm, là tự mình ngồi xuống trước mặt Chúa Giêsu và nhớ lại Chúa đã tha thứ cho chúng ta không biết bao nhiêu lần. Ngài đã tha thứ cho chúng ta vô cùng nhiều hơn Ngài yêu cầu chúng ta tha thứ cho kẻ khác. Ðiều nhỏ nhất chúng ta có thể đáp lại là giơ tay ra tha thứ cho anh em mình. Và phương cách thứ ba để xử lý vấn đề trên là cố gắng nhìn kẻ thù mình trong một ánh sáng hoàn toàn mới mẻ, tức là nhìn họ không phải như kẻ thù mà là những con người đang đau khổ giống như chúng ta. Tôi xin cắt nghĩa rõ hơn điều tôi muốn nói:
Trong cuốn tiểu thuyết nhan đề “Mặt trận phía tây hoàn toàn yên tĩnh” (All quite on the Westem) có một cảnh đầy cảm động. Lúc đó cuộc chiến đang xảy ra dữ dội giữa đám lính Pháp và Ðức. Một chú lính Ðức trẻ nằm dưới một hầm đạn để tránh đạn pháo. Bỗng nhiên một người lính Pháp cũng nhảy vào cùng hầm ấy để tránh đạn pháo. Trước khi người lính Pháp kịp ra tay, thì chú lính Ðức đã đâm ngay người ấy vài nhát. Tuy nhiên người lính Pháp không chết liền mà nằm thoi thóp ra đó. Chàng lính Ðức, trẻ măng như một chú bé, chăm chú nhìn cặp mắt hãi hùng của người lính Pháp. Chú ta thấy miệng người lính Pháp này há hốc ra, đôi môi khô và nứt nẻ. Chú ta bèn động lòng thương và rút chai nước của mình ra cho người lính thù địch ấy uống. Cuối cùng khi người lính thù này qua đời, chú lính trẻ người Ðức cảm thấy ân hận sâu xa. Ðây là người đầu tiên bị chú ta giết. Chú thắc mắc không hiểu tên người này là gì. Trông thấy chiếc ví trong túi người chết, chú ta liền kính cẩn rút ra xem chiếc ví đựng vài tấm ảnh gia đình, một tấm có hình một người đàn bà và một đứa bé gái.
Chú lính Ðức vô cùng cảm động. Bỗng dưng, chú nhận thấy người lính đã chết không phải là kẻ thù, mà là một người cha, người chồng — tức là một người biết yêu và được yêu y hệt như chú vậy. Ðộng lòng thương xót, chú liền lấy một miếng giấy và ghi vào đó địa chỉ người đã chết. Chú tính sẽ viết một lá thư cho vợ ông ta.
Ðiều gì đã xảy ra trong chiếc hầm đạn ấy? Phải chăng chú lính Ðức bất ngờ nhận ra bổn phận phải yêu thương đồng loại và chú tự bắt mình phải yêu thương người lính vừa mới chết? Không phải thế đâu!
Sự việc xảy ra như thế này: chú lính Ðức chợt nhìn thấy người từng bị xem là kẻ thù của chú bằng một ánh sáng hoàn toàn mới mẻ. Và chính sự thay đổi cách nhìn này là đã thay đổi thái độ của chú đối với người ấy.
Trên thập giá, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho các kẻ hành hình Ngài bằng một ánh sáng khác hẳn chúng ta nhìn nhiều. Ngài nhìn vượt lên trên vẻ bề ngoài của họ. Ngài nhìn ra bản chất thực sự của họ là những đứa con lạc đường của Cha Ngài.
Nếu muốn tha thứ cho kẻ thù, chúng ta phải bắt đầu nhìn thấy họ bằng một ánh sáng mới. Chúng ta phải bắt đầu nhìn họ giống như Chúa Giêsu nhìn thấy họ.
Tóm lại để xử lý cho trường hợp không thể tha thứ cho kẻ thù.
Thứ nhất chúng ta hãy cầu xin Chúa Giêsu ơn tha thứ giống như Corrie đã làm.
Thứ hai, hãy nhớ lại Chúa Giêsu đã tha thứ cho chúng ta vô cùng nhiều hơn là Ngài đang đòi chúng ta tha thứ.
Thứ ba, hãy cố gắng nhìn kẻ thù mình theo cách Chúa Giêsu nhìn quân thù Ngài, nghĩa là xem họ như những anh em đang lầm đường lạc lối.
Bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta khám phá lại tương giao của mình với kẻ khác. Ðặc biệt với các thành viên trong gia đình mình. Bài phúc âm ấy mời gọi chúng ta tự vấn xem tương giao nào trong số này cần được cải thiện đồng thời mời gọi chúng ta khởi sự tiến trình chữa lành tương giao nào bị trục trặc.
Chúng ta hãy kết thúc với lời kinh cầu của thánh Phanxicô:
“Lạy Chúa xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Ðể con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem tin kính vào nơi nghi nan, đem hy vọng vào nơi thất vọng, đem ánh sáng vào nơi tăm tối, đem niềm vui đến chốn u sầu.
Xin hãy dạy con: tìm an ủi người hơn được người ủi an,
Tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết
Tìm yêu mến người hơn được người mến yêu.
Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh.
Chính lúc thứ tha là khi được tha thứ.
Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Từ những mâu thuẫn có khi rất nhỏ nhặt dẫn đến trả thù nhau ngày càng diễn ra ở mọi tầng lớp và mọi môi trường sống của con người: nơi gia đình, nơi học đường và ngoài xã hội. Hậu quả của những cuộc trả thù là: bị thương tổn về tinh thần cũng như thể xác, thậm chí có những cuộc trả thù gây ra án mạng.
Cách đây không lâu do những mâu thuẫn nhỏ nhặt theo kiểu học sinh và sự “tinh tướng” của lứa tuổi mới lớn, nhóm học sinh cùng trường thuộc huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang đã gây ra cái chết cho chính một người bạn học của mình. Nếu chúng ta gõ trên google chữ “trả thù” thì nó sẽ hiện ra những hàng tít như: Đi ‘báo thù’ cho em, đánh nhau loạn xạ, người anh trai bị đâm chết; Dùng 6 xe tải chở 120 côn đồ đi trả thù; Đi trả thù, con chết cha nhập viện; Anh vác dao đi đánh nhau, trả thù cho em rồi bị đâm chết: Biết trách ai?…
Lối sống và cách cư xử trên đây đi ngược lại với đời sống và lời dạy của Đức Giêsu. Thật vậy, cả cuộc đời của Đức Giêsu là bài học về sự tha thứ. Trong ba năm rao giảng Tin mừng, Ngài đã từng tha thứ cho những kẻ tội lỗi như ông Lêvi, ông Giakêu, người phụ nữ phạm tội ngoại tình. Ngài từng bị chống đối và bách hại bởi các luật sĩ, biệt phái…Đặc biệt vào những ngày cuối đời, Ngài bị bắt, bị đánh đập, bị xỉ nhục, bị đội mão gai, chịu vác thập giá và đóng đinh trên thập giá…nhưng Ngài không một chút oán hận những kẻ làm hại mình, trái lại Ngài còn cầu nguyện cùng Chúa Cha rằng: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 33). Chỉ một lời cầu nguyện với lòng sám hối của kẻ trộm lành, Ngài đã tha thứ và cho anh ta vào Thiên đàng ngay ngày hôm đó. Sau khi sống lại, Ngài đã không nhớ đến tội của các môn đệ, nhất là tội chối Thầy của ông Phêrô. Ngài còn lập bí tích Giao hòa để tha thứ tội lỗi cho con người mãi cho đến tận thế.
Ngài không những sống tha thứ mà còn dạy các môn đệ và mỗi người chúng ta biết tha thứ cho mọi người. Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết, khi Phêrô đến hỏi Ngài: Phải tha thứ mấy lần, có phải bảy lần không? Ngài đã trả lời với Phêrô rằng: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18,22). Tha thứ bảy mươi lần bảy không có nghĩa là 490 lần, mà là tha thứ không có giới hạn, tha thứ mãi mãi. Để quảng diễn tư tưởng đó, Đức Giêsu đã kể dụ ngôn “Tên mắc nợ không biết thương xót” (x. Mt 18, 23-35). Trong dụ ngôn này, nhà vua chính là hình ảnh của Thiên Chúa. Thiên Chúa “là Ðấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân” (Tv 102,8). Ngài không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn thống hối để được sống (x. Ez 18,23). Trong thời Cựu Ước, dân Do thái đã bao lần phạm tội, lỗi giao ước, bội thề…nhưng hễ họ ăn năn sám hối trở về, Thiên Chúa lại tha thứ cho họ. Cùng với tâm tình đó, Đức Giêsu khẳng định: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn.” (Lc 5,32). Đức Giêsu còn kể nhiều dụ ngôn để nói về lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa, trong đó có ba dụ ngôn (Lc 15): Con chiên bị mất, đồng bạc bị đánh mất và người cha nhân hậu. Đức Giêsu không chỉ dạy tha thứ cho kẻ thù mà còn dạy cho chúng ta phải cầu nguyện và làm ơn cho kẻ thù nữa. Ngài nói: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,44).
Vì sao Đức Giêsu sống tha thứ và dạy cho chúng ta bài học về sự tha thứ?
Thứ nhất, vì con người là bất toàn, hay sai lỗi như thánh Gioan nói: “Ai nói mình vô tội đó là kẻ nói dối” (x.1Ga 1,10). Có tội thì cần được tha. Tôi có tội cần sự tha thứ của anh em. Anh em có tội cần sự tha thứ của tôi. Chúng ta có tội cần sự tha thứ của Thiên Chúa. Như vậy, tha thứ rất cần thiết giữa con người với nhau và con người cần sự tha thứ của Thiên Chúa.
Thứ hai, khi thực hiện sự tha thứ là chúng ta nên giống Thiên Chúa, nên con cái của Cha chúng ta là Đấng ngự trên trời “vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5,45).
Thứ ba, tha thứ là điều kiện để Chúa nhận của lễ chúng ta dâng: “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,23-24).
Thứ tư, tha thứ là điều kiện để được Chúa thứ tha: “Nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em”(Mt 6,14-15). Trong Kinh Lạy Cha, Đức Giêsu cũng dạy chúng ta cầu nguyện: “Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con” (Mt 6,12). Sách Huấn Ca cũng dạy: “Hãy bỏ qua điều sai trái cho kẻ khác, thì khi bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được tha” (Hc 28,2).
Thứ năm, tha thứ sẽ đem lại bình an cho con người. Trái lại, hận thù sẽ làm cho con người mất bình an. Đúng như người ta nói: “Lấy oán báo oán, oán oán chập chùng, lấy đức báo oán, oán ấy tiêu tan.”
Như vậy, qua mẫu gương và lời dạy của Đức Giêsu, và vì những lý do trên, nên mỗi người chúng ta hãy cố gắng thực hiện sự tha thứ trong gia đình, trong cộng đoàn và mỗi môi trường chúng ta sống. Tuy nhiên, để thực hiện sự tha thứ không phải là chuyện dễ dàng. Vì thế, chúng ta hãy noi gương bắt chước Đức Giêsu. Ngoài mẫu gương của Đức Giêsu chúng ta hãy nhìn vào mẫu gương của các đấng bậc trong đạo ngoài đời: Gương của Thánh Stêphanô tha thứ cho Saolê và những kẻ giết mình; Gương của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tha thứ cho kẻ sát thủ Mehmet Ali Agca; Gương của Thánh Maria Goretti tha thứ cho Alessandrô là kẻ làm hại mình; Ông Gandhi vị anh hùng dân tộc Ấn Độ cũng chủ trương rằng: “Luật vàng của xử thế là sự tha thứ lẫn nhau”…
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con luôn biết tha thứ cho anh chị em mình như Chúa đã tha thứ cho chúng con. Amen.
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Mấy ngày vừa qua, người dân vẫn chưa hết phẫn nộ hành vi dã man của người con gái khi hành hạ, đánh đập mẹ già ở Long An. “Thật phẫn nộ và tội nghiệp cho bà cụ gần đất xa trời mà vẫn phải chịu cực hình do chính đứa con ruột của mình gây ra. Vì bất kỳ một lý do gì thì cũng không thể chấp nhận một người con đối xử với mẹ như thế. Con gái ruột mà đi đánh đập, đổ đất cát có phân lên đầu mẹ già 88 tuổi. Dẫu mẹ bệnh hoạn, mất tỉnh táo thì cũng là mẹ, con cái không được phép hỗn hào bất hiếu chứ đừng nói đánh đập hành hạ đến nỗi vài ngày sau cụ bà đã chết dù được nhiều người thương tâm đưa cụ vào bệnh việnh cấp cứu chữa trị. Mọi người dân khi thấy sự việc như vậy ai cũng tức giận và mắn chửi cô con gái và nguyền rủa cô sẽ bị quả báo vì gieo sao gặt vậy. Đó là quy luật nhân quả.
Nhiều người mặc nhiên coi câu nói ‘gieo nhân nào gặt quả nấy’ như một quy luật. Vì thế khi thấy ai đó gặp phải điều không may, họ quy kết ngay rằng hẳn bà cụ hay cha mẹ bà cụ đã làm điều chi bất nhân thất đức nên mới bị trừng phạt ‘quả báo nhãn tiền’ như thế. Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su không nói luật nhân quả là sai nhưng Ngài cho biết căn nguyên của luật ấy là chính Thiên Chúa và mỗi người đều đã nhận được cái “nhân” tối thượng là ơn tha thứ và bao dung nhờ lòng thương xót của Ngài: “Tôn chủ” đã tha nợ cho người đầy tớ món nợ vô cùng lớn chỉ vì “anh đã van xin Ngài.” Vì thế từ cái “nhân” tốt lành đó mỗi người sẽ phải sinh “quả ngọt” bằng cách “thương xót người khác như chính Chúa đã thương xót mình”. Ngược lại, người ta sẽ nhận phải cái kết là “trái đắng” nếu họ cư xử nghiệt ngã vô cảm với anh chị em mình.
Trong cuộc sống chung đụng thường phải có va chạm với nhau. Chén bát để bên nhau, vô tình vẫn có những va chạm bể nát huống chi con người. Cho nên, hôm nay Chúa muốn chúng ta hãy biết tha thứ cho nhau không phải là để cho qua chuyện hay nhịn đi cho xong, mà tha thứ cho nhau, là điều kiện để chúng ta được Thiên Chúa thứ tha. Vì chưng, tất cả chúng ta đều là con nợ của Chúa. Chúng ta nợ Chúa sự sống, nợ Chúa ân tình. Đã nhiều lần chúng ta khất lần khất lượt với Chúa, van xin Chúa hãy tha thứ, cứu giúp mình tai qua nạn khỏi sẽ trả nợ Chúa, sẽ dành vốn sống của mình để làm theo ý Chúa, để phụng thờ Chúa, yêu thương mọi người. Hứa đó rồi quên. Quyết tâm rồi lại thất hứa. Thế mà Chúa vẫn yêu thương và sẵn sàng tha thứ cho chúng ta.
Chúa Giêsu đã từng nói với chúng ta: anh em đã lãnh nhận sự tha thứ của Chúa, thì cũng hãy tha thứ cho nhau. Không phải là một lần hay chỉ “quá tam ba bận” mà là tha thứ mãi mãi. Như vậy, tha thứ đòi hỏi sự kiên nhẫn, kiên nhẫn để cho người xúc phạm đến ta có cơ hội, có thời giờ sửa đổi và làm lại cuộc đời. Đừng như ông quan độc ác kia đã đối xử quá khắt khe với những con nợ của mình. Ông đòi tính sổ với các con nợ và đòi cho đến đồng bạc cuối cùng. Đó cũng là cách đối xử chung của con người hôm nay. Người ta đòi công lý phải được báo thù. Người ta đòi mắt đền mắt răng đền răng. Người ta khó chấp nhận một sự bao dung tha thứ đối với kẻ thù của mình. Cũng như Cô con gái bà cụ kia đã gieo sự bạo lực độc ác với mẹ mình giờ đây phải gặt lấy đau khổ mẹ chết và sự bất an trong tâm hồn suốt cuộc đời trước pháp luật và lương tâm.
Là con cái của Cha yêu thương và khoan dung, chúng ta phải sống yêu thương và khoan dung. Giữa một thế giới mà sự thù hận luôn đòi loại trừ nhau bằng bạo lực, khủng bố, bằng súng đạn, người Kitô hữu phải thể hiện cho người ta thấy lòng bao dung, tha thứ và xót thương vẫn còn tồn tại trên trần gian. Vì Chúa, chúng ta vẫn có thể làm điều ấy. Vì Chúa, chúng ta vẫn có thể thương xót và bao dung tha thứ cho nhau. Tha thứ và yêu người để được sự bình an tâm hồn. Vì nếu không bao dung, tha thứ thì “oán báo oán, oán lại chập chùng”. Thương xót và Tha thứ cho nhau để được nên nghĩa tử và là môn đệ chính danh của Chúa, vì người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy là “hãy yêu thương nhau”. Một tình yêu đích thực luôn bao hàm sự bao dung, thương xót và tha thứ vì “Yêu nhau củ ấu cũng tròn – Một trăm chỗ lệch cũng kê cho vừa”. Vì vậy, những việc lành phúc đức của chúng ta, việc chúng ta bao dung thương xót và tha thứ cho người khác đúng là những nhân tốt lành để chúng ta gặt được quả phúc mai sau, nhưng, chúng ta nhớ rằng đó cũng là việc chúng ta phải làm để đáp lại việc trước đó Chúa đã xoá cho chúng ta món nợ vô cùng lớn là tội lỗi mà chúng ta đã xúc phạm đến Chúa và anh chị em. Vì thế chúng ta nên hãy nhớ luật nhân quả của Chúa là: “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5,7). Amen.
THA THỨ NÉT ĐỘC ĐÁO NHẤT CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang)
Trong Cựu Ước, tội nhân là con nợ được Thiên Chúa tha thứ cho nhờ ơn tha thứ của Ngài. Thiên Chúa tha thứ sạch hết mọi tội, xem như Ngài vất ra sau lưng, đúng như Lời Chúa trong Thánh vịnh đáp ca chúng ta vừa mới đọc: “CHÚA tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà, ban cho đời ngươi chứa chan hạnh phúc, khiến tuổi xuân ngươi mạnh mẽ tựa chim bằng” (Tv 103,3-5).
Vâng, Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa xuống thế làm người đã không ngừng loan báo sự bao dung, và kêu gọi tha thứ và chính Ngài đã thực hiện trước để chúng ta noi theo. Qủa thế, trong cuộc thương khó, Chúa Giêsu chịu biết bao nhiêu là khổ nhục: chửi mắn, sỉ vả, đánh đập, khinh khi… nhưng Ngài vẫn không thù vặt, sống không để bụng, chết cũng chẳng mang theo hay trả đủa dù Ngài làm được. Qủa thế, trên cây Thánh giá, trước khi tắt thở, Chúa Giêsu nói rằng: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Lời nói chưa đủ, Ngài đã đổ máu mình ta để tha tội cho con người (Mc 14,24). Vì vậy, Chúa Giêsu là Tôi Tớ đích thực của Thiên Chúa, Người làm cho những kẻ được Người gánh tội trở nên công chính (1Pr 2,24).
Tha thứ của Chúa Giêsu là thế đó, tha vô điều kiện, tha vô hạn nên hôm nay Ngài dạy: “Thầy không bảo là tha thứ đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18,22). Tiếc thay, chúng ta rất đỗi nhỏ nhen! Chúng ta thể hiện sự nhỏ nhen ấy ngay trong cách sống của mình: thù vặt, bất bao dung, giận hờn cay đắng hay từ nhau… Cho nên, trong cuộc sống biết bao nhiêu chuyện cay đắng, nghiệt ngã xảy ra từ trong gia đình ra xã hội: cha con chém giết nhau, vợ chồng ly dị, con cái đánh đập cha mẹ, anh chị em đánh đập nhau, bạn bè đánh nhau, đồng nghiệp chơi xấu nhau, rồi ngay cả trong tình yêu trai gái cũng chẳng chịu tha thứ cho nhau cho nên dù tình yêu đầu hay tình cuối thắm thía đến mấy cũng chia tay để rồi tuyệt vọng tự tử. Cho nên mới có chuyện: “Tình đầu hay tình cuối? khi một ngày một người đã ra đi… Tình đầu hay tình sau? khi cơn đau không biết đến bao lâu? Một ngày ta được yêu, rồi một ngày một mình ta buồn thiu. Biết trống vắng, biết thức trắng, và biết nếm trái đắng. Mà đời thì như chiêm bao, khi yêu nhau biết ra sao ngày sau? Tình đầu thường lên men đau, nên đôi khi trái tim như nhỏ máu. Đường tình nào biết đến phút cuối, bẽ bàng rồi lòng chất ngất tiếc nuối. Thì tình đầu chỉ còn trong kỷ niệm mà thôi… Em ơi! Em ơi, em đâu rồi… làm sao anh hôn dòng tóc rối? Em ơi! Em ơi, em đâu rồi… làm sao… làm sao ta có đôi? Em ơi! Em ơi, em đâu rồi… mộ bia đề tên em đó sao? Em ơi! Em ơi, em đâu rồi… để tình đầu là tình cuối đau lòng nhau?” (Lời bài hát Tình Đầu và Tình cuối)
Yêu nhau mà không tha thứ cho nhau dẫn đến cái chết đau thương thì cuộc đời còn gì là ý nghĩa, hạnh phúc và đáng sống. Vì vậy, hôm nay, Chúa Giêsu luôn mời gọi chúng ta hãy sống nét độc đáo nhất của đạo Công Giáo đó là sự tha thứ, tha thứ cho hết mọi người kể cả kẻ thù chúng ta. Nhưng không ai trong chúng ta lại không cảm nhận nỗi khó khăn khi phải tha thứ cho người khác. Thế thì động lực độc đáo nhất của Kitô giáo thúc đẩy chúng ta dám tha thứ cho nhau là gì? Thưa đó là khi chúng ta cảm nhận chính mình được tha thứ, mình sẽ dễ dàng tha thứ cho người khác.
Cụ thể, hôm nay Chúa Giêsu dùng câu chuyện một ông vua kia muốn đòi các đầy tớ của mình thanh toán sổ sách… mà chúng ta vừa mới nghe để dạy chúng ta biết lòng bao dung, tha thứ vô điều kiện của Thiên Chúa với con người và sự độc ác nhỏ nhen của con người với nhau. Chúng ta được Thiên Chúa tha thứ cho món nợ rất lớn như thế, nhưng ngược, lại mình vẫn không chấp nhận tha thứ món nợ nhỏ cho anh em mình. Tai sao?
Thứ nhất, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói rằng vì con người ngày hôm nay đang dần dần đánh mất cảm thức về tội lỗi. Cho nên mình ăn gian nói dối, trộm cắp, phá thai, giết người… mà lương tâm mình bình thương không có gì là cắn rứt, không cần Chúa tha thứ (Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Evangelium Vitae, số 63). Thứ hai, con người quá yêu cái tôi của mình, cho nên những nhân đức của mình thì phóng cho to, còn những nét xấu giảm đến mức tối thiểu. Ngược lại, với người khác thì phóng đại cái tội lỗi người ta và giảm thiếu nhân đức của họ. Rồi, khi có lỗi với anh em, chúng ta chạy đến Chúa xưng tội, Chúa tha thứ hay là chúng ta chạy đến người mình phạm thôi, xin họ tha thứ; ngược lại họ lỡ phạm đến mình, chúng ta hậm hực không thể bỏ qua, “sống để bụng, chết mang theo”, hoặc bằng mặt chứ không bằng lòng. Hai lý do đó làm cho chúng ta mất cảm giác mình được Chúa tha thứ và cũng mất cảm giác bao dung tha thứ cho người khác.
Vậy phải làm gì? Lời Chúa trong bài đọc hai, Thánh Phaolô nói: “không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa; vì Đức Ki-tô đã chết và sống lại chính là để làm Chúa kẻ sống cũng như kẻ chết” (Rm 14,7-9). Vâng, sống cho Chúa nghĩa là sống với Chúa trong cầu nguyện. Chính trong cõi thinh lặng ấy ta có thể lắng nghe tiếng Đấng đã nói với ta trước khi ta nói lên lời, Ngài đã chữa lành ta trước khi ta có thể giơ tay kêu cứu, đã giải thoát ta trước khi ta có thể giải thoát kẻ khác và đã yêu thương ta trước khi ta yêu thương tha nhân. Vì vậy, khi cầu nguyện với Thiên Chúa càng sâu xa bao nhiêu, chúng ta càng cảm nhận sự thánh thiện của Thiên Chúa bấy nhiêu, và ngược lại càng thấy mình khiếm khuyết và tội lỗi, chính lúc ấy chúng ta mới nhận được sự tha thứ của Thiên Chúa, để rồi “cũng tha cho kẻ mắc nợ với chúng con” (Mt 6,12).
Bình thường chúng ta đối xử với nhau bằng sức mạnh: bạo lực, chính trị, đồng tiền, toan tính thủ đoạn; nếu ai tha thứ thì cho là kẻ hèn nhát. Di sản tinh thần lớn nhất trên thế gian không phải là sức mạnh của bạo lực, tiền bạc mà là tình thương, tha thứ, vì tha thứ là chất xi măng xây dựng tình hiệp nhất, “tứ hải giai huynh đệ”. Hơn thế nữa, Lời Chúa dạy: “Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển chọn, thánh hiến và yêu thương. Vì thế anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà, nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em, người này có chuyện phải trách móc người kia, Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau” (Cl 3,12-13). Đó chính là chất keo tuyệt vời nhất kết dính mối tình chúng ta với nhau hiệp nhất với Chúa Cha trên trời, trong Chúa Giêsu Kitô, nhờ Chúa Thánh Thần. Với đức tin ấy, mời quý ông bà và anh chị em đứng lên tuyên xưng đức tin.
(Suy niệm của Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một cậu bé hỏi cha: Tại sao bút chì có tẩy?
Người cha ôn tồn trả lời: để xóa đi những chữ viết sai, viết chưa đẹp hoặc để xóa đi những gì không đúng trên trang viết!
Quả thực, cục tẩy thật cần thiết. Nếu không có nó thì trên trang giấy sẽ bề bộn những gạch xóa lem luốc. Cục tẩy sẽ làm mới lại những gì đã viết lên trang giấy không đúng. Cục tẩy sẽ chỉnh lại những lỗi viết sai hay ẩu thả của chủ nhân.
Cuộc đời con người cũng cần có một cục tẩy. Một cục tẩy của lòng bao dung và sự tha thứ. Một cục tẩy có khả năng xóa đi những sai lầm của người khác và của chính bản thân ta! Nếu cuộc đời chúng ta không dám sử dụng cục tẩy để xóa đi những bất hòa ghen tương, những hận thú tranh chấp, những lỗi lầm tội lỗi sẽ làm cho những trang giấy cuộc đời nhem nhuốc những dòng gạch và xóa! Muốn cuộc đời mình đẹp thì phải biết xóa đi những gì không đúng, không đẹp để trang giấy cuộc đời rạng rỡ hơn. Nhưng đáng tiếc, có rất nhiều người cho tới lúc tuổi già vẫn để cục tẩy của mình còn nguyên vẹn vì chúng ta ít can đảm xóa đi những hận thù.
Có một lần sau khi giảng về lòng bao dung tha thứ, vị linh mục hỏi các giáo dân của mình ai sẽ sẵn sàng tha thứ cho kẻ thù. Khoảng một nửa trong số họ giơ tay lên. Chưa hài lòng, ông giảng thêm 20 phút nữa và hỏi lại câu hỏi cũ. 80% giáo dân giơ tay. Vẫn chưa hài lòng, ông giảng thêm 15 phút nữa và lặp lại câu hỏi trên. Nôn nóng về bữa ăn trưa tuyệt vời của ngày chủ nhật, tất cả giáo dân đều đưa tay lên trừ một ông lão.
– Ông Jones, ông không sẵn sàng tha thứ cho kẻ thù à?
– Tôi không có kẻ thù nào.
– Thật lạ lùng. Thế ông bao nhiêu tuổi rồi?
– 86.
