Con người mong muốn được sống mãi mãi; nhưng tất cả đều phải đối mặt với cái chết. Có phải cái chết là kết thúc của tất cả mọi thứ? Nhiều người nghĩ vậy; nhưng đa số tin rằng linh hồn con người là bất tử vì nó không được tạo ra bởi những thứ vật chất như cơ thể con người. Nhưng những câu hỏi như: Sau khi chết linh hồn sẽ ở đâu? Linh hồn của người công chính và linh hồn của kẻ ác sẽ ở cùng một nơi? Một linh hồn làm gì trong kiếp sau? Chỉ có người Công giáo mới có câu trả lời cho những câu hỏi này.
Các Bài Đọc : Eze 37:12-14; Rm 8,8-11; Ga 11:1-45 (11:3-7, 17, 20-27, 33b-45).
1/ Bài đọc I : RSV Ezekiel 37:12 Vậy, hãy nói tiên tri và nói với chúng: “Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Này, Ta sẽ mở mồ mả các ngươi, và nâng các ngươi ra khỏi mồ mả, hỡi dân Ta; và tôi sẽ đưa bạn trở về nhà trong vùng đất của Y-sơ-ra-ên. 13 Và các ngươi sẽ biết rằng ta là Đức Giê-hô-va, khi ta mở mồ mả các ngươi, và nâng các ngươi ra khỏi mồ mả, hỡi dân ta. 14 Và ta sẽ đặt Thần ta trong các ngươi, và các ngươi sẽ sống, và ta sẽ đặt các ngươi trong xứ sở của các ngươi; bấy giờ các ngươi sẽ biết rằng ta, Đức Giê-hô-va, đã phán và đã làm, Đức Giê-hô-va phán vậy.”
2/ Bài Đọc II : RSV Rm 8:8 Ai sống theo xác thịt thì không thể đẹp lòng Thiên Chúa. 9 Nhưng bạn không ở trong xác thịt; bạn ở trong Thánh Linh, nếu quả thật Thánh Linh của Đức Chúa Trời ngự trong bạn. Ai không có Thần Khí của Đức Kitô thì không thuộc về Người. 10 Nhưng nếu Đấng Christ ở trong anh em, thì mặc dù thân thể anh em chết vì tội lỗi, nhưng linh hồn anh em sống vì sự công chính. 11 Nếu Thánh Linh của Đấng đã khiến Đức Chúa Jêsus sống lại từ cõi chết ở trong anh em, thì Đấng đã khiến Đức Chúa Jêsus Christ sống lại từ cõi chết cũng sẽ ban sự sống cho thân thể hay chết của anh em nhờ Thánh Linh của Ngài ngự trong anh em.
3/ Tin Mừng : RSV Ga 11:1 Bấy giờ có một người đau yếu, tên là Ladarô, quê ở Bêtania, làng của Maria và chị là Martha. 2 Chính Ma-ri đã xức dầu thơm cho Chúa và lấy tóc mình lau chân Ngài, người anh La-xa-rơ bị bệnh. 3 Các chị sai người đến nói với Người: “Thưa Thầy, người Thầy yêu đang lâm trọng bệnh”. 4 Nghe vậy, Đức Giê-su nói: “Bệnh này không đến nỗi chết; đó là vì sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, để Con Đức Chúa Trời nhờ đó mà được vinh hiển.” 5 Chúa Giê-xu yêu Ma-thê, em cô và La-xa-rơ. 6 Nghe tin mình bị bệnh, ông lưu lại nơi mình ở thêm hai ngày nữa. 7Sau đó, Ngài nói với các môn đồ, “Chúng ta hãy trở lại xứ Giu-đê.” 8 Các môn đệ thưa Người rằng: “Thưa Thầy, người Do-thái mới tìm cách ném đá Thầy mà Thầy lại đến đó sao?” 9 Chúa Giê-xu đáp, “Một ngày không có mười hai giờ sao? Ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì thấy ánh sáng của thế gian. 10 Song nếu ai đi ban đêm, thì vấp ngã, vì không có ánh sáng nơi mình.” 11 Người nói thế rồi bảo họ: “Ladarô, bạn của chúng ta, đang ngủ, Thầy đi đánh thức anh ấy”. 12 Các môn đệ thưa Người: “Thưa Thầy, nếu anh ấy yên giấc, anh ấy sẽ được bình phục.” 13Bấy giờ Đức Giê-su nói về cái chết của Người, nhưng họ tưởng Người muốn nói về giấc ngủ. 14Chúa Giê-xu nói rõ ràng với họ, “La-xa-rơ đã chết; 15 và vì lợi ích của bạn, tôi rất vui vì tôi đã không ở đó, để bạn có thể tin. Nhưng chúng ta hãy đến với anh ấy.” 16 Thô-ma, gọi là Song Sinh, nói với các bạn đồng môn, “Chúng ta cũng hãy đi để cùng chết với Ngài.” 17 Khi Đức Chúa Jêsus đến, thấy La-xa-rơ đã ở trong mộ được bốn ngày rồi. 18 Bê-tha-ni ở gần Giê-ru-sa-lem, cách khoảng hai dặm, 19 có nhiều người Do Thái đến nhà Ma-thê và Ma-ri để an ủi họ về em của họ. 20Khi Ma-thê nghe tin Chúa Giê-xu đến, cô đi đón Ngài, còn Ma-ri thì ngồi trong nhà. 21 Ma-thê thưa với Chúa Giê-xu, “Thưa Chúa, nếu có Chúa ở đây thì em con đã không chết. 22 Và ngay bây giờ tôi biết rằng bất cứ điều gì anh cầu xin Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời sẽ ban cho anh.” 23 Chúa Giê-xu bảo bà, “Anh bà sẽ sống lại.” 24 Ma-thê thưa rằng: Tôi biết rằng anh ấy sẽ sống lại trong ngày sau hết sống lại. 25 Chúa Giê-xu bảo bà, “Ta là sự sống lại và sự sống; Ai tin vào Thầy, thì dù có chết cũng sẽ được sống, 26 còn ai sống mà tin Thầy thì không chết bao giờ. Bạn có tin điều này không?” 27Cô ấy nói với anh ấy, “Vâng, thưa Chúa; Con tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian.” 28 Nói xong, cô về gọi chị mình là Ma-ri-a và nói nhỏ: “Thầy đến rồi, Thầy gọi em.” 29 Nghe tin ấy, bà vội đứng dậy đi đến với Người. 30 Bấy giờ Đức Giê-su chưa đến làng, Người còn ở chỗ Ma-thê đã gặp Người. 31 Những người Giu-đa đang ở trong nhà an ủi Ma-ri, thấy Ma-ri vội đứng dậy đi ra, thì đi theo, tưởng rằng Ma-ri đến mồ để khóc. 32Bấy giờ, Ma-ri đến chỗ Chúa Giê-xu, thấy Ngài, bèn sấp mình dưới chân Ngài mà thưa rằng: “Lạy Chúa, nếu có Chúa ở đây, thì em con đã không chết.” 33 Đức Giê-su thấy bà khóc và những người Do-thái đi với bà cũng khóc, Người xúc động và xao xuyến; 34 Người hỏi: “Các ngươi để xác nó ở đâu?” Họ nói với Ngài, “Thưa Ngài, xin đến xem.” 35 Chúa Giêsu khóc. 36 Người Do-thái nói: “Kìa ông ấy yêu mến ông ấy biết bao!” 37Nhưng có mấy người trong bọn họ nói: “Đấng đã mở mắt cho người mù lại không thể giữ cho người này khỏi chết sao?” 38 Đức Chúa Jêsus lại xúc động nữa, đến mộ; đó là một hang động, và một hòn đá nằm trên đó. 39Chúa Giêsu nói: “Hãy lăn tảng đá đi”. Ma-thê, em gái người chết, thưa rằng: Lạy Chúa, đã có mùi, vì anh ấy đã chết bốn ngày rồi. 40 Đức Giê-su nói với bà: “Tôi đã chẳng nói với bà rằng nếu bà tin thì bà sẽ thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?” 41 Thế là họ lăn tảng đá đi. Và Chúa Giêsu ngước mắt lên và nói: “Lạy Cha, con cảm ơn Cha đã nghe con. 42 Con biết Cha luôn nghe con, nhưng con nói điều này vì những người đang đứng gần đó, để họ tin rằng Cha đã sai con.” 43 Nói xong, Người kêu lớn tiếng: “Anh Ladarô, hãy ra đây!” 44Người chết đi ra, tay chân quấn băng, mặt phủ khăn. Chúa Giê-xu bảo họ, “Hãy cởi trói cho anh ấy và để anh ấy đi.” 45 Nhiều người Do-thái đã đến với Ma-ri và chứng kiến việc Ngài làm, thì tin Ngài.
I. CHỦ ĐỀ : Thiên Chúa có quyền trên cả sự sống và sự chết.
Con người mong muốn được sống mãi mãi; nhưng tất cả đều phải đối mặt với cái chết. Có phải cái chết là kết thúc của tất cả mọi thứ? Nhiều người nghĩ vậy; nhưng đa số tin rằng linh hồn con người là bất tử vì nó không được tạo ra bởi những thứ vật chất như cơ thể con người. Nhưng những câu hỏi như: Sau khi chết linh hồn sẽ ở đâu? Linh hồn của người công chính và linh hồn của kẻ ác sẽ ở cùng một nơi? Một linh hồn làm gì trong kiếp sau? Chỉ có người Công giáo mới có câu trả lời cho những câu hỏi này.
Các bài đọc hôm nay chuyển từ bầu khí Mùa Chay sang bầu khí phục sinh và sự sống vĩnh cửu. Đoạn trong bài đọc một là đoạn kết của thị kiến ngôn sứ Ezekiel về cánh đồng xương khô. Chúa có quyền sáng tạo và tái tạo. Chúa ra lệnh cho Ezekiel nói tiên tri về những bộ xương khô để chúng có thể liên kết với nhau, có gân để giữ chúng lại với nhau và có da để bọc chúng lại, nhưng chưa có hơi thở để sống. Sau đó, Đức Chúa Trời ban cho họ thần khí của Ngài và họ trở thành những người sống. Trong bài đọc II, thánh Phaolô so sánh hai lối sống theo tinh thần và theo xác thịt. Lối sống theo xác thịt chỉ đưa con người đến sự hủy diệt, nhưng lối sống theo tinh thần sẽ đưa con người đến sự sống và sự sống vĩnh cửu. Trong phúc âm, tác giả của Tin Mừng Thứ Tư thuật lại một phép lạ ngoạn mục chưa từng xảy ra trước đây; Chúa Giê-su đã khiến La-xa-rơ sống lại sau bốn ngày trong mộ. Ông cũng tiết lộ chiều kích của thuyết cánh chung đã được nhận ra, “Ai sống và tin vào tôi thì sẽ không bao giờ chết.”
II. PHÂN TÍCH
1/ Bài đọc I : “Hỡi dân Ta, các ngươi sẽ biết Ta là Đức Chúa, khi Ta mở mồ mả các ngươi và nâng các ngươi ra khỏi mồ mả”.
1.1/ Quan niệm của người Do Thái về Sheol: Tên này có nhiều ý nghĩa, nó có thể là nấm mồ, vực thẳm, nơi tăm tối hay nơi ở của người chết. Quan niệm của người Do Thái về Sheol thay đổi theo thời gian. Lúc đầu, họ tin rằng Sheol là nơi dành cho tất cả những người chết vì tất cả mọi người đều phải chết (Thi thiên 89:47-48). Ai tin Đức Chúa Trời và tuân giữ luật pháp của Ngài thì được phú quý, con cháu nối dõi, trường thọ; nhưng một khi họ chết, họ phải vào Sheol. Một khi con người bước vào đó, họ sẽ không được hồi sinh hoặc trở lại trái đất (Gióp 7:9-10). Mặc dù Sheol là một nơi tối tăm, nhưng họ tin rằng Chúa có thể nhìn thấy tất cả mọi người trong đó (Gióp 26:6, Thi thiên 139:8). Dần dần nó trở thành nơi ở của kẻ ác và tội nhân đã từ bỏ Đức Chúa Trời (Thi thiên 9:17). Sự thay đổi này có thể diễn ra đồng thời với quan niệm của người Do Thái về sự sống vĩnh cửu.
Các tác giả của một số Thi thiên và Sách tiên tri đã ví cuộc sống đau khổ của dân Y-sơ-ra-ên trong thời gian bị lưu đày như sống trong Âm phủ, và việc trở về quê hương của họ giống như bước ra khỏi đó, “Tôi được kể vào số những người đi xuống Âm phủ; Tôi là một người không có sức lực, như kẻ bị bỏ rơi giữa cõi chết, như kẻ chết nằm trong mồ mả, như kẻ mà Chúa không còn nhớ đến nữa, vì chúng đã bị chặt khỏi tay Chúa. Chúa đặt tôi trong vực sâu, Trong vùng tăm tối và vực thẳm” (Thi thiên 88:4-6). Pit được hiểu là Sheol.
1.2/ Chỉ có Đức Chúa Trời mới có quyền dẫn dắt con người ra khỏi Âm phủ: Cựu Ước đã nhiều lần đề cập đến việc được đưa ra khỏi mồ mả, hố sâu hay Âm phủ (Thi thiên 30:3, 49:15, 71:20, 86:13, 88 :4-6, Lam. 3:54ff, Jon. 2:3-7). Đức Chúa Trời có quyền giải thoát những người ở trong Âm phủ khi họ cầu nguyện với Ngài (Thi thiên 116:3-6).
Nhà tiên tri Ê-xê-chi-ên, người sống trong thời kỳ lưu đày, đã tiếp tục truyền thống này khi ông tiên tri: “Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Này, ta sẽ mở mồ mả các ngươi, và nâng các ngươi ra khỏi mồ mả, hỡi dân ta; và tôi sẽ đưa bạn trở về nhà trong vùng đất của Y-sơ-ra-ên. Và các ngươi sẽ biết rằng ta là Đức Giê-hô-va, khi ta mở mồ mả các ngươi, và nâng các ngươi ra khỏi mồ mả, hỡi dân ta.” Đoạn này thuộc về thị kiến của tiên tri Ezekiel về thung lũng đầy xương khô. Trong chương 37, Đức Chúa Trời truyền cho nhà tiên tri nói tiên tri hai lần: lần thứ nhất là để xương khô nối với các xương khác; lần thứ hai là để hồn cung cấp hơi thở cho xác sống lại.
Trong phân đoạn Kinh Thánh hôm nay, Đức Chúa Trời phán: “Ta sẽ đặt Thần ta trong các ngươi, thì các ngươi sẽ sống.” Chúng ta có thể thấy sự ám chỉ đến lời tường thuật thứ hai về việc Đức Chúa Trời sáng tạo loài người trong Sáng thế ký 2:7. Nhưng đâu là sự khác biệt giữa lời tiên tri thứ hai của nhà tiên tri và lần này? Rất khó giải thích vì trong tiếng Do Thái chỉ có một từ “ ruah ” để chỉ gió, hơi thở, tinh thần con người và Chúa Thánh Thần.
Vấn đề quan trọng là nhận biết quyền năng của Đức Chúa Trời trong sự phục sinh của kẻ chết, “Bấy giờ các ngươi sẽ biết rằng ta, Đức Giê-hô-va, đã phán và ta đã làm, Đức Giê-hô-va phán vậy.” Khi người ta thấy Đức Chúa Trời mở mồ mả và đem họ ra khỏi đó, họ sẽ biết Ngài là Đức Giê-hô-va. Không ai có thể làm những việc như Ngài. Lời tiên tri này đã được ứng nghiệm khi Đức Chúa Trời để các vua Ba Tư, Cyrus và Darius, ký sắc lệnh giải phóng dân Y-sơ-ra-ên và cho phép họ trở về đất nước của họ sau cuộc lưu đày; nhưng hầu hết các Giáo phụ đều hiểu tầm nhìn này là Ngày phán xét cuối cùng khi cơ thể con người sẽ được phục sinh và hợp nhất với linh hồn của họ để chịu sự phán xét của thần thánh.
2/ Bài đọc II : Lối sống theo Thần Khí so với lối sống xác thịt
Chương tám của Thư gửi tín hữu Rôma nên được đọc cùng với chương sáu và bảy vì một khi con người được Chúa Kitô giải thoát khỏi ách nô lệ cho tội lỗi, luật lệ và sự chết, thì họ được tự do sống theo Thần Khí. Nhiều người đã hiểu lầm Phao-lô là người quảng cáo về một đời sống mà trong đó người ta chỉ cần tin Đấng Christ là được cứu rỗi và không cần phải làm việc lành. Trong chương tám, Thánh Phaolô giải thích rằng con người đã được Chúa Kitô giải thoát khỏi ách nô lệ của xác thịt để họ được tự do sống theo sự hướng dẫn của Thần Khí.
2.1/ Sống theo xác thịt: Theo thánh Phaolô, đây là lối sống của những người hoàn toàn sống theo những đam mê của con người như: sự tham lam của mắt, lòng ham muốn và đam mê của xác thịt. Những ai sống theo lối sống này giống như thú dữ vì họ hành động theo bản năng; nhưng con người không thể hành động như vậy vì Thượng đế tạo ra con người có linh hồn, trí tuệ và ý chí tự do để kiểm soát mọi sức mạnh của cơ thể họ. Thánh Phaolô mô tả sự kiểm soát này như sau: “Nhưng anh em không ở trong xác thịt; bạn đang ở trong Thánh Linh, nếu quả thật Thánh Linh của Đức Chúa Trời ngự trong bạn.”
Thần Khí Thiên Chúa cũng chính là Thần Khí Chúa Kitô ngự trong tâm hồn người tín hữu để hướng dẫn và ban sức mạnh cho họ sống theo chân lý. Ngược lại, “Còn những người sống theo xác thịt thì không thể làm đẹp lòng Đức Chúa Trời.”
2.2/ Sống theo Thần Khí Chúa Kitô: Thánh Phaolô liệt kê ba mối lợi chính cho những ai sống theo Chúa Thánh Thần:
(1) Thần linh giúp con người sống làm người: Nếu con người sống theo đam mê của mình thì sống như mọi loài vật và sẽ bị tiêu diệt; nhưng nếu họ sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, thì họ sống như những con người theo ý định của Thiên Chúa khi Ngài tạo dựng nên họ và sẽ được tồn tại mãi mãi.
(2) Thần Khí giúp con người trở nên công chính: Vì luật pháp không có quyền làm cho con người trở nên công chính, nên Thiên Chúa ban Thần Khí của Ngài để giúp con người tin vào Đức Kitô và làm theo những điều Người dạy.
(3) Thần Khí sẽ làm cho người ta sống lại từ cõi chết: Phaolô nói: “Nếu Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết cư ngụ trong anh em, thì Đấng đã làm cho Đức Kitô Giêsu sống lại từ cõi chết cũng sẽ ban sự sống cho thân xác hay chết của anh em qua Người. Linh ngự trong bạn.”
3/ Tin Mừng : “Anh Ladarô, hãy ra”.
Tin mừng hôm nay, chương mười một, được đặt trong bối cảnh những ngày cuối cùng của Chúa Giêsu trên thế giới này. Theo cấu trúc của Tin Mừng Thứ Tư, Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu bắt đầu từ chương mười ba. Trong chương mười một, Ngài khiến La-xa-rơ sống lại từ cõi chết. Đây là yếu tố quyết định vì nó dẫn đến cuộc Thương Khó và Cái Chết của Người. Chúa Giêsu muốn cho mọi người thấy rằng nếu Người có quyền làm cho một người sống lại từ cõi chết, thì Người cũng có quyền làm cho người chết sống lại như Người đã nhiều lần báo trước cho các môn đệ. Cái chết không có quyền lực đối với anh ta. Điều kỳ diệu này có tác dụng to lớn đối với khán giả vì họ muốn sống và sống mãi mãi.
Chương 12 tường thuật phản ứng của mọi người về phép lạ này. Đó là lý do mà các thành viên của Tòa công luận đã quyết định án tử hình cho Người (Ga 11:53) và cả Ladarô (Ga 12:10-11) vì Người mà nhiều người đã bỏ họ để theo Chúa Giêsu. Người Pha-ri-sêu ghen tị khi thấy Đức Giê-su có ảnh hưởng lớn đối với người ta, họ nói với nhau: “Các ông thấy mình chẳng làm được gì cả; kìa, cả thế gian đã chạy theo Người” (Ga 12,19). Chúng ta có thể phân tích chương mười một theo năm hồi như sau:
3.1/ Chúa Giêsu với các môn đệ:
– Khi nghe tin Lazarô lâm trọng bệnh, Chúa Giêsu không đến ngay mà đợi hai ngày nữa mới đi? Có người nói vì giờ của Người chưa đến như khi mẹ Người thúc giục Người làm tiệc cưới Cana (Ga 2:1-11) hay các môn đệ thúc giục Người lên Giêrusalem (Ga 7:1-10). Người khác nói vì ông muốn Ladarô chết thật và bốc mùi hôi thối để không ai nghi ngờ về quyền năng làm người từ cõi chết sống lại của ông. Ý kiến thứ hai là hợp lý do những gì Chúa Giêsu nói sau đó (11:14).
– Trong Tin Mừng Thứ Tư, không có ba lần tường thuật về phản ứng của các môn đệ Chúa Giêsu khi Người báo trước cho họ những điều sắp xảy đến cho Người tại Giêrusalem như trong Nhất Lãm; đây là lần duy nhất các môn đệ của Chúa Giêsu ngăn cản Người khi Người muốn trở lại Giêrusalem khi họ nói: “Thưa Thầy, người Do Thái mới tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy lại đến đó sao?”
– Một ngày của người Do Thái cũng có 24 giờ và được tính từ 18h hôm trước đến 18h hôm sau; ví dụ, ngày Sa-bát của họ được tính từ 6 giờ chiều Thứ Sáu đến 6 giờ chiều Thứ Bảy. Mọi người chỉ có thể làm việc trong mười hai giờ trong ngày vì họ không có điện như thời của chúng tôi. Đêm được chia thành năm canh và là thời gian để nghỉ ngơi, không phải để làm việc. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu nói với các môn đệ của mình, “Không phải có mười hai giờ trong ngày sao? Ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì thấy ánh sáng của thế gian. Song ai đi ban đêm thì vấp ngã, vì không có ánh sáng nơi mình.”
Có ba điều Chúa Giêsu muốn nói trong câu này: Thứ nhất, thời gian của cuộc đời chúng ta được Thiên Chúa đếm. Nếu chúng ta muốn làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời, chúng ta nên bắt đầu làm điều đó trước khi quá muộn; một khi thời gian của chúng tôi đã hết, chúng tôi không thể yêu cầu thêm thời gian để làm điều đó. Câu nói này cũng chính là câu nói mà Chúa Giê-xu đã nói với các môn đồ trong Giăng 9:4. Thứ hai, chúng ta có đủ thời gian để làm việc và không cần phải vội vàng. Đừng đợi nước đến chân mới nhảy. Cuối cùng, chúng ta phải sử dụng thời gian để mang lại lợi ích cho bản thân và những người khác; chúng ta không nên lười biếng cũng như lãng phí thời gian của mình.