– Ông Jones này, ông hãy vui lòng lên đây và cho mọi người biết bí quyết để một người sống đến 86 tuổi mà không có một kẻ thù nào cả.
Ông lão bước lên phía trước rồi từ từ quay lại:
– Dễ ợt. Chẳng qua là tôi sống lâu hơn chúng nó thôi
Hôm nay Chúa bảo chúng ta phải tha thứ cho nhau không phải là bảy lần mà là bảy mươi lần bảy, nghĩa là rất nhiều và mãi mãi. Nếu chúng ta không tha thứ nghĩa là chúng ta vẫn để cục tẩy còn nguyên vẹn, đó là lý do khi nhìn vào trang giấy cuộc đời mình thì lắm lem luốt bởi hận thù chua cay. Con người chúng ta “nhân vô thập toàn”. Chúng ta lớn lên trong sự tha thứ của người khác thì chính chúng ta cũng phải học tha thứ cho tha nhân. Thế nên, hãy sống bao dung. Hãy biết tha thứ để cục tẩy của chúng ta mòn dần theo năm tháng, đừng bao giờ để cực tẩy của mình ở mãi trong kho. Bởi vì nếu không sử dụng đến nó cuộc đời của chúng ta sẽ chi chít những vết gạch xóa sau những lần mắc sai lầm! Một tờ giấy như vậy chắc chẳng có gì tốt đẹp phải không?
Chúa Giêsu dạy ta biết tha thứ. Ngài đã sống điều đó. Ngài luôn cảm thông với những lầm lỗi của tha nhân. Ngài dùng tình thương tha thứ để sửa lại lỗi lầm con người. Tình thương ấy Ngài đã mang lại cuộc đời mới cho Gia-kêu, cho Ma-da-lê-na, cho Phao-lô… Ngài đã dùng cục tẩy của sự tha thứ một cách quảng đại. Ngài đã xóa đi những vết nhơ tỗi lỗi của con người. Ngài đã xóa đi những bụi đời trong thân phận yếu đuối của con người. Ngài đã đi đến tận cùng của sự tha thứ là tha cho kẻ đã hành hạ và kết án Ngài.
Là người ky-tô hữu chúng ta phải sống tình thương tha thứ. Tha thứ để sửa đổi anh em. Tha thứ để xóa đi những vết hận thù trong lòng chúng ta. Tha thứ để ta nên hoàn thiện hơn như Cha là Đấng hoàn thiện luôn cho mưa thuận gió hòa trên mọi người.
Tuy nhiên, tha thứ để rồi cũng biết nhìn nhận tội lỗi của bản thân. Không phải bao giờ mình cũng đúng mà có khi chính chúng ta là kẻ gây ra đau khổ cho tha nhân, thế nên, trong nhiều trường hợp chính chúng ta là người cần đến sự tha thứ của người khác.
Có một câu chuyện kể rằng:
A nói với B: “Khu nhà tôi vừa dọn về một ông hàng xóm bất lịch sự. Tối hôm qua, đã gần một giờ sáng rồi mà ông ta còn qua đập cửa nhà tôi rầm rầm”. B hỏi: “Thế anh có báo cảnh sát không?”. A trả lời: “Không, tôi mặc kệ ông ta, xem ông ta như thằng điên vì lúc ấy tôi đang tập thổi kèn saxophone”.
Chuyện gì cũng có nguyên nhân, nếu biết trước lỗi của mình thì hậu quả sẽ khác đi. Tuy nhiên, chúng ta lại thường ít khi thấy mình sai, nhưng lại dễ dàng thấy người khác sai.
Xin cho chúng ta luôn biết hoàn thiện mình như Cha chúng ta. Hoàn thiện con người không làm điều gì tổn thương với tha nhân. Hoàn thiện còn để lòng mình xóa đi những ghen tương, đố kỵ để sống hòa hợp với nhau. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một bác nông dân đã quá khổ sở vì sự thiếu trách nhiệm của những người hàng xóm. Mặc dù nhà không nuôi gà nhưng gà hàng xóm lại bới nát và phá hoại hoa màu của bác. Vốn bản tính hiền lành luôn “dĩ hòa vi quý”, không muốn ăn miếng trả miếng như thói thường người đời. Bác đã nhiều lần van xin láng giềng vui lòng nhốt gà lại. Nhưng chẳng ai chú ý đến lời yêu cầu của bác. Bầy gà cứ thản nhiên sang vườn bác bới móc tìm mồi. Thế rồi, một buổi sáng đẹp trời, Bác ra chợ mua một ít trứng gà để vào một cái giỏ, rồi cứ vài ngày lại đưa sang cho những người láng giềng và giải thích rằng đó là trứng mà bầy gà của họ đã đẻ trong vườn của bác. Bác làm như thế liên tiếp ba lần. Quả thực kết quả đã diễn ra rất nhanh chóng. Chỉ trong một tuần lễ, người láng giềng nào cũng tự động rào dậu thật kỹ để giữ cho gà của mình không sang đẻ ở nhà bác nông dân nữa.
Vâng, Bác nông dân chỉ mất tiền mua ít trứng gà mà bác đã tránh được một cuộc tranh chấp vô ích có thể làm sứt mẻ tình hàng xóm. Cuộc sống chung là vậy, nếu biết nhịn nhục và kiên nhẫn một chút là ta có thể tìm ra nhiều giải pháp tốt nhất để gìn giữ sự hòa thuận, êm đềm cho gia đình, cho xóm làng chúng ta.
Trong cuộc sống chung đụng thường phải có va chạm với nhau. Chén bát để bên nhau, vô tình vẫn có những va chạm bể nát ra huống chi con người. Hôm nay Chúa muốn chúng ta hãy biết tha thứ cho nhau không phải là để cho qua chuyện hay nhịn đi cho xong, mà tha thứ cho nhau, là điều kiện để chúng ta được Thiên Chúa thứ tha. Vì chưng, tất cả chúng ta đều là con nợ của Chúa. Chúng ta nợ Chúa sự sống, nợ Chúa ân tình. Đã nhiều lần chúng ta khất lần khất lượt với Chúa, van xin Chúa hãy tha thứ, cứu giúp mình tai qua nạn khỏi sẽ trả nợ Chúa, sẽ dành vốn sống của mình để làm theo ý Chúa, để phụng thờ Chúa. Hứa đó rồi quên. Quyết tâm rồi lại thất hứa. Thế mà Chúa vẫn yêu thương và sẵn sàng tha thứ cho chúng ta. Dụ ngôn người con hoang đàng là một bằng chứng về lòng bao dung của Chúa. Người cha đã không cần hỏi mày dùng số vốn của tao làm gì? Bây giờ còn bao nhiêu? Chỉ cần thấy người con quay về là người cha đã quên hết quá khứ lỗi lầm của người con.
Hôm nay Chúa Giêsu nói với chúng ta: anh em đã lãnh nhận sự tha thứ của Chúa, thì cũng hãy tha thứ cho nhau. Không phải là một lần hay chỉ “quá tam ba bận” mà là tha thứ mãi mãi. Như vậy, tha thứ đòi hỏi sự kiên nhẫn, kiên nhẫn để cho người xúc phạm đến ta có cơ hội, có thời giờ sửa đổi và làm lại cuộc đời. Đừng như ông quan độc ác kia đã đối xử quá khắt khe với những con nợ của mình. Ông đòi tính sổ với các con nợ và đòi cho đến đồng bạc cuối cùng. Đó cũng là cách đối xử chung của con người hôm nay. Người ta đòi công lý phải được báo thù. Người ta đòi mắt đền mắt răng đền răng. Người ta khó chấp nhận một sự bao dung tha thứ đối với kẻ thù của mình.
Mahatma Gandhi, người đã giải phóng Ấn Độ khỏi ách nô lệ của người Anh bằng cuộc tranh đấu bất bạo động, đã bị một thanh niên Ấn Giáo hạ sát, chỉ vì anh ta không thể chấp nhận được sự kiện Gandhi lại yêu thương và tha thứ cho người Hồi Giáo.
Khi loan báo tình yêu Thiên Chúa cho mọi người, Chúa Giêsu đã không loại trừ một hạng người nào. Được sai đến trước tiên cho người Do thái, Chúa Giêsu cũng đi đến với cả nhân loại. Chúa Giêsu chính là hiện thân lòng khoan dung của Thiên Chúa, một Thiên Chúa là Cha yêu thương tất cả mọi người, và muốn qui tụ mọi người vào trong gia đình của Ngài. Cả cuộc đời của Ngài là một chuỗi dài sự tha thứ. Ngài đã tha thứ cho lầm lỗi của người phụ nữ ngoại tình. Ngài đã tha thứ việc làm của Giakêu. Ngài đã tha thứ quá khứ tội lỗi của người trộm lành. Ngài đã đi đến tận cùng của sự tha thứ, là tha thứ cho kẻ làm nhục và giết hại Ngài.
Là con cái của Cha yêu thương và khoan dung, nguyên tắc sống của chúng ta cũng phải là yêu thương và khoan dung. Giữa một thế giới mà sự thù hận luôn đòi loại trừ nhau bằng khủng bố, bằng súng đạn, người kytô hữu phải thể hiện cho người ta thấy lòng bao dung và tha thứ vẫn còn tồn tại trên trần gian. Vì Chúa chúng ta vẫn có thể làm điều ấy. Vì Chúa chúng ta vẫn có thể tha thứ cho nhau. Tha thứ để được sự bình an tâm hồn. Vì nếu không tha thứ thì “oán báo oán, oán lại chập chùng”. Tha thứ cho nhau để được nên nghĩa tử và là môn đệ chính danh của Chúa, vì người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy là “hãy yêu thương nhau”. Một tình yêu đích thực luôn bao hàm sự bao dung và tha thứ vì “Yêu nhau củ ấu cũng tròn – Một trăm chỗ lệch cũng kê cho vừa”.
Xin Chúa giúp cho mỗi người chúng ta luôn can đảm tha thứ cho nhau, luôn can đảm quên đi mọi hận thù, oán ghét, ghen tương để sống trong vòng tay thân ái giữa người với người và trong tình yêu tha thứ thẳm sâu của Chúa. Amen.
(Suy niệm của Barbara E. Reid OP – Chuyển ngữ: Văn Hào, SDB)
“Con phải tha thứ bao nhiêu lần” (Mt 18,21)
Một phụ nữ, đã từng hứng chịu bạo hành trong gia đình, chia sẻ với tôi kinh nghiệm của chị khi phải đấu tranh với chính mình để thực hiện giáo huấn của Chúa trong Tin Mừng hôm nay. Chị ta nói “Là một tín hữu Công giáo, tôi thấy có trách nhiệm và bổn phận phải tha thứ cho chồng tôi, khi anh ta dùng bạo lựcnhư thể muốn giết tôi. Tôi tin rằng tôi phải bắt chước hành vi yêu thương của Đức Giêsu trên Thập giá, trước khi Ngài dang tay đón nhận cái chết. Tôi phân vân tự hỏi, có lẽ thay vì tha thứ, tôi đã có cảm giác thù hận từ sâu tận trong tâm hồn, và tôi đã tự nguyền rủa chồng tôi, mong anh ta chết quách đi cho xong. Tôi sợ rằng tôi đã không tha thứ hoàn toàn cho anh ta trước khi tôi chết, và như vậy tôi sẽ bị trầm luân mãi mãi”.
Giáo huấn của Đức Giêsu hôm nay dạy chúng ta phải tha thứ đến vô tận. Có một điều khá gay go, là nếu chúng ta không thể tha thứ thì sao? Cái gì sẽ xảy ra, khi chúng ta muốn tha thứ, nhưng kẻ xúc phạm đến chúng ta lại không hối lỗi và không chịu đền bù thiệt hại. Có những khi, ví dụ trong trường hợp bạo hành xảy ra nơi gia đình, sự tha thứ còn là cớ giống như đổ thêm dầu vào lửa, sẽ phản tác dụng và không đem lại sự hòa giải và an bình thật sự. Tiến trình thực hiện việc tha thứ và hòa giải quả khá gian nan, và chúng ta không thể giản lược trong một vài chiêu thức giản đơn.
Bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay, tiếp nối với đoạn Tin mừng của tuần trước, trong đó Chúa Giêsu vạch dẫn một lộ trình khởi đầu cho việc hòa giải, khi có những xúc phạm xảy ra trong cộng đoàn. Lộ trình này bắt đầu bằng việc cá nhân đến gặp gỡ cá nhân, rối tiếp theo là có thêm những trung gian, và bước cuối cùng là có sự tham gia của cả cộng đoàn. Đứng trước những chỉ huấn này, Phêrô đã hỏi tiếp Đức Giêsu, thế ông phải phải tha thứ bao nhiêu lần. Ông thấy ngay những khó khăn và trở ngại khi thực hiện tiến trình hòa giải như thế. Để trả lời, Chúa Giêesu đã khẳng định, việc tha thứ phải thực hiện một cách vô tận, không có một giới hạn nào cả. Có những sự việc gây nên nỗi đau triền miên và dai dẳng, vì thế cũng cần phải biết tha thứ vô giới hạn, đồng thời người phạm lỗi cũng cần phải hối lỗi một cách chânthực. Chúng ta phải luôn sẵn sàng thực hiện công việc đầy khó khăn này, để hóa giải những tan vỡ, và thực hiện việc giao hòa với nhau.
Trong dụ ngôn tiếp theo về người đầy tớ mắc nợ một số tiền lớn đã được nhà vua tha cho, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến món nợ khổng lồ như một gánh nặng. Món nợ đó biểu trưng cho những khó khăn trong việc hòa giải, và nó đã được cất đi khỏi tên đầy tớ. Điều này,Chúa cũng kêu mời chúng ta ý thức rằng: Sự hòa giải ở đây là một quà tặng được trao ban một cách nhưng không. Khi đón nhận món quà này, không phải do công lao của mình, chúng ta cũng phải ban trao lại một cách nhưng không giống như vậy. Tên đầy tớ không thể trả món nợ cho nhà vua, nhưng anh ta có thể sao chép lại cách thức mà nhà vua đã đối xử với anh ta, bằng cách cũng tha cho kẻ mắc nợ mình. Tuy nhiên anh ta đã không hành xử như thế. Anh ta làm ngược lại. Thế rồi nhà vua tức giận, đổi thay tình thế, rút lại sự tha thứ đã ban bố trước đây. Điều làm chúng ta cảm thấy chới với, đó là Thiên Chúa sẽ hành xử giống như thế. Ngài sẽ rút lại sự tha thứ của Ngài nếu như chúng ta không muốn thứ tha một cách sâu xa tận đáy lòng. Câu nói này của Chúa Giêsu gợi nhắc đến lời kinh Lạy Cha mà chính Ngài đã dạy các môn đệ cầu nguyện “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ mắc nợ chúng con (Mt 6,12). Lời kinh đó đi kèm theo lời khuyến cáo: Chúng ta chỉ được tha thứ khi chúng ta biết thứ tha cho nhau (Mt 6, 14-15).
Điểm nhấn ở đây, không phải là Thiên Chúa lật lọng, đổi thay thái độ, rút lại sự tha thứ đã trao ban, khi chúng ta không hành xử giống như Ngài đã nêu gương. Cũng không phải Thiên Chúa sẽ làm phương hại đến chúng ta, khi chúng ta không tuân theo lối bước của Ngài. Dụ ngôn chỉ muốn khuyến cáo một cách khá cứng rắn, để con tim chúng ta đừng trở nên xơ cứng khi không có lòng bao dung và phải luôn biết sẵn lòng tha thứ cho nhau. Một tâm hồn chai lỳ trong hận thù, dễ làm cho bạo lực tái bùng phát và tiếp diễn. Dụ ngôn chỉ muốn diễn tả một cách thái mà chúng ta phải chọn lựa để làm sao sự tha thứ luôn được chúng ta tâm đắc và thực hành. Chúng ta phải nỗ lực thứ tha, và cầu nguyện để tâm hồn chúng ta luôn biết trải rộng, sẵn lòng tha thứ cả khi việc thứ tha này chưa thực hiện được. Chúng ta khẩn cầu để xin Chúa giúp chúng ta biết mở toang cõi lòng hầu có thể nếm cảm lòng thương xót dịu dàng của Chúa đổ tràn trên chúng ta, giúp chúng ta cũng dễ dàng dàn trải lòng thương xót và sự đồng cảm giống như thế đến cho mọi người. Không cái gì có thể cất khỏi sự tha thứ của Chúa nơi chúng ta. Tuy nhiên,trong cách cư xử thường ngày, nhiều động thái chúng ta thực hiện làm cản che hiệu quả của lòng thương xót đó đang tuôn đổ xuống trên mỗi người chúng ta.
(Suy niệm của Thiên Phúc)
Theo ABC News, ông Yigal Cohen, một người Itraen bị đau tim nặng vừa nhận được trái tim của một người Palestin trong cuộc phẫu thuật ngày 5-6-2000, Gia đình ông Mazen Joulani, người hiến tặng tim, cho biết ông vừa bi lnhững người Do Thái bắn hãi tại một tiệm cà phê ngoài trời.
Gia đình này quyết định hiến tim của Joulani vào thứ sáu tuần qua, ngay trong ngày mà cuộc nổ bom ở Tel Aviv làm thiệt mạng 21 người. Những phần nội tạng khác của Joulani cũng sẽ được ghép cho một số người Itraen khác.
Bác sĩ Lavie, người thực hiện ca mổ, nói khi ông cầm hai trái tim trong tay, ông nhận ra rằng tất cả những mâu thuẫn sắc tộc là hoàn toàn vô nghĩa.
***
Nếu chúng ta biết rõ mối thù truyền kiếp giữa người Itraen và người Palestin, nếu chúng ta nhìn thấy những cuộc xung đột đẫm máu thường xuyên xảy ra giữa hai dân tộc này trên truyền hình, báo chí, chúng ta mới thấy nghĩa cử hiến tặng trái tim để cứu sống kẻ thù, mới thật là nghĩa cả vô cùng cao đẹp. Không những anh chỉ tha thứ cho kẻ thù đã bắn chết mình, mà còn trao ban luôn trái tim và các phần nội tạng khác để cứu sống những kẻ đã sát hại dân tộc mình. Đối với những người không có tấm long khoan dung tha thứ thì đây là hành động điên rồ, thậm chí còn là việc ngu xuẩn. Nhưng với những người có niềm tin thì đó lại là bằng chứng hùng hồn của người môn đệ Đức Kitô: “Anh em phải thương yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ oán ghét anh em” (Lc 6,27).
Tin mừng hôm nay thuật lại:
“Bấy giờ, ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần” Có phải bảy lần không? “Đức Giêsu đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bẩy” (Mt 18,21-22).
Điều đó có nghĩa là phải tha thứ hoài, tha thứ mãi tha thứ đến vô cùng. Đó là nét mới trong dung mạo của Đức Giêsu. Mọi quốc gia, đảng phải, phong trào đều chống lại điều xấu, đề phòng kẻ gian ác, tiêu diệt kẻ thù, duy chỉ mình Đức Giêsu dạy: “Hãy yêu thương kẻ thù”. Người đã chiếu tỏa nét cao quý ấy ngay trên thập giá, khi các kẻ thù hành hạ, chế nhạo, và đóng đinh Người: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Sau khi Chúa Giê-su dạy về việc sửa lỗi cho nhau, Phê-rô hỏi thêm: “Thưa Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần, có phải đến bảy lần không?” Có lẽ nhiều người ngạc nhiên không biết tại sao Phê-rô lại đặt vấn đề con số.
Đối với Luật Do Thái, mấy chuyên viên luật đã cho một bảng kê khai phải tha cho ai mấy lần tùy trường hợp đối với gia đình hay người ngoài. Thông thường thì tha ba lần là tối đa, do đó đối với Phê-rô, tha bảy lần là vượt mức. Đối với Chúa Giê-su, tha thứ không có hạn chế, không có ranh giới. Bảy mươi lần bảy có nghĩa là không biên giới và vô điều kiện.
Để minh họa điều đó Chúa Giê-su dùng dụ ngôn mà chúng ta vừa nghe đọc. Dụ ngôn không khó hiểu, nhưng câu kết lại rất nghiêm trọng và như là một lời cảnh báo: “Nếu anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình thì Cha Thầy ở trên trời cũng cư xử với anh em như vậy.” Như thế, Chúa Giê-su cho chúng ta thấy rằng, thái độ của chúng ta đối với anh em đồng loại thế nào, thì Thiên Chúa cũng đối xử với chúng ta như thế.
“Lấy đấu nào đong cho người khác thì Chúa sẽ đong lại cho chúng ta bằng đấu ấy.” Lời của Chúa Giê-su hôm nay sẽ trở nên án phạt cho chúng ta, nếu chúng ta không khoan dung đối với anh em chúng ta.
Thánh Phao-lô bảo: “Đừng theo thói thế gian.” Chúng ta thường thấy đời sống xã hội hôm nay là “ăn miếng trả miếng,” cũng như thời Mô-sê, luật báo oán vẫn được áp dụng: “Mắt đền mắt, răng đền răng.”Chúa Giê-su đòi buộc chúng ta vượt lên trên sự hèn hạ xấu xa của con người.
Trong dụ ngôn, Chúa Giê-su chứng tỏ lòng nhân hậu của Thiên Chúa đối với chúng ta vượt xa mọi tính toán của con người. Chúng ta lỗi phạm. Khối tội của chúng ta là một món nợ khổng lồ không thể trả được. Có ai trong chúng ta có thể lượng giá tất cả tội lỗi của chúng ta đối với Chúa không? Thánh vịnh nói: “Nếu Chúa tôi nhớ hoài tội lỗi, nào ai đứng vững được chăng?”
Thế nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ. Còn chúng ta, chúng ta lại bắt lỗi anh em từng lời nói, chúng ta trách phiền người nầy người nọ và có lúc lại hiềm khích hận thù. Món nợ của chúng ta với Chúa to lớn như thế nào, anh em chỉ lỗi phạm một vài điều nhỏ nhặt, chúng ta không đủ can đảm tha thứ. Chúng ta xin Chúa thứ tha thế nào?
Bắt lỗi nhau, hiềm khích nhau để được gì? Ích lợi gì cho chúng ta? Chúng ta chỉ gặt hái sự bực bội, khó chịu và cáu gắt mà thôi. Thỏa mãn một chút tự ái, chúng ta đánh mất sự bình an, và đánh mất cả hạnh phúc.
Hãy nhìn Chúa Giê-su. Ngài thanh thản nhẹ nhàng. Ngài yêu thương những người tội lỗi: Gia-kêu, Maria Ma-đa-lê-na, người phụ nữ ngoại tình… Chúa Giê-su cũng đối xử với chúng ta như thế. Ngài “tìm kiếm những gì đã hư mất,” Ngài phục hồi những tâm hồn hoen ố. Cũng như trên đỉnh đồi Can-vê, trong nỗi thống khổ tột cùng, Ngài nhìn thấy những kẻ thù của Ngài hả hê đắc thắng, ngạo nghễ, vui cười trên đau khổ của Ngài. Ngài xin Cha tha cho họ… Như vậy, thái độ của Chúa không đủ làm cho chúng ta suy nghĩ hay sao?
Chúng ta cần được Chúa thứ tha, vì trước mặt Chúa, chúng ta là những kẻ tội lỗi, những người không thể trả nợ, sao chúng ta lại có thể chứa chất trong lòng những tự ái, ích kỷ, ghen tỵ? Sao chúng ta không thể rộng lượng như Cha trên trời?
Đối với chúng ta việc tha thứ đôi khi rất khó, nó đòi hỏi ta phải có lòng yêu thương nhiều, đòi hỏi quên mình và khiêm tốn. Phải, đôi khi nó đòi hỏi chúng ta thật nhiều, nhưng đó cũng là điều kiện tiên quyết để được tha thứ.
Chúa Giê-su dạy chúng ta quên mình để tha thứ như Ngài: “Xin Cha tha nợ cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con…” Chúng ta là con của Thiên Chúa Tình Thương, nên chúng ta hãy cố sống yêu thương và học bài học hiền lành và khiêm nhượng của Chúa Giê-su, thì chúng ta sẽ dễ tha thứ và tạo bầu khí xung quanh trong lành và hạnh phúc.
Thế gian đầy dẫy hận thù, tranh chấp. Chúng ta không thể rót vào biển lửa hận thù đó một chút yêu thương sao? Chúng ta không thể xoa dịu những vết thương hận thù giữa anh em chúng ta, xây dựng một tình huynh đệ chân thành giữa anh em đang chung sống với chúng ta trong cuộc sống cam go nầy sao?
Chúng ta mơ tìm hạnh phúc, nhưng hạnh phúc không ở nơi hận thù ghen ghét. Hạnh phúc thật chỉ đến trong tình yêu. Thánh Phao-lô, trong nhiều bức thư đã khích lệ giáo dân của ngài sống yêu thương, tha thứ. Hôm nay, chúng ta vừa nghe trong đoạn thư gửi giáo đoàn Rô-ma những lời rất đặc biệt mà nhiều khi chúng ta không để ý: “Không ai sống cho chính mình cũng không ai chết cho chính mình. Sống là sống cho Thiên Chúa, và chết là chết cho Thiên Chúa”. Điều đó có nghĩa gì?
Nếu sống cho mình là sống theo bản năng và ý muốn của mình, thì chúng ta chỉ gieo rắc khốn khổ thôi. Sống cho Thiên Chúa là mở rộng Vương Quốc Tình Yêu của Ngài; nơi đó, chúng ta mới tìm được điều chúng ta mong ước là Hạnh Phúc.
Hôm nay, trong hiến lễ tình yêu nầy, chúng ta sẽ cùng với Chúa Giê-su cầu xin cho “Nước Cha trị đến”. Và Nước Cha chính là Nước Tình Yêu và tha thứ.
Chúng ta sẽ ăn lấy Đấng đã yêu thương chúng ta, tha thứ và liều mạng cho chúng ta, chúng ta hãy đem tình yêu vào gia đình, làng xóm và trong môi trường chúng ta đang sống…
Xin cho con biết:
“…đem thứ tha vào nơi lăng nhục,
đem an hòa vào nơi tranh chấp,…
đem niềm vui đến chốn ưu sầu”.
*******
Nhiên liệu để đi xa hơn:
Tha thứ
Mục sư Richard Wurmbrand, người Rumani, đã bị giam 14 năm vì danh Chúa. Ông đã ghi lại nhiều câu chuyện về bác ái của những Ki-tô hữu bị bách hại. Trong trại giam chung với ông có một linh mục; không hiểu vì sao ông ấy bị đem ra hành hạ và đánh đập một cách dã man nhiều lần. Một hôm, sau khi bị hành hạ dã man và bị đẫy vào phòng giam dở sống dở chết, những bạn tù tức tối chửi rủa những anh lính kia; Nhưng vị linh mục nầy khoát tay bảo họ im đi và lấy hết sức còn lại, nói với anh em bạn tù: “Đừng chửi rủa họ vì họ không biết họ đang làm gì. Hãy thương họ là đúng hơn. Hãy cầu nguyện cho họ.”
Tha thứ
Cha Franz Stock là một linh mục người Đức và là tuyên úy lao xá trong thời Pháp bị nước Đức chiếm đóng. Trong thời kỳ ấy, Chính phủ Đức đã ra lệnh xử bắn nhiều tù nhân khác khi có một đồn quân Đức bị đánh, hay một lính Đức bị ám sát để trả đũa. Cha F.Stock luôn có mặt nơi pháp trường. Có những ngày ngài phải chứng kiến hàng trăm người bị xử bắn. Trước khibị bịt mắt, các tử tội được phép gặp cha tuyên úy để xưng tội, hay tạo những gì cho gia đình và thân nhân. Ngài kể lại, có lúc ngài thật cảm kích trước thái độ bác ái và bao dung của những người tù. Có người trao cho ngài một tấm giấy nhỏ cho thân nhân trong đó viết: “Hãy an tâm. Anh chết vì Tổ Quốc, vì Chúa. Xin đừng hận thù một ai”. Có người trước khi bị bắn, họ hô to: “Hoan hô Nước Pháp muôn năm! Lạy Chúa, con xin dâng mạng sống con cho Chúa, cho Tổ Quốc, cho những người xử bắn con. Xin tha cho họ”.