– Trong Tin Mừng Thứ Tư, Chúa Giêsu có thói quen dùng từ gây trớ trêu; chẳng hạn, trạng từ “ anothen ” trong tiếng Hy Lạp có thể có nghĩa là “lại” hoặc “từ trên cao” trong (Ga 3:3-8); “ udor zôn ” có thể có nghĩa là “nước uống” hay “nước ban sự sống” (Ga 4:10-15); và trong đoạn văn hôm nay, “ koimasthai ” có thể có nghĩa là “ngủ” hoặc “chết—ngủ vĩnh viễn.” Các môn đệ của Chúa Giêsu hiểu điều đó theo nghĩa thứ nhất, nên họ nói với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, nếu anh ấy yên giấc, anh ấy sẽ được bình phục.” Sau đó, Chúa Giê-su giải thích rõ ràng: “La-xa-rơ đã chết; và vì lợi ích của bạn, tôi rất vui vì tôi đã không ở đó, để bạn có thể tin tưởng. Nhưng chúng ta hãy đến với anh ấy.”
3.2/ Chúa Giê-su với Ma-thê, chị của La-xa-rơ: Trong Nhất Lãm cũng như trong sách Giăng, Ma-thê được mô tả là người hành động và nói năng nhanh nhẹn trong khi Ma-ri là người suy nghĩ nhiều hơn nói. Khi nghe tin Đức Giê-su đến, bà chạy ra đón Người và nói: “Thưa Thầy, nếu Thầy có ở đây thì em con đã không chết. Và ngay cả bây giờ tôi biết rằng bất cứ điều gì bạn xin từ Chúa, Chúa sẽ ban cho bạn. Ma-thê tin rằng Chúa Giê-xu có quyền năng chữa lành mọi thứ bệnh tật; nhưng để sống lại anh trai cô từ cõi chết, cô không bao giờ nghĩ đến. Có một tiết lộ quan trọng của Chúa Giê-su trong cuộc trò chuyện với Ma-thê về hai loại cánh chung: cánh chung trong tương lai—điều gì sẽ xảy ra vào Ngày Cuối cùng và cánh chung được nhận ra—điều đang xảy ra hiện tại.
(1) Thuyết cánh chung trong tương lai: Nhiều người Do Thái cùng thời với Chúa Giê-su đã tin vào sự sống lại và sự sống đời đời như chúng ta tìm thấy trong Đa-ni-ên (12:2) và II Maccabees (7:14; 12:43). Vì vậy, khi Chúa Giê-su nói: “Em ngươi sẽ sống lại.” Ma-thê thưa rằng: Tôi biết rằng đến ngày sau rốt, anh ấy sẽ sống lại.
(2) Ngày cánh chung được nhận thức: Chúa Giê-su nói với Ma-thê: “Ta là sự sống lại và sự sống; Ai tin vào Thầy, thì dù có chết cũng sẽ được sống, còn ai đang sống mà tin vào Thầy, thì sẽ không bao giờ chết. Bạn có tin điều này không?” Theo Chúa Giêsu, con người không phải đợi đến Ngày Cuối Cùng mới có sự sống đời đời. Nếu họ tin tưởng mạnh mẽ vào anh ta, họ đã sống cuộc sống đó trong sự hiện diện; cái chết thể xác chỉ là sự chuyển tiếp từ cuộc sống này sang cuộc sống tiếp theo trong khi mối quan hệ của họ với Thiên Chúa không thay đổi. Khi con người không sợ bất cứ điều gì, kể cả cái chết, thì họ đang sống thực sự và trọn vẹn.
– Ma-thê đã tuyên xưng nhiều danh hiệu Kitô học cho Chúa Giê-su, “Lạy Chúa, vâng; Con tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian.”
3.3/ Chúa Giêsu với Maria: Theo truyền thống, người Do Thái để tang người quá cố từ bảy ngày đến một tháng, tùy theo quan hệ, tình nghĩa. Maria không biết Chúa Giêsu đến nên cô tiếp tục khóc cho anh mình. Khi Ma-thê trở về, gọi Ma-ri, em gái mình, và nói nhỏ: “Thầy đang gọi chị đây.” Nghe vậy, nàng vội đứng dậy đi đến bên chàng. Những người Do-thái đang ở trong nhà an ủi bà, thấy bà vội vã đứng dậy đi ra, thì đi theo, tưởng bà đến mộ để khóc.
– Phản ứng của Ma-ri: Cũng như Ma-thê, khi đến chỗ Chúa Giê-su, thấy Ngài, thì sấp mình dưới chân Ngài mà thưa rằng: “Lạy Chúa, nếu có Chúa ở đây thì em con đã không chết.”
– Phản ứng của Chúa Giêsu: Khi Chúa Giêsu thấy bà khóc và những người Do Thái đi với bà cũng khóc, thì tâm hồn Người xúc động và xao xuyến ; và ông ấy nói, “Các người đã đặt anh ấy ở đâu?” Họ nói với Ngài, “Thưa Ngài, xin đến xem.” Chúa Giêsu đã khóc . Hai động từ Hy Lạp được dùng để mô tả cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu là “ embrimasthai ” và “ tarassein.” Động từ thứ nhất xuất hiện ba lần trong Nhất Lãm (Mc 1:43, 14:5; Mt 9:30), nghĩa là cấm ai đó tiết lộ những gì đã xảy ra cho họ, và hai lần trong Tin Mừng Thứ Tư (Ga 11: 33, 38) và được dịch là “bị ảnh hưởng sâu sắc bởi tinh thần” vì sự cấm đoán này xảy ra cho chính mình. Động từ thứ hai xuất hiện mười ba lần trong Tân Ước, hai lần trong Phúc Âm Thứ Tư, có nghĩa là “làm phiền” (5:4, 7) và bốn lần khác được dịch là “bị thử thách” (11:33, 12:27, 13:21 và 14:1).
Những người Khắc kỷ không tin rằng Chúa có thể bị con người quấy rầy hoặc thử thách; nhưng tác giả Thư Do Thái tin rằng khi Chúa Giêsu mặc lấy xác phàm, Người trở nên giống chúng ta mọi phương diện, ngoại trừ tội lỗi. Ngài có lòng thương xót con người, và nhiều lần trong phúc âm, các thánh sử đã diễn tả Chúa Giêsu có lòng thương xót con người. Mở đầu chương này, tác giả cho biết Chúa Giê-xu yêu Ma-thê, Ma-ri và La-xa-rơ. Ngài động lòng trắc ẩn đối với họ, và Ngài đã khóc khi nhìn thấy sự đau khổ của họ.
3.4/ Chúa Giêsu với Ladarô: Mồ mả của người Do Thái thời Chúa Giêsu không phải là mồ mả mà giống như ngôi nhà mồ. Tùy theo thành viên trong gia đình mà nhà mồ được chia theo từng gian; Nó có dạng phòng ngủ với giường tầng ở hai bên và không gian đi bộ ở giữa. Lối vào được đóng lại bằng một tảng đá lớn và có thể dùng làm cửa. Người chết được băng kín toàn thân, mặt được che riêng; và toàn bộ cơ thể được ướp bằng nhựa thơm và nước hoa và bọc trong một chiếc túi vải. Thi thể được đặt trên giường cho đến khi phân hủy hoàn toàn; sau đó các xương còn lại sẽ được dọn sạch để có không gian cho các thành viên khác.
(1) Đức tin của Ma-thê: Chúa Giê-xu phán: “Hãy lăn hòn đá đi.” Ma-thê, em gái người chết, thưa rằng: Lạy Chúa, đã có mùi, vì anh ấy đã chết bốn ngày rồi.
Ma-thê có thể nghĩ Chúa Giê-su muốn nhìn mặt anh cô lần cuối; còn La-xa-rơ thì bịt mặt và người đã bốc mùi hôi thối. Cô ấy có thể tin rằng quyền năng của Chúa Giê-xu chỉ có giới hạn trong việc chữa lành mọi thứ bệnh tật, chứ không phải trong việc làm cho người anh trai đã chết của cô ấy sống lại sau bốn ngày trong mộ. Chúa Giê-su nhấn mạnh đức tin của bà nơi Đức Chúa Trời có thể làm được mọi sự, ngay cả việc khiến một người sống lại từ cõi chết, “Tôi đã chẳng bảo bà rằng nếu bà tin thì bà sẽ thấy vinh quang của Đức Chúa Trời sao?”
(2) Niềm tin của Chúa Giêsu vào Chúa Cha: Chúa Giêsu biết Chúa Cha luôn nghe lời Ngài khi Ngài cầu xin bất cứ điều gì. Mục đích của việc cho Ladarô sống lại là để soi sáng đức tin cho những người đang đứng xung quanh anh ta, chứ không phải vì vinh quang của riêng anh ta. Ngài muốn họ tin rằng Ngài là Đấng Thiên Sai, được Chúa Cha sai đến. Cầu nguyện xong, Ngài kêu lớn tiếng: “Hỡi La-xa-rơ, hãy ra.” Người chết đi ra, tay chân quấn băng, mặt phủ khăn. Chúa Giê-xu bảo họ, “Hãy cởi trói cho anh ấy và để anh ấy đi.” Tưởng tượng mình đang chứng kiến cảnh này, toàn thân lạnh toát vì sợ hãi. Chưa bao giờ giờ phút này, một người đã chôn bốn ngày trong mộ, lại được sống lại nhờ một mệnh lệnh!
3.5/ Phản ứng của người dân:
(1) Nhiều người Do-thái đã đến với Ma-ri-a và chứng kiến việc Người làm nên đã tin Người.
(2) Có mấy người đến gặp người Pha-ri-sêu và thuật lại việc Đức Giê-su đã làm. Đối với người đàn ông này thực hiện nhiều dấu hiệu. Nếu chúng ta cứ để ông ta tiếp tục như vậy, mọi người sẽ tin vào ông ta, và người La Mã sẽ đến và phá hủy cả nơi thánh của chúng ta lẫn quốc gia của chúng ta.” Điều họ lo sợ đã trở thành hiện thực sau đó khi người La Mã phá hủy hoàn toàn đền thờ Jerusalem và toàn bộ quốc gia vào năm 70 sau Công nguyên, khoảng 35 năm sau cái chết của Chúa Giê-su; không phải vì niềm tin của người ta vào Chúa Giê-xu mà là sự nổi loạn của họ.
– Ở đây tác giả dùng một sự mỉa mai khác để nói về mục đích cái chết của Chúa Giêsu, Caipha, thượng tế năm đó, nói với họ: “Các ông chẳng biết gì cả; các ngươi không hiểu rằng thà một người chết thay cho dân còn hơn cả nước bị diệt vong.” Mặc dù Caipha không biết về chương trình cứu độ của Thiên Chúa; nhưng ông lại vô tình nói đúng về mục đích cái chết của Chúa Giêsu, đó là: “quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối”.
– Lý do Chúa Giêsu chết: Trong Tin Mừng Thứ Tư, lý do Chúa Giêsu chết rõ ràng là vì Người đã cho Ladarô sống lại. Đó cũng là lúc bắt đầu giờ vinh quang của Người trên thập giá. Tác giả kết luận chương này, “Vì vậy, kể từ ngày đó, họ đã bàn bạc với nhau về cách giết anh ta. Vì vậy, Đức Chúa Jêsus không công khai đi lại giữa người Do Thái nữa, nhưng từ đó Ngài đi đến một xứ gần đồng vắng, đến một thành gọi là Ép-ra-im; Người ở lại đó với các môn đệ.”
III. ỨNG DỤNG TRONG CUỘC SỐNG :
– Đức Chúa Trời có quyền trên cả sự sống và sự chết. Chúng ta nên hoàn toàn tin tưởng vào Ngài và không sợ chết; đó chỉ là một sự chuyển tiếp trước khi chúng ta được sống mãi mãi và hạnh phúc với Ngài.
– Chúa Thánh Thần là nguyên lý sự sống. Chúng ta nên sống theo sự hướng dẫn của Ngài để có sự sống. Chúng ta nên khước từ lối sống theo xác thịt.