Một sĩ quan Pháp, trước khi bị xử bắn đi đến bắt tay từng người trong tiểu đội lý hình. Anh nói: “Các anh hãy làm nhiệm vụ của các anh. Nhiệm vụ của tôi đến đây là hết. Cám ơn các anh. Không hận thù. Giả từ tất cả”.
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Chúa Giêsu đến để kiện toàn Lề Luật như Ngài đã nói. Trong Cựu Ước, Luật Môsê dạy tha thứ cho anh em, và ra luật báo oán là mắt đền mắt răng đền răng. Chúa Giêsu bảo phải tha thứ. Mấy ông Pharisêu lại tỉ mỉ cho phép tha thứ giới hạn một số lần nhưng không đồng ý với nhau. Người thì cho là chỉ tha ba lần, người lại cho năm hay bảy lần. Phêrô không rõ nên theo phái nào và đã hỏi Chúa Giêsu: “Nếu anh em con xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải là bảy lần không?” Nhân câu hỏi của Phêrô, Chúa Giêsu dạy chúng ta không phải chỉ tha bảy lần mà tha đến bảy mươi lần bảy, nghĩa là tha không giới hạn. Và nhân dịp đó Chúa cho một dụ ngôn người đầy tớ vô nhân.
Dụ ngôn không khó hiểu cho lắm, nhưng chúng ta cần suy nghĩ để thi hành đúng với những gì Chúa dạy. Thánh Matthêu nói đến một vị vua để có thể kết luận một cách hợp lý. Chúa muốn chúng ta tha thứ cho nhau vì chúng ta được tha thứ trước và nhiều hơn gấp triệu lần. Một người nợ nhà vua hàng ngàn tỷ bạc, vì không có gì trả nên vua đòi phải bán cả gia sản và cả vợ con của y để trả nợ. Thời bấy giờ người ta còn buôn nô lệ, vì thế có vấn đề bán cả vợ con y. Nếu tên này nợ vua nhiều như thế thì không phải là một tên nghèo, cũng không là một người dân thường, gia sản của y cũng khá to có thể bù được món nợ phần nào. Nhưng tên này đã sấp mình xuống lạy lục, vì anh biết số nợ của anh quá to, và anh không có gì để trả.
Chúng ta cũng thế, chúng ta phạm đến Chúa gần như hàng ngày, món nợ của chúng ta như thế nào? Chúng ta có biết được không? Chúng ta không mấy ý thức. Đến lúc ra trước mặt Chúa, chúng ta sẽ thấy nó như thế nào. Vua Đavít sau khi phạm tội đã van nài Chúa như thế nào: “Lạy Chúa, xin lấy lòng nhân hậu thương xót con, mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm… Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm…” Chúa sẵn lòng tha thứ cho chúng ta nếu chúng ta van xin Ngài. Nhưng… với một điều kiện là chúng ta phải tha thứ cho anh em chúng ta.
Dụ ngôn cho chúng ta thấy rằng, nếu chúng ta không tha thứ cho anh em chúng ta như Chúa đã tha thứ cho chúng ta thì đừng mong được tha thứ. Người mắc nợ vua, khi đã được tha món nợ kết xù của mình, gặp một người bạn mắc nợ chỉ vài trăm đồng đã bóp cổ anh, đòi phải trả. Người bạn đã quì xuống lạy anh nhưng anh một mực không tha và đem anh bỏ tù. Thái độ bất bao dung này đã làm cho những người bạn của y bất mãn và buồn. Họ đem trình mọi việc cho vua. Lúc ấy vua đòi tên kia đến và bảo: “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ cho ngươi vì ngươi đã van xin ta, sao ngươi không thương đồng bạn của ngươi như ta đã thương ngươi?” Và vua cho tống ngục tên đầy tớ độc ác kia…
Tha thứ cho anh em là một đòi buộc không thể tránh né, vì chúng ta đã được tha thứ quá nhiều. Những người anh em chúng ta có lỗi phạm thì cũng không đáng giá gì so với món nợ của chúng ta với Chúa. Thế mà Chúa vẫn tha thứ cho chúng ta một cách nhưng không, tại sao chúng ta không sẵn lòng tha thứ cho anh em chúng ta? Tại sao chúng ta không thấy tình yêu của Chúa mà chỉ thấy lỗi phạm của anh em?
Chúa Giêsu dạy chúng ta hằng ngày cầu xin: “Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Chúng ta cầu xin như thế, và chúng ta có thực sự làm như chúng ta xin không? Đừng đọc câu này một cách hời hợt, hãy đọc với tất cả tâm hồn thành thật của chúng ta. Chúng ta là ai mà bắt tội anh em đang lúc Chúa nhân từ vẫn sẵn sàng tha thứ cho chúng ta? Ngay trong Cựu Ước, Giuse, con của Giacob đã tha thứ cho anh em đã bán mình. Giuse không được Chúa dạy như chúng ta, nhưng ông đã biết tha thứ. Chúa Giêsu còn muốn chúng ta đi xa hơn. Ngài dạy chúng ta phải yêu thương kẻ thù, làm ơn cho người làm khổ cho chúng ta. Và chính Chúa đã tha cho những kẻ hành hình đóng đinh Ngài. Như thế không đủ cho chúng ta noi theo hay sao? Chúa còn dạy chúng ta sống hiền lành và khiêm nhượng như Ngài. Hiền lành là luôn biết tha thứ, không tích lũy những sự nhục mạ khinh chê. Khiêm nhượng là chấp nhận tất cả mọi điều sỉ nhục có thể có. Chúng ta noi gương Chúa như thế nào?
Trong nhiều giáo xứ, là cộng đoàn dân Chúa, không thiếu những chuyện hận thù ganh ghét, tranh chấp, gây bất hòa trong cộng đoàn. Trong các hội đoàn cũng thế. Giáo đoàn Côrintô đã gây bao nhiêu khó khăn cho thánh Phaolô và ngài đã nặng lời lên án tất cả những chia rẽ tranh chấp trong cộng đoàn đó. Tha thứ mới có thể hiệp nhất.
Trong gia đình cần phải tha thứ cho nhau nhiều hơn vì cuộc sống chung vẫn có những va chạm nhiều lúc rất trầm trọng. Nhiều gia đình vì không biết tha thứ đã gây nên những đau khổ lâu dài. Cần có can đảm để tha thứ. Và sự tha thứ sẽ mang lại bình an cho tâm hồn.
Thánh Phaolô đã dạy: “Đừng để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn chưa nguôi”. Chúa Giêsu cũng bảo: “Hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ… Anh em đừng lên án thì không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha”… Thánh Phaolô cũng nói: “Đức mến chấp nhận tất cả, chịu đựng tất cả” và như thế có thể hiểu là tha thứ tất cả. Chúng ta cần theo gương của Cha trên trời, Đấng làm cho mặt trời mọc lên cho kẻ lành người dữ… Chúng ta đố kỵ, hiềm khích… làm sao chúng ta tự nhận mình là con của Cha trên trời?
Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy hận thù chia rẽ, chúng ta cũng bị nhiễm lây thói thế gian. Chúng ta cũng hận thù tranh chấp như những người không biết Chúa sao? Vì sao Chúa Giêsu chịu treo trên thập giá? Phải chăng là để quy tụ tất cả nên một, để bôi xóa hận thù? Chúng ta lại trở nên kẻ thù của thập giá như thánh Phaolô nói sao?
Gương lành không thiếu, chỉ thiếu thiện chí và can đảm.
Hôm nay, khi dâng lên Chúa của lễ là cuộc sống chúng ta. Chúng ta hãy dâng với bàn tay thanh sạch, nghĩa là không vương vấn những tị hiềm nhỏ nhen, những tranh chấp, những bất hòa của chúng ta, một lòng một ý để tạ ơn và tôn vinh Chúa, như Chúa Giêsu đã dạy: “Khi đến dâng của lễ trước bàn thờ, nếu ngươi nhớ có mối tỵ hiềm với người anh em, hãy để của lễ ở đó, đi về làm hòa với người anh em đã, rồi đến dâng của lễ”.
Thiên Chúa là Tình Yêu, Ngài chỉ vui nhận của lễ khi chúng ta dâng lên với tâm tình yêu thương thành thật. Chúa Giêsu là của lễ tình yêu độc nhất khi Ngài tự hiến trên thập giá, và nhờ đó chúng ta được tha thứ. Chúng ta cũng phải trở nên của lễ tình yêu như thế nếu chúng ta muốn Chúa thương nhận của lễ chúng ta dâng. Hơn nữa Chúa Giêsu lại chứng tỏ tình yêu của Ngài một cách thiết thực hơn khi trở nên tấm bánh nuôi dưỡng chúng ta. Ăn lấy tấm bánh tình yêu này, chúng ta phải trở nên tình yêu sống động và làm chứng cho tình yêu Chúa trong cuộc sống đầy gian nan của chúng ta. Hãy biến cuộc sống thành tình yêu, đối với Chúa và với anh em, chúng ta mới trở nên con của Cha trên trời và cuộc sống chúng ta sẽ tươi sáng và hạnh phúc hơn.
Thiên Chúa là Đấng tha thứ cho con người mọi tội lỗi, do đó, con người cũng phải biết tha thứ lẫn cho nhau.
Qua câu chuyện của Chúa Giêsu hôm nay, chúng ta thấy được hai thái độ khác nhau của hai chủ nợ. Người chủ nợ thứ nhất tượng trưng cho Thiên Chúa. Còn người đầy tớ mắc nợ mười ngàn nén vàng, tượng trưng cho con người tội lỗi. Mười ngàn vàng là một con số quá lớn, vượt khỏi trí tưởng tượng của người nghe. Ý muốn ám chỉ một món nợ mà con nợ sẽ không bao giờ trả hết. Cam kết trả hết nợ chỉ là một lời hứa liều khi bị dồn vào bước đường cùng, không còn lối thoát nào khác. Biết vậy, nhưng người chủ nợ lại là người nhân ái, đã động lòng thương trước lời van xin của tên đầy tớ. Và người chủ nợ đã một việc hết sức bất ngờ, đó là trả tự do và tha hết nợ cho anh ta trong khi anh ta chỉ dám xin khất nợ mà thôi.
Cũng thế, tội lỗi của con người đối với Thiên Chúa quả thực là một món nợ khổng lồ. Bình thường thì chẳng tài nào xoá đi được. Nhưng Thiên Chúa đã chạnh lòng thương. Ngài đã tha thứ không chỉ bằng một lời phán hết nợ, mà còn bằng cách cho Con Một của Ngài xuống thế làm người, rao giảng Tin Mừng cứu độ và sau cùng đã chịu chết trên thập giá để giải thoát chúng ta.
Nếu như Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta một cách nhưng không, thì bây giờ đến lượt chúng ta, chúng ta cũng có bổn phận phải tha thứ một cách nhưng không cho người khác. Món nợ của con người đối với nhau, quả thật là nhỏ bé, là tầm thường, so với món nợ đối với Thiên Chúa. Một nén vàng là mười ngàn đồng bạc. Như thế, một vạn nén vàng vị chi là một trăm triệu đồng. Một trăm triệu đồng mà đem so với một trăm đồng thì quả là một trời một vực.
Nhưng cách cư xử của tên đầy tớ vừa mới được tha hết nợ đối với bạn hắn thì lại hoàn toàn trái ngược với thái độ của người chủ nợ đối với hắn. Cũng một lời van xin, nhưng hắn không hề nhớ tới điều hắn đã được hưởng. Người mắc nợ hắn đã bị tống giam vào ngục cho đến khi trả nợ xong. Chủ nợ của hắn buộc lòng phải đối xử với hắn như hắn đã đối xử với bạn hắn. Có điều một trăm đồng bạc thì còn có khả năng trả được, chứ mười ngàn nén vàng thì vô phương cứu chữa. Người đầy tớ không phải chỉ là một kẻ vụng tính mà còn là một con người độc ác, không có được một chút tình thương đối với người bạn của mình.
Trong kinh Lạy Cha chúng ta vốn đọc hằng ngày: Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Phải chăng đó chính là lời Chúa mời gọi chúng ta hãy biết sống khoan dung và nhân ái đối với những người chung quanh để rồi chúng ta sẽ được hưởng nhờ lòng khoan dung và nhân ái của Chúa.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt).
Gandhi nói: “Nếu áp dụng luật mắt đền mắt, thế giới sẽ chỉ toàn người mù”. Sẽ không thể sống được nếu thiếu sự tha thứ. Tha thứ cần thiết cho con người như khí trời. Kể dụ ngôn hôm nay, Chúa Giêsu cho ta thấy tính cách cần thiết và cấp thiết của tha thứ.
Phải tha thứ vì con người là bất toàn. Có những xúc phạm cố ý. Nhưng rất nhiều khi xúc phạm chỉ là vô tình, thiếu ý thức. Chỉ cần một chút cảm thông, hiểu biết, tôi sẽ dễ bỏ qua, không chấp nhất. Nếu cứ mỗi lần bị xúc phạm tôi không thể nào nguôi ngoai thì chính tôi là người khổ nhất, vì tâm hồn mang nặng oán hờn sẽ không bao giờ bình an. Nếu tôi loại trừ tất cả những ai xúc phạm, thì sau cùng tôi sẽ chẳng còn sống với ai được. Tôi sẽ mất hết bạn bè. Thế giới sẽ chỉ toàn kẻ thù. Và tôi sẽ trở thành cô đơn.
Phải tha thứ vì chính ta cần được thứ tha. Tôi cần sự tha thứ của chính mình vì bản thân tôi có biết bao lầm lỗi. Nếu tôi không tự tha thứ cho mình thì lương tâm sẽ cắn rứt dày vò khiến tôi suốt đời buồn phiền. Tôi cần sự tha thứ của người khác vì tôi đã xúc phạm nhiều đến anh em. Nếu mọi người không tha thứ cho tôi thì tôi đã bị khai trừ khỏi xã hội. Tôi cần sự tha thứ của Chúa vì tôi đã lỗi phạm đến Chúa rất nhiều. Nếu Chúa thẳng tay trừng phạt những tội xúc phạm đến Người thì tôi đã chết từ lâu. Biết bản thân mình yếu đuối, nhiều lỗi lầm, cần được tha thứ, tôi sẽ dễ cảm thông tha thứ cho anh em.
Phải tha thứ vì đó là điều kiện để được thứ tha. Trong Tin Mừng, Chúa nhấn mạnh điều này rất nhiều lần. Khi dạy ta đọc kinh Lạy Cha, Chúa bắt ta phải hứa tha thứ cho anh em khi xin Người tha thứ lỗi lầm của ta. Ở cuối kinh Lạy Cha, thánh Matthêu còn thêm: “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6,14-15).
Dụ ngôn hôm nay không những nhắc lại điều đó, mà còn cho thấy, tội ta xúc phạm đến Chúa muôn ngàn lần nặng nề hơn anh em xúc phạm đến ta. Thế mà Chúa vẫn sẵn sàng tha thứ cho ta một cách mau chóng, nhẹ nhàng, chỉ với một điều kiện là ta cũng phải tha cho anh em những lỗi lầm ít ỏi anh em xúc phạm đến ta.
Sau cùng ta cần tha thứ để trở nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa là người Cha rất nhân từ và rất hay tha thứ. Chúa Giêsu đã khắc họa rất rõ nét chân dung nhân từ của Thiên Chúa Cha trong dụ ngôn “Người Cha nhân hậu”. Và Người không ngừng mời gọi ta hãy nên hoàn thiện như Chúa Cha.
Chúa Giêsu xuống trần gian cho ta được chiêm ngưỡng khuôn mặt hiền hậu nhân từ hay tha thứ của Chúa Cha. Suốt cuộc đời trần thế, Người không ngừng tha thứ cho kẻ tội lỗi. Nhất là những kẻ đã xúc phạm đến Người. Còn cảnh tượng nào đẹp hơn cảnh tượng Người bị treo trên thập giá mà trái tim vẫn mở rộng yêu thương tha thứ. Còn lời nào đẹp hơn lời Người cầu nguyện trong lúc đau đớn tột cùng mà vẫn nhớ đến người khác, không phải nhớ đến người làm ơn mà là nhớ đến những người xúc phạm, làm hại mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Và khi từ cõi chết sống lại, Người đã tha thứ cho Phêrô dù môn đệ thân tín này đã chối Người. Người đã tha thứ cho các môn đệ dù các ông đã bỏ mặc Người trong lúc gian nan.
Sự tha thứ làm nên vẻ đẹp của tâm hồn con người. Vẻ đẹp tự chế. Vẻ đẹp khoan dung. Vẻ đẹp của tâm hồn vượt lên trên chính mình. Vẻ đẹp đề cao giá trị con người.
Sự tha thứ làm nên vẻ đẹp của thế giới. Một thế giới cảm thông, chan hòa. Một thế giới chứa chan tình huynh đệ. Một thế giới mang vẻ đẹp của dung nhan Thiên Chúa.
Lạy Chúa xin thương xót chúng con.
(Suy niệm của Lm. Gioan Phan Tiến Dũng)
“Thưa Cha, con đã tha thứ cho em của con và bao lần con đã cố gắng để làm hòa, nhưng nó vẫn không chịu, gặp mặt con là nó bỏ con đi chỗ khác, con thực sự rất đau buồn; xin Cha giúp con có cách nào?” Cũng có trường hợp khác “Thưa Cha, con không thể nào mà tha thứ cho người đó được, cho dù người có đi đâu, có chết và hóa ra tro đi nữa con cũng không thể nào tha thứ; mỗi khi nghĩ đến, hay nghe nhắc tới cái tên của người đó là con rất giận, điên tiết lên được; Cha thấy đó, làm sao con có thể tha được đúng không?” Không biết anh chị em đã có lần có rơi vào một trong hai hoàn cảnh đáng thương này không? Nếu có, thì chúng ta đã, đang và sẽ làm gì để được tha thứ, hòa giải với nhau? Nếu được đưa ra lời khuyên hay sáng kiến để hòa giải, chúng ta sẽ phải làm gì? Thật vậy, với tài sức và khả năng hạn hẹp, thật khó và quá nan giải, để có thể tha thứ, làm hòa và ngay cả đưa ra phương cách để giúp đỡ nhau. Tạ ơn Chúa, các bài đọc Lời Chúa hôm nay soi đường dẫn lối cho chúng ta. Miễn là chúng ta biết khiêm tốn, chịu mở lòng, để cho ơn của Thánh Thần tác động và cố gắng thực thi với ơn sức mạnh của Chúa.
Tin mừng theo Thánh Matthêu đưa ra cho chúng ta lời dạy và mẫu gương của Chúa Giêsu trong việc tha thứ. Thật ra, chúng ta không thể nào tha thứ cho anh chị em mình, nếu trước tiên chúng ta không cảm nhận và tin rằng chính bản thân mình đã được yêu thương tha thứ bởi Thiên Chúa là “Ðấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân.” Nếu không có ơn tha thứ của Chúa trong tâm hồn và đời sống, thì cho dù chúng ta có cố gắng nỗ lực cách mấy đi nữa, e rằng với sức của mình may ra chỉ “quá tam ba bận” để mà tha thứ cho anh chị em mình. Khi đưa ra vấn đề cho Chúa về việc tha thứ, Phêrô đã đặt ra một con số mà ông cho và tưởng chừng là quá hoàn hảo, không thể tốt hơn được. “Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần. Có phải đến bảy lần không?” Khi hỏi điều này, có thể Phêrô cho rằng, Chúa sẽ đồng ý và tán dương cách ông làm như vậy. Thế nhưng, câu trả lời của Chúa Giêsu hoàn toàn trái ngược với mong muốn của Phêrô và đã làm cho ý tưởng cao đẹp ông của bị sụp đổ. “Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy.” Thật vậy, con số “bảy mươi lần bảy” mà Chúa Giêsu đưa ra nghĩa là tha thứ không có giới hạn về số lần, tha thứ vô điều kiện. Đây không chỉ là lời dạy hay giáo điều, nhưng chính là căn tính yêu thương khoan dung và tha thứ của Thiên Chúa đang dành cho chúng ta.
Vậy làm sao chúng ta có thể sống tha thứ theo như cách mà Chúa Giêsu đã đưa ra và chỉ dạy? Dụ ngôn giữa ông chủ rất phóng khoáng và giàu lòng nhân nghĩa, hoàn toàn trái ngược với sự ích kỷ, hẹp hòi và bất nhân của tên đầy tớ. Câu chuyện này đang phản ánh chính thực tế về mối tương quan giữa Thiên Chúa và mỗi con người chúng ta. Nếu chúng ta thử làm một phép tính về việc hơn thiệt qua cách đề nghị của Chúa Giêsu: “Cha Ta trên trời cũng xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình”. Thử hỏi trong một ngày, một tháng, một năm, người khác đã xúc phạm, gây lỗi với chúng ta bao nhiêu lần? có nhiều đến mức mà không đếm được không? mình có thể tha thứ không, nếu có thì mấy lần? Trong lúc đó, mỗi ngày trong cả cuộc sống, chúng ta đã không biết bao nhiêu lần phạm lỗi đối với Chúa, con số là vô vàn, không thể đếm được. Như vậy, phần thiệt là chắc chắn 100% là thuộc về chúng ta.
Biết vậy, nghe thì cũng hợp lý, nói thì dễ, nhưng để thực hành thì thật là khó, vì sự hẹp hòi ích kỷ của bản thân và sức hạn hẹp của con người. Thì đây, chính là lúc mà chúng ta cần đến ơn trợ giúp của Thiên Chúa. Vì không phải chính chúng ta, nhưng Thiên Chúa là Đấng tha thứ và ban ơn. Những lúc mà chúng ta không thể sống tha thứ, thì hãy nhớ lời dạy từ Sách Huấn Ca: Dẫu biết rằng với thân phận yếu đuối tội lỗi, chúng ta luôn mang trong bản tính của xác thịt những thói hư nết xấu như thịnh nộ, giận dữ, ghen ghét; tất cả những thứ đó đều ghê tởm và đáng lên án. Ai trong chúng ta cũng biết, và chắc hẳn không ai muốn mình bị coi khinh và bị lên án vì nó. Nhưng làm sao để chúng ta có thể. Cầu nguyện để xin ơn tha thứ là phương cách để giúp cho chúng ta có sức mạnh mà có thể lướt thắng những yếu đuối đó. “Hãy nhớ đến giao ước của Ðấng Tối Cao, và hãy bỏ qua sự lầm lỗi của kẻ khác.”
Đấng đáng kính ĐHY Fx. Nguyễn Văn Thuận khi được hỏi, làm sao Ngài có thể tha thứ cho những người bắt hại, tống giam tù tội, và gây nên cho Ngài bao nhiêu cực hình. Ngài đã trả lời: “Vì Chúa luôn yêu thương và tha thứ cho tôi, chính Chúa và đạo của Chúa dạy tôi phải yêu thương, tha thứ”. Và trên hết sức mạnh để Ngài có thể tha thứ cho mọi người, đó chính là cầu nguyện; “cầu nguyện cho chính mình, cầu nguyện cho những người bách hại, làm khổ mình để họ cũng được Chúa ban ơn mà sống tốt.” Thật vậy, chỉ có ơn Chúa qua sức mạnh của cầu nguyện mới giúp cho chúng ta cảm nhận được tình yêu thương tha thứ của Chúa, để chúng ta mới có thể phần nào sống quảng đại vị tha với anh em mình.
Lạy Chúa, thật là khó, và dường như không thể đối với chúng con khi phải yêu thương tha thứ đến bảy mươi lần bảy. Dẫu biết vậy, nhưng xin hãy luôn ban sức mạnh hầu giúp chúng con luôn vững tin vào tình yêu thương tha thứ của Chúa; xin cho chúng con biết mở rộng tâm hồn để cảm nghiệm được chính ân sủng này. Nhờ đó, chúng con sẽ có một trái tim biết yêu thương quảng đại, để mỗi ngày chúng con sẽ cố gắng và sẵn sàng tha thứ cho anh chị em như chính Chúa yêu thương tha thứ cho chúng con. Amen.
26.Hãy tha thứ vì ta cần được Chúa tha thứ
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bài Tin Mừng hôm nay trình bày câu hỏi nổi tiếng của Phêrô dành cho Thày Giêsu: “Lạy Thày, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần. Có phải đến bẩy lần không?” (Mt 18, 21). Ông hỏi Chúa Giêsu như thế vì ông tự nghĩ rằng: Theo các Thầy dạy luật, các Rabbi, thì những người công chính nên tha thứ cho những người xúc phạm tới mình 3 lần, sự bất quá tam. Đến lần thứ IV thì không buộc phải tha thứ cho họ nữa! Do đó, ông tự nghĩ: Tha cho anh em đến bẩy lần là điều quá sức, quá quảng đại và đã chứng tỏ rằng mình thực thi như thế là anh hùng và đáng Chúa khen ngợi rồi!
Thế nhưng, câu trả lời của Chúa làm cho ông chưng hửng, cảm thấy hổ thẹn khi so sánh đề nghị của ông với sự đòi hỏi của Chúa thì thấy mình còn quá xa sự trọn lành, xa đòi hỏi của Tin Mừng, Chúa trả lời: “Thầy không bảo con phải tha đến bẩy lần, nhưng đến bẩy mươi lần bẩy” (Mt 18, 22)
Để giải thích cho Phêrô tại sao cần phải luôn tha thứ, Đức Giêsu kể lại dụ ngôn những kẻ mắc nợ. Người đầu tiên được ông chủ tha hết nợ mặc dầu anh nợ ông chủ một số tiền lớn. Nhưng chính anh chỉ sau đó ít lâu lại không biết thương xót và tha cho người khác là kẻ chỉ mắc nợ anh một số tiền nhỏ.
Chúa Giêsu tuyên bố: “Cha Ta trên trời sẽ xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình” (Mt 18, 35).
Tha thứ là một hành vi nghiêm chỉnh, nếu có thể thì rất khó đối với con người nhưng không phải không làm được. Tha thứ cho người khác vì lợi ích của chính ta, chính ta được tha thứ, điều ấy sẽ làm ta hạnh phúc hơn. Người ta không thể nói về sự tha thứ cách nông nổi, khi yêu cầu người bị xúc phạm tha thứ cho người đã xúc phạm đến mình. Các tôn giáo đều dạy sự tha thứ. Tha thứ là điều khó khăn nhất nhưng cũng là điều cao cả nhất. Tha thứ để làm cho oán tiêu tan, để phá vỡ cái vòng oan nghiệt trói buộc con người. Đức Phật cũng đã để lại một châm ngôn “Không phải với sự oán giận mà sự oán giận được xoa dịu; với sự không oán giận, sự oán giận mới được xoa dịu”. Tha thứ trong Kitô giáo vượt xa sự không bạo tàn và sự không oán hận. Kitô giáo mời gọi tha thứ vì một lý do khác: “Ngươi này tích lòng giận ghét người kia, mà dám xin Chúa cứu chữa sao? Nó chẳng thương xót người đồng loại với nó, mà còn cầu xin tha thứ tội lỗi nó làm sao?”(Sir 27, ). Tôi phải tha thứ cho anh em tôi vì Chúa đã liên tục tha thứ cho tôi. Ðời tôi là một chuỗi những vấp ngã, được đan kết với bao thứ tha. Ơn tha thứ như dòng suối chảy vào đời tôi, nếu bị ngăn lại, nó sẽ thành ao tù, nó chỉ trong lành khi được chảy đến tha nhân. Tha thứ một cách phi thường và hồn nhiên, đó là thái độ của người thấm nhuần Kitô giáo.
Trong Kinh Lạy Cha, chúng ta cầu nguyện: “Xin tha nợ cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Đức Thánh Cha Phanxicô nói: Đây là một phương trình phải luôn đi đôi với nhau. Nếu bạn không thể tha thứ, thì làm sao Thiên Chúa có thể tha thứ cho bạn? Ngài muốn tha thứ cho bạn, nhưng nếu bạn đóng cửa lòng, thì lòng thương xót không thể bước vào. Có người sẽ hỏi rằng: ‘Thưa cha, con tha thứ nhưng con chẳng thể quên được điều tồi tệ mà người đó làm cho con…’. Đây lại là một vấn đề khác. ‘Hãy khẩn cầu Thiên Chúa để Ngài giúp bạn quên điều đó đi.’ Thật vậy, người ta có thể tha thứ nhưng để quên đi lỗi lầm thì không luôn luôn thành công. Đôi khi chúng ta nói rằng tôi tha thứ cho bạn nhưng thật ra ý tôi là muốn bắt đền bạn; bạn phải trả giá. Tha thứ kiểu này thật sự không được. Hãy tha thứ như Thiên Chúa tha thứ: đó là tha thứ đến tận cùng.