– Nếu chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa, chúng ta sẽ không bao giờ chết về mặt tâm linh; cái chết là cần thiết để chúng ta bước vào cuộc sống vĩnh cửu.
Suy Niệm
(Trích trong ‘Manna’ – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Bệnh tật và cái chết đeo đẳng lấy đời người. Bệnh tật làm con người bị tê liệt. Còn cái chết thì như một nhát dao cắt đứt tất cả mọi dự tính về cuộc sống. Ngay cả đối với người tín hữu, cái chết vẫn là một mầu nhiệm làm họ run rẩy.
Đức Giêsu trong Vườn Dầu cũng sợ hãi trước cái chết.
Cái chết đưa đến chia ly nên có nước mắt, tiếc thương, nhung nhớ.
Hai chị em Macta và Maria rất đau buồn trước cái chết của người em là Lagiarô. Cả hai đều tiếc vì Thầy không có mặt lúc ấy.
Bốn ngày đã trôi qua, đá đã lấp cửa mồ. Thi hài người chết đã bắt đầu rữa nát. Chẳng còn chút hy vọng nào…
Bất chấp nguy hiểm đến tính mạng, Đức Giêsu vẫn trở lại Giuđê để đến thăm gia đình mà Ngài có lòng quý mến. Ngài biết Ngài sẽ làm gì để tôn vinh Chúa Cha, và qua đó chính Ngài cũng được tôn vinh. Dầu vậy, trước nỗi đau của hai chị em, Đức Giêsu vẫn thổn thức và xao xuyến. Ngài bật khóc trên đường đi đến mộ.
Trước ngôi mộ đá, Ngài đã cất tiếng cảm tạ Cha, vì Cha đã nhận lời Ngài xin khi cho Ngài quyền làm cho người chết được sống lại.
Làm sao nói hết được niềm vui của ba chị em, và sự kinh ngạc của những người chứng kiến.
Trong sứ điệp nhân ngày Giới Trẻ Thế Giới năm 1996, Đức Thánh Cha đã yêu cầu các bạn trẻ “hãy trở nên những ngôn sứ của sự sống và tình yêu, những ngôn sứ của niềm vui.”
Thế giới văn minh nhưng có nhiều bóng tối sự chết: chiến tranh, đói kém, phá thai, tự tử, sida, những vụ ám sát, đặt chất nổ, tai nạn giao thông…
Cái chết thân xác phản ánh một cái chết nguy hiểm hơn, cái chết của tình yêu ở trong lòng con người.
Cái chết thắng thế khi con người sống buông xuôi, chán chường và khép kín trong ích kỷ.
Đức Giêsu là sự sống lại và là sự sống. Ngài trả lại sự sống cho Lagiarô. Ngài lau khô nước mắt cho Macta và Maria.
Khi gắn bó với Đức Giêsu, chúng ta cũng có khả năng thông truyền sự sống và niềm vui cho thế giới.
Thiên Chúa là Thiên Chúa của sự sống, đời này và đời sau. Ngài say mê sự sống của con người.
Ước gì chúng ta dám cất đi những phiến đá che mộ để người chết có thể bước ra.
Gợi Ý Chia Sẻ
Chẳng ai thích sự chết, nhưng mặt khác, con người lại nghiêng chiều về bạo lực. Bạn có thấy khuynh hướng bạo lực ở nơi mà bạn đang sống không?
Bạn đã làm gì để sống lời mời gọi này của Đức Thánh Cha: “Kitô hữu phải sẵn sàng lao tới bất cứ nơi đâu có những anh em cần giúp đỡ, có những giọt nước mắt phải lau khô, có những lời cầu cứu mong được đáp ứng”?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu thương mến, xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.
Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa.
(Mẹ Têrêxa Calcutta)
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)
Sự sống là điều đáng quý.
Đầu năm 2020, thế giới đã đổi khác từ khi cơn dịch hoành hành.
Con vi-rút Covid-19 đe dọa sinh mạng của mọi người chẳng trừ ai.
Nó chu du như chỗ không người qua mọi quốc gia, mọi biên giới.
Vì quý mạng sống, nên người ta phải hy sinh nhiều điều.
Những thành phố trở nên vắng vẻ, mọi sinh hoạt vui chơi ngừng lại.
Nhà thờ không thánh lễ, trường học đóng cửa, người già ở nhà.
Phong tỏa và cách ly, sát trùng và đeo khẩu trang.
Để bảo vệ sự sống, dù đó chỉ là sự sống tạm bợ ở đời này của thân xác,
người ta đã phải chấp nhận hạn chế tự do cá nhân,
ngưng làm những điều mà trước đây tưởng không thể bỏ.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng nói về sự sống và cái chết.
Cái chết của một anh thanh niên được Đức Giêsu thương mến.
Anh bị đau nặng, không rõ bệnh gì.
Hai bà chị của anh vội vã nhờ người đến báo cho Đức Giêsu,
hy vọng Ngài mau đến nhà chữa anh khỏi bệnh.
Nhưng hai hôm sau Ngài mới thu xếp để lên đường đi Bêtania.
Khi Ngài đến nơi thì anh đã được chôn bốn ngày rồi.
“Nếu Thầy ở đây thì em con đã không chết” (Ga 11,21.32),
Cả hai chị em Mácta và Maria đều nói câu đó với Đức Giêsu.
Câu nói bắt đầu bằng chữ “nếu” đầy nuối tiếc buồn thương.
Người ta vẫn hay nói như thế trước những chuyện đã lỡ.
Tại sao Thầy lại không có mặt ở đây để cứu Ladarô, bạn của Thầy?
Chắc chắn Thầy đủ khả năng chữa cho em con khỏi cơn bệnh nặng.
Bây giờ thì muộn rồi, chẳng còn làm được gì nữa.
Em con đã chết, nghìn trùng xa cách, bình vàng đã vỡ tan.
Khi Đức Giêsu nói: “Em chị sẽ sống lại !” (Ga 11,23),
Mácta chỉ nghĩ em mình sẽ sống lại vào ngày tận thế.
Dù chị tin rằng Thiên Chúa luôn nghe lời Thầy nài xin (Ga 11,22),
và tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa (Ga 11,27)
nhưng chị chẳng tin Thầy sẽ làm được gì trước ngôi mộ.
Ngôi mộ là nơi sự chết thống trị, chưa ai thắng được nó.
Chính vì thế khi Đức Giêsu bảo “Đem phiến đá này đi”
Chị đã vội vã ngăn lại.
Chị không tin Thầy có thể làm gì được với một thi thể đã bốc mùi.
Một xác người chết đã bốn ngày thì đâu còn gì để hy vọng.
Nhưng tại ngôi mộ này, vinh quang Thiên Chúa sẽ được bày tỏ.
Đức Giêsu sắp làm dấu lạ lớn nhất tại đây,
Để cho thấy Ngài thật là sự sống lại và là sự sống (Ga 11,25).
Ngài lớn tiếng gọi tên người chết và bảo anh đi ra khỏi mồ.
Ladarô đã vâng lệnh đi ra, dù chân tay còn bị quấn băng vải,
mặt còn phủ khăn (Ga 11,44).
Anh ấy được giúp để khỏi vướng víu và tự do đi được.
Ladarô đã được hoàn sinh và ra khỏi thế giới của âm hồn.
Đức Giêsu đã đánh thức Ladarô, và cho hai chị được gặp lại em.
Chúng ta có quyền tin Đức Giêsu đã nở một nụ cười
trên khuôn mặt chưa khô nước mắt,
đã đón lấy Ladarô trong vòng tay, người mà Ngài thương mến.
Ladarô rồi cũng có ngày sẽ chết, vì sự sống đời này chỉ là phù du.
Qua dấu lạ này, Đức Giêsu đưa chúng ta đi xa hơn.
Ngài hứa ban sự sống vĩnh cửu cho những ai tin vào Ngài,
nơi đó cái chết không còn quyền lực (Ga 11,25-26).
Vì làm cho Ladarô được sống lại mà Ngài bị kết án tử (Ga 11,45-54).
Nhưng cái chết của Ngài đem lại cho chúng ta cuộc sống vĩnh hằng,
nơi không còn buồn phiền, tang tóc, chia ly.
Chỉ mong chúng ta hôm nay tin mạnh hơn chị Mácta
khi cái chết rình rập và quật ngã bao người trên thế giới,
khi niềm hy vọng tưởng như vỡ tan, vì nấm mồ đã chôn vùi mọi sự.
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa là Thiên Chúa của lòng con,
Chỉ mình Chúa biết và thấy mọi nỗi xao xuyến của con.
Chỉ mình Chúa biết rằng
mọi khắc khoải của con đều do con sợ mất Chúa,
sợ xúc phạm đến Chúa,
sợ không yêu Chúa nhiều
như con phải yêu và khao khát yêu.
Lạy Chúa là Đấng thấu biết mọi sự,
Đấng duy nhất có thể thấy tương lai,
Nếu Chúa biết chính vì vinh danh Chúa hơn,
và vì phần rỗi của con
mà con phải ở lại trong tình trạng cùng khốn này,
thì xin Chúa cứ để yên như vậy.
Con không muốn né tránh đâu.
Xin cho con sức mạnh để chiến đấu
và chiếm được phần thưởng Chúa ban
dành cho những tâm hồn mạnh mẽ.
Cha thánh Padre Piô
3.Mở cửa mộ – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
Tai họa ngày 11 tháng 09 năm 2001 trên đất Mỹ đã trở thành một nỗi ám ảnh đối với mọi người. Trong phút chốc, hai tòa tháp chọc trời đổ sập xuống, trở thành ngôi mộ khổng lồ chôn vùi mấy ngàn sinh mạng. Ngôi mộ gieo tang thương. Ngôi mộ gieo kinh hoàng. Ngôi mộ làm rung chuyển thế giới.
Ngôi mộ không chỉ hiện hữu từ khi toà tháp đôi đổ xuống. Trước đó ngôi mộ đã hiện diện trong trái tim của những người khủng bố. Sau đó ngôi mộ vẫn phủ màn u ám trên cuộc sống thân nhân bạn bè.
Như thế, ngôi mộ không chỉ xây bằng gạch đá. Nó được xây bằng những lực lượng chết chóc như sự hận thù, sự áp bức, sự độc ác… Ngôi mộ không chỉ chôn vùi sự sống. Nó chôn vùi cả niềm tin, cả niềm hy vọng.
Nhưng hôm nay, Chúa Giêsu đã dõng dạc mở cửa mộ và truyền cho người chết chỗi dậy bước ra. Việc Chúa Giêsu mở cửa mộ cho Lagiarô mở ra những chân trời mới cho đời sống con người.
Khi mở cửa mộ, Người đã mở cánh cửa sự sống. Thông thường, ngôi mộ là vương quốc của tử thần. Cửa mộ là cửa mở vào thế giới chết chóc. Ai đã vào đó chẳng còn hy vọng thoát ra. Nhưng hôm nay, Chúa Giêsu đã mở cửa mộ để Lagiarô không phải bước vào sự chết nhưng bước vào sự sống. Khi mở cửa mộ, Người phá tan sào huyệt Thần Chết. Khi tháo những dải băng liệm cuốn quanh thân thể Lagiarô, Người giải phóng ông khỏi dây trói ràng buộc của tử thần.
Khi mở cửa mộ, Người đã mở cánh cửa niềm tin. Trước đó, niềm tin của Mácta chỉ là một niềm tin mơ hồ, chung chung của đa số người Do thái thời ấy. Nhưng sau khi thấy Lagiarô sống lại, niềm tin của bà trở nên cụ thể, sống động và vững vàng. Trước đó, nhiều người Do thái chưa tin vào Chúa Giêsu. Nhưng sau khi được chứng kiến Lagiarô từ cõi chết sống lại, họ không thể nào không tin. Tảng đá lấp cửa mồ tung ra cũng làm bật tung tảng đá nghi ngờ che lấp trái tim, đưa họ tới tin nhận Chúa là Thiên Chúa.