Ước gì mỗi người chúng ta, để đón nhận sự tha thứ của Thiên Chúa. Nhận lãnh sự tha thứ và rồi chúng ta cũng phải tha thứ cho người khác nữa – tha thứ thật lòng. Có lẽ bạn sẽ không bao giờ chào tôi khi gặp nhau trên đường nữa, nhưng tự thâm tâm tôi đã tha thứ cho bạn rồi. Và như thế chúng ta xích lại gần điều vĩ đại của Thiên Chúa, đó chính là lòng thương xót. Khi tha thứ, chúng ta mở tâm hồn ra để lòng thương xót của Thiên Chúa đi vào và tha thứ cho chúng ta, vì tất cả chúng ta đều cần phải khẩn nài sự tha thứ. Tha thứ và rồi chúng ta sẽ được thứ tha. Chúng ta hãy có lòng thương xót người khác, và chúng ta sẽ cảm nhận được lòng thương xót đó nơi Thiên Chúa, là Đấng một khi đã tha thứ thì hoàn toàn quên hết lỗi lầm của chúng ta.
Lạy Thiên Chúa là Đấng Xót Thương và hay tha thứ, xin dạy con bài học nhân ái, độ lượng và thứ tha, để con không giữ lòng hiềm thù, oán hờn và ghen ghét bất cứ ai đã xúc phạm, gây ra đau khổ cho con, xin giúp con luôn tha thứ cho mọi người vô tình hay hữu ý xúc phạm tới con. Amen.
(Suy niệm của Achille Degeest – Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Sau lúc đem ra một số lời giáo huấn về đời sống cộng đồng, Chúa đã nhấn mạnh đến bổn phận tha thứ. Bài Phúc âm tự nó đã rõ ràng. Tuy thế cũng cần phải nói rõ thêm một vài điều. Ta biết rằng danh từ “bảy mươi bảy lần” của Phúc âm có nghĩa là vô cùng. Hơn nữa còn phải đọc thêm dụ ngôn người đầy tớ tàn nhẫn để tìm ra bài học chính yếu mà Chúa Giêsu muốn dạy ta, mà không dừng lại ở các chi thiết của câu chuyện để tìm cho cái chi tiết ấy một ý nghĩa. Bài học chính yếu để sự tha thứ của loài người liên quan với sự tha thứ của Thiên Chúa. Các chi tiết của câu chuyện tả lại cho chúng ta một khía cạnh của triều đình Đông phương vào thời Chúa Kitô, nhất là những gì liên quan đến quyền tùy nghi quyết định của nhà vua trên thường dân. Chúa Giêsu đi từ một sự thực có sẵn trong óc của mọi người để xây dựng câu chuyện và rút ra một bài học: Chúa Cha ở trên trời sẽ hành động giống như ta suy nghĩ và hành động với các anh chị em khác. Lúc suy nghĩ về sự tha thứ Phúc âm, ta thấy Thiên Chúa có tham vọng nâng chúng ta lên ngang hàng với sự cao cả riêng Ngài. Sau đây là một vài điểm dùng làm mốc để suy nghĩ.
1) Không nên giam hãm một ai trong sự xúc phạm đã qua. Khi chúng ta phải tha thứ, thì thường là liên quan đến một sự xúc phạm nằm trong quá khứ. Nhưng kẻ xúc phạm, tác giả của sự xúc phạm, đang sống trong hiện tại. Con người ấy trong giây phút hiện tại không cùng là một con người như lúc xúc phạm nữa. Do đó chúng ta phải nhìn người ấy một cách khác. Tha thứ là chấp nhận kẻ khác như họ đang sống bay giờ, chứ không phải là xua đuổi họ, như họ đã đối xử trong quá khứ.
2) Người ta sẽ bảo rằng: nếu kẻ ấy lại quay làm thiệt hại ta như trước, nếu kẻ ấy tái phạm ta phải đối xử như thế nào? Phúc âm trả lời: vẫn tha thứ. Điều này không có nghĩa là ta khỏi phải đề phòng. Tuy nhiên Phúc âm cấm ta không được làm hại họ, hơn nữa lòng ta còn phải đi xa tới chỗ lấy ân đền oán. Có lẽ sẽ bảo là muốn làm được như thế phải có chí anh hùng. Thiên Chúa đã hành động với chúng ta như thế nào? Chúng ta là những người có tội hay sa đi ngã lại mà Thiên Chúa vẫn luôn luôn tha thứ khi có dấu hiệu mảy may là chúng ta hối cải. Thiên Chúa không ngớt mong muốn điều lành cho chúng ta.
3) Người ta thường nói: tha thứ thì được mà bỏ quên thì không. Sự tha thứ mới là đối tượng của giới răn chứ đâu phải là sự bỏ quên. Bỏ quên lỗi của kẻ khác nằm ngoài quyền hạn của ý chí và phải chăng đó là điều đáng mong ước? Khi chúng ta nhớ lại một ân huệ đã lãnh nhận, chúng ta có thể lợi dụng đó để khơi dậy lòng biết ơn và đó là điều rất tốt. Khi nhớ lại một sự thiệt thòi đã chịu, chúng ta lợi dụng đó để tha thứ một lần nữa và làm cho sự tha thứ càng lớn mạnh. Trong cả hai trường hợp trí nhớ có thể giúp chúng ta làm điều thiện. Khả năng nhớ lại đặt chúng ta gần với tư tưởng của Chúa vì Người thu gọn tất cả quá khứ của thế giới trong cái hiện tại vĩnh viễn nhưng là để yêu mến.
4) Sự tha thứ mà Phúc âm đề xướng là một món quà cho không, ngay cả với những người không xứng đáng. Điều này cũng có nghĩa là phải cầu nguyện, để kêu cầu ơn Chúa là sức mạnh phi thường và linh thiêng khiến lòng người có khả năng lướt thắng chính mình, đến nỗi thực hiện được những công việc quá sức loài người.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Liền sau Thế chiến thứ hai chấm dứt, bà Corrie-Ten-Boom, với những vết thẹo trên thân thể, tàn tích của những khổ hình mà bà phải chịu trong trại tập trung Đức Quốc Xã, đã dấn thân đi khắp các nước Âu Châu để rao giảng sự tha thứ cho những kẻ đã làm hại mình. Bà rao giảng sứ điệp tha thứ với niềm xác tín là chính mình đã thực sự tha thứ cho tất cả những ai đã hành khổ bà trong trại tập trung.
Nhưng vào trong một ngày Chúa Nhật kia, sau khi đã kêu gọi mọi người tha thứ cho nhau trong nhà thờ của thành phố Munich, ở Đức, bước ra ngoài, bà Corrie-Ten-Boom bất ngờ đối diện với một gương mặt quen thuộc, đó là dung mạo của người lính đã hành khổ bà và hàng ngàn nữ tù nhân khác trong trại tập trung Đức Quốc Xã. Những tiếng than khóc, những cảnh tra tấn phút chốc xuất hiện trong tâm trí bà. Những tiếng kêu trả thù nổi dậy mạnh mẽ trong tâm trí bà. Người đàn ông tiến lại gần khiêm tốn đưa tay ra vừa muốn bắt lấy tay bà vừa nói: “Thưa bà, tốt rất cảm ơn những lời đẹp đẽ bà đã kêu gọi cho sự tha thứ, xin bà tha thứ cho tôi”.
Lúc đó, bà Corrie-Ten-Boom như chết điếng người, vì trước đây nhiều lần bà đã cầu nguyện và đã nhất quyết với Chúa là đã tha thứ thật sự cho kẻ hành khổ mình, nhưng giờ đây phải đối diện với một người cụ thể đã từng tra tấn mình, bà Corrie-Ten-Boom đứng lặng im, hai bàn tay không thể nào đưa ra bắt lấy đôi tay của người đến xin bà tha thứ.
Sau này, vào năm 1971, khi kể lại biến cố trong tập sách có tựa đề: “Nơi ẩn trốn”, bà Corrie-Ten-Boom đã cho biết như sau: “Trong giây phút thinh lặng đó, tôi đã cố gắng dâng lên Chúa một lời cầu nguyện thầm: “Lạy Chúa, Chúa thấy con chưa thể tha thứ cho người đã hành khổ con. Xin Chúa hãy ban cho con những tâm tình của Chúa để con có thể tha thứ như Chúa”. Và chính trong lúc đó, bà đã hiểu là con người chỉ có thể tha thứ cho nhau khi nhìn nhận tình thương yêu và sự tha thứ của Thiên Chúa.
Anh chị em thân mến,
* Tại sao phải tha thứ cho nhau?
Không phải chỉ bây giờ chúng ta mới đặt ra câu hỏi này. Khi Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng của tình thương và sự tha thứ, thì các môn đệ cũng đã đặt ra câu hỏi tương tự như vậy.
* Tại sao phải tha thứ và tha thứ bao nhiêu lần?
Dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay đã trả lời cho câu hỏi chúng ta vừa đặt ra: Tại sao phải tha thứ và phải tha thứ bao nhiêu lần? – Chúng ta phải tha thứ cho nhau, vì Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta. Chúng ta cần tha thứ luôn luôn cho anh em, vì Thiên Chúa luôn luôn tha thứ cho chúng ta.
Như thế, tha thứ là sống noi gương Thiên Chúa Cha, Đấng đầy lòng nhân từ và giàu lòng thương xót. Tình thương tha thứ là một phát minh tuyệt vời của Thiên Chúa để giúp con người sống hiệp thông với Ngài và hiệp thông với nhau, để xây dựng tốt đẹp cộng đoàn xã hội.
Nếu như từ đầu, khi con người phạm tội xa cách Ngài mà Thiên Chúa đã không có biện pháp tha thứ, thì chắc chắn sẽ không có tương lai gì tốt đẹp cho con người, nhưng kể từ giây phút có sáng kiến thực hiện chương trình tha thứ cho con người, thì từ giây phút đó nhân loại có thể hy vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn, nếu nhân loại biết vâng phục lắng nghe lời dạy của Ngài mà tha thứ cho nhau.
Vậy mỗi lần ta tha thứ cho anh chị em là mỗi lần ta để tâm hồn mình hòa điệu với Thiên Chúa, Đấng giàu lòng nhân từ và hay tha thứ. Mỗi lần ta tha thứ cho anh chị em là mỗi lần ta thoát ra khỏi cảnh nô lệ cho những giới hạn ích kỷ của con tim mình, để hòa mình với những tâm tình yêu thương tha thứ vô biên của Thiên Chúa.
Trong câu chuyện dụ ngôn, Chúa cho thấy món nợ của con người với Chúa thật to lớn, đời đời không trả được. Nhưng Chúa là tình yêu, Ngài sẵn sàng tha thứ tất cả. Còn món nợ giữa con người với tha nhân tương đối nhỏ, có thể hoàn trả được, thế nhưng con người không biết chờ đợi, không biết yêu, nên không tha thứ cho nhau được.
Con người không biết tha thứ cho anh em, đối xử với anh em tàn tệ là tự chuốc lấy cho mình cơn thịnh nộ của Thiên Chúa: “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì người đã van xin ta; con ngươi, sao không chịu thương hại bạn ngươi như ta đã thương hại ngươi?”và Chúa kết luận: “Vậy Cha Ta trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu anh em không hết lòng tha thứ cho nhau”. Như thế, từ chối tha thứ cho anh em là ngăn chặn ơn tha thứ đang dào dạt tuôn chảy vào tâm hồn mình vậy. “Vì chính khi thứ tha là khi chúng ta được Thiên Chúa tha thứ”.
Thưa anh chị em,
Trong đời sống thực tế, muốn biết thật lòng tha thứ thì hãy biết quên đi những lỗi lầm của anh em. Đừng nhắc đi nhắc lại, đừng nhớ dai, đừng tích chứa trong lòng. Chuyện ngày xửa ngày xưa, ba bốn đời… khi vui, thuận vợ thuận chồng, thì không nói, khi không bằng lòng nhau thì lôi chuyện cũ xào nấu lại làm cho nhau đau khổ. Còn Chúa, đã tha thứ thì Ngài tha luôn, vì “nếu Chúa tôi nhớ hoài tội lỗi, nào có ai đứng vững được chăng?” (Tv 129).
Chúng ta hãy cầu nguyện như Bà Corrie-Ten-Boom khi thấy mình không thể tha thứ được: “Lạy Chúa, Chúa thấy con chưa thể tha thứ được cho anh em con. Xin Chúa hãy ban cho con những tâm tình của Chúa để con có thể tha thứ như Chúa”. Amen.
29.Chính khi thứ tha là khi được tha thứ
(Suy niệm của Anmai)
Trang Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe tiếp liền với ý nghĩa của trang tin mừng Chúa nhật 23 thường niên tuần trước. Tuần trước, Chúa Giêsu mời gọi mỗi người chúng ta một cách hết sức tế nhị khi sửa lỗi với anh chị em đồng loại. Hôm nay, Chúa mời gọi mỗi người chúng ta tha thứ cho anh chị em đồng loại nếu như anh chị em đồng loại xúc phạm đến chúng ta.
Thánh Phêrô vốn dĩ là một con người mang trong mình dòng máu nóng, tính bộc trực nên vừa khi nghe nói vấn đề gì đó Ngài không chịu suy xét, Ngài không trầm lắng đủ để giải quyết vấn đề. Ruột của Ngài thẳng như ruột ngựa vậy, bụng nghĩ sao là nói vậy ngay chứ không hề suy tính thiệt hơn. Nói về việc anh em đồng loại xúc phạm đến mình, Ngài rất hào phóng, rất rộng rãi. Tha một lần đã là quá đáng lắm rồi, theo như cách suy nghĩ của nhiều người. Ngài hào phóng, Ngài nói với Chúa Giêsu là Ngài tha bảy lần tưởng chừng là được Thầy Giêsu khen nhưng đáng tiếc Thầy Giêsu đã nói với Ngài không phải là tha bảy lần nhưng lại là bảy mươi lần bảy. Bảy mươi bảy lần: có bản ghi là 77 lần 7, trong câu trả lời này, Chúa Giêsu đã đưa vào bài ca báo thù của Lamek nơi sách sáng thế 4,24 “Cain được báo thù gấp 7, nhưng Lamek tới 70 lần 7”. Nhưng thay vì nói báo thù thì Chúa Giêsu lại nói tha thứ. Cả hai cách nói đều có ý nói số lần là vô hạn vì thế ở đây Chúa dạy là phải tha thứ luôn.
Luật xưa dạy người ta mắt đền mắt răng đền răng nhưng Chúa Giêsu đến Chúa Giêsu đã sửa luật cũ đó. Sự tha thứ cho đồng loại để được Chúa nghe lời cầu xin được đề cao. Chúng ta được sinh ra và sống thời Tân Ước – thời của Chúa Giêsu – khác với những gì Cựu Ước đã dạy nhưng lòng chúng ta cứ xử với anh chị em đồng loại như thời Cựu Ước vậy. Chúng ta vẫn mang trong mình cái máu đòi nợ máu của anh chị em đồng loại khi anh chị em đồng loại xúc phạm đến chúng ta.
Một câu chuyện có thật, nó mang đầy tính nhân đạo, đầy tình người trong phòng xử án của Tòa Án Nhân Dân Thành phố HCM: Người đàn ông khoảng hơn 70 tuổi, mái tóc bạc trắng, lững thững bước lại chiếc bàn dành cho đại diện hợp pháp của người bị hại. Đưa ánh mắt đau xót, khắc khoải nhìn bị cáo đang cúi gằm mặt trước vành móng ngựa một hồi lâu, rồi ông cất giọng chậm rãi: “Ngày con tôi chết, tôi bồng con trên tay, điếng người”. Cả phòng xử im lặng lắng nghe. Không gian như ngưng đọng. Tôi có cảm giác phạm nhân đang gồng mình chờ đợi, một cách cam chịu, những lời lẽ trách cứ đầy oán giận từ người nhà nạn nhân. Hít một hơi thở thật sâu, cha của nạn nhân khó nhọc nói tiếp: “Hôm nay tôi đến đây để xin tha tội chết cho kẻ đã giết con tôi. Tôi không muốn có thêm một người cha, người mẹ phải đau khổ khi chứng kiến cái chết của con mình”. Nhiều tiếng thì thầm từ phía bạn bè, người thân của phạm nhân. Họ đang hy vọng.
Cách nay không lâu, Tòa Án Nhân Dân Thành phố HCM đã đưa vụ án giết người của kẻ thủ ác ra xét xử sơ thẩm. Lần ấy, Phạm nhân bị tuyên án tử hình. Mẹ phạm nhâà nội ngất lịm, tưởng như có thể chết cùng đứa con trai duy nhất. Bạn bè phạm nhân khóc vì thương người bạn hiền lành, tốt bụng, tài năng. Còn 15 ngày kháng cáo, họ chạy ngược xuôi mong tìm kiếm những tình tiết có thể xin giảm nhẹ hình phạt cho phạm nhân. Bản thân phạm nhân, nghĩ đến ngày phải vĩnh viễn ra đi khi nhiều mơ ước vẫn chưa thực hiện bỗng thấy yêu da diết cuộc sống. Phạm nhân làm đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Đứng trước Tòa Phúc thẩm Tối cao, phạm nhân không nói gì nhiều để biện minh cho hành vi tàn nhẫn của mình. Lời nói sau cùng, phạm nhân xin lỗi gia đình nạn nhân, cám ơn những người đã vì phạm nhân mà chịu nhiều đau khổ, vất vả. Trong trường hợp không được khoan hồng, phạm nhân xin hiến toàn bộ nội tạng cho ngành y và bộ xương cho Trường Đại Học Mỹ thuật Thành phố HCM. Nghe phạm nhân nói, nhiều người bạn của phạm nhân đã bật khóc. Cuối cùng, phạm nhân đã trở về con người thật của mình. Yêu nghề, yêu trường và sống vì người khác.
Tâm sự với tôi, cha của nạn nhân nói: “Vì tình thương yêu đối với con, tôi không bao giờ tha thứ cho kẻ đã giết con gái mình. Con tôi chết, bao nhiêu tiền bồi thường cũng không thể trả lại mạng sống cho nó, huống chi số tiền gia đình phạm nhân đưa không đủ để tôi nuôi con tôi học trong một năm. Nhưng một lần nói chuyện với mẹ phạm nhân qua điện thoại, bà ấy nói: “Không có người mẹ nào có thể chịu được hình ảnh người ta cột con mình vào một cái cây để bắn. Như thế, thà tôi chết trước còn hơn”. Vậy là tôi quyết định, dù điều đó thật không dễ với tình cảm của tôi cùng sự phản đối quyết liệt của gia đình”. Để có thể dự phiên tòa hôm nay, từ 3 giờ sáng, ông phải một mình đi xe máy từ miền quê nghèo miền sông nước lên Thành phố HCM. Tôi bảo, ông có thể viết một lá đơn xin miễn tội chết cho phạm nhân đến tòa vẫn được. Ông lắc đầu: “Giúp người phải giúp cho trót. Tôi phải lên đây nói cho rõ, may ra Hội đồng Xét xử mới tin mà xem xét cho nó. Mong là nó biết hối lỗi, biết thương mẹ mà sống có ích”.
Cuối cùng, Hội đồng Xét xử cũng chấp nhận kháng cáo của phạm nhân, tuyên phạt án chung thân. Phạm nhân sẽ tiếp tục được sống để sửa chữa sai lầm và để có cơ hội cống hiến tài năng của mình cho nghệ thuật. Nghe xong bản án, cha của nạn nhân vội vã ra bãi gửi xe. Trước mắt ông là quãng đường về nhà dài dằng dặc cùng nỗi đau mất con không dễ nguôi ngoai dù thời gian có trôi qua…
Câu chuyện thật giữa đời thường và hết sức thường này gợi lên cho chúng ta về lòng bao dung, về tình người, về lòng nhân đạo, về sự tha thứ… Người cha trong câu chuyện này ắt hẳn là người không phải là người Công giáo nhưng ông mang trong mình tâm tư của người Công giáo và ông đã sống theo lời Chúa Giêsu dạy dù ông không biết Chúa Giêsu là ai. Người cha trong câu chuyện này đã sống tột đỉnh của lòng bao dung của sự tha thứ. Ông cũng không ngại bộc bạch rằng sự tha thứ ấy không dễ chút nào với tình cảm của ông cũng như sự phản đối quyết liệt của gia đình về quyết định tha thứ của ông. Sự tha thứ của ông tưởng chừng như đơn giản nhưng thử hỏi mỗi người chúng ta khi đứng vào vị thế của ông, chúng ta dẫu là người Công giáo, thấm nhuần lời giáo huấà nội của Chúa chúng ta có can đảm tha thứ cho kẻ đã giết đứa con thân yêu của chúng ta không? Hay là chúng ta đòi người khác phải đền nợ máu cho chúng ta, người khác phải trả cho chúng ta đến đồng xu cuối cùng.
Trở lại với trang tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu phải nói là người có biệt tài về dùng ví dụ cũng như phóng đại tính chất nghiêm trọng trong ví dụ của mình. Dừng lại một chút chúng ta sẽ thấy khập khiễng làm sao ấy giữa hai món nợ. Một bên thì nợ vua mười ngàn nén vàng, một bên thì người bạn nợ một trăm quan tiền. So sánh giá trị giữa một trăm quan tiền và mười ngàn nén vàng chúng ta thấy một khoảng cách xa vời vợi. Điều này Chúa Giêsu muốn nói rõ cho mỗi người chúng ta là chúng ta nợ Chúa quá nhiều và Chúa tha cho chúng ta còn anh chị em chúng ta nợ chúng ta quá ít mà chúng ta lại đòi anh em chị chúng ta trả cho bằng hết như trong ví dụ của Chúa Giêsu.
Đừng nói gì đến lòng mến, lòng bác ái. Chỉ cần nói đến sự công bằng thôi thì chúng ta thấy chúng ta sống quá ư là bất công. Bất công không chỉ với Chúa mà con bất công với anh chị em đồng loại. Kinh Lạy Cha chúng ta vẫn thường râm ran: Xin tha cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Miệng thì đọc thế nhưng lòng có thật sự tha hay không? Hay là miệng thì đọc nhưng lòng cứ muốn đòi nợ máu anh chị em đồng loại của mình.
Lời Chúa trong thư Thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Rôma chúng ta vừa nghe nhắc nhớ mỗi người chúng ta: không ai trong chúng ta được sống cho mình… chúng ta có sống là sống cho Chúa, chết là chết cho Chúa… Dù sống dù chết chúng ta thuộc về Chúa vì chưng Chúa đã sống, đã chết là để làm chúa kẻ sống và người chết. Chúa là Chúa của mỗi người chúng ta vậy mà nhiều lúc chúng ta tước đoạt quyền làm Chúa trên cuộc đời chúng ta. Tước đoạt quyền làm chúa của Chúa là chuyện hết sức là bi hài. Chỉ có Chúa mới làm chúa, làm chủ cuộc đời mỗi người chúng ta vậy mà chúng ta muốn làm chúa, làm chủ cuộc đời người khác và bắt người khác phải làm tôi, phải trả nợ cho chúng ta.
Nếu đọc thêm một câu của đoạn thư Thánh Phaolô gửi cho tín hữu Rôma nữa chúng ta sẽ thấy Ngài nói: “Còn ngươi, tại sao ngươi xét đoán anh em ngươi? – Hay ngươi, tại sao ngươi khinh anh em ngươi? Vì ta hết thảy sẽ ra trước tòa Thiên Chúa”. (Rm 14,10). Chúng ta thường mang cái bệnh xét đoán anh em, kết án anh em và ra hình phạt với anh em. Và thường hơn nữa trong cuộc sống thường nhật chúng ta hay mang trong mình chứng bệnh khinh thường anh chị em đồng loại khi họ nghèo hơn chúng ta, khi họ khổ hơn chúng ta, khi họ bất hạnh hơn chúng ta, khi họ yếu đuối hơn chúng ta, khi họ vấp phạm điều gì đó mà cộng đoàn đều biết. Thế nhưng Thánh Phaolô nhắc chúng ta rằng: hết thảy chúng ta sẽ ra trước toà Thiên Chúa. Khi và chỉ khi ra trước toà Thiên Chúa thì khuôn mặt thật của chúng ta, tấm lòng thật của chúng ta sẽ phải bị phanh phui ra trước mặt Chúa thôi. Hiện giờ thì chúng ta còn lấp liếm, còn giấu những sự ác, những sự gian tà, những hận thù, ghen ghét anh chị em đồng loại nhưng khi ra trước toà Chúa chúng ta không thể nào giấu được.
Vậy, phải chăng qua trang tin mừng ngắn ngủi, qua ví dụ nhỏ nhoi nhưng đầy ý nghĩa của Chúa Giêsu hôm nay chúng ta liệu liệu mà tha thứ cho những người mắc nợ chúng ta có một trăm quan tiền để hầu mong Chúa Giêsu tha cho chúng ta là những con nợ đang mắc nợ Chúa với số nợ quá lớn là cả ngàn nén vàng. Chúng ta muốn Chúa tha thứ cho chúng ta thì điều kiện cần, điều kiện trước hết là chúng ta phải biết tha thứ cho anh chị em đồng loại. Nếu chúng ta bắt đền, đòi nợ anh chị em đồng loại thì nào Chúa lại tha cho chúng ta. Chúng ta cứ ngẫm nghĩ thử xem có phải là chính lúc chúng ta thứ tha là lúc mà chúng ta được tha thứ hay không?
Nguyện xin Chúa Giêsu là Đấng giàu lòng bao dung, chậm bất bình và giàu ân sủng thương xót và tha thứ cho chúng ta những món nợ mà chúng ta nợ Chúa cũng như nợ anh chị em đồng loại. Nguyện xin Chúa Giêsu mở lòng mỗi người chúng ta để chúng ta cũng biết tha thứ cho anh chị em đồng loại để hầu mong Chúa cũng dễ dàng tha thứ những món nợ mà chúng ta nợ Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
Chúa nhật 23 thường niên, Chúa Giêsu dạy: Hãy đi sửa lỗi cho nhau. Chúa nhật tuần này, Chúa nhật 24 thường niên Chúa dạy Hãy tha thứ cho nhau. Nếu việc sửa lỗi là một khía cạnh, một khuôn mặt của tình yêu, thì tha thứ những lỗi lầm của nhau lại là một khuôn mặt khác của tình yêu. Tình yêu tha thứ theo Chúa Kitô, phải là một tình yêu không giới hạn. Thánh Phêrô, trong câu hỏi của mình, đã vô tình để lộ ra cái ý muốn giới hạn tình yêu của mình. Ngài đưa ra con số 7 mà hỏi Chúa: “Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần, có phải đến bảy lần không?” Có lẽ thánh Phêrô nghĩ rằng mình đã tha thứ đến 7 lần như vậy, đã là nhiều lắm rồi, đã là không thể tưởng rồi. Nhưng thánh Phêro lầm. Đối với Thiên Chúa, đối với Chúa Kitô, giới hạn của tình yêu là yêu không giới hạn.
Câu trả lời của thánh Phêrô: “Thầy không bảo các con hãy tha 7 lần, nhưng 70 lần 7”, trở thành điểm qui chiếu cho tình yêu tha thứ của chúng ta. Tha thứ đến 70 lần 7 nghĩa là tha thứ không giới hạn, tha thứ vô cùng, tha không tính toán, không đếm bằng những con số. Vì khi đếm là đã giới hạn lòng yêu thương của mình.
Trong cuộc sống đời thường, chắc ai cũng từng nghe những kiểu nói: Nó với tôi không đội chung trời, hoặc sống để bụng, chết đem theo, có khi những kiểu nói đó còn xuất hiện trên chính môi miệng của mình. Là người Công giáo, bạn và tôi đã có ai ý thức những kiểu nói đó đi ngược Tin Mừng, đi ngược Lời Chúa dạy không?
Thầy không bảo các con hãy tha 7 lần, nhưng 70 lần 7. Hãy nghe Lời Chúa dạy để đừng đặt giới hạn của lòng tha thứ, mà hãy tha thứ không giới hạn. Có những chuyện ta tưởng chừng rất nhỏ nhặt trong cuộc sống, lại sinh ra oán thù lớn. Ví dụ: hai đứa bé đánh nhau, thì vì chỉ bảo chúng, hai người hàng xóm, vì bênh vực con, lại mắn chửi nhau, rồi không thèm nhìn nhau.
Có khi chỉ là một câu nói lỡ lời, chạm tự ái, dẫn đến chuyện trách móc, phàn nàn nhau. Tệ hại hơn, không thể tha thứ cho nhau, nên dẫn tới chỗ hạ nhục nhau, chửi bới hoặc tìm cách trả thù nhau, chí ít thì cũng nói xấu nhau. Những điều đó đã là xấu đối với những người không có quan hệ họ hàng. Vậy mà những điều xấu đó lắm lúc lại xảy ra trong dòng tộc, trong gia đình: vợ chồng, cha mẹ, anh chị em. Những người thân của nhau mà còn không thể tha thứ cho nhau, thì huống hồ là người dưng.
Hàng ngày chúng ta đọc kinh Lạy Cha. Ngay trong từng thánh lễ, bạn và tôi cũng sẽ đọc kinh Lạy Cha: Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha cho những người có nợ chúng con. Hãy ý thức hơn nữa mỗi lần đọc kinh Lạy Cha, để lời cầu nguyện ấy trở nên sự thật trong cuộc đời mình. Hãy nhớ rằng, Cha tha nợ cho ta khi ta hết lòng tha cho anh em mình. Bởi thế mỗi lần đọc kinh Lạy Cha, ta xin Chúa ban cho ta và cho từng người khả năng tha thứ. Tha thứ không phải bảy lần, nhưng là bảy mươi lần bảy. Nghĩa là tha thứ liên tục, tha thứ không giới hạn.
31.Vì sao phải quảng đại tha thứ?
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Tha thứ là một chủ đề không có gì mới lạ. Đã là con người thì phải biết tha thứ. Đây là một trong những đức luân lý nhân bản. Và tôn giáo nào cũng dạy con người sống phải biết đại lượng, khoan dung, tha thứ cho người lỗi phạm đến mình. Sự oán ghét, hận thù thỉnh thoảng có mặc chiếc áo của sự công bình làm con người thấy hả hê khi kẻ có tội phải bị đền nợ nhưng rồi chẳng thể thực sự “có hậu” như Phật pháp nhận định: lấy oán trả oán thì oán oán chồng chất. Vấn đề đặt ra là vì sao chúng ta phải quảng đại tha thứ cho nhau và cần phải tha thứ liên lĩ như Chúa Giêsu khẳng định với Phêrô là đến bảy mươi lần bảy?
Phụng vụ Lời Chúa ngày Chúa Nhật XXIV TN A, đặc biệt bài trích Sách Huấn ca và bài trích Tin Mừng thánh Matthêu đã nêu rõ nguyên nhân khiến chúng ta phải tha thứ cho nhau cách quảng đại và liên lĩ đó là vì chúng ta cũng là kẻ có tội và đã được Thiên Chúa tha thứ cách liên lĩ và quảng đại. Đồng thời việc tha thứ cho nhau còn là điều kiện như tất yếu để nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa.
Chúng ta đều là kẻ có tội. Đã là người ít có ai dám to gan khẳng định mình vẹn sạch, không vương bẩn tội nhơ. Cha ông chúng ta cảm nghiệm rằng: Đa thọ đa nhục, đa phú đa ưu. Cũng như càng giàu có thì càng thêm nhiều mối lo thì càng thêm tuổi thì tội lỗi càng chất chồng. Mọi thứ tội mà chúng ta phạm đến Thiên Chúa đều to lớn và nặng nề như món nợ không bao giờ có thể trả được. Mười ngàn nén vàng mà anh đầy tớ mắc nợ nhà vua theo câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể là một minh họa. Mức độ nặng nhẹ của tội mà chúng ta phạm không nguyên chỉ căn cứ vào loại tội gì mà còn căn cứ vào người mà chúng ta xúc phạm. Mọi tội lỗi của chúng ta đều xúc phạm đến chính Thiên Chúa, vì chúng ta đã cố tình đi ngược với đường lối Người chỉ dạy, làm trái với giới răn Người ban truyền. Thiên Chúa là Đấng Tạo Thành đã dựng nên muôn vật muôn loài và dựng nên chúng ta từ hư vô. Người còn là Người cha chí ái đã yêu thương chúng ta đến nỗi đã ban chính Con Một cho chúng ta. Chính vì thê phải khẳng định rằng bất cứ thứ loại tội nào dù lớn hay bé, dù mặt này hay khía cạnh kia, khi đã xúc phạm đến Đấng Toàn Năng và Toàn Thiện thì đều đáng “tru di cửu tộc”.
Một thực tế không thể chối cãi đó là Thiên Chúa đã bày tỏ tình yêu, lòng khoan dung nhân hậu với chúng ta không bút nào tả xiết. Người đã yêu thương nhân loại chúng ta đến nỗi trao ban chính Người Con Một để chúng ta được thứ tha, được hòa giải với Người và dĩ nhiên là để cho chúng ta được hưởng gia tài là hạnh phúc vĩnh cửu. Thánh Gioan Tông đồ quả quyết chính Thiên Chúa đã đi bước trước trong việc yêu thương chúng ta. Thánh Phaolô, vị Tông đồ dân ngoại cũng đã khẳng định rằng Chúa Kitô đã chết vì chúng ta ngay khi chúng ta còn là kẻ phản nghịch. Anh đầy tớ mắc món nợ kếch xù trong câu chuyện dụ ngôn, không xin tha mà chỉ xin cho khất nợ một kỳ hạn, thì đức vua lại chạnh lòng thương cho y về và xí xóa luôn cả món nợ kếch xù ấy. Lòng xót thương tha thứ của Thiên Chúa là thế đó. Đức Bênêđictô XVI trong Thông Điệp đầu triều đại Giáo hoàng của Ngài, Thông điệp “Thiên Chúa Là Tình Yêu” đã nhận định: Tình yêu của Thiên Chúa như chống lại sự công minh của Người (số 10).
Một định luật tất yếu: Nước trên nguồn tuôn đổ dạt dào thì nó cần phải được chảy xuôi về hạ lưu. Đã đón nhận tình yêu tha thứ cách dồi dào và nhưng không, thì chúng ta phải biết yêu thương tha thứ cho nhau cách quảng đại và liên lĩ. Tuy nhiên một thực tế dường như không thể chối, đó là dòng suối ân tình tha thứ đã từng bị chặn đứng bởi tấm lòng hẹp hòi, nhỏ nhen của chúng ta trước lầm lỗi của tha nhân. Cần xác định rằng mọi lỗi lầm mà tha nhân phạm đến chúng ta đều chỉ là món nợ lẻ, không đáng kể. Chúng ta cũng chỉ là thọ tạo như tha nhân không hơn không kém. Chúng ta đồng thời cũng là những tội nhân đầy hạn chế và bất toàn. Chính vì thế những lỗi lầm mà tha nhân xúc phạm đến chúng dù mức nào đi nữa thì chẳng đáng là bao. Thế mà như người đầy tớ vừa được tha một món nợ kếch xù trong chuyện dụ ngôn, chúng ta nhiều khi lại kim gút lỗi lầm của tha nhân đến độ có hành vi nhẫn tâm và tàn ác dường như không thể tưởng.
Một định luật tất yếu thứ hai: Khi dòng chảy bị chặn thì nguồn nước sẽ trào lênh láng ra ngoài. Dù Thiên Chúa đã ban ơn tha thứ nhưng chúng ta sẽ không nhận được hồng ân ấy, nếu chúng ta khép lòng từ tâm của mình trước tha nhân. Xin cùng nhau ngẫm nghĩ Lời chúa trong Sách Huấn ca: “Người với người cứ nuôi lòng hờn giận, thế mà lại xin Đức Chúa chữa lành! Nó chẳng biết thương người đồng loại, mà lại dám xin tha tội cho mình! Nó chỉ là người phàm mà để tâm thù hận, thì ai sẽ xin tha tội cho nó?”(Hc 28,3-5). Chúa Giêsu kết thúc câu chuyện dụ ngôn bằng những lời sau: “Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế (tôn chủ nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày y trả hết nợ cho ông), nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình” (Mt 18,35). Trước đó, khi dạy các môn đệ cầu nguyện với Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu cũng đã khẳng định điều tương tự: “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 14-15).
Là Kitô hữu Công giáo, chúng ta đã từng nhiều lần đến tòa cáo giải. Căn cứ vào lời khẳng định của Chúa Giêsu thì vẫn có đó nhiều người dù đã xưng thú tội lỗi, đã nhận được lời xá giải: “Cha tha tội cho con…” , nhưng tội họ vẫn còn đó, nghĩa là chưa nhận được hồng ân tha thứ của Thiên Chúa, tất thảy chỉ vì họ chưa thực lòng tha thứ cho tha nhân, những người đã lỗi phạm đến họ.
THIÊN CHÚA LÀ VỊ THẨM PHÁN TỐT NHẤT CỦA CHÚNG TA.
(Suy niệm của Charles E. Miller – Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
Hãy tưởng tượng ra ngày ấy, cái ngày mà các bạn phải chết. Toàn bộ cuộc sống sẽ diễn ra trước mặt bạn. Trước hết, bạn sẽ thấy những gương mặt quen thuộc, người phối ngẫu của bạn, những đứa con, ông chủ, bạn bè thân thiết, cha mẹ. Bạn nhận ra rằng nếu bạn muốn, bạn có thể chọn một trong những người ấy làm quan toà xét xử bạn.
Đầu tiên bạn nghĩ: “Dĩ nhiên tôi chọn người phối ngẫu của mình rồi, chúng tôi yêu nhau thật sự mà”. Nhưng kế đó các bạn nhớ lại bao nhiêu lần cãi cọ, bao nhiêu lần đánh nhau nên các bạn sẽ sợ họ bây giờ vẫn chưa quên đâu. Còn con cái của bạn? Bọn chúng nghĩ rằng các bạn quá khó đối với chúng. Còn những người bạn thân thiết? Các bạn sợ họ biết quá nhiều về bạn.
Vậy bạn chọn cha mẹ khi nhìn thấy những gương mặt già nua. Nếu được chọn bạn sẽ chọn Thánh Phanxico de Salesio, người nổi tiếng là hiền lành và hay thương người. Đó là một chọn lựa không tồi. Hay bạn sẽ chọn thánh Vinh Sơn, một cng nổi tiếng về đức ái khó tìm thấy trong thế giới này. Bạn nghĩ, ông thánh này quá tốt rồi. Và rồi những vị thánh khác liên tiếp xuất hiện trước bạn. Sau hết bạn thấy Đức Trinh Nữ Maria, bạn liền nghĩ: “Dĩ nhiên mình sẽ chọn được phán xét bở người mẹ dịu dàng, tử tế và đáng yêu của mình và cũng là người mẹ đời sống thiêng liêng của mình nữa”.
Nhưng trước khi bạn kịp nói điều gì, Đức Trinh Nữ Maria đã đẩy bạn vào tay Con Mẹ. Chúa Giêsu dẫn bạn đến trước một cái ngai chỉ cho bạn thấy trên ngai đó, Người đó là Đức Chúa Cha. Chúa Giêsu nói: “Đây là Đấng phán xét con, đừng chọn một ai khác”.
Dĩ nhiên, Chúa Giêsu nói đúng. Tự nhiên chúng ta hy vọng rằng những người gần gũi với chúng ta trong suốt đời sống sẽ nhân từ với chúng ta trong phán xét hơn. Chúng ta cũng tin rằng Mẹ Maria rất nhân từ và thương yêu chúng ta. Nhưng Mẹ Maria và tất cả các thánh chỉ được thông dự vào sự nhân từ và thương xót của Thiên Chúa, không những Thiên Chúa sở hữu sự nhân từ trong một mức độ vô biên nhưng Thiên Chúa còn thật sự là sự nhân từ nữa. Thiên Chúa là sự nhân từ và là sự thương xót.
Vị Vua trong dụ ngôn của Chúa Giêsu là Cha của Người. Khi các bạn của vua xin vua hãy khoan giãn cho y và cho y một thời hạn để trả hết số nợ, vị vua đã tha hết số nợ đó, Người xoá sạch số nợ ấy và Người không còn nhớ gì đến nó nữa. Dĩ nhiên là một vị vua nhân loại sẽ không làm một điều như thế bởi vì con người rất giới hạn. Bạn có thể chắc chắn rằng thẻ tín dụng của bạn sẽ không xoá số nợ của bạn cho dù các bạn có năn nỉ hay nài xin thế nào đi nữa. Nhưng chúng ta không thể minh hoạ bức tranh về Thiên Chúa theo kinh nghiệm của con người nhân loại được. Chúng ta chỉ biết lòng nhân từ của Thiên Chúa qua Người Con của Người.
Dù đã xoá hết nợ nần là tội lỗi của chúng ta, Thiên Chúa Cha vẫn trao ban Con của Người cho cái chết vì chúng ta và để cứu độ chúng ta. Chúng ta đừng bao giờ quên hành động quảng đại tuyệt vời của Thiên Chúa. Hãy chăm chú lắng nghe những lời thánh hiến trên rượu. Qua miệng của vị linh mục, Chúa Giêsu nói với chúng ta trong mỗi Thánh Lễ: “Đây là chén Máu Ta…”. Và Người đã tha thứ cho tội lỗi chúng ta, xoá sạch… Khi chúng ta làm đầy đủ điều kiện của Thiên Chúa, đó là cố gắng tha thứ cho người khác như Người đã tha thứ cho chúng ta. Chúng ta phải nói cách can đảm: “Xin tha thứ cho chúng tôi như chúng tôi cũng tha kẻ có nợ chúng tôi”. Điều này phải hiện hữu trong trái tim chúng ta, khi chúng ta làm một hành động tha thứ. Khi chúng ta xin tha thứ trong suốt hy tế Thánh Thể, khi chúng ta cử hành nghi thức Sám hối. Sách Khôn ngoan nhắc nhở chúng ta: “Hãy nhớ đến ngày cuối cùng của bạn, bỏ sự thù địch qua một bên. Hãy nhớ đến cái chết và đừng phạm tội nữa”. Nhưng sự phong phú của khôn ngoan thì vui mừng với Thiên Chúa và chính Người chứ không phải ai khác sẽ phán xét chúng ta.
Phêrô rất bị đụng chạm do những lời khuyên về cuộc sống huynh đệ. Ông đã nghe các luật sĩ tranh luận về việc tha thứ. “Đối với vợ, ngươi có thể tha thứ cho vợ một lần… Đối với anh em, ngươi phải tha thứ co anh em năm lần”. Còn quan điểm của Chúa Giêsu thì sao?
– Tôi phải tha thứ bảy lần phải không?
– Ngươi hãy tha thứ bảy mươi lần bảy.
Đứng trước câu trả lời này, một trong những câu trả lời điên rồ nhất của toàn bộ Tin Mừng, lúc này đây chúng ta có thể ở trong một tình trạng bi đát hết sức an bình. Bi đát: Chúa đang yêu cầu chúng ta một sự tha thứ rất khó khăn và tất cả đảo lộn trong ta khi nghĩ đến điều đó. An bình: cuộc sống của chúng ta thanh thản đến độ sự đòi hỏi của Chúa Giêsu đối với chúng ta dường như rất dễ: chắc chắn là phải luôn luôn tha thứ.
Lý thuyết! Chúng ta hãy nhìn chung quanh chúng ta mà xem! Ai tha thứ? Thậm chí ngươì ta nghĩ rằng tha thứ sẽ khuyến khích những gì không thể tha thứ được. “Nào xin bạn cứ tự nhiên!”. Việc nghe theo Chúa Giêsu yêu cầu có một sự đảo ngược.
Tôi lấy lại hai hoàn cảnh trên. Nếu tôi hoàn toàn bị đảo lộn đứng trước một điều gần như không thể tha thứ được (nhưng người ta vẫn luôn luôn nói là sự tha thứ), Chúa Giêsu kêu gọi tôi tha thứ ngay lập tức, mặc dầu những thương tổn và những phản kháng của tôi. Ngay lập tức. Chúng ta huỷ diệt Tin Mừng và sự sống của chúng ta khi chúng ta chờ thời, khi chúng ta nghĩ rằng chúng ta không có khả năng thực hiện điều mà Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta. Làm cho chúng ta có khả năng, đó là công việc của Ngài, công việc của Thánh Linh. Phần chúng ta là phải đối diện với lơì kêu gọi đó và kêu xin Chúa Giêsu: con muốn, nhưng con không thể làm được, xin Chúa giúp con!
Nếu tôi không có vấn đề gì cả, sự đòi hỏi của Chúa Giêsu là một liều thuốc phòng ngừa. Sự đòi hỏi đó lôi kéo tôi đi ngược dòng một thế giới kiêu ngạo từ chối tha thứ.
Bởi vì đây đúng là một cuộc chiến chống lại sự kiêu ngạo, luôn luôn sẵn sàng bi kịch hoá các điều sỉ nhục và dựng lên những bức tường trước những ý tưởng hoà giải. Lòng kiêu ngạo rất biết cách nguỵ trang thành danh dự, thành lương tri, thành công bằng, thành sự tự vệ hợp pháp, thành lo lắng không tạo thuận lợi cho những kẻ xấu, đến nỗi trước tiên cần phải loại bỏ lòng kiêu ngạo đó đi đã: “Lòng kiêu ngạo ơi, đừng có mà len lỏi vào đó”.
Trong bầu không khí trong sạch hơn, chúng ta có thể xem xét ý tưởng cho rằng có những sự tha thứ xấu. Khi tôi chấp nhận mỉm cười và giơ tay ra bởi vì điều đó thu xếp ổn thoả cho tôi, thì đó là tôi không tha thứ, mà là tôi dùng mánh lới. Khi tôi tha thứ cho một tay độc tài áp bức những người yếu kém, thì đó là tôi không tha thứ, mà là tôi sợ. Nếu đó là những sự tha thứ thật sự có giá trị, thì có hai điều có thể làm cho mỗi người trong chúng ta trở thành một người sẵn sàng tha thứ và đấu tranh chống lại nhiều cái “Không thể tha thứ được!” đang đầu độc bất cứ cuộc sống chung nào.
Trước hết, nghĩ đến một người mà chúng ta biết rõ và đã có lần từ chối tha thứ. Đo lường tình trạng lộn xộn của cuộc sống. Sự nghiền ngẫm nội tâm của người đó dồn cho bạn những chi tiết về sự lầm lẫn mà người ta đã làm cho người đó, về người đã xúc phạm hoặc phản bội người đó. Trong khi suy nghĩ về tất cả những điều đó, người ta thề thốt sẽ không bao giờ rơi vào trong sự mất khả năng lật một trang mới nữa.
Tin Mừng cống hiến cho chúng ta một cách khác để vun trồng nơi chúng ta khả năng hoà giải với nhau rất nhanh: đặt những sự tha thứ của chúng ta trong sự tha thứ của Thiên Chúa. Chúng ta không bao giờ là một người công chính sẽ làm cho lòng khoan dung của Ngài rơi xuống trên một kẻ phạm lỗi đáng thương. Cả hai chúng ta đều là những người được tha thứ, được mơì gọi đi vào trong cùng một quỹ đạo của sự tha thứ.
Đó là quỹ đạo của Kinh Lạy Cha “Xin tha thứ cho con như thể người ta tha thứ cho một người con bởi vì trong khi tha thứ, con cố gắng trở thành con của Ngài”. Tự bảo: “Tôi sẽ không bao giờ từ chối tha thứ”, tương đương với: “Tôi muốn vẫn thuộc về gia đình của Thiên Chúa”.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Phim “Cánh Đồng Bất Tận” kể về bi kịch của sự thù hận. Phim được chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư. Bộ phim xoay quanh 4 nhân vật, người cha và hai đứa con, cùng cưu mang một người đàn bà làm nghề mại dâm. Bốn người lênh đênh trên một chiếc xuồng máy, nuôi vịt chạy đồng, không nhà không cửa, nay đây mai đó theo con nước. Đời sống của họ ngập chìm đau khổ dằn vặt xuất phát từ sự thù hằn.
Đầu tiên là người cha. Số là anh ta lấy vợ và có hai con. Cuộc sống cơ cực, anh phải vất vả để lo cho ba mẹ con. Ấy vậy mà người vợ ham sang phụ khó theo một thương lái người Hoa, bỏ lại hai đứa con cho anh. Đau khổ tột cùng vì bị chính người vợ yêu thương phản bội, anh đốt căn nhà, đốt cái mái ấm bấy lâu nay, xuống ghe lênh đênh, bắt đầu một cuộc sống trôi sông lạc chợ, nay đây mai đó, không tương lai, không định hướng. Bao nhiêu hận thù, người cha trút hết lên đầu hai đứa con.
Kế đến là sự thù hận của cô gái điếm. Vì hận cha mẹ ly dị bỏ rơi cô, nên cô làm gái để trả thù đời. Trong một lần đi khách, cô bị đám đông các bà vợ bắt và đổ keo dán sắt vào vùng kín. Cô đau đớn chạy trốn và được ba cha con đưa lên ghe cứu chữa. Cuộc sống của 4 người cứ lênh đênh trên sông nước, buồn tẻ vì mỗi người đều mang trong mình những nỗi thù hằn, căm phẫn vì bị chính những người thương yêu phản bội. Ông bố hận vợ, thù người bạc tình nên luôn cau có và bạo lực đánh đập 2 đứa con. Cậu con trai tuy còn nhỏ nhưng đã mang trong mình nỗi hận thù của cha, cậu nói rằng cậu ghét cái ác, và muốn trả thù, có thù thì phải trả. Cô gái làm điếm vì hận thù gia đình, hận thù bố mẹ…
Cũng vì sự hận thù và lòng muốn trả thù nên 4 người trở thành thù địch của nhau. Và họ đi đâu cũng gây thù chuốc oán ở chỗ đó, cho nên nhiều bọn giang hồ ghen ghét. Cậu con trai vì không chịu nổi người ta ức hiếp người đàn bà nên đã phạm tội giết người. Vì sợ, cậu đã bỏ trốn. Người đàn bà không chịu được sự thù hằn của người bố nên cũng bỏ đi. Chỉ còn lại người cha và đứa con gái. Câu chuyện được đẩy lên đỉnh điểm khi đứa con gái bị nhóm côn đồ hiếp dâm ngay trước mặt ông bố. Chúng nó đánh ông bố ngã quỵ, rồi buộc ông phải nhìn cảnh bọn chúng từng thằng hãm hiếp đứa con gái của mình trong bất lực. Không còn đau khổ nào hơn thế nữa.
Kết thúc bộ phim, cô gái có bầu, không biết cha đứa bé là ai. Cô đi trên một cánh đồng mênh mông, bất tận, vừa đi vừa nói với đứa con trong bụng: Là trẻ con, nên tha thứ lỗi lầm cho người lớn. Và mẹ sẽ đặt tên con là Thương.
Không biết Nguyễn Ngọc Tư có đạo Công giáo hay không, nhưng rõ ràng với những bế tắc của các nhân vật, cuối cùng chỉ có giáo lý Kitô giáo mới giải quyết được vấn đề. Hận thù chỉ làm cho con người bế tắc, chỉ có sự tha thứ và tình yêu sẽ cứu rỗi thân phận con người. (Lm. Mar-Aug Bùi Văn Hồng Phúc, SSS).
Trang Tin Mừng hôm nay thuật lại cuộc đàm đạo về ơn tha thứ. Phêrô đến gần Chúa Giêsu hỏi rằng: Thưa Thầy, nếu anh em con xúc phạm đến con thì con phải tha thứ đến mấy lần? Có phải bảy lần không?. Đối với người Do thái là “quá tam ba bận”. Có tha chỉ tha ba lần thôi, đến lần thứ tư phải trừng phạt. Họ suy luận:Thiên Chúa trừng phạt kẻ ác khi nó lỗi phạm lần thứ tư; người phàm không thể nhân lành hơn Thiên Chúa nên con người không thể tha thứ cho nhau quá ba lần. Trước lời suy luận và giảng dạy như thế của các kinh sư, Phêrô chắc mẫm sẽ được Thầy khen ngợi khi đề nghị tha bảy lần. Vì tha thứ bảy lần là đã gấp đôi truyền thống Do thái và còn cộng thêm một lần nữa. Phêrô đến với Chúa bằng tâm thức của luật dân Chúa đang tuân giữ “Thiên Chúa luôn tha thứ cho người công chính bảy lần” (Cn 24,16). Tha thứ bảy lần là tha thứ có giới hạn. Thế nhưng, câu trả lời của Chúa Giêsu đã làm bàng hoàng người nghe: Không phải chỉ bảy lần nhưng là bảy mươi lần bảy. Tha thứ đến 490 lần. Ở đây không thể hiểu theo nghĩa đen với công thức toán học để tìm ra con số lần phải tha thứ cho anh em mà là tha thứ không giới hạn, tha hoài, tha mãi.
Để các môn đệ hiểu bài học tha thứ không giới hạn này, Chúa Giêsu đã cụ thể hoá bằng câu chuyện. Một người đầy tớ mắc nợ vua mười ngàn nén bạc, có giá trị tương đương một trăm triệu, một số nợ khổng lồ vì một ngày công chỉ một đồng (x. Mt 20,9). Vua ra lệnh bán y, vợ con, tài sản của y để trả nợ. Người đầy tớ liền sấp mình, van lơn xin khất nợ. Nhà vua động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y.Tên đầy tớ được tha hết mọi nợ nần, được trả tự do, không còn làm nô lệ nữa. Trớ trêu thay, vừa được tha về, tên đầy tớ gặp một người bạn chỉ mắc nợ y một trăm đồng, một món nợ rất nhỏ so với món nợ khổng lồ y vừa được vua tha bổng, y tóm lấy, bóp cổ đòi trả nợ ngay. Người bạn sấp mình dưới chân y, van lơn xin khất nợ, nhưng y không nghe, bắt bạn tống giam vào ngục. Chuyện chướng tai gai mắt này đến tai vua, vì những người bạn của anh không thể nhắm mắt làm ngơ được. Kết cục, tên đầy tớ ác độc bị vua ra lệnh hành hạ. Kết thúc câu chuyện, Chúa Giêsu khẳng định: “Vậy Cha Ta trên trời cũng xử với các con đúng như thế nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình”.
Tha thứ cho nhau là điều kiện để được Thiên Chúa tha thứ.Tha thứ không giới hạn và tha thứ tận đáy lòng. Tha tận đáy lòng nghĩa là tha và quên hoàn toàn, như không có chuyện gì đã xảy ra giữa hai người. Trong kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy chúng ta xin: “Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con”. Chúa lấy mức chúng ta tha thứ cho nhau làm thước đo để tha thứ, chúng ta tha thế nào thì Cha trên trời cũng tha cho chúng ta như vậy. Trong “bài giảng trên núi,” Chúa Giêsu đã dạy, không những “chớ trả thù” mà phải “yêu kẻ thù” nữa, “như vậy anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời”. Và Chúa kết luận: “Vậy anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5, 38-48). Tha thứ tận đáy lòng là một cách thức nên hoàn thiện như Cha trên trời: hoàn thiện về lòng yêu mến, vì Thiên Chúa là Tình Yêu.
Trả thù là khuynh hướng nhân loại, tha thứ là hồng ân Thiên Chúa. Quan toà có thể không tha thứ cho tội nhân, nhưng Thiên Chúa luôn tha thứ cho người tội lỗi, nếu họ thực lòng ăn năn hối cải.
Trong lúc đau đớn tột cùng trên thập giá, Chúa Giêsu đã xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ bách hại, lăng nhục, cáo gian và đóng đinh Người: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23,34).