Khi mở cửa mộ, Người mở ra cánh cửa niềm vui. Chết chóc gieo tang tóc u buồn. Ngôi mộ bao giờ cũng gợi lên nỗi buồn. Buồn ly biệt. Buồn mất mát. Buồn thất bại. Cái buồn vốn hay lây. Nước mắt người thân dễ làm cay mắt ta. Nên Chúa Giêsu không ngăn được dòng lệ. Nhưng khi Lagiarô bước ra, cả một trời vui. Đám tang bỗng biến thành đám hội. Lời chia buồn đổi thành lời chúc mừng. Thiên Chúa đã biến tang tóc thành niềm vui. Niềm vui ấy trọn vẹn.
Khi mở cửa mộ, Chúa Giêsu mở cánh cửa hy vọng. Thiên Chúa đến biến đổi số phận con người. Con người không còn bị giam hãm trong thân phận hay chết, nhưng được thênh thang tự do trong cõi sống. Con người không sinh ra để chết đi nhưng để sống, sống mãi, vì Chúa là “sự sống”, “ai tin sẽ sống đời đời”. Con người không sinh ra để tàn lụi, nhưng để triển nở đến vô biên.
Trong mỗi người chúng ta có nhiều nấm mộ. Chúng ta bị giam hãm trong những nấm mộ tội lỗi, gian tham, ích kỷ, bất công, đam mê, ghen ghét hận thù, nghèo đói, thất học… Có những nấm mộ kiên cố, tự sức mình không thể phá nổi. Ta hãy xin Chúa đến mở những cửa mộ, lăn những tảng đá đè nặng đời ta, để ta được sự sống dồi dào của Chúa nuôi dưỡng. Đồng thời, ta cũng phải tiếp tay với Chúa, phá đi những nấm mộ vây bọc anh chị em chúng ta, để mọi người được sống và sống dồi dào như lòng Chúa mong ước, như định mệnh Chúa dành cho ta, những người con cái Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Tôi còn bị giam cầm trong những ngôi mộ nào?
2) Tôi còn muốn xây những ngôi mộ nào để chôn vùi anh em?
3) Hôm nay tôi phải làm gì để mở cửa mộ cho tôi và cho anh em?
4) Việc Chúa cho Lagiarô chết bốn ngày sống lại có ảnh hưởng gì trên tôi?
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
“Chúa Giêsu là nguồn mạch sự sống”. Đó là một đề tài quan trọng trong Tin Mừng Thánh Gioan. Ý tưởng này được nhấn mạnh nhiều lần trong Tin Mừng thứ tư và trong các Thư được truyền thống Giáo Hội công nhận tác giả là Gioan. Khi nhấn mạnh đến đề tài này, tác giả Tin Mừng muốn trình bày Đức Giêsu chính là Thiên Chúa và là nguồn mạch sự sống. Bởi trong giáo huấn của Cựu ước, thì chỉ có Thiên Chúa mới làm chủ sự sống và sự chết. Chỉ có Thiên Chúa mới có quyền mở huyệt và đưa những người trong âm phủ đi ra.
“Hỡi dân Ta, này chính Ta sẽ mở huyệt cho các ngươi!”. Ngôn sứ Edêkien đã khơi lên nguồn hy vọng cho người Do Thái. Lời hứa “mở huyệt” này, vừa ám chỉ tới việc Chúa giải phóng Dân người khỏi ách nô lệ lúc bấy giờ để đưa về quê cha đất tổ, vừa hướng họ tới sự sống trường sinh vĩnh cửu, tức là sự sống Thiên Chúa sẽ ban cho con người sau khi chết. Theo giáo huấn của ngôn sứ Êdêkien, ngôi huyệt sẽ không còn là chỗ dừng chân mãi mãi, nhưng chỉ là tạm thời. Thiên Chúa quyền năng sẽ mở huyệt để thân xác con người không còn chết nữa, nhưng được sống với Chúa mãi mãi.
Chúa Giêsu nhiều lần khẳng định: chính Người là sự sống. “Ta là Đường, là Sự thật, và là Sự sống” (Ga 14,6). Trong các phép lạ Chúa làm, có những phép lạ cho kẻ chết sống lại, như trường hợp người thanh niên là con bà góa ở thành Naim, hay bé gái 12 tuổi đã chết mà Chúa cho sống lại. Phép lạ cho ông Lagiarô sống lại là một phép lạ điển hình, nhằm chứng minh những gì Chúa khẳng định về sự sống. Trong cuộc đối thoại với bà Mátta, chị của người chết, Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Chính Thày là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thày, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống mà tin vào Thày, sẽ không bao giờ phải chết” (11, 25-26). Cũng như lời Chúa tuyên bố qua ngôn sứ Êdêkien, lời Chúa Giêsu vừa nhắc tới sự sống trần gian, vừa hướng tới sự sống vĩnh cửu. Người là Thiên Chúa, Đấng có quyền làm cho kẻ đã chết được sống lại. Người cũng là Đấng ban cho con người sự sống đời đời. Lời hứa với người trộm lành trên cây thập giá đã chứng minh điều đó: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở trên Thiên Đàng với tôi” (Lc 23,43). Đức Giêsu đã dùng quyền năng Thiên Chúa kêu gọi ông Lagiarô ra khỏi mồ. Sự kiện này đã giúp cho người Do Thái tin vào Chúa. Thánh Gioan diễn tả một Đức Giêsu thực sự là “người”. Người chạm đến nỗi đau của con người, rơi lệ trước đau khổ của người khác và đưa họ từ cái chết đến sự sống. Chúa Giêsu không giống như một nhà phù thủy, nhưng là Thiên Chúa làm người có trái tim nhân loại, sẻ chia và mang lấy nỗi đau của con người, nhường cho con người hạnh phúc và vinh quang.
“Tôi chính là Mục tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11). “Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Những lời tuyên bố này cho thấy Chúa Giêsu hiến mình cho sự sống của con người. Hôm nay cũng như mọi thế hệ, Chúa vẫn tiếp tục hiến mình vì sự sống của chúng ta. Chuẩn bị cử hành mầu nhiệm thập giá và Phục sinh, đề tài “Chúa Giêsu là nguồn mạch sự sống” giúp chúng ta nhìn xuyên qua cái chết để thấy sự sống tuôn chảy từ thập giá. Nhờ cái chết của Chúa Giêsu mà nhân loại được sống. Người đã chết thay cho chúng ta. Người đã mang lấy án tử cho chúng ta được sống. Trên cây thập giá, Thiên Chúa đã làm cho Đức Giêsu thành tội nhân vì chúng ta.
“Hãy ra khỏi mồ!”. Lệnh truyền này đã đưa ông Lagiarô từ cõi chết trở về cõi sống, đồng thời đem niềm vui cho thân bằng quyến thuộc. Mùa Chay là lời mời gọi đoạn tuyệt với tội lỗi để sống cuộc sống mới. Những thực hành Mùa Chay giúp ta ra khỏi nấm mồ tối của sự ích kỷ, chia rẽ và hận thù. Để bước ra khỏi huyệt mộ của tội lỗi, đòi hỏi mỗi chúng ta phải hy sinh cố gắng nhiều khi đến mức anh hùng. Vì thay đổi đời sống, hướng cuộc đời sang một ngã rẽ khác cũng có nghĩa là đoạn tuyệt với quá khứ, dứt bỏ mọi ràng buộc để được sống trong tự do của con cái Chúa, hướng về tương lai tươi sáng trong bình an. Nhờ cuộc sống mới, họ giống như người đang đi trong ánh sáng mặt trời, không sợ vấp ngã. Bà Mátta, chị của Lagiarô, mặc dù tuyên xưng đức tin một cách quả quyết, cũng không hy vọng em mình có thể sống lại. Bà nói với Chúa: “Thưa Thày, nặng mùi rồi, vì em con đã ở trong mồ được bốn ngày” (Ga 11, 39). Chính trong lúc không một tia hy vọng theo lý luận thông thường của con người, thì quyền năng Thiên Chúa đã được tỏ bày. Chúa Giêsu đem hy vọng cho con người vào lúc họ cảm thấy bi đát nhất ở ngõ cụt của cuộc đời. Một thân xác bắt đầu thối rữa, nhờ quyền năng của Chúa, vẫn có thể được hồi sinh. Một con người dù tội lỗi tràn trề, nếu biết dừng lại sám hối, vẫn có thể được ơn tha thứ.
Những ai đã can đảm và dứt khoát bước ra khỏi huyệt mộ thì sẽ sống một cuộc sống mới. Cuộc sống ấy không còn bị xác thịt chi phối nữa, tức là không còn bị những đam mê xác thịt ràng buộc và cản trở. Họ được tự do thanh thoát mặc dù vẫn sống trong thân xác còn mang nhiều yếu đuối. Chính Chúa Thánh Thần thúc đẩy và đổi mới chúng ta, nhờ đó chúng ta có sức mạnh để vươn lên trong sự sống mới này (Bài đọc II).
Giữa đại dịch COVID-19, chúng ta không khỏi hoang mang lo sợ. Cả thế giới cầu nguyện nhưng dường như Thiên Chúa không để ý quan tâm. Lời Chúa hôm nay khích lệ chúng ta: hãy hy vọng và tín thác. Thiên Chúa có chương trình và phương pháp riêng của Ngài. Đến như thân xác ông Lagiarô đã bốc mùi và phân hủy Chúa còn làm cho sống lại. Lời cầu nguyện của chúng ta chắc chắn được Chúa nhận lời, vào lúc Chúa muốn, theo như cách Chúa muốn và nhằm tới ích lợi thực sự của chúng ta. Bởi lẽ, Thiên Chúa là Cha nhân hậu, luôn muốn điều tốt cho con cái của mình.
5.Chúa là sự sống lại – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. ViKiNi)
Bao nhiêu lần chúng ta rất đau khổ chứng kiến cái chết của những người thân yêu. Thế giới này đã chứng kiến hàng tỉ người chết, người ta tính từ khi có loài người tới giờ có tới gần 100 tỉ người chết. Gia đình hai chị em Matta và Maria chứng kiến cái chết của đứa em ruột rất yêu dấu. Trước nỗi khổ cực của những người thân mến, Đức Giêsu cũng khóc. Cái khóc của Người không bất lực như ta, Người đã cho Ladarô sống lại, dù đã chôn bốn ngày trong mộ hôi thối rồi.
Trước phép lạ chưa từng thấy trong lịch sử loài người, cả thủ đô Giêrusalem reo mừng hân hoan. Họ tung hô đón rước Người vào thành làm vua, kẻ phất cành lá vạn tuế, kẻ trải áo làm thảm cho Người đi qua. Đức Giêsu không làm vua, làm chúa chính trị để cai trị dân. Nhưng phép lạ cho Ladarô chết sống lại chứng tỏ Đức Giêsu nắm quyền làm chủ sự sống và sự chết của muôn loài. Đó là quyền của Thiên Chúa, không ai có quyền đó.
Các nhà khoa học đã tính được hơn một triệu loài vật sống trên thế giới này, mỗi loài có hàng tỉ con, mỗi con lại có hàng tỉ tỉ tế bào sống. Mỗi người chúng ta được xây bằng 30.000 tỉ tế bào sống. Ta thử nhân sự sống của mỗi tế bào với hàng tỉ người với hàng tỉ tỉ loài vật, ta sẽ không thể tưởng tượng được sự sống đó vô cùng lạ lùng như thế nào. Đấng ban phát sự sống đó vô cùng, vô cùng lạ lùng như thế nào nữa!