Thế giới hôm nay đang bị thống trị bởi bạo lực và oán thù. Những cuộc chiến tranh dai dẳng giữa các quốc gia; những hiềm thù giữa các bộ tộc anh em; những xung đột giữa những người khác màu da, khác tôn giáo, khác quan điểm chính trị; những thảm kịch vô phương hàn gắn trong gia đình. Con người để cho hận thù lôi kéo và không sao thoát ra khỏi cái vòng ân oán nghiệt ngã. Cần phải có những người dám chịu thiệt thòi, dám bẻ gãy oán thù bằng tha thứ, dám tin rằng tình thương có thể biến đổi quả tim chai đá của con người. Giáo hội vẫn luôn kêu gọi xây dựng một nền văn minh tình thương, vì chỉ khi ấy trái đất này mới có cơ may tồn tại.
Tha thứ là một nhân đức siêu nhiên nên cần có ơn Chúa, con người mới có thể nói lời tha thứ cho nhau. Tha thứ không chỉ là một hành động thuần tuý ý chí, mà còn là một ân ban. Không thể có sự tha thứ nếu không cầu nguyện. Mỗi người luôn cảm nhận tình thương và sự tha thứ của Thiên Chúa đối với chính mình thì sẽ dễ dàng thứ tha cho người khác.
Tha thứ là lời mời gọi duy nhất để tình yêu lớn lên. Tha thứ đem về mùa xuân cho tâm hồn đâm chồi yêu thương, nảy lộc bình an. Chúa đã tha thứ cho Phêrô, tình yêu bùng cháy, Phêrô đã sống hết mình cho sứ vụ Thầy trao. Phaolô đựơc ơn tha thứ, biến đổi cuộc đời, thành sứ giả lừng danh rao truyền Đức Kitô cho thế giới.
Ơn tha thứ làm nên vẻ đẹp của tâm hồn, vẻ đẹp của lòng khoan dung. Thế giới có “Ngày khoan dung quốc tế” (International day of tolerance) do Liên Hiệp Quốc thiết lập vào ngày 16.11.1995. Người khoan dung độ lượng là người không chấp nhất, nhưng thông cảm với những lầm lỗi của kẻ khác. Lòng khoan dung độ lượng được xây dựng trên ý thức về những yếu đuối, về khả năng phạm lỗi của chính bản thân mình, và của người khác. Mình cũng phạm lỗi sao mình lại kết án người khác? Thế giới có ngày khoan dung, người Kitô hữu cần cả đời khoan dung.
Ơn tha thứ làm nên vẻ đẹp của thế giới, một thế giới cảm thông chan hoà, một thế giới chan chứa tình huynh đệ, một thế giới mang vẻ đẹp của dung nhan Thiên Chúa. Thánh Gioan Phaolô II đã khẳng định điều ấy: Thế giới không thể có hoà bình nếu thiếu sự tha thứ.
Chúa Giêsu vì yêu thương đã hiến dâng chính mình trên hy tế thập giá đễ ban ơn cứu độ cho nhân loại. Với hiến tế Thánh Thể, Người vẫn tiếp tục tuôn đổ ơn cứu độ. Đón nhận Thánh Thể là nguồn sức mạnh, nguồn tình yêu để chúng ta biết tha thứ cho nhau.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Tin Mừng Mt 18, 21-35: Tin Mừng tuần trước, Chúa Giêsu dạy hãy sửa lỗi cho nhau. Tin Mừng tuần này, Chúa dạy hãy tha thứ. Góp ý xây dựng là một nét đẹp của tình yêu. Tha thứ là mùa xuân của tình yêu.
***
Văn hào Nga, Lêon Tolstoi kể câu chuyện ngụ ngôn.
Có một người hành khách đến trước cửa nhà một người giàu có để xin bố thí. Nhưng mặc cho người khốn khổ van xin, người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Đến một lúc không chịu đựng đựơc những lời van xin đó, thay vì bố thí, người giàu có đã lấy đá ném vào người hành khất. Con người khốn khổ ấy lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho vào bị rồi thì thầm trong miệng: ta sẽ mang hòn đá này cho đến ngày nhà ngươi sa cơ thất thế. Ta sẽ dùng nó để ném trả lại ngươi.
Năm tháng trôi qua, lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự thật. Vì biển lận, người giàu có bị tước đoạt tất cả tài sản và bị tống giam vào ngục. Ngày hôm đó, người hành khất cũng chứng kiến cảnh người ta áp giải người giàu có vào ngục. Nỗi căm hờn sôi sục trong lòng, ông đi theo đoàn người áp giải, tay không rời hòn đá mà người giàu có đã ném vào người ông cách đây mười mấy năm. Ông muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa sạch mối nhục hằng đeo đẳng bên mình. Nhưng cuối cùng, nhìn thấy gương mặt tiều tuỵ đáng thương của kẻ đang bị cùm tay, người hành khất thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự nhủ: tại sao ta phải mang nặng hòn đá này từ bao nhiêu năm qua? Con người này giờ đây chỉ là một kẻ khốn khổ như ta mà thôi.
Có hai thứ mùa xuân. Xuân đất trời và xuân tâm hồn. Xuân đất trời, mầm non nẩy lộc, cây cối xanh tươi. Xuân tâm hồn, bình an thanh thản. Người hành khất đã tìm lại mùa xuân tâm hồn. Vì biết tha thứ nên tâm hồn mang nặng hờn căm oán ghét giờ đây đã hồi sinh, nảy mầm. Từ đây, cuộc sống trở nên tươi đẹp. Mới mẻ của mùa xuân tâm hồn con người là sự tha thứ.
Tin Mừng tuần trước, Chúa Giêsu dạy hãy sửa lỗi cho nhau. Tin Mừng tuần này, Chúa dạy hãy tha thứ. Góp ý xây dựng là một nét đẹp của tình yêu. Tha thứ là mùa xuân của tình yêu.
Trang Tin Mừng thuật lại cuộc đàm đạo về ơn tha thứ.
Phêrô đến gần Chúa Giêsu hỏi rằng: Thưa Thầy, nếu anh em con xúc phạm đến con thì con phải tha thứ đến mấy lần? Có phải bảy lần không?. Đối với người Do thái là “quá tam ba bận”. Có tha chỉ tha ba lần thôi, đến lần thứ tư phải trừng phạt. Họ suy luận:Thiên Chúa trừng phạt kẻ ác khi nó lỗi phạm lần thứ tư; người phàm không thể nhân lành hơn Thiên Chúa nên con người không thể tha thứ cho nhau quá ba lần. Trước lời suy luận và giảng dạy như thế của các kinh sư, Phêrô chắc mẫm sẽ được Thầy khen ngợi khi đề nghị tha bảy lần. Vì tha thứ bảy lần là đã gấp đôi truyền thống Do thái và còn cộng thêm một lần nữa. Phêrô đến với Chúa bằng tâm thức của luật dân Chúa đang tuân giữ “Thiên Chúa luôn tha thứ cho người công chính bảy lần” (Cn 24,16). Tha thứ bảy lần là tha thứ có giới hạn. Thế nhưng, câu trả lời của Chúa Giêsu đã làm bàng hoàng người nghe: Không phải chỉ bảy lần nhưng là bảy mươi lần bảy. Tha thứ đến 490 lần. Ở đây không thể hiểu theo nghĩa đen với công thức toán học để tìm ra con số lần phải tha thứ cho anh em mà là tha thứ không giới hạn, tha hoài, tha mãi.
Để các môn đệ hiểu bài học tha thứ không giới hạn này, Chúa Giêsu đã cụ thể hoá bằng câu chuyện. Một người đầy tớ mắc nợ vua mười ngàn nén bạc, có giá trị tương đương một trăm triệu, một số nợ khổng lồ vì một ngày công chỉ một đồng (x. Mt 20,9). Vua ra lệnh bán y, vợ con, tài sản của y để trả nợ. Người đầy tớ liền sấp mình, van lơn xin khất nợ. Nhà vua động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y.Tên đầy tớ được tha hết mọi nợ nần, được trả tự do, không còn làm nô lệ nữa. Trớ trêu thay, vừa được tha về, tên đầy tớ gặp một người bạn chỉ mắc nợ y một trăm đồng, một món nợ rất nhỏ so với món nợ khổng lồ y vừa được vua tha bổng, y tóm lấy, bóp cổ đòi trả nợ ngay. Người bạn sấp mình dưới chân y, van lơn xin khất nợ, nhưng y không nghe, bắt bạn tống giam vào ngục. Chuyện chướng tai gai mắt này đến tai vua, vì những người bạn của anh không thể nhắm mắt làm ngơ được. Kết cục, tên đầy tớ ác độc bị vua ra lệnh hành hạ. Kết thúc câu chuyện, Chúa Giêsu khẳng định: “Vậy Cha Ta trên trời cũng xử với các con đúng như thế nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình”.
Tha thứ cho nhau là điều kiện để được Thiên Chúa tha thứ. Chúa Giêsu cho thấy tính cấp thiết và cần thiết của ơn tha thứ.
– Phải tha thứ vì ai cũng lỗi lầm.
“Nhân vô thập toàn”, không ai hoàn hảo cả. Là con người, ai cũng có những sai trái, những lầm lỗi. Xét lại bản thân, sẽ thấy chính mình cũng có nhiều sai trái, lắm khiếm khuyết và lầm lỗi. Vô ý và hữu ý, cố tình và vô tình xúc phạm nhau. Chỉ cần một chút cảm thông, một ít hiểu biết sẽ dễ dàng bỏ qua, không chấp nhất. Người mang nặng oán hờn là người không bao giờ bình an. Như người hành khất mang hòn đá căm hờn mười mấy năm nặng nề. Trong các thứ khổ hạnh, giữa những thứ đắng cay, có một thứ rất cay đắng, đó là thiếu vắng thông cảm, là tâm hồn mang hận thù. Khi thù ai, tâm hồn tôi không còn phẳng lặng. Khi tôi bị người khác thù hận, tôi sống trong đề phòng sợ hãi. Cả hai đều là ngục tối. Cả hai đều đánh mất bình an tâm hồn.
Tha thứ là việc vô cùng khó. Tha thứ vượt qua khả năng tự nhiên của con người, nhất là đối với người Việt Nam chúng ta “sống để bụng, chết đem theo”. Câu nói đó cho thấy người Việt Nam giận dai, thù dai, nhớ dai những xúc phạm của người khác như thế nào. Cần phải tha thứ cho nhau. Thánh Phaolô đã khuyên bảo: “Phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô” (Ep 4,32). Đức Phật cũng dạy lấy ơn trả oán chứ đừng lấy oán trả oán: Lấy oán trả oán, oán chập chùng. Lấy đức trả oán, oán tiêu tan.
– Mỗi người cần được thứ tha.
Mỗi người trong đời có biết bao lỗi lầm. Đời người là một chuỗi những vấp ngã được đan kết với bao thứ tha. Ơn tha thứ như dòng suối chảy vào đời người, nếu bị ngăn lại sẽ thành ao tù, nó sẽ trong lành khi chảy đến anh em. Luật “mắt đền mắt răng đền răng” là luật công bằng, nhưng ơn tha thứ mới đem lại mùa xuân cho cuộc đời. Thánh Phanxicô Assidi cũng đã xác định: vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ.
– Tha thứ để được Chúa thứ tha.
Chúa Giêsu nhấn mạnh điều này rất nhiều lần. Khi dạy kinh Lạy Cha, Chúa mời gọi mỗi người phải hứa tha thứ cho anh em khi xin Người tha thứ lỗi lầm cho mình. Ở cuối kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu căn dặn: Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6,14-15). Thánh Phaolô sống Lời Chúa dạy và đã tha thiết mời gọi: “Anh em hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em, người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau”(Col 3,13).
– Tha thứ là hồng ân của Thiên Chúa.
Trả thù là khuynh hướng nhân loại, tha thứ là hồng ân Thiên Chúa. Quan toà có thể không tha thứ cho tội nhân, nhưng Thiên Chúa luôn tha thứ cho người tội lỗi, nếu họ thực lòng ăn năn hối cải.
Trong lúc đau đớn tột cùng trên thập giá, Chúa Giêsu đã xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ bách hại, lăng nhục, cáo gian và đóng đinh Người: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23,34).
Thế giới hôm nay đang bị thống trị bởi bạo lực và oán thù. Những cuộc chiến tranh dai dẳng giữa các quốc gia; những hiềm thù giữa các bộ tộc anh em; những xung đột giữa những người khác màu da, khác tôn giáo, khác quan điểm chính trị; những thảm kịch vô phương hàn gắn trong gia đình. Con người để cho hận thù lôi kéo và không sao thoát ra khỏi cái vòng ân oán nghiệt ngã. Cần phải có những người dám chịu thiệt thòi, dám bẻ gãy oán thù bằng tha thứ, dám tin rằng tình thương có thể biến đổi quả tim chai đá của con người. Giáo hội vẫn luôn kêu gọi xây dựng một nền văn minh tình thương, vì chỉ khi ấy trái đất này mới có cơ may tồn tại.
Tha thứ là lời mời gọi duy nhất để tình yêu lớn lên. Tha thứ đem về mùa xuân cho tâm hồn đâm chồi yêu thương, nảy lộc bình an. Chúa đã tha thứ cho Phêrô, tình yêu bùng cháy, Phêrô đã sống hết mình cho sứ vụ Thầy trao. Phaolô đựơc ơn tha thứ, biến đổi cuộc đời, thành sứ giả lừng danh rao truyền Đức Kitô cho thế giới.
Ơn tha thứ làm nên vẻ đẹp của tâm hồn, vẻ đẹp của lòng khoan dung. Thế giới có “Ngày khoan dung quốc tế” (International day of tolerance) do Liên Hiệp Quốc thiết lập vào ngày 16.11.1995. Người khoan dung độ lượng là người không chấp nhất, nhưng thông cảm với những lầm lỗi của kẻ khác. Lòng khoan dung độ lượng được xây dựng trên ý thức về những yếu đuối, về khả năng phạm lỗi của chính bản thân mình, và của người khác. Mình cũng phạm lỗi sao mình lại kết án người khác? Thế giới có ngày khoan dung, người Kitô hữu cần cả đời khoan dung.
Ơn tha thứ làm nên vẻ đẹp của thế giới, một thế giới cảm thông chan hoà, một thế giới chan chứa tình huynh đệ, một thế giới mang vẻ đẹp của dung nhan Thiên Chúa. Thánh Gioan Phaolô II đã khẳng định điều ấy: Thế giới không thể có hoà bình nếu thiếu sự tha thứ.
Chúa Giêsu vì yêu thương đã hiến dâng chính mình trên hy tế thập giá đễ ban ơn cứu độ cho nhân loại. Với hiến tế Thánh Thể, Người vẫn tiếp tục tuôn đổ ơn cứu độ. Đón nhận Thánh Thể là nguồn sức mạnh, nguồn tình yêu để chúng ta biết tha thứ cho nhau.
36.Tha thứ như đã được thứ tha
(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)
Kính thưa cộng đoàn Phụng vụ, chúng ta đã từng nghe ít nhiều câu nói của Đức Giê-su “ai yêu mến nhiều thì sẽ được thứ tha nhiều” (x. Lc 7, 47). Thiết nghĩ, nếu chúng ta thật sự yêu mến Thiên Chúa thì chúng ta sẽ nghiệm thấy chúng ta được tha thứ vô vàn; và nếu chúng ta yêu thương anh chị em thật tình, yêu như yêu chính bản thân mình, thì chúng ta cũng sẽ tha thứ cho anh chị em mình nhiều, bất luận họ ra sao, hoặc bất luận lỗi lầm của họ thế nào!
Các bài đọc hôm nay phát hoạ rõ ràng cách thức Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta, và Ngài đòi hỏi chúng ta cũng sống thứ tha cho anh chị em như vậy. Mỗi khi chúng ta mắc lỗi phạm đến Chúa hay anh chị em, chúng ta đều mong muốn được tha thứ ngay, tha thứ liền và tha thứ một cách nhanh chóng như lòng kỳ vọng. Nhưng khi anh chị em trót gây ra lầm lỗi, sai phạm đến chúng ta thì dường như chúng ta chẳng chịu tha, hoặc chần chừ, có khi giữ mãi trong lòng cho tới lúc nhắm mắt suôi tay. Thật tiếc cho chúng ta nếu đang trong tình trạng hay tâm trạng như thế, vì một lẽ chắc chắn là lòng bất an, ray rứt, tâm bất tịnh, cồn cào, não ruột; còn người mắc lỗi có như vậy hay không, chúng ta không biết, và thậm chí cũng không cần biết tới! Có lẽ họ vẫn vui tươi với cuộc sống hằng ngày, họ vẫn ung dung tự tại như bao người khác…, nhưng tâm hồn chúng ta (là những người không tha thứ, không chịu tha thứ, không muốn tha thứ) sẽ chẳng nguôi ngoai, trái lại, luôn thổn thức, và cuộc sống chúng ta chẳng mấy vui tươi, hân hoan thật tình.
Để hiểu rõ hơn Thiên Chúa yêu thương, tha thứ chúng ta đến mức độ nào, và Người đòi hỏi chúng ta tha thứ cho anh chị em ra sao thì chúng ta cùng tìm hiểu một chút về bản văn gốc của dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay. Bản văn tiếng Việt dịch là: tên đầy tớ nợ ông chủ 10 ngàn nén vàng/bạc, còn người bạn của hắn thì nợ hắn 100 nén bạc. Nếu so về số lượng 10 ngàn nén vàng/bạc với 100 nén bạc, thì chúng ta cũng thấy cũng khá nhiều (gấp 100 lần). Tuy nhiên, nếu nhìn bản văn gốc thì chúng ta càng ngạc nhiên, và hiểu rõ hơn ông chủ trong dụ ngôn đã tha thứ cho tên đầy tớ nhiều như thế nào. Người tôi tớ nợ ông chủ 10 ngàn talanton (đơn vị nén vàng/bạc Hy Lạp) và bạn của hắn nợ hắn chỉ có 100 denarii (đơn vị nén bạc Hy-La, số ít là denarius). Theo cách tính thời đó, 1 talanton khoảng 6 ngàn denarii, 1 talanton ngang bằng tiền lương trong vòng 20 năm (tương đương với $1000-$30000/1 ngày), và 1 denarius tương đương với tiền lương một ngày công cho thợ không lành nghề. Như vậy, người đầy tớ nợ ông chủ 10 ngàn talanton (tương đương với 10000 x 20 năm = 20 vạn năm lương), nghĩa là cả đời cũng không thể trả hết (vì đời người dài nhất cũng chỉ 100 năm là cùng!) Ngược lại, người bạn của tên đầy tớ chỉ nợ y 100 denarii (tương đương 100 ngày lương), nghĩa là có thể hoàn trả lại, mặc dù phải mất hơn 3 tháng lương mới thanh toán được.
Với món nợ mà cả đời, thậm chí tính luôn tổng số đời của họ hàng thân tộc của tên đầy tớ cũng không thể trả hết được, nhưng ông chủ đã dủ lòng thương xót, tha bổng cho hắn vô điều kiện; nhưng y lại không thể bỏ qua hoặc gia hạn cho người bạn y món nợ có thể hoàn trả lại, tuy mất nhiều thời gian, hoặc phải đánh đổi nhiều thứ để dành dụm ngõ hầu thanh toán cho y!
Chúng ta nợ nhau với những món nợ có thể thanh toàn ở đời này hoặc không đáng kể, nhưng chúng ta lại không tha thứ cho nhau, không bỏ qua cho nhau, thì làm sao Thiên Chúa tha cho chúng ta món nợ mà thậm chí hết đời này cũng chưa thể thanh toán được! “Người này tích lòng giận ghét người kia, mà dám xin Chúa cứu chữa sao? Nó chẳng thương xót người đồng loại với nó, mà còn cầu xin tha thứ tội lỗi nó làm sao?” (Hc 28, 3-4).
Dân gian có câu: “nhất quá tam” hoặc “quá tam ba bận”. Đơn giản, khi chúng ta làm gì, khi mắc lỗi, cũng như khi tha thứ, thông thường tới ngưỡng tối đa là lần thứ ba. Tương tự như suy nghĩ của người Do Thái nói chung và Phê-rô nói riêng, tha đến lần thứ bảy là tuyệt vời, trên cả lòng mong đợi, và quá ư quảng đại rồi! Mặc khác, Đức Giê-su là người Do Thái, biết rõ tâm tư, và văn hoá Do Thái, đáng lẽ Ngài hoan nghênh, thậm chí nên tán thưởng Phê-rô khi Ngài nghe ông bộc bạch về việc ông tha thứ đến bảy lần chứ! Và nếu thử đặt mình vào tâm trạng của Phê-rô, có lẽ chúng ta cũng sẽ nghĩ như ông là: chắc Thầy Giê-su vui lắm đây, khi nghe những lời này! Tuy nhiên, câu trả lời của Đức Giê-su khiến Phê-rô, các môn đệ và cả chúng ta nữa phải sửng sốt, kinh ngạc, bởi lẽ nó vượt xa, vượt trên những mặc định của Phê-rô tha thứ tối đa là bảy lần, còn mặc định của chúng ta thứ tha tối đa ba lần, đó là: “tha đến bảy mươi lần bảy” (770), nghĩa là tha thứ mãi hoài. (x. Mt 18, 22).
Khi đề cập tới việc tha thứ, sống vị tha với anh chị em, thì vô vàn lí do mà chúng ta thường giữ khư khư như thể vũ khí để biện minh cho hành vi không tha thứ của mình cho anh chị em, thí dụ: người ấy không xứng đáng được tha thứ (không xứng đáng với sự tha thứ của tôi, hoặc không xứng đáng được tôi tha thứ); lỡ họ tái phạm sau khi được tha thứ thì sao, đành rằng nói tha rồi; nhưng đụng chuyện gì đó thì ‘lôi ra’ hay nhắc lại bổn cũ để hạ thấp hoặc mày nheo, đay nghiến anh chị em…v, v…; tôi tha cho họ rồi, nhưng ai thứ tha cho tôi, hay ai sẽ tha thứ cho tôi…Thật ra, nếu mà Chúa cũng nghĩ như chúng ta thì chắc hẳn chúng ta sẽ chẳng bao giờ được thứ tha, chẳng bao giờ được bình tâm, an lòng, chẳng thể yên thân! Nhưng may thay, Chúa không eo hẹp, ích kỷ và khăng khăng vào nhận định của bản thân; trái lại, Ngài rộng lượng, đầy khoan dung nhân hậu, chậm bất bình, và rất mực xót thương chúng ta, bất luận khi chúng ta tội lỗi hay sống tốt lành, thánh thiện.
Vì lẽ, Thiên Chúa chẳng bao giờ muốn kẻ tội lỗi, kẻ gian ác phải chết (x. Ez 18, 23; Lc 5, 32) và chẳng giữ mãi lỗi lầm, việc làm xấu xa của chúng ta, hay Ngài không chịu bỏ qua hay tha thứ cho chúng ta đâu! Tuy nhiên, nếu chúng ta không biết tha thứ cho anh chị em, thì lời cảnh báo của Đức Giê-su sẽ thành hiện thực ngay cả ở đời này “Vậy Cha Ta trên trời cũng xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình” (Mt 18, 35). Sau cùng, chúng ta nên khắc ghi lời trong sách Huấn Ca và luôn rộng lòng tha thứ cho anh chị em như chúng ta đã-đang-sẽ được thứ tha, “Hãy nhớ đến ngày tận số mà chấm dứt hận thù, nhớ mình sẽ phải hao mòn và phải chết mà trung thành giữ các điều răn. Hãy nhớ kính sợ Thiên Chúa, và đừng giận ghét kẻ khác. Hãy nhớ đến giao ước của Đấng Tối Cao, và hãy bỏ qua sự lầm lỗi của kẻ khác” (Hc 28, 6-7). Lúc ấy và chỉ khi ấy, “bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được tha” (x. Hc 28, 1).
Nào chúng ta cùng nhìn lại đời mình, nhìn lại tâm hồn mình, nhìn lại thời gian qua, nhất là những khi chúng ta cảm nghiệm sâu sắc tình Chúa thứ tha, cũng như nhiều lần chúng ta chưa sống giới răn yêu thương, chưa mở lòng thứ tha cho anh chị em. Và trong tâm tình đó, chúng ta cùng nguyện cầu:
Lạy Chúa giàu lòng xót thương
Xin cho con yêu thương như Chúa hằng thương yêu
Xin cho con tha thứ như Chúa hằng thứ tha
Xin cho con mở rộng lòng như lòng Chúa mãi rộng mở
Xin cho con bỏ qua lầm lỗi của anh chị em như Chúa hằng bỏ qua cho con. Amen!
CHIỀU SÂU VÀ CHIỀU RỘNG VÔ HẠN CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT
(Suy niệm của Lm. Minh Anh)
“Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận, lại giàu tình thương”.
Kính thưa Anh Chị em,
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay, thoạt tiên, có một cái gì đó gây sốc; một điều gì đó xem ra khá bất công khi Thiên Chúa không ngại đứng hẳn về phía người có lỗi; xem ra Người bênh vực tội nhân khá trộ tràng và nhất là, dường như, ai không biết xót thương như Người, thì Người coi họ là thù nghịch. Thế nhưng, khi chiêm ngắm Chúa Giêsu và Chúa Cha, Đấng mà Ngài ví như ông chủ trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta có câu trả lời như một chân lý ngàn đời, chân lý đó được Thánh Vịnh đáp ca khẳng định, “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận, lại giàu tình thương”.
Vậy thì điều gì đã gây sốc? Bài đọc thứ nhất gây sốc, sách Huấn Ca viết, “Thịnh nộ và giận dữ, cả hai đều đáng ghê tởm”; “Ai muốn báo thù, sẽ bị Chúa báo thù và nghiêm trị tội lỗi nó”. Ơ hay, như thế thì người bị anh em mình xúc phạm, người mà trước đó được coi là vô tội lại trở thành có tội, nên thù nghịch với Thiên Chúa nếu họ giận dữ và thịnh nộ với anh em mình; bấy giờ họ có kêu cầu, Thiên Chúa cũng làm ngơ; có van vái, Người cũng để ngoài tai, vì “Nó chẳng thương xót người đồng loại với nó, mà còn cầu xin tha thứ tội lỗi nó làm sao?”; “Ai sẽ khẩn cầu cho tội ác nó?”.
Bài Tin Mừng cũng gây sốc, Phêrô háo hức đến hỏi Chúa Giêsu, “Thưa Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha cho họ mấy lần? Có phải đến bảy lần không?”. Với chúng ta, một lần cũng đã đáng mơ ước; Phêrô tha đến bảy lần là một điều gì đó quả tuyệt vời. Vậy mà với Chúa Giêsu thì không, với Ngài, chừng đó chưa là gì cả, còn quá ít; Ngài nói, “Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy”. Tội nghiệp Phêrô! Ông tưởng, được ngần ấy là đã rất hào hiệp và quảng đại; ai dè, với Chúa Giêsu, chừng đó không ăn thua; không phải 7 lần nhưng phải gần cả 500 lần. Thật là sốc! Ngài đòi Phêrô tha theo cấp số nhân, cấp số mũ, cấp luỹ thừa và vô cùng; Ngài đòi ông tha theo cấp của trời, cấp của Thiên Chúa, cấp vô hạn. Khi nói điều đó, Chúa Giêsu nhắm đến chiều sâu và chiều rộng vô hạn của lòng thương xót cùng sự tha thứ nơi Thiên Chúa; Ngài nói đến cấp vô hạn của sức nặng thập giá như là món nợ của nhân loại mà Ngài phải gánh chịu. Ngài muốn chúng ta dành cho anh chị em mình cái vô hạn như Thiên Chúa đã dành cho nhân loại khi tha thứ và thương xót nó. Con số bảy nói lên rằng, phải tha hết, tha mãi; đặt lên bàn cân, bảy mươi lần bảy có trọng lượng ngang với thập giá, biểu tượng của lòng thương xót và thứ tha nơi Thiên Chúa, “Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận, lại giàu tình thương”.