Nhìn thấy rõ muôn hình vạn trạng của sự sống cực kỳ linh diệu, thế mà vẫn còn nhiều người không tin có Đấng ban sự sống, không tin có Thiên Chúa hằng sống. Họ giống như những chức trách Do thái thấy Ladarô chết chôn trong mồ bốn ngày được Chúa cho sống lại, thì họ càng thù ghét Người. Họ tìm cách giết Người và giết cả Ladarô. Tuy Người cho họ giết thân xác tạm thời này trong ba ngày, rồi Người lại sống lại vinh quang muôn đời, vì Người là sự sống lại và là sự sống, như Người đã nói: “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta, dù đã chết, cũng sẽ được sống”. Cho nên nhiều lần Người trấn an chúng ta: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể giết cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục” (Mt. 10, 28).
Giáo Hội Công Giáo ngày nay đang tranh đấu cứu sống cho hàng triệu trẻ em vô tội bị giết. Trong thế chiến thứ hai, nhà bác học vĩ đại Einstein đã ca tụng Giáo hội Công Giáo: “Hội Thánh Công Giáo là tiếng nói độc nhất chống lại cuộc tàn sát của Hitler trong thế chiến thứ hai. Tôi tỏ lòng thán phục và biết ơn sâu xa Hội thánh này”. Chắc chắn trong thiên niên kỷ 3000, nhân loại cũng sẽ biết ơn Hội thánh như Einstein vậy.
Sự sống quý báu nhất trên đời, sự sống lại đời đời còn quý giá vô cùng hơn nữa vì ta không còn chết nữa.
Lạy Chúa, xin cho muôn người được sống và được sống dồi dào trong vinh quang nước Chúa, như Chúa đã hứa: “Ta đến cho thế gian được sống và được sống dồi dào”.
Đau khổ không miễn trừ cho một ai. Nó ngự trị ở mọi nơi và trong mọi lúc. Ngày nọ nó đã đột nhập và một căn nhà tại Bêtania. Hôm đó, Ladarô cảm thấy khó chịu và đi nằm. Mặc dù Martha đã chăm sóc kỹ lưỡng mà bệnh tình vẫn không thuyên giảm. Còm Maria thì đã cầu nguyện để em mình được chóng bình phục. Thế nhưng tình trạng mỗi ngày xấu đi và cái chết kể như nằm gọn trong lòng bàn tay. Họ đã làm tất cả những gì để cứu sống người em của mình, nhưng bóng dáng tử thần lại cứ chập chờn lượn quanh.
Cả hai đều mang cùng một tâm trạng, cùng một ý nghĩa đó là: Nếu Chúa Giêsu có mặt ở đó, thì dứt khoát Ladarô sẽ không chết. Bởi vì Người đã chữa lành biết bao nhiêu kẻ bệnh hoạn tật nguyền. Chẳng lẽ Người lại bỏ rơi người bạn thân của Người hay sao? Thế rồi hai chị em đã sai người đi báo tin cho Chúa Giêsu: Lạy Thầy, người Thầy yêu thương đang đau nặng. Lời báo tin này vừa tế nhị vừa tin tưởng. Họ không hề đòi hỏi hay bắt buộc Chúa. Trái lại với niềm tin tưởng tuyệt đối, họ để tuỳ Người hành động và Ngài sẽ giúp đỡ họ cách thức nào mà Ngài cho là tốt đẹp và hữu hiệu hơn cả. Cách thức báo tin của Martha và Maria cũng là một khuôn mẫu giúp chúng ta cầu nguyện mỗi khi gặp phải những gian nguy thử thách, những bất hạnh buồn phiền, chẳng hạn như đau yếu, thất bại, tang tóc.
Vị linh mục đến thăm một bà mẹ, có đứa con lâm bệnh nặng. Hoặc an ủi bà ta, khuyên nhủ bà ta vui lòng chịu đựng theo thánh ý Chúa, xác quyết với bà ta rằng: Nếu đứa nhỏ có chết đi, sẽ trở thành một vị thánh bầu cử cho bà trước mặt Chúa. Nhưng người mẹ trong cơn đau đớn đã trả lời: Không, tôi không muốn nó phải chết. Nếu Chúa cất nó về thì tôi sẽ bỏ đạo. Ít lâu sau, đứa bé được bình phục.
Nhưng ngẫm nghĩ cho cùng, thà nó chết đi không khéo lại hay hơn. Bởi vì với sự cưng chiều của người mẹ nó đã lớn lên và trở thành một thanh niên hư hỏng. Sau cùng, trong một dịp say xỉn, nó đã đâm chết một người bạn, rồi vượt biên trốn ra nước ngoài. Người ta không còn nghe nói gì về nó. Nhưng rồi một hôm, người mẹ bất hạnh ấy nhận được tin từ một người thân ở bên Mỹ cho biết: đứa con ngỗ nghịch ấy đã bị toà án bên Mỹ xử tử hình vì tội cướp của giết người.
Trong những giờ phút khổ đau, chúng ta hãy thưa lên cùng Chúa: Lạy Chúa, người Chúa yêu thương đang đau nặng. Chắc hẳn Ngài sẽ lắng nghe lời van xin của chúng ta. Bởi đó hãy tin tưởng và phó thác vào tình thương cũng như quyền năng của Chúa, chắc chắn Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Trái lại, Ngài sẽ hành động và trợ giúp chúng ta bằng cách thức nào đem lại nhiều lợi ích nhất.
(Văn Chính, SDB chuyển ngữ)
“Ai tin vào Thày, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống” (Ga 11, 1-45)
Trong số những phép lạ Đức Giê-su đã thực hiện, việc làm cho anh La-da-rô sống lại gây ngạc nhiên nhất cho những người sống trong thời đại của Ngài. Truyền Thống Do Thái tin rằng linh hồn của người chết dù sao vẫn còn ở lại nơi thân xác đó 3 ngày. Sau 3 ngày, linh hồn vĩnh viễn rời bỏ thân xác và không bao giờ trở lại nữa. Kể từ lúc đó, thân xác mới bắt đầu bị phân hủy. Tin mừng Gioan thuật lại việc Đức Giê-su đến trước ngôi mộ của La-da-rô và truyền lệnh: “Đem phiến đá này đi!”. Phiến đá lấp cửa mộ của La-da-rô phải được mang đi theo lệnh của Đức Giê-su. Thế nhưng Mát-ta phản đối việc mở mồ của La-da-rô, chị nói: “Thưa Thày, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày” (Ga 11,39). Rõ ràng Mát-ta muốn nói lên một quan niệm chung của thời đó rằng trường hợp này thì thật vô vọng. Tại sao Đức Giê-su lại trì hoãn việc đến cứu giúp La-da-rô, khiến cho việc cứu chữa La-da-rô trở nên vô vọng như thế? G.K đã giải thích: “Hy vọng có nghĩa là vẫn còn mong đợi những điều xem ra vô vọng, hay chẳng còn chút khả thể nào”. Trong truyền thống Do thái, quan niệm một người chết trỗi dậy sau khi đã chết dược 4 ngày rồi, và khi thân xác đang trong tiến trình phân hủy, thì là chuyện không thể tưởng tượng được, như thị kiến của Ê-dê-ki-en về những bộ xương khô của những kẻ đã chết. Những bộ xương khô đét này chỉ có thể trỗi dậy nhờ vào phép lạ mà thôi.
Đối với các Ki-tô hữu thời Giáo Hội sơ khai, câu chuyện làm cho La-da-rô sống lại muốn ám chỉ tới sự phục sinh của Đức Giê-su. Đức Giê-su trỗi dậy vào ngày thứ ba, và thân xác Ngài sẽ không bao giờ bị phân hủy nữa. Với họ, đây thực sự là một phép lạ và biến cố này làm cho họ không bao giờ mất đi niềm hy vọng, ngay cả khi phải sống trong những hoàn cảnh xem ra vô vọng, dầu với tư cách cá nhân, hay giáo hội hoặc quốc gia. Với quyền năng của Thiên Chúa, chẳng có gì là quá trễ để làm cho một người, một Giáo hội hay một quốc gia được sống lại. Thế nhưng, trước tiên chúng ta phải học biết cộng tác với Thiên Chúa.
Làm thế nào chúng ta có thể cộng tác với Thiên Chúa một khi đã trải nghiệm quyền năng phục sinh của Thiên Chúa nơi cuộc sống của chúng ta và của thế giới này? Mọi người dường như đều có được câu trả lời: chính nhờ Đức tin. Nhưng đó không phải là điều mà Thánh Gio-an muốn nhấn mạnh trong câu chuyện này. Thực thế, chẳng có ai trong trình thuật này, ngay cả Maria hay Mát-ta, là những người tin rằng Đức Giê-su có thể làm cho La-da-rô sống lại sau 4 ngày cả. Chẳng ai kỳ vọng Ngài có thể làm được chuyện đó, và vì thế một niềm tin như đáng được mong đợi, lại không được nhấn mạnh ở đây. Điều cần nhấn mạnh hơn trong trình thuật, đó là: Việc chúng ta cần cộng tác với một vị Thiên Chúa làm-phép-lạ như thế nào, lại được thể hiện qua sự vâng phục thực tiễn và làm theo ý Thiên Chúa.
Để cho phép lạ xảy ra, Đức Giê-su truyền 3 lệnh, và cả 3 lệnh này đều phải được vâng theo từng chữ một. Nhờ thế mà phép lạ đã xảy ra. Lệnh thứ nhất, “Đức Giê-su nói: đem phiến đá này đi!… rồi người ta đem phiến đá đi” (c. 39-41) Liệu người ta có hiểu được lý do tại sao họ phải làm một công việc nặng nhọc là lăn hòn đá che lấp cửa mộ đi, để lộ ra một thân xác đang bị thối rữa và bốc mùi? Chắc chắn là dân chúng không hiểu. Ở đây, dù xem ra không hợp lý theo suy nghĩ thường tình của lý trí, nhưng dân chúng vẫn tin vào lời của Đức Giê-su và thể hiện qua sự vâng lời cụ thể. Tại sao Đức Giê-su không truyền lệnh để hòn đá lấp cửa mộ tự lăn sang một bên, mà chẳng cần ai đụng tay vào? Chúng ta chẳng hiểu được. Tất cả những gì chúng ta biết là: Đấng có quyền năng Thiên Chúa luôn đòi hỏi sự cộng tác của chúng ta, như C.S Lewis đã nói: “Thiên Chúa dường nhưng chẳng tự mình làm những gì mà Ngài có thể ủy thác cho các tạo vật của Người”. Thiên Chúa sẽ chẳng hóa phép điều mà con người có thể làm với sự vâng phục.
Lệnh truyền thứ hai mà Đức Giê-su đưa ra thì trực tiếp nói với kẻ chết: “Anh La-da-rô, hãy ra khỏi mồ! Người chết liền ra…” (c. 43-44) Chúng ta không biết những chi tiết của những gì xảy ra trong ngôi mộ. Những gì chúng ta biết được, đó là lệnh truyền của Đức Giê-su được đưa ra, và theo sau là một sự vâng phục ngay tức khắc. La-da-rô đang chập choạng tìm lối ra khỏi ngôi mộ tăm tối, “tay chân còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn” (c. 44) Ngay cả một con người đang thối rữa ra trong ngôi mộ, vẫn còn có thể tự làm được việc này cho bản thân mình.
Lệnh truyền thứ ba lại được nhắm tới dân chúng: “Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi” (c. 44). Ngay cả La-da-rô cũng có thể bị vấp té khi bước ra khỏi ngôi mộ, vì anh ta không thể tự tháo cởi dây băng mà người ta đã quấn khi liệm xác của anh. Anh cần đến dân chúng giúp anh ta làm điều này. Nhờ việc tháo gỡ dây và khăn liệm, anh có thể tự do trở lại với cuộc sống bỉnh thường chung với cộng đồng.
Nhiều ki-tô hữu và những cộng đoàn ki-tô hữu ngày nay đã phải chết vì tội. Nhiều người đã phải ở trong những nấm mồ của sự vô vọng và sự hủy diệt, vì những thói quen hoặc lối sống tội lỗi của họ. Chẳng có một phép lạ nào đưa họ trở về với sự sống trong Đức Ki-tô. Thế nhưng Đức Ki-tô vẫn sẵn sàng làm phép lạ. Ngài đã nói: “Ta đến để cho chiên đực sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).