Với nhiều người trong chúng ta, lời khuyên của Chúa Giêsu nghe có vẻ tốt lành về mặt lý thuyết; điều Ngài nói thật đầy cảm hứng và khích lệ khi chúng ta suy gẫm về chiều sâu, chiều rộng của việc tha thứ mà chúng ta được mời gọi để trao tặng anh chị em mình. Thế nhưng, trong thực tế, khi đối diện với vấn đề, điều này quả không dễ chút nào; nếu không nói là không thể khi phải tha vô hạn.
Vậy mà đòi hỏi tha thứ vô hạn của Chúa Giêsu, một đòi hỏi thiêng liêng vốn không phải là một lý thuyết hay một lý tưởng để chúng ta cố gắng đeo đuổi mỗi ngày; nhưng trái lại, nó phải trở thành một thực tế thiết thực mà chúng ta phải ôm lấy hết sức mình với sức mạnh của Chúa. Mỗi ngày, chúng ta phải tìm loại bỏ khỏi bản thân bất cứ một khuynh hướng nào, dù nhỏ đến đâu, là ôm hận và giữ trong lòng sự tức giận. Chúng ta phải tìm cách giải thoát mình khỏi mọi hình thức cay đắng và để cho lòng thương xót của Chúa chữa lành mọi tổn thương bằng thập giá của Con Một Người.
Hãy nhìn ngắm lòng thương xót của Người đối với chúng ta, hãy nhìn ngắm thập giá, trên đó, Con Thiên Chúa hấp hối. Từ khi chúng ta lãnh phép Rửa tội, Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta, giải thoát chúng ta khỏi một món nợ không trả nổi, đó là tội nguyên tổ. Nhưng đó là chỉ là lần đầu; sau đó, với lòng thương xót vô bờ, Thiên Chúa tiếp tục tha cho chúng ta vạn lần, tha mỗi ngày, tha mọi lỗi lầm mỗi khi chúng ta xúc phạm đến Người, ngay cả khi chúng ta chỉ thể hiện một chút ăn năn dù là nhỏ nhất. Thiên Chúa là thế đó, “Đấng từ bi nhân hậu; Người chậm giận, lại giàu tình thương”.
Mỗi khi chúng ta bị cám dỗ khép lòng lại trước những anh chị em xúc phạm mình, dù họ có mở lời xin lỗi hay không, chúng ta hãy nhớ lại lời Thánh Phaolô trong thư Rôma hôm nay, “Không ai trong anh em được sống cho mình, và cũng không ai chết cho mình”; ích kỷ, không mở lòng để tha thứ, là sống cho mình; cũng như không ai chết cho mình, vì Chúa Kitô đã chết cho họ. Và nhất là chúng ta nhớ lại lời ông chủ nói với tên đầy tớ không biết tha thứ cho người anh em, “Tên đầy tớ độc ác kia, Ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin Ta; còn ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn ngươi như Ta đã thương ngươi?”.
Ellen Johnson Sirleaf, nữ tổng thống Liberia, nghĩ rằng, đã đến lúc bà trả thù. Tuy nhiên, một trải nghiệm đã khiến bà thay đổi. Ngày nọ, khi đang ở gần một ngôi làng, đột nhiên bà nghe tiếng súng nổ; Weser, vệ sĩ của bà đã lập tức đẩy bà xuống đất. Dù bà được cứu, nhưng viên đạn đã cướp mạng cận vệ Weser. Sau đó, bà phát hiện kẻ bóp cò chính là hàng xóm của Weser, Asa, người đã được thuê để ám sát bà. Mười ba năm sau, nữ tổng thống Sirleaf một lần nữa đến thăm ngôi làng ấy và bắt gặp mẹ của Weser đang đem đồ ăn cho mẹ của Asa. Bà hỏi tại sao, mẹ Weser trả lời, “Sau sự việc 13 năm trước, Asa bỏ trốn và vẫn bặt vô âm tín. Mẹ của cậu ta bị bệnh, lại nghèo khổ, không còn gì để ăn”. Sirleaf không nhịn được, “Nhưng bọn họ là kẻ thù! Con trai bà ấy đã giết Weser!”. Câu trả lời của người mẹ khiến bà tổng thống kinh ngạc, “Tất cả đã qua rồi. Lấy oán báo oán, chỉ tăng thêm oán thù nhiều hơn”. Những lời của bà mẹ đã để lại cho Sirleaf một bài học sâu sắc, Liberia bị chiến tranh tàn phá cần sự tha thứ hơn là lòng thù hận! Kể từ đó, Sirleaf đã tha thứ cho những cựu thù chính trị của mình và nhận được sự cảm thông, ủng hộ từ những người Liberia. Bà là nữ tổng thống đầu tiên của châu Phi, bà đã tạo một tương lai bằng tha thứ và đối xử tốt với những kẻ thù; bà được giải Nobel Hoà Bình năm 2011. Đúng như Jonathan Lockwood Huie, mệnh danh ‘Triết gia của hạnh phúc’, từng nói, “Tha thứ cho người khác, không phải vì họ xứng đáng được tha thứ mà bởi vì bạn xứng đáng được thanh thản”.
Anh Chị em,
Ai đã trải nghiệm một niềm vui, bình an và tự do nội tâm đến từ việc được Thiên Chúa thứ tha, người ấy sẽ có khả năng mở lòng mình ra để, đến lượt họ, tha thứ cho anh chị em mình. Thập giá của Đức Giêsu Kitô là bằng chứng Thiên Chúa tha thứ cho mỗi người, đó cũng là chìa khoá mở cửa thiên đàng. Vì thế, mở miệng kêu xin tha thứ là mới lần bước đến ngưỡng thiên đàng, tha thứ cho người khác thực sự, mới là chìa khoá mở cửa thiên đàng khi mỗi người lấy thập giá của Chúa Giêsu làm tiêu chuẩn và khuôn mẫu cho thập giá đời mình. Tha thứ là đôi cánh thiên thần giúp họ bay lên tới Chúa vậy.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, Đấng từ bi nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương; xin cho con một trái tim nhân ái như Chúa, để con tha thứ cho anh chị em con mà không cần dè giữ”, Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin Mừng Mt 18, 21-35: Tin Mừng hôm nay thuật lại: “Bấy giờ, ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?” Đức Giêsu đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy”…
***
Tin Mừng hôm nay thuật lại: “Bấy giờ, ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?” Đức Giêsu đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy”.
Điều đó có nghĩa là phải tha thứ hoài, tha thứ mãi, tha thứ không giới hạn. Đó là nét mới trong dung mạo của Đức Giêsu. Người đã chiếu tỏa nét cao quý ấy ngay trên thập giá, khi các kẻ thù hành hạ, chế nhạo, và đóng đinh Người: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”.
Nhưng tại sao phải tha thứ? Phải tha thứ cho anh em vì đó là điều kiện để được Chúa thứ tha. Đức Giêsu đã nói: “Nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em”.
Tha thứ là một lệnh truyền khó thực hiện nhất nhưng cũng là nghĩa cử cao cả nhất. Chúng ta có thể cho đi tiền của, trao ban thì giờ, hiến dâng mạng sống. Nhưng các điều đó xem ra còn dễ hơn là tha thứ cho kẻ thù, yêu thương kẻ ngược đãi mình, và làm ơn cho kẻ oán ghét chúng ta.
Tha thứ là một điều rất dễ nói nhưng lại rất khó thực hành.
Khi thế chiến thứ hai bùng nổ, gia đình của cô Coritanbum sinh sống ở Amsterdam, Hòa Lan, sống nhờ cửa tiệm làm và bán đồng hồ. Khi quân đội Đức Quốc Xã chiếm Hòa Lan thì gia đình cô dấn thân trợ giúp người Do Thái, và hậu quả là có người chỉ điểm làm cho toàn gia đình cô bị bắt vào trại tập trung, chỉ còn một mình cô sống sót.
Sau thế chiến thứ hai, cô đi khắp Âu Châu để giảng thuyết về sự tha thứ và hòa giải. Một hôm sau buổi thuyết trình tại Munich, Miền Nam nước Đức, một người đứng lên cám ơn cô về bài thuyết trình thật hay, nhưng cô chết điếng người khi nhận ra người đàn ông đó chính là người lính Đức Quốc Xã trước kia đã giam giữ cô và gia đình cô. Bỗng chốc cô nhớ lại tất cả những hành động bỉ ổi của người lính đã xúc phạm đến con người, nhất là phẩm giá của những nữ tù nhân trong trại mà anh lính này đã làm trước mắt cô ngày trước. Cô Coritanbum lúng túng không kịp đưa tay ra bắt tay người đã hành hạ mình, và lúc đó cô mới hiểu thấm thía nói dễ nhưng làm khó. Chính lúc bấy giờ cô khám phá ra mình cũng chưa thật sự tha thứ cho người đã xúc phạm đến mình trước đây.
Kinh nghiệm của cô Coritanbum cũng chính là kinh nghiệm của mỗi người chúng ta hôm nay, dù hình thức có thể khác, nhưng tựu trung nội dung vẫn giống nhau. Khi nói về sự tha thứ, thường thì khuyên kẻ khác tha thứ rất dễ, nhưng khi trực tiếp đối diện với kẻ xúc phạm đến mình, phải thực hành một việc tha thứ cách cụ thể cho người đang đứng trước mặt mình thì quả thật khó khăn vô cùng. Có thể chúng ta cũng khó vượt qua được những cảm xúc như cô Coritanbum. Nhưng nếu chúng ta không tha thứ thì chính chúng ta sẽ tự làm khổ chúng ta như văn hào Nga Leon Tolstoi kể câu chuyện như sau:
Có một người hành khất nọ đến trước cửa nhà của một người giàu có để xin bố thí. Một đồng xu nhỏ hay một miếng bánh vụn, đó là tất cả những gì người ăn xin chờ đợi nơi người giàu có. Nhưng, mặc cho người khốn khổ van xin, người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Đến một lúc không còn chịu nổi những lời van xin của người hành khất, thay vì bố thí, người giàu đã lấy đá ném vào con người khốn khổ.
Người hành khất lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho vào bị rồi thì thầm trong miệng: “Ta mang hòn đá này cho đến ngày nhà ngươi sa cơ thất thế. Ta sẽ dùng nó để ném trả lại ngươi”.
Đi đâu, người hành khất cũng mang theo hòn đá ấy. Tâm hồn ông lúc nào cũng cưu mang sự báo thù. Năm tháng qua đi. Lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự thật. Vì biển lận, người giàu có bị tước đoạt tất cả tài sản và bị tống giam vào ngục, ngày hôm đó, người hành khất chứng kiến cảnh người ta áp giải người giàu vào ngục. Nỗi căm hờn sôi sục trong lòng ông. Ông đi theo đoàn người áp tải. Tay ông không rời bỏ hòn đá mà người giàu đã ném vào người ông cách đây mười mấy năm. Ông muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa sạch nỗi nhục hằng đeo đẳng. Nhưng cuối cùng, nhìn thấy gương mặt tiểu tụy đáng thương của kè đang bị cùm tay, người hành khất thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự nhủ: “Tại sao ta phải mang nặng hòn đá này từ bao nhiêu năm qua? Con người này, giờ đây, cũng chỉ là một con người khốn khổ như ta”.[1]
Tha thứ là điều khó khăn nhất nhưng cũng là điều cao cả nhất mà Kitô giáo đã cống hiến cho con người. Trao ban tiền của, trao ban thì giờ, trao ban chính mạng sống mình là điều xem ra dễ làm hơn trao ban lòng tha thứ. Nhưng tha thứ lại là của lễ đẹp lòng Chúa nhất, bởi vì qua đó, con người được nên giống Thiên Chúa hơn cả. Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã mặc khải cho chúng ta là Thiên Chúa tha thứ và tha thứ không ngừng. Và chỉ có một Thiên Chúa tha thứ không ngừng ấy mới có thể đòi hỏi con người phải tha thứ không ngừng. Tha thứ là nét cao đẹp nhất của con người, bởi vì càng tha thứ con người càng nên giống Thiên Chúa. Amen.
——————–
[1] Câu chuyện người ăn xin trích trong R.VERITAS, Lẽ Sống, trg.176-177
Tha thứ là một hành vi cao cả của đức ái. Tha thứ là quên đi lỗi điều phiền toái người khác gây cho mình, tha thứ những thái độ xúc phạm đối với mình, tha thứ những điều người khác gây ra trái ý mình. Tha thứ là không hề nhớ, không kể lại, không nhắc tới lỗi lầm của người khác. Là Kitô hữu, chúng ta phải tha thứ cho nhau, vì Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta. Như thế, tha thứ không chỉ là hành vi nhân bản mà còn là hành vi nhân linh.
Người Do Thái xưa được dạy cho biết phải tha thứ cho nhau. Phêrô đã thắc mắc và hỏi Chúa: “Con phải tha đến mấy lần”. Theo sự giảng dạy của các thầy Rabbi, một người phải tha thứ cho anh em mình ba lần. Phêrô đã đi xa hơn luật của các thầy Rabbi bằng cách nhân lên gấp đôi, và cộng thêm một lần cho chắc ăn để cho thấy tinh thần hào hiệp, ông đề ra cho Chúa Giêsu con số bảy: “Có phải đến bảy lần không”. Tha thứ đến bảy lần là hoàn hảo, là vĩ đại, là hào phóng và thậm chí là tuyệt đối rồi. Ông nghĩ rằng đề nghị như thế là được Chúa Giêsu tán thành ngay thậm chí là còn khen ông nữa kìa. Thế nhưng, chúng ta đã nghe Chúa Giêsu đã trả lời: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy”. Nghĩa là Chúa dạy: Hãy tha thứ cho nhau, hãy quên hết lỗi lầm, hãy tha thứ thật lòng, hãy tha thứ tất cả, hãy tha thứ luôn luôn, hãy tha thứ mãi mãi. Sao thật khó quá!
Để làm sáng tỏ vấn đề cũng như để học trò hiểu rõ và nhớ kỹ bài học này, Chúa minh hoạ thêm bằng một dụ ngôn rất hay để đối chiếu lòng Thiên Chúa đối với con người và lòng con người đối với nhau. Nơi Thiên Chúa là một lòng đại lượng xót thương vô bờ bến, chỉ cần con người lên tiếng khẩn nài, Chúa liền nhìn đến thân phận khốn khổ và nghèo nàn của chúng ta. Thiên Chúa Cha, Đấng đầy lòng nhân từ và giàu lòng thương xót. Tình thương tha thứ là một phát minh tuyệt vời của Thiên Chúa để giúp con người hiệp thông với Ngài và hiệp thông với nhau, để xây dựng tốt đẹp cộng đoàn xã hội.
Khi chúng ta phạm tội, chúng ta van xin Chúa, Ngài sẵn sàng tha thứ vô điều kiện, tha thứ trọn vẹn, không đòi hỏi gì nơi chúng ta cả. Ngược lại, lòng con người đối xử với nhau thì lại thật là quá nhỏ bé, hẹp hòi, chúng ta hay chấp nhất nhau từng ly từng tý. Chúng ta dễ tức giận nhau, để lòng oán hờn nhau, chúng ta nhất định không tha thứ. Thậm chí người ta hết lời và hết lòng xin lỗi, chúng ta vẫn cương quyết không tha, không bỏ qua, có người còn khẳng khái tuyên bố: “Sống để dạ, chết mang theo”. Thật là mỉa mai, chua chát, đáng trách! Vì thế, Chúa bảo chúng ta phải sẵn lòng tha thứ, tha thứ luôn mãi bao lâu người anh em còn xúc phạm đến chúng ta, bởi vì Chúa đã tha thứ cho chúng ta, thì chúng ta cũng phải tha thứ cho nhau. Chúng ta thấy ngay từ đầu, khi con người phạm tội nếu Thiên Chúa đã không tha thứ thì con người sẽ không có tương lai tốt đẹp gì như ngày hôm nay. Mỗi lần tha thứ cho tha nhân là mỗi lần ta để tâm hồn mình hoà điệu với Thiên Chúa, Đấng giàu lòng nhân từ và hay tha thứ. Mỗi lần ta tha thứ cho tha nhân là mỗi lần ta thoát ra khỏi cảnh nô lệ cho những giới hạn ích kỷ của con tim mình, để hoà mình với những tâm tình yêu thương tha thứ vô biên của Thiên Chúa. Tính cách tha thứ của Kitô giáo là tha thứ như mình đã được tha thứ, phải thương xót tha nhân như mình đã được Chúa xót thương. Sự tha thứ không những là một nhiệm vụ luân lý mà còn là một đòi hỏi của lương tâm, một nhân đức đối thần, kéo dài tới tha nhân ơn tha thứ mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Ai trong chúng ta cũng có sai sót, nhiều khuyết điểm, tật xấu. Chúng ta cần được tha thứ, vì vậy chúng ta phải khiêm tốn xin lỗi Chúa và xin lỗi nhau.
Trong câu chuyện dụ ngôn, chúng ta thấy món nợ của con người với Chúa thật to lớn, đời đời không trả được. Nhưng Chúa là tình yêu, Ngài sẵn sàng tha thứ tất cả. Còn món nợ giữa con người với tha nhân tương đối nhỏ, có thể hoàn trả được, thế nhưng con người không biết chờ đợi, không biết yêu nên không tha thứ cho nhau được. Trong đời sống thực tế, muốn biết thật lòng tha thứ thì hãy biết quên di những lỗi lầm của anh em. Đừng nhắc đi nhắc lại, đừng nhớ dai, đừng trích chứa trong lòng.
“Nếu Chúa tôi nhớ hoài tội lỗi, nào có ai đứng vững được chăng?”
Trước mặt Chúa có ai là người vô tội? Chúng ta được tha một món nợ không thể nào trả nổi: vì tội lỗi của con người đã gây ra cái chết cho Con Thiên Chúa. Do đó, chúng ta phải tha thứ cho những người khác để chính mình được Thiên Chúa tha thứ. Tha thứ đổi mới tâm hồn, làm phát sinh sự sống mới, gây thêm lòng can đảm, để bắt đầu con đường sống mới. Tha thứ là lời mời gọi để tình yêu lớn lên. Tha thứ là cửa ngõ để mọi người có cơ hội làm lại mối giây liên hệ đã dập gẫy. Tình thương và mọi mối giây liên hệ trong gia đình, giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ chồng, giữa cha xứ và giáo dân, giữa những phần tử trong một nhóm, được phong phú hoá bởi tha thứ. Sự tha thứ phản ánh đời sống ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa. Sự tha thứ là vẻ đẹp của những tâm hồn cao thượng, những con người nhân bản và những con cái của Thiên Chúa. Sự tha thứ mang lại hoà bình cho thế giới, tạo nên một thế giới hiệp thông và yêu thương. Mỗi Kitô hữu cũng là một ơn tha thứ mà Thiên Chúa muốn trao tặng cho người khác. Mỗi ơn tha thứ là một cuộc biến đổi, Chúa Giêsu kêu mời chúng ta cùng với Ngài thực thi sứ mệnh trao ban ơn tha thứ hầu biến đổi anh chị em chúng ta nên người con thật tốt lành và đáng yêu của Chúa Cha, cũng như chính chúng ta đã được tha thứ và biến đổi.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy cho chúng con có tâm tình của Chúa để chúng con có thể tha thứ cho anh em như Chúa đã tha thứ. Amen.
(Suy niệm của Jaime L. Waters – Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)
TIN MỪNG CÓ THỂ DẠY CHÚNG TA BÀI HỌC GÌ KHI XIN GIÚP ĐỠ
Bài đọc Tin mừng của Chúa nhật XXIV Thường niên hôm nay nói về lòng thương xót và sự tha thứ. Khi dùng dụ ngôn về người đầy tớ không biết tha thứ, thánh Matthêu dạy chúng ta một số nguyên tắc hữu ích trong xã hội ngày nay. Tuy nhiên, chính dụ ngôn, ngay cả những nhận thức từ đó, có thể gây khó hiểu.
Bài Tin mừng bắt đầu với việc thánh Phêrô hỏi Chúa Giêsu về số lần nên tha thứ cho người khác trong cộng đoàn như thể là thắc mắc này có thể trả lời bằng việc đưa ra một con số. Phêrô đề nghị bảy lần, nhưng Chúa Giêsu nhấn mạnh đến bảy mươi bảy lần, muốn cho thấy rằng về tha thứ thì không có giới hạn nào. Phản ứng của Chúa Giêsu cho thấy tầm quan trọng của lòng thương xót liên lỉ và Ngài đã dùng một dụ ngôn để minh họa vấn đề này.
Tuy nhiên, dụ ngôn bắt đầu với một hình ảnh khó hiểu, gây thắc mắc. Nước Trời được ví như tương quan của vị vua với những người đầy tớ mắc nợ tiền. Thiên Chúa được xem như một vị vua triều đình, và con người là những người đầy tớ mắc nợ. Dụ ngôn phản ánh thực tế xã hội vào thời của thánh Mattthêu, trong đó việc nô lệ và nợ nần là những thực hành được chấp nhận. Độc giả hiện nay có thể thấy những dụ ngôn gây khó chịu và thất vọng như vậy là cách phản ánh mối tương quan của nhân loại đối với Thiên Chúa, nhất là dụ ngôn được xây dựng dựa trên sự tàn ác vô nhân.
Khi nhà vua (Thiên Chúa) được thông báo về các khoản nợ to lớn của người đầy tớ, ban đầu ông ra lệnh bán người đàn ông, vợ, con và tài sản của ông như là đầy tớ để có tiền trả nợ. Hãy hình dung là chúng ta đọc dụ ngôn trong bối cảnh mà việc nô lệ là hợp pháp. Trong Tin mừng của Chúa nhật hôm nay việc chiếm giữ và chiếm hữu đầy tớ mới để gia tăng sự giàu có của con người là việc đương nhiên. Thật không may, các văn bản Kinh thánh như vậy đã ảnh hưởng đến các chủ đầy tớ, nô lệ ở châu Âu, những người biện minh cho hành động của họ dựa trên sự tin tưởng vào uy thế của người da trắng và vào thần quyền.
Dù có nghiêng về việc bắt cả gia đình làm đầy tớ, nhà vua (Thiên Chúa) vẫn tha cho người đầy tớ và tha nợ cho anh ta vì ông chạnh lòng lòng thương khi người đầy tớ nài xin sự khoan hồng và sự kiên nhẫn của nhà vua. Nhưng khi người đầy tớ đó gặp một người đầy tớ khác trong hoàn cảnh tương tự, anh lại không bắt chước cách hành xử của nhà vua, và bắt bỏ tù con nợ của mình.
Các bạn đầy tớ đau khổ nên kể lại với vua về sự nhẫn tâm của anh ta. Nhà vua khiển trách tên đầy tớ rằng: “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, còn ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn người như ta đã thương ngươi?”. Sau đó, nhà vua đã ra lệnh tra khảo người đầy tớ này cho đến khi anh ta trả được nợ. Chúa Giêsu kết luận bằng cách tuyên bố rằng Chúa Cha sẽ tra khảo con người nếu họ không tha thứ cho nhau.
Khó có thể nghĩ đến hình ảnh Thiên Chúa như là người tra khảo cho đến đời đời, dù hình ảnh này phù hợp với cái nhìn về ngày cánh chung của thánh Matthêu mà chúng ta đã đọc thấy trong các dụ ngôn vào các Chúa nhật trước. Một vấn đề khó khăn khác là yêu cầu người đầy tớ đầu tiên phải hành xử giống hệt như cách nhà vua (Thiên Chúa) đã làm. Trong khi đây là một ví dụ về tình yêu vị tha (Hy lạp là Agape) thì ứng xử này là một vấn đề gây khó hiểu theo những điều kiện kinh tế được giả định trước trong dụ ngôn. Việc giả định rằng người đầy tớ sống trong cảnh nô lệ nợ nần có thể hoặc nên cư xử như vị vua giàu có, không nhận ra sự bất cân xứng rõ ràng trong tình trạng kinh tế và xã hội của họ. Trong sự khắt nghiệt của người đầy tớ đầu tiên thì yêu cầu đòi nợ của anh đối với bạn mình chắc chắn sẽ bức thiết hơn yêu cầu đời nợ của vị vua giàu có.
Tuy nhiên, đọc kỹ dụ ngôn này sẽ mang lại một số nhận thức có ý nghĩa. Dụ ngôn dạy về tầm quan trọng của lòng thương xót, yêu cầu giúp đỡ và trợ cấp những người đang cần. Câu chuyện cũng gợi ý rằng những người có phương tiện, như nhà vua, nên công bằng, thực thi chính nghĩa và quảng đại vì sự giàu có của họ. Dụ ngôn thách thức những người có ít điều kiện hơn thể hiện lòng tốt đối với những người có hoàn cảnh tồi tệ hơn mình. Những khái niệm này có giá trị, nhất là khi đề ra những chính sách, luật pháp và chương trình để giúp đỡ những người sống trong nghèo đói, đặc biệt là nơi các hệ thống kinh tế có sự chênh lệch và bất bình đẳng.
Nguồn: https://www.americamagazine.org/faith/2020/08/21/what-gospel-can-teach-us-about-asking-help
Có bao giờ chúng ta đã giành lấy một vài giây phút để suy nghĩ về lời cầu xin trong kinh Lạy Cha: Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con hay không? Tội lỗi của chúng ta thì nặng nề và chồng chất, làm cho Thiên Chúa phải buồn lòng. Và theo một ý nghĩa nào đó, tội lỗi ấy được sánh ví như là một món nợ khổng lồ chúng ta thiếu hụt cùng Thiên Chúa. Đồng thời trong cuộc sống, đôi khi chúng ta cũng gặp phải những khổ đau, những bất công do anh em gây nên.
Thế nhưng, trong kinh Lạy Cha, chúng ta dám thưa lên cùng Thiên Chúa: Xin Ngài tha thứ cho chúng ta những lỗi lầm quá lớn, nếu như chúng ta biết quên đi những vấp phạm nhỏ bé của anh em. Đúng là một tỷ lệ không cân xứng và chẳng có ý nghĩa chi cả… Và đó cũng chính là ý nghĩa của câu chuyện dụ ngôn mà chúng ta vừa nghe.
Ông vua muốn tính toán nợ nần với những bầy tôi của mình. Ông vua chính là Thiên Chúa còn bầy tôi chính là chúng ta. Món nợ khổng lồ lên tới 10 ngàn nén bạc, chính là những tội lỗi của chúng ta khi đứng trước một vị Thiên Chúa nhân từ, thánh thiện và công bằng vô cùng. Còn món nợ nhỏ nhoi 100 đồng là những vấp phạm của anh em đối với chúng ta. Và như thế chúng ta nhìn thấy sự sai biệt giữa hai món nợ là như thế nào.
Trước lời van xin của tên đầy tớ thứ nhất, nhà vua đã thực sự xúc động, ông đã tha thứ và xóa bỏ món nợ kếch xù của hắn. Còn hắn, hắn lại tỏ ra hà khắc đối với bạn hắn, là người chỉ mắc nợ hắn một số tiền nhỏ bé. Khi hay tin, nhà vua đã vô cùng sửng sốt, ông đã đối xử với tên đầy tớ theo như mức độ nhân từ mà họ đối xử với nhau… Và phần kết luận, hẳn chúng ta đã rõ. Lý hình chính là những sự trừng phạt ở đời này cũng như ở đời sau. Đoạn Tin Mừng không phải chỉ kêu gọi chúng ta tha thứ cho một người anh em hay kẻ bạn hữu, mà còn tha thứ cho tất cả những bất công mà kẻ thù gây nên.
Tới đây, tôi xin kể lại một mẩu chuyện có thật xảy ra vào thời đệ nhị thế chiến. Bấy giờ quân Đức chiếm đóng nước Pháp và bắt nhiều người đi làm tù binh, trong số đó có Đức Giám mục Théas. Ngày kia các bạn tù xin ngài giảng phòng. Ngài bèn cho ngay đề tài: yêu thương kẻ thù. Các bạn tù có vẻ không bằng lòng và nói với ngài: Tại sao chúng ta lại phải tha thứ cho bọn Đức Quốc xã, là bọn mỗi ngày đã giết hại biết bao nhiêu bạn hữu của chúng ta. Đức cha đã trả lời: Cha chỉ có thể lặp lại giới luật của Chúa Giêsu: Hãy yêu thương kẻ thù. Rồi ngài cất cao giọng đọc kinh Lạy Cha và nhấn mạnh tới lời van xin: Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.