Liệu chúng ta có sẵn sàng cộng tác với Đức Giê-su để phép lạ xảy ra? Liệu chúng ta có sẵn sàng thực hiện bước đầu tiên để ra khỏi cõi chết? Liệu chúng ta có sẵn sàng tháo cởi (chẳng hạn tha thứ) cho người khác và giúp họ được tự do? Đây là những cách thế khác nhau mà chúng ta có thể cộng tác với Thiên Chúa trong việc thực hiện phép lạ mang lại sự sống cho từng người trong chúng ta, hay cả tập thể là giáo hội hoặc một dân nước.
8.”Tôi là Sự Sống Lại và là Sự Sống”
(Suy niệm của John W. Martens – Văn Hào, SDB chuyển ngữ) (John W. Martens: Giáo sư trợ giảng môn Thần học tại đại học St. Thomas, Minnesota).
“Tôi là Sự Sống lại và là Sự Sống. Ai tin vào tôi , dù có chết sẽ được sống” (Ga 11,25)
Tại sao Đức chúa Giêsu khóc, khi thấy những giọt lệ rơi trên khóe mắt của hai chị em ông La-da-rô và các bạn hữu của Ngài? Rốt cục, Chúa Giêsu biết rằng La-da-rô đã chết thật rồi. Các động thái của Ngài cho thấy, Ngài vẫn để cho cái chết xảy ra. Vì vậy, tại sao Ngài lại khóc khi tiếp cận những khuôn mặt ủ dột sầu thương? Câu chuyện Chúa phục sinh La-da-rô khởi dẫn chúng ta đi vào thực tại nhân tính của Đức Giêsu và tìm hiểu những lý do về việc Ngài đến để chiến thắng sự chết.
La-da-rô có hai chị em: Maria và Mát-ta. Họ “đã gửi cho Đức Giêsu một thông điệp”, báo tin La-da-rô đang ốm nặng. Chúa Giêsu quyết định không đến ngay để thăm người bạn đang hấp hối, nhưng phải đợi đến hai ngày sau khi La-da-rô đã chết. Ngài đến để “đánh thức La-da-rô dậy”. Chúa Giêsu muốn minh thị rằng cái chết thể lý không phải là kết thúc cuộc sống chúng ta, nhưng đó chỉ là một giấc ngủ và chúng ta sẽ được quyền năng Thiên Chúa làm cho thức dậy. Quả thật, Đức Giêsu vẫn để cho cái chết xảy đến. Ngài có vẻ như hài lòng vì đã không có mặt, để cho các môn đệ “tin” vào Ngài.
Chúa Giêsu và các môn đệ đến nhà ông La-da-rô, người đã được mai táng trong mồ bốn ngày rồi. Mát-ta ra đón đường và nói với Chúa đến đây làm gì nữa. Chị ta nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, nếu thầy có mặt ở đây, em con đã không chết”. Chúa Giêsu trả lời: “Em con sẽ sống lại”. Chị ta hiểu rằng La-da-rô sẽ sống lại trong ngày sau hết. Nhưng, Đức Giêsu khẳng định lời tuyên bố của Ngài như là khuôn thước cho niềm tin vào Ngài. “Thầy là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào thầy dù có chết cũng sẽ sống, và bất cứ ai sống và tin vào thầy, người đó sẽ không bao giờ chết. Còn con có tin điều đó không?” Mát-ta đã công bố niềm tin vào Đức Giêsu.
Và rồi Maria cũng đến, sau chị của mình. Vài người bạn nghĩ rằng Maria ra mộ La-da-rô để than khóc nên cũng đến với Maria để an ủi cô. Ở đây câu chuyện không chỉ xoay quanh quyền năng Thiên Chúa, Đấng làm cho sống lại, nhưng lại hướng về nỗi buồn đau gây nên do bởi cái chết. Maria nói với Đức Giêsu: “ Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây em con đã không chết”. Câu nói của Maria trong câu 32 cũng tương đồng với lời nói của Mát-ta trong câu 21. Nhưng Maria bắt đầu gào khóc dưới chân Chúa, khi thốt ra những lời này, không giống cô chị Mát-ta khi Chúa Giêsu an ủi cô với viễn ảnh về sự phục sinh mai sau.
Khi Đức Giêsu thấy những giọt lệ trên khuôn mặt Maria và các bạn, Ngài không trả lời “Em con sẽ sống lại”, như đã nói với Mát-ta. Thay vào đó, Ngài bắt đầu cảm thấy xao xuyến và trái tim bắt đầu lay động. Nhưng tại sao Ngài dàn dựng cảnh này, và tỏ ra hài lòng vì La-da-rô đã chết, để khơi dậy niềm tin nơi các môn đệ và có lẽ cả nơi những người đã quen biết La-da-rô. Ngài trực diện với sự mất mát tang tóc do cái chết thể lý gây nên, và Ngài cũng bắt đầu khóc. Ở đây, chúng ta cũng lại hỏi lý do tại sao, trong khi Ngài biết Ngài có thể làm cho La-da-rô sống lại, và Ngài cũng biết cái chết không có quyền lực sau cùng trên Ngài cũng như trên con người, sao Ngài lại khóc?. Lúc này, thực tại con người cùng với cái chết đã mang âm hưởng nơi Đức Giêsu qua cách thức chưa từng xảy ra. Qua cuộc gặp gỡ này, Đức Giêsu không chỉ giản đơn biết về cái chết theo cách trừu tượng nhưng trong chính thực tại nhân sinh kiếp người. Ngài thấy các bạn bè khóc, cả những người vẫn tin rằng sự chết một ngày kia sẽ bị khuất phục. Ngài cũng thấy một sự đau đớn xuyên thấu tâm hồn, khi đứng trước hình hài của một người thân đang được vùi chôn trong mộ.
Ray Jasper, khi đứng trước một dãy xác người đang thoi thóp sắp chết, đã diễn tả cảm xúc của mình như sau: “Xúc cảm trào dâng giúp bạn có được một trải nghiệm trước cảnh tượng đó. Cảm xúc đó nói lên: Nếu người chết đó chính là tôi thì sao? Đức Giêsu đã bật khóc vì Ngài cũng cảm thấy nỗi đau đớn. Ngài cũng thông chia vào những đớn đau nơi thân phận kiếp người. Ngài cũng có thể nói “Người chết đó chính là tôi.”
Đức Giêsu đã trải nghiệm cái chết như một kiếp người, cảm thấu sự mất mát bi thương nơi các bạn hữu. Ngài biết rằng cái chết sẽ gây nên sự tàn phá, đưa chúng ta trở về cát bụi, nơi mà chúng ta đã xuất phát. Chúng ta nhớ rằng, trong Mùa Chay, chúng ta cần phải tập chết như thế, để cứu chúng ta thoát khỏi cái chết thực sự, bởi vì Đức Giêsu đã thấy được những giọt lệ than khóc từ nơi những người khác. Ngài không muốn cùng với chúng ta đón lấy cái chết, nhưng muốn lau khô giọt lệ của chúng ta luôn mãi. Ngài nói với chúng ta hãy khu trừ sự chết, vì chúng ta được dựng nên để được sống và sống muôn đời.
9.Đức Yêsu là Sự Sống Lại và là Sự Sống
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Có cái chết thể lý và cũng có cái chết tinh thần. Cái chết tinh thần làm con người tuyệt vọng và đôi khi dẫn tới cái chết thể lý. Đức Yêsu là sự sống lại, là Đấng làm cho những người tuyệt vọng được hy vọng trở lại. Ngài là lẽ sống và sự sống của con người.
1. Mong chờ được giải thoát khỏi buồn phiền
Có thể nói, ai cũng có kinh nghiệm về niềm vui nỗi buồn, về hy vọng và thất vọng, về thành công và thất bại. “Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí”. Ít có ai thành công trọn vẹn về mọi phương diện trên đời, làm sao tránh được những buồn phiền và chán nản! Ai có thể mang lại hạnh phúc cho con người!
Dân Do Thái thời bị lưu đày sang Babylon, xa quê cha đất tổ, nơi đất khách quê người, cô thế cô thân nên bị hà hiếp bóc lột, vẫn mong có một ngày được trở về quê hương. Thiên Chúa đã giải phóng dân khỏi cảnh lưu đày, khi cho một vị vua khác nổi lên chinh phục những nước láng giềng, và cả đế quốc Babylon. Vị vua này, theo tác giả sách tiên tri Ysaya, là Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa đối với người Do Thái. Vua Kyrô xứ Ba-Tư đã ra chiếu chỉ cho phép người Do Thái lưu đày được trở về quê hương. Dân Do Thái vui mừng như từ cõi chết sống lại. Thiên Chúa là Đấng mang lại niềm vui và sự sống cho dân Ngài.
Thiên Chúa luôn là Đấng đong đầy khát vọng của con người. Nơi Kitô hữu, Đức Yêsu là Đấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và con người. Thiên Chúa ban tất cả cho con người trong và nhờ Đức Yêsu Kitô.
2. Ta là sự sống lại và là sự sống
Trong cuộc đời rao giảng, Đức Yêsu đã làm cho một vài người đã chết được sống lại, như con bà goá thành Naim, con gái ông Giairô, và Lazarô. Số người được Đức Yêsu làm sống lại trong suốt đời Ngài không nhiều, tuy nhiên đó là những dấu chỉ cho thấy Đức Yêsu là sự sống lại. Qua đời sống của Ngài và nhờ Thánh Thần, Đức Yêsu giúp những đầu gối rã rời, những người tuyệt vọng, thấy được lẽ sống trên đời.
“Ai tin vào Ta, thì dù người đó có chết, cũng sẽ sống lại; và ai đang sống mà tin Ta, thì sẽ không bao giờ phải chết”. Đức tin vào Đức Yêsu, sẽ làm cho người đó sống lại. Tin vào Đức Yêsu, hàm chứa tin rằng Thiên Chúa yêu thương con người và Ngài đang hành động qua Đức Yêsu, là tin rằng Thiên Chúa đang làm tất cả cho con người qua Đức Yêsu.
Thiên Chúa là Đấng vô cùng quan trọng, và là Đấng yêu thương con người vô cùng. Tại sao mình đi tìm những điều phụ thuộc, để rồi buồn phiền khi không được những điều đó? Con người sẽ thất vọng và tuyệt vọng khi không chọn Thiên Chúa là tất cả cho mình. Nếu một người chọn Thiên Chúa là tất cả- và thực sự chỉ có Thiên Chúa là giá trị tuyệt đối, thì họ luôn luôn toại nguyện vì Thiên Chúa luôn yêu thương và Ngài ban tất cả cho họ, kể cả chính Thiên Chúa.
3. Niềm tin vào Đức Yêsu
Nơi Đức Yêsu có một điều gì đó vừa bình thường vừa đặc biệt. Ngài vẫn ăn uống ngủ nghỉ như mọi người, nhưng vẫn có một điều gì đó khác thường và siêu việt. Ngài là dấu chỉ Thiên Chúa đang hiện diện với con người, Ngài là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương con người. Ngài khát nước mệt mỏi ngồi phệt bên cạnh giếng, nhưng cũng không cần ăn để nói về Thiên Chúa, ngay cả chỉ có mỗi một thính giả là chị phụ nữ người Samaria. Ngài thổn thức thương cảm bà mẹ goá thành Naim cũng như chị em Maria Matta, nhưng cũng dứt khoát và xác tín “Lazarô, hãy bước ra”. Nơi Đức Yêsu có điều gì đặc biệt, làm người ta tin rằng, Ngài có thể làm được mọi chuyện.