Ngày hôm sau được phép cử hành thánh lễ, ngài quyết định dâng thánh lễ cầu cho những người Đức. Và cũng từ ngày đó, ngài có một ý tưởng manh nha thành lập phong trào Pax Christi, một phong trào quốc tế tranh đấu cho hòa bình. Sau khi chiến tranh kết thúc, ngài được cử làm Giám mục Lộ Đức, và chính ngài đã tổ chức cuộc hành hương quốc tế của phong trào Pax Christi. Trong cuộc hành hương này người ta nhìn thấy những người trước đây vốn là thù địch của nhau như Đức, Pháp, Anh, Ý… cùng chắp tay cầu nguyện cho nhau, và quên đi cái dĩ vãng đen tối. Là người Công giáo chúng ta có bổn phận phải tha thứ cho nhau, chứ không được giữ mãi sự thù oán.
Cách thức bảo đảm nhất để thoát khỏi sự công thẳng của Thiên Chúa và kéo được lòng thương xót của Ngài đó là hãy tha thứ cho nhau.
(Suy niệm của Lm. Alfonso)
Mt 18,21-35. Là những Kitô hữu, chúng con thuộc về Chúa, xin giúp con nhận ra việc tha thứ luôn luôn và tha thứ tất cả trong tương quan với mọi người chính là điều kiện công bằng đòi buộc cho việc trước đó con đã được Thiên Chúa tha thứ luôn luôn và tất cả…
Suy niệm
Như chúng ta biết đó, theo luật Môisen, người ta nên tha thứ cho kẻ xúc phạm đến mình ba lần. Con số 3 là một con số đáng mong đợi theo lề luật. Khi Phêrô nâng việc tha thứ lên: “Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần. Có phải đến bảy lần không?”, Phêrô có thể nghĩ rằng mình đã làm một sự bức phá để có thể trở nên một con người hết mực nhân từ vì tha thứ là một điều không phải dễ dàng. Theo lẽ tự nhiên, ai cũng có quyền được người khác tôn trọng phẩm giá. Việc xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và lợi ích của một người cũng là xúc phạm đến hình ảnh Thiên Chúa nơi họ. Người bị xúc phạm sẽ cảm thấy bị tổn thương rất nhiều.
Sống với nhau giữa đời, đôi lúc có những lời ăn tiếng nói làm cho nhau tổn thương là điều không thể tránh khỏi vì những giới hạn yếu đuối, và do ảnh hưởng của tội nguyên tổ, con người ai cũng có tội. Thánh Gioan bảo rằng “Nếu chúng ta nói chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta” (1Ga 1,8). Cũng như tục ngữ Việt Nam có câu: “Chén úp chung trong một sóng còn khua”. Đúng thế, với người bên cạnh mình, ta lại càng dễ dàng xúc phạm đến họ. Cho nên người ta có lý khi nói rằng người ở gần mình nhất, người mình tin tưởng nhất lại là người có thể gây cho mình sự tổn thương nặng nề nhất. Một lời nói vô tình, một ánh nhìn phán xét, sự ích kỷ ghét ghen, thói kiêu ngạo khoe khoang, các đam mê dục vọng… tất cả đều là thứ vũ khí sắc nhọn mà ta có thể gây tổn thương người anh chị em một cách vô tình bất cứ lúc nào. Lời Thánh vịnh 51,13-15, thánh vương Đavid than phiền sự bất trung: “Giả như tên địch thù phỉ báng, thì tôi cũng cam lòng, hay kẻ ghét ghen lên mày lên mặt, tôi có thể lánh đi. Nhưng đây lại là bạn, người đồng vai đồng vế, chỗ thân tình tâm phúc với tôi, đã cùng tôi chia ngọt sẻ bùi…”
Cho nên, trước câu hỏi một cách chân thành và đầy thiện chí cũng như sự cố gắng muốn nên tốt lành của Phêrô, Chúa Giêsu đã trả lời bằng một câu vượt lên trên ý chí của con người. Phêrô hỏi về mức giới hạn của tha thứ, còn Chúa Giêsu dẫn Phêrô tới một sự tha thứ không giới hạn. Chúa diễn giải tinh thần tha thứ ấy bằng dụ ngôn tên đầy tớ không biết thương xót.
Nếu như mỗi ngày công là một quan tiền, thì với số nợ lên đến 10.000 yến vàng nghĩa là 10.000 x 6.000 quan tiền tương đương 60.000.000 ngày công. Một món nợ mà người này có phải trả tới 200.000 năm vẫn chưa xong! Nhưng anh van xin và tôn chủ chạnh lòng thương bỏ qua tất cả cho anh. Tuy nhiên tới lượt anh, khi đóng vai ông chủ nợ với số nợ chỉ là 100 quan tiền, tương đương 100 ngày công, người này lại là bạn của anh nữa chứ, nhưng anh ta đã không chịu bỏ qua. Vậy mới thấy, nơi lạnh nhất không phải là Bắc cực, mà là nơi không có tình người. Khi con người đối xử với nhau không có tình người thì sẽ bị Thiên Chúa phán xét. Bài đọc I trích sách Huấn Ca đã dạy: “Ngươi hãy tha thứ cho kẻ làm hại ngươi, thì khi ngươi cầu nguyện, ngươi sẽ được tha. Người này tích lòng giận ghét người kia, mà dám xin Chúa cứu chữa sao?”
Qua câu chuyện dụ ngôn này, Chúa Giêsu đã muốn chỉ ra thế nào là sự tha thứ mà Phêrô cần có. Tiêu chuẩn để tha thứ không còn là việc tha nhân đã xúc phạm đến mình như thế nào, nhưng là mình đã được tha thứ làm sao. Trên đời này, mọi thứ rồi sẽ qua đi, chỉ còn tình người ở lại. Vậy, bao lâu còn thời giờ, chúng ta được Chúa mời gọi hay biết làm điều tốt cho anh chị em mình và biết thứ tha cho nhau.
Câu chuyện về hai người bạn đang đi trên một con đường vắng vẻ. Khi đang trò chuyện cùng nhau họ bắt đầu tranh luận một cách gay gắt, ví quá tức giận người bạn của mình, người kia không kiềm chế được đã tát vô má anh nọ một cái thật mạnh. Người bạn kia rất đau nhưng không nói một lời nào, anh lặng lẽ viết lên bãi cát dòng chữ “Hôm nay, người bạn thân nhất của tôi đã tát vào mặt của tôi”.Rồi hai người vẫn tiếp tục đi, đến một con sông phải qua mà không có đò đưa, hai người lội qua. Khi ấy, anh bạn bị tát bị vọp bẻ và suýt chết đuối nhưng may nhờ bạn mình cứu kịp nên thoát chết. Khi đã được cứu lên được bờ và hết hoảng sợ, anh viết trên tảng đá bên bờ sông: “Hôm nay người bạn thân nhất đã cứu sống tôi”. Anh chàng kia ngạc nhiên hỏi: “Tại sao khi tôi đánh anh , anh viết trên cát, còn khi tôi cứu anh anh lại viết trên đá??” Mỉm cười anh trả lời ” Khi anh làm tôi đau, tôi viết trên cát, gió sẽ thổi bay chúng đi cùng với sự tha thứ, nhưng khi anh làm điều tốt là đã cứu tôi, tôi đã viết nó trên đá như ghi khắc vào trong trái tim của mình, không ngọn gió nào có thể xóa nhòa được”. Câu chuyện này có thể chúng ta đã nghe đi nghe lại nhưng cũng khó lắm để làm theo. Nhưng không thể chỉ vì cãi nhau mà có thể làm hỏng một kết nối bền chặt. Tuy nhiên, một nghịch lý luôn chi phối mọi tín hữu khi sống trong cộng đoàn, đó là chỉ muốn được tha thứ nhưng lại không dễ dàng thứ tha.
Chúng ta hãy luôn tha thứ vì Chúa muốn chúng ta như vậy, Chúa đã tha thứ cho chúng ta, nhận chúng ta làm con của Ngài nên không vì cớ gì mà chúng ta không tha thứ cho anh em mình. Thánh Phaolô mời gọi tín hữu Rôma và mỗi người chúng ta hãy sống một đời sống mới: “Không ai trong anh em được sống cho mình, và cũng không ai chết cho mình. Vì nếu chúng ta sống, là sống cho Chúa”.
Lạy Chúa, Là những Kitô hữu, chúng con thuộc về Chúa, xin giúp con nhận ra việc tha thứ luôn luôn và tha thứ tất cả trong tương quan với mọi người chính là điều kiện công bằng đòi buộc cho việc trước đó con đã được Thiên Chúa tha thứ luôn luôn và tất cả. Amen.
Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu dạy chúng ta về sự tha thứ. Người Do Thái xưa được dạy cho biết phải tha thứ cho nhau, nhưng các tôn sư không đồng ý với nhau là phải tha thứ đến lần thứ mấy thì thôi. Do đó, thánh Phêrô đã thắc mắc và hỏi Chúa. Chúa đã trả lời: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy”. Nghĩa là Chúa dạy: hãy tha thứ cho nhau, hãy tha thứ thật lòng, hãy tha thứ tất cả, hãy tha thứ luôn luôn, hãy tha thứ mãi mãi.
Để làm sáng tỏ vấn đề cũng như để chúng ta hiểu rõ và nhớ kỹ bài học này, Chúa minh hoạ thêm bằng một dụ ngôn rất hay để đối chiếu lòng Thiên Chúa đối với con người và lòng con người đối với nhau. Nơi Thiên Chúa là một lòng đại lượng xót thương vô bờ bến, chỉ cần con người lên tiếng khẩn nài, Chúa liền nhìn đến thân phận khốn khổ và nghèo nàn của chúng ta. Khi chúng ta phạm tội, chúng ta van xin Chúa, Ngài sẵn sàng tha thứ vô điều kiện, tha thứ trọn vẹn, không đòi hỏi gì nơi chúng ta cả. Ngược lại, lòng con người đối xử với nhau thì lại thật là quá ti tiện, nhỏ nhen, chúng ta hay chấp nhất nhau từng ly từng tý, chúng ta tức giận nhau, chúng ta để lòng oán hờn nhau, chúng ta nhất định không tha thứ. Thậm chí người ta hết lời và hết lòng xin lỗi, chúng ta vẫn cương quyết không tha, không bỏ qua, có người còn khẳng khái tuyên bố: “Sống để bụng, chết mang đi”. Hỏi mang đi đâu? Mang xuống hoả ngục chăng? Thật là mỉa mai, chua chát, đáng trách. Vì thế, Chúa bảo chúng ta phải sẵn lòng tha thứ, tha thứ luôn mãi bao lâu người anh em còn xúc phạm đến chúng ta, bởi vì Chúa đã tha thứ cho chúng ta, thì chúng ta cũng phải tha thứ cho nhau.
Tính cách tha thứ của Kitô giáo là tha thứ như mình đã được tha thứ, phải thương xót người khác như mình đã được Chúa xót thương. Như vậy, sự tha thứ không những là một nhiệm vụ luân lý mà còn là một đòi hỏi của lương tâm, một nhân đức đối thần, kéo dài tới tha nhân ơn tha thứ mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Ai trong chúng ta cũng có nhiều sai sót, những khuyết điểm, những tật xấu. Chúng ta cần được tha thứ, vì vậy chúng ta phải khiêm tốn xin lỗi Chúa và xin lỗi nhau. Có như thế lời kinh Lạy Cha: “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” mới trở thành một lời kinh quý giá và cụ thể.
Trong một căn nhà lụp xụp tại một xóm nghèo thuộc vùng ngoại ô thành phố, một người đàn bà đáng thương phải sống những ngày hẩm hiu với đàn con thơ dại. Chồng bà là một người cha tục tằn thô bạo, chỉ biết ăn chơi nhậu nhẹt và cờ bạc, không thiết chi đến bổn phận đối với gia đình. Ông vắng nhà suốt ngày, các con của ông chỉ thấy ông trở về mỗi buổi tối trong cơn say mèm hoặc trong trận lôi đình đập đánh, chửi rủa. Những lúc như thế, bà vợ chỉ biết đem các con giấu đi để bảo đảm tính mạng cho chúng. Ngày ngày bà cực nhọc vá may, hoặc vất vả giặt giũ từ nhà này sang nhà khác để kiếm tiền nuôi con. Trong thinh lặng, bà nhẫn nhục cam chịu mọi bạc bẽo và những trận đòn oan ức của chồng.
Vào một buổi tối kia, ông trở về nhà muộn hơn thường lệ, nhưng tỉnh táo và ít say sưa hơn. Vừa bước tới hè nhà, ông nghe tiếng thì thầm từ trong nhà vọng ra. Một nỗi nghi ngờ xâm chiếm tâm hồn ông. Máu ghen bừng bừng nổi dậy và nghĩ rằng: “thật vô phúc cho kẻ nào rơi vào tay ta”. Ông đứng lại trước cửa và ghé tai vào vách, trố mắt nhìn qua khe hở: quanh ngọn đèn dầu leo lét, ông thấy các con nhỏ quây quần bên cạnh vợ ông, ông nghe rõ tiếng bà nói với các con: “Các con hãy đọc thêm một kinh Lạy Cha để cầu nguyện cho người cha tốt lành của các con”.
Trước khung cảnh đầm ấm tình mẫu tử đó, bỗng chốc lửa hung ác trong trái tim ông như tắt ngúm, tâm hồn cứng cỏi của ông trở nên như sáp ong mềm ra trước hơi nóng, mắt ông như bừng sáng sau một cơn mê ngủ dài, ông đã nhận ra tấm lòng tốt và tình yêu quảng đại của vợ ông, người mà từ trước đến nay ông vẫn ngược đãi. Vợ ông không những đã tha thứ mà còn tìm cách xoá bỏ hình ảnh xấu về ông bằng cách in vào tâm trí các con mình hình ảnh tốt lành của ông như một người cha. Ông cảm thấy như có cục than hồng đốt cháy trên đầu ông, và từ ngày đó ông nhất quyết trở nên một người cha tốt lành, người chồng chung thuỷ và có tinh thần trách nhiệm như vợ con ông hằng nghĩ tốt về ông.
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy đâu là sức mạnh của lòng tha thứ. Tha thứ đổi mới tâm hồn, làm phát sinh sự sống mới, gây thêm lòng can đảm, để bắt đầu con đường sống mới. Tha thứ là lời mời gọi để tình yêu lớn lên. Tha thứ là cửa ngõ để mọi người có cơ hội làm lại mối giây liên hệ đã dập gẫy. Tình thương và mọi mối giây liên hệ trong gia đình, giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ chồng, giữa cha xứ và giáo dân, giữa những phần tử trong một nhóm, được phong phú hoá bởi tha thứ.
Lòng tha thứ quảng đại và vô điều kiện của người vợ trong câu chuyện trên là phản ánh lòng thương tha thứ vô biên của Thiên Chúa được mạc khải cho chúng ta qua Kinh thánh, nhất là nơi bản thân Chúa Giêsu, là hồng ân mà Thiên Chúa ban cho con người tội lỗi, Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta chia sẻ sứ mệnh của Ngài. Mỗi Kitô hữu cũng là một ơn tha thứ mà Thiên Chúa muốn trao tặng cho người khác. Mỗi ơn tha thứ là một cuộc biến đổi, Chúa Giêsu kêu mời chúng ta cùng với Ngài thực thi sứ mệnh trao ban ơn tha thứ hầu biến đổi anh chị em chúng ta nên người con thật tốt lành và đáng yêu của Chúa Cha, cũng như chính chúng ta đã được tha thứ và biến đổi.
44.Tha thứ mà không cần so đo tính toán
(Suy niệm của Lm. Phêrô Trần Minh Đức)
Đức quốc xã đã giết hàng triệu người Do thái trong đệ nhị thế chiến. Sự việc này đã xảy ra trên 50 năm nhưng cho đến nay thành phần lãnh đạo và giới trí thức của hai quốc gia nói chung rất dè dặt trong mối quan hệ ngoại giao, rất nhạy cảm mỗi khi đề cập, đá động đến chuyện xưa. Người Do thái thường nói: Chúng tôi có thể tha thứ, nhưng chúng tôi không thể nào quên tội ác của dân tộc Đức trong quá khứ!
Chúng ta phải tha thứ cho kẻ khác bao nhiêu lần? Tất cả đều có giới hạn của nó. Một lần là đủ rồi. Nếu không thì chúng ta sẽ đi về đâu? Chúng ta sẽ bị kẻ khác lợi dụng từng bước. Chúng ta nghĩ như thế, những người chung quanh cũng vậy. Thánh Phêrô cũng đã nghĩ như thế, và bởi vì nghĩ như thế cho nên ông cảm thấy mình khoan dung độ lượng, rất tự hào đến hỏi Đức Giêsu: “Nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải đến bảy lần không?”
Lẽ dĩ nhiên ai cũng biết: làm việc thiện thì tốt hơn làm điều xấu. Để nhận biết sự khác biệt giữa nhân đạo và vô nhân đạo con người chưa cần nại đến đức tin hay tôn giáo. Tha thứ, làm hoà: đó là kinh nghiệm mà mỗi người trong chúng ta đã từng trải. Nhưng chắc chắn ai cũng phải nhìn nhận rằng, tha thứ không phải là chuyện dễ dàng. Nếu như có ai lần đầu tiên vô tình hay hữu ý xúc phạm đến chúng ta, chúng ta có thể nhường nhịn, xí xoá bỏ qua. Thôi thì “chín bỏ làm mười”, hãy cho kẻ ấy một cơ hội. Nhưng được một lần thì lại có lần thứ hai, thứ ba! Khi chó bị dồn vào chân tường thì sẽ cắn quái! Đến một lúc nào đó chúng ta sẽ nổi giận và nói: Hắn đã xúc phạm đến tôi, tôi không thể nào dung thứ cho hắn. Tất cả đã quá trớn!
Đúng như thế, nếu nhìn sự việc theo những khía cạnh thuần tuý con người thì tất cả có lẽ đã quá trớn, nhưng cãi cọ xung khắc là lẽ thường tình của đời sống con người. Mỗi một mối quan hệ là một cuộc phiêu lưu. Ai muốn kết giao với kẻ khác đều phải chấp nhận mạo hiểm. Buổi ban đầu tất cả đều đẹp đẽ, đầy hứa hẹn. Nhưng nếu không biết trân trọng giữ gìn thì một ngày nào đó những vui thú hứng khởi lúc đầu thành tẻ nhạt, xung khắc bất đồng nảy sinh. “Không ưa thì dưa có giòi!” Chúng ta trở thành ích kỷ, chỉ nghĩ đến mình, sẽ rút lui vào vỏ ốc của mình, rào giậu, xây tường lũy chung quanh, bởi vì nỗi phập phồng lo sợ đã đi vào tận xương tủy. Nhưng “tức nước vỡ bờ”, những đè nén trong lòng sẽ nổ tung, khi chúng ta cảm thấy mình bị đe dọa tứ bề. Chúng ta sẽ tìm cách bảo vệ chính mình bằng mọi giá, nếu cần sẵn sàng bước qua xác chết!
Hơn lúc nào hết, ngày hôm nay chúng ta chứng kiến không biết bao nhiêu cuộc tranh tụng bùng nổ trong gia đình cũng như trong Giáo hội. Ly dị ngày càng nhiều! Chúng ta đã tìm đủ cách để làm thay đổi môi trường sống cũng như quan hệ của chúng ta. Nhưng dựa vào sức lực tự nhiên chúng ta không đủ khả năng để tha thứ cho kẻ khác mãi mãi, cho nên chúng ta đặt tiêu chuẩn, giới hạn. Chúng ta cần sự trợ giúp. Chúng ta cần một người sẵn sàng tha thứ cho chúng ta, để chúng ta có khả năng tha thứ. Câu trả lời của Đức Giêsu đã làm sáng tỏ một điều: Thiên Chúa đã ban tặng cho chúng ta ơn tha thứ. Câu chuyện mà Ngài kể giống như một tấm gương. Nếu như chúng ta có can đảm nhìn vào thì chúng ta sẽ khám phá hình ảnh của chính mình trong đó. Không phải chúng ta mà là chính Thiên Chúa đã thực hiện bước đầu tiên. Thiên Chúa đã tự giao hoà chúng ta với Người qua Đức Giêsu và đã sai phái chúng ta đi làm hoà với người khác. Dù chúng ta đã phạm tội gì đi nữa, dù chúng ta có phạm bao nhiêu lần đi nữa, Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ. Như Thiên Chúa, chúng ta hãy tha thứ cho nhau.
(Suy niệm của JB. Lê Ngọc Dũng)
Chúa Giêsu đã trả lời cho Thánh Phêrô về sự tha thứ. Đó là tha tới bảy mươi lần bảy, nghĩa là, tha mãi, tha hoài, tha vô hạn định. Tuy nhiên, qua phần dụ ngôn kế tiếp cho thấy, mặc dù được tha nợ quá lớn, quá nhiều, nhưng con người chúng ta, như người đầy tớ đã không chịu tha thứ, tha nợ cho người khác.
Vì sao con người chúng ta lại khó mà tha thứ cho nhau?
Ai đó đánh tôi, tôi có đánh lại không? Ai đó cướp bóc hành hạ tôi, tôi có trả thù không? Ai đó mắng chưởi hay nói hành nói xấu tôi thì liệu tôi có im lặng chịu thua không? Có lẽ chỉ người điên điên khùng khùng không nghe không hiểu, hoặc lành thánh lắm mới im lặng tha thứ.
Trả thù như đã nằm trong bản năng hiếu chiến của con người nên khó mà làm ngược lại. Trong các phim võ hiệp Trung quốc, một nét khá nổi bật, đó là sự trả thù. Dĩ nhiên là phải có thù hận mới có đánh nhau, nếu không có thù hận làm sao đánh nhau. Thế nhưng có điều rất lạ là việc trả thù được coi như là một nghĩa vụ. Con phải báo thù cho cha mẹ, trò phải báo thù cho sư phụ, nếu không thì mang tội bất hiếu, bất trung, hơn thế nữa mang tội với trời đất.
Tại sao họ làm như vậy? Không những vì bản năng đấu tranh để sinh tồn mà còn vì quan niệm: Có ân nghĩa thì đền đáp, có thù thì phải trả. Đó là quan niệm căn cứ trên lẽ công bằng.
Chính cái lý lẽ công bằng có sẵn trong tâm trí con người đã khiến con người không thể tha thứ: Có ân nghĩa thì đền đáp, có thù thì phải trả. Nói một cách khác, tâm trí ta không chịu được sự bất công, sự phi lý của kẻ khác. Thằng hàng xóm nó lừa gạt ta, ta phải cho nó biết tay; anh em trong nhà bê tha rượu chè, trộm cắp tiền bạc, đứa con dâu hổn hào láo xược, tôi phải cho nó một bài học, phải trừng trị thích đáng!
Thế thì làm sao chúng ta có thể thoát khỏi cái lý lẽ trói buộc ta như thế?
Chỉ có Đức Giêsu mới có thể giải thoát chúng ta khỏi sự ghen ghét, thù hận, hay thoát khỏi những tức giận của ta trước sự bất công, phi lý. Ngài chỉ cho ta thấy, chính vì sự công bình mà đòi ta phải tha thứ.
Anh đã được tha thứ, vậy anh phải tha thứ thì mới công bằng chứ. Anh đã được tha nợ mười ngàn nén vàng mà bây giờ anh lại không tha cho người khác chỉ nợ anh có một trăm nén bạc. Quả là bất công! Anh phải bị phạt vì anh hành xử cách bất công quá lớn.
Mỗi người chúng ta đã nhận được từ Thiên Chúa ân huệ quá lớn. Ta được tạo dựng từ hư không, được sinh sống và lớn lên trên quả địa cầu này, sử dụng đất đai cầy cấy, nuôi trồng, khai thác tài nguyên thiên nhiên, sông núi biển khơi, hưởng gió mát trăng thanh… mà chẳng phải trả cho Thiên Chúa một đồng nào. Nếu như Thiên Chúa đòi trả thì ta phải trả cho Ngài bao nhiêu? Quả là vô giá và không thể nào trả nỗi. Thiên Chúa còn cho Con Ngài là Đức Giêsu Kitô chịu chết trên thập giá để chuộc tội chúng ta, để chúng ta có thể sống hạnh phúc mãi mãi đời sau. Nếu Thiên Chúa đòi thì ta trả Ngài bao nhiêu?
Thật ra, ta chỉ giả thiết chứ Thiên Chúa không bao giờ đòi ta trả một cách tương xứng, Ngài chỉ đòi ta tha thứ cho người khác, yêu thương người khác. Một sự tha nợ, tha thứ của ta cho dù ta thấy lớn, ta thấy rất lớn, thật sự vẫn là quá bé nhỏ so với ân huệ lớn lao, mà ta đã thụ hưởng, đã lãnh nhận từ Thiên Chúa.
Tại một nhà thờ ở bên Tây Ban Nha, có một tượng Thánh giá cổ rất đặc biệt. Cánh tay trái của Chúa Giêsu vẫn còn đóng vào gỗ thánh giá, nhưng cánh tay mặt thì rời ra và đưa ra phía trước trong tư thế ban phước lành.
Người Tây Ban Nha kể về nguồn gốc của tượng Thánh Giá này như sau: Một hôm có một tội nhân đến xưng tội với một vị linh mục chính xứ ngay dưới chân cây thánh giá này. Như thường lệ, mỗi khi giải tội cho một tội nhân có quá nhiều tội nặng, vị linh mục này thường tỏ ra rất nghiêm khắc. Ngài ra việc đền tội nặng cũng như ngăm đe nhiều điều.
Tội nhân ra về lòng cảm thấy nhẹ nhàng. Nhưng tính nào tật đó, không bao lâu người đó lại sa ngã. Lần này sau khi anh xưng thú tội lỗi, vị linh mục lại đe dọa như sau: “Đây là lần cuối cùng tôi giải tội cho ông”.
Nhiều tháng trôi qua, tội nhân lại đến quỳ dưới chân linh mục cũng bên dưới cây Thánh giá và lại xin ơn tha thứ một lần nữa. Nhưng lần này vị linh mục đã dứt khoát. Ngài trả lời: “Ông đừng có đùa với Chúa. Tôi không thể giải tội cho ông nữa”.
Nhưng lạ lùng thay, khi vị linh mục vừa khước từ tội nhân, thì bỗng ông nghe một tiếng thì thầm từ bên Thánh giá. Bàn tay phải của Chúa Giêsu bỗng được rút ra khỏi Thánh giá và ban phép lành cho tội nhân. Và vị linh mục lại nghe tiếng thì thầm ấy như sau: “Chính ta là người đổ máu ra cho người này, chứ không phải là ngươi”.
Bên kia của sự oán thù, của sự không thể tha thứ, Chúa Giêsu muốn chỉ cho chúng ta thấy được tình yêu của Thiên Chúa: một tình yêu không ngừng tha thứ, không ngừng ban phát ơn huệ, một tình yêu vượt lên mọi tư tưởng, mọi tiêu chuẩn phán đoán, mọi khát vọng của chúng ta.
Nhìn lên Thập giá chúng ta cảm nếm được ơn tha thứ của Ngài, cảm nếm được ân huệ vô song từ Thiên Chúa, mà ta chẳng bao giờ có thể đáp đền cho cân xứng được. Xin Chúa cho chúng ta luôn cảm nếm được những ân huệ lớn lao, tình yêu thương vô bờ bến đó, để chúng ta có được động lực mà ban phát, mà cảm thông, mà tha thứ cho anh chị em của chúng ta.
Tin cùng chuyên mục:
Dự án Nhà Mẹ Lavang-Fatima và đại lễ khánh thành và làm phép tượng đài Đức Mẹ Lavang-Fatima do Đức Tổng Giám mục Giuse Nguyễn Năng chủ tế
Ngôn ngữ của tình yêu
Sứ điệp của Đức Thánh Cha nhân Ngày Thế giới Truyền giáo 2023
Thứ tư tuần XXVI thường niên, Thánh Phaxicô Assisi: Không có gì quí hơn là Thập Giá của Đức Kitô