Khi gặp Đức Yêsu, Matta nói: “nếu Thầy ở đây, em con đã không chết. Nhưng ngay cả bây giờ, bất cứ gì Thầy xin Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ ban cho Thầy”. Dường như Matta có lúc đã dám tin rằng Đức Yêsu có thể phục sinh Lazarô nếu Ngài muốn. Biết đâu niềm tin này giúp Lazarô được phục sinh!
Xin cho chúng ta có niềm tin vào Đức Yêsu, để chúng ta có được tất cả như lòng mong ước, để rồi được sống lại với Ngài ngay từ giây phút này.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Bạn có biết ai “như thể được sống lại” nhờ vào Đức Yêsu không?
2. Theo bạn, Matta và Maria, ai tin và yêu Đức Yêsu hơn? Tại sao?
3. Lazarô sống lại và Đức Yêsu sống lại khác nhau ở điểm nào?
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Đức Yêsu cố tình trì hoãn không đến Yerusalem để Ladarô chết, hầu Ngài có dịp mặc khải cho chính Ngài cho các tông đồ.
Ladarô còn trẻ, cái chết đã cướp đi người em của Matta và Maria! Một mất mát không gì có thể bù đắp lại được. Đức Yêsu thổn thức và xao xuyến (Ga.11, 33). Đức Yêsu chia sẻ nỗi buồn đau của kiếp người, như bất cứ ai.
Giọt nước mắt, là chuyện thường tình, nhưng cũng là giọt nước mắt thánh trong tình yêu. Sự thổn thức xao xuyến của kiếp người, cũng là những tình cảm thiêng liêng thánh thiện.
“Nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết; nhưng bây giờ con biết: bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy” (Ga.11, 21-22). Một lời trách nhẹ nhàng, và một lời diễn tả điều ao ước mà không dám nói! Phải chăng chị Matta tin Đức Yêsu có thể làm cho Ladarô sống lại, mà chị không dám xin “nhưng con biết bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người sẽ ban cho Thầy”. Một niềm tin quá tuyệt!
“Em chị sẽ sống lại”! Chuyện này rõ rồi, con cũng tin như vậy: “con biết em con sẽ sống lại khi kẻ chết sống lại”, nhưng…. (Thầy có hiểu điều con muốn xin mà không dám nói với Thầy không?) . “Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Thầy thì dù đã chết cũng sẽ được sống; Còn ai sống mà tin Thầy thì sẽ không phải chết” (Ga.11, 25-26).
Đức Yêsu đã phục sinh Ladarô! Niềm vui như vỡ trào, không chỉ đối với chị em Matta Maria mà còn đối với cả dân chúng nữa! Còn cái gì nữa? Thiên Chúa muốn làm gì nữa qua con người Yêsu này (lúc này dân chúng chưa biết Đức Yêsu là Thiên Chúa)? Tất cả mọi người sẽ sống lại? (Nếu chết ba ngày rồi mà Đức Yêsu còn có thể làm cho sống lại, thì chẳng lẽ Ngài không thể làm cho kẻ chết bốn ngày sống lại được? Và tương tự như thế cho những người đã chết năm ngày hay sáu ngày, v.v.?). Vấn đề chính là Đức Yêsu có muốn hay không mà thôi!
Qua biến cố Đức Yêsu làm Ladarô sống lại, Thiên Chúa đã khơi bùng lên niềm tin vào Thiên Chúa của dân Ngài.
Tin vào Đức Yêsu, người chết có thể sống lại!
Bao nhiêu người sống mà như đã chết: buồn bã, không niềm hy vọng, tuyệt vọng trước mọi sự! Đức Yêsu là sự sống lại và là sự sống! Người ta có thể bắt đầu lại! Người ta có thể làm lại cuộc đời! Bao cuộc đời dang dở, bao cuộc đời không còn đáng sống nữa, có thể hồi sinh. Chị phụ nữ tội lỗi trong Lc.7, 36-50 là một ví dụ.
Bao nhiêu người mẹ mong chờ con hoang trở về, bao nhiêu người con chờ mong bố hay mẹ trở về, bao nhiêu người vợ mong chồng trở lại, bao nhiêu người chồng mong vợ tỉnh ngộ, nhưng thực tế … như vô vọng! Thiên Chúa có thể biến đổi lòng người! Và chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm được mọi sự!
Thiên Chúa mang lại cho con người niềm hy vọng!
Chỉ với Thiên Chúa, người ta mới có thể hy vọng được thôi!
Đức Yêsu là sự sống lại và là sự sống!
11.Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Bệnh tật, chết chóc là những nỗi khổ của con người. Nhưng có khi qua bệnh tật, chết chóc con người lại nhận được những bài học có giá trị cho cuộc sống. Chúng ta có thể thấy được điều này qua “sự cố” của ông Ladarô mà câu chuyện Tin Mừng hôm nay kể lại.
1. Bài học thứ nhất: Sự liên đới và quan tâm giúp đỡ
Đó chính là tình liên đới giữa Đức Giêsu với ba chị em Martha, Maria và Ladarô: Xét về phạm vi tự nhiên, giữa Đức Giêsu và ba chị em của Martha có một mối tương quan tình bạn gần gũi, thân thiện và trong sạch. Hiện diện với nhau khi vui, có mặt với nhau khi buồn, đồng cảm với nhau trong mọi hoàn cảnh. Trong một xã hội mà con người dễ bị cám dỗ sống dửng dưng với nhau như hôm nay, thì tình liên đới tốt đẹp giữa Đức Giêsu với ba chị em nhà Martha là mẫu gương cho mỗi người chúng ta noi theo.
Đó là tình liên đới giữa các thành viên trong gia đình: Khi biết Ladarô bị bệnh, hai chị em Martha và Maria đã cho người nhắn tin cho Đức Giêsu: “Người Thầy yêu đau nặng” (Ga 11,3). Việc làm này thể hiện sự quan tâm của Martha, Maria đối với em là Ladarô. Trong cuộc sống, chúng ta cần có sự liên đới giúp đỡ nhau, nhất là giữa những người thân thuộc trong gia đình. Khi một ai đó trong gia đình bị bệnh, những thành viên khác cần quan tâm giúp đỡ, nhất là tìm thầy chạy thuốc, để người ốm đau được khám chữa bệnh một cách chu đáo hầu mong chóng khỏe lại.
2. Bài học thứ hai: Làm Sáng Danh Chúa
Trong bài Tin Mừng Chúa nhật tuần trước, khi các môn đệ hỏi Đức Giêsu về trường hợp anh mù từ khi mới sinh. “Anh ta bị mù là do tội anh ta hay do tội của cha mẹ anh ta?” Đức Giêsu trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh” (Ga 9, 3). Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, khi Martha và Maria sai người đến báo tin cho Đức Giêsu biết “Người Thầy yêu đau nặng.” Đức Giêsu cũng trả lời rằng: “Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng để làm sáng danh Thiên Chúa và do đó Con Thiên Chúa sẽ được vinh hiển” (Ga 11,4). Và sau đó, diễn biến của câu chuyện Tin Mừng thực sự đã làm sáng danh Thiên Chúa. Bởi vì, qua câu chuyện Tin mừng này niềm tin của các Tông đồ được cũng cố, chính Đức Giêsu đã nói: “Ladarô đã chết. Nhưng Thầy mừng cho các con, vì Thầy không có mặt ở đó để các con tin. Vậy chúng ta hãy đi đến nhà ông”(Ga 11,14). Không những niềm tin các Tông đồ được cũng cố mà niềm tin nơi các người hiện diện cũng được cũng cố. Chính Martha thưa với Đức Giêsu khi Ngài hỏi về niềm tin rằng: “Thưa Thầy, vâng, con đã tin Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian” (Ga 11, 27). Và nhiều người Do thái cũng đã tin vào Đức Giêsu khi chứng kiến phép lạ này (x. Ga 11,45).
3. Bài học thứ ba: Giúp mọi người hiện diện tin vào sự sống đời sau
Phép lạ Đức Giêsu cho ông Ladarô sống lại báo trước sự phục sinh của Ngài sau này, đồng thời hé mở cho chúng ta thấy viễn tượng sống lại trong ngày sau hết như chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại, tôi tin hằng sống vậy.”
Thật vậy, con người có hai sự sống: sự sống thể xác và sự sống linh hồn. Trong bài đọc II, Thánh Phaolô gọi là sự sống phần xác và sự sống theo Thần Khí. Cũng vậy, con người có hai cái chết: chết về phần xác và chết về phần linh hồn.
Đối với phần xác: Có ngày khai sinh, có ngày khai tử. Không ai sống mãi ở trên cõi đời này. Người trẻ cũng chết. Người già cũng chết. Người giàu cũng chết. Người nghèo cũng chết. Người có quyền cao chức trọng cũng chết. Người thường dân cũng chết. Ladarô trước khi được Đức Giêsu cho sống lại cũng đã chết 4 ngày và chắc chắn sau đó ông cũng phải chết. Đức Giêsu vì mang bản tính con người cho nên Ngài cũng chết. Nhưng đức tin kitô giáo dạy chúng ta “xác loài người ngày sau sẽ sống lại.”
Ngoài phần xác, con người còn có phần linh hồn. Linh hồn nhận được sự sống của Thiên Chúa khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Linh hồn được nuôi dưỡng nhờ Bí tích Thêm sức, Giao Hòa, Thánh Thể, Xức dầu… Sự sống linh hồn sẽ được kéo dài vĩnh viễn bên Chúa khi con người chết trong ơn nghĩa Chúa. Chúng ta gọi là chết lành. Đó là trường hợp của ông Ladarô trong “dụ ngôn nhà phú hộ và ông Ladarô” (x. Lc 16,19-31), đó là tình trạng của năm cô khôn ngoan trong “dụ ngôn mười trinh nữ” (x. Mt 25,1-13), đó là tình trạng của những người đứng bên hữu Đức Giêsu trong ngày phán xét (x. Mt 25, 31.46). Đó là tình trạng của các thánh trên Thiên đàng. Chính Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã nói: “Nếu một mai bạn thấy tôi nằm chết, bạn đừng buồn, vì chính Cha chung của chúng ta là Thiên Chúa đã đến đón tôi đi, đơn giản vậy thôi.”
Nhưng sự sống linh hồn cũng có thể bị chết do tội lỗi. Khi con người cố tình phạm tội trọng thì coi như linh hồn đã chết. Nếu tình trạng đó kéo dài sau khi chết cả phần xác thì sẽ lâm vào tình trạng chết đời đời. Chúng ta gọi là chết dữ. Đó là tình trạng của nhà phú hộ trong “dụ ngôn người phú hộ và ông Ladarô,” năm cô trinh nữ khờ dại trong “dụ ngôn mười trinh nữ” và những người đứng bên tả Đức Giêsu trong ngày cánh chung.
Tóm lại, sự cố của ông Ladarô là cơ hội để con người thể hiện sự quan tâm và tình liên đới với nhau. Đặc biệt đây là dịp để làm sáng danh Chúa và củng cố niềm tin vào sự sống đời đời của chúng ta.
Lạy Chúa, chúng con cám tạ Chúa đã cho chúng con có đức tin, nhất là đức tin về sự sống đời sau. Xin cho mỗi người chúng con không chỉ tuyên xưng niềm tin mà còn thể hiện niềm tin đó trong cuộc sống để ngày sau chúng con được sống mãi với Chúa trên Thiên Đàng. Amen.
Tại thế vận hội ở Los Angeles vào mùa hè năm 1984, võ sĩ Jeff Blatnik của Hoa Kỳ đã giành huy chương vàng về bộ môn đô vật. Khi trận đấu kết thúc, anh đã không vui mừng nhảy lên nhảy xuống, hay vung tay lên trời, cũng như không mỉm cười cúi chào đám đông. Trái lại, anh chỉ đơn giản quỳ gối xuống, cúi đầu cầu nguyện và làm dấu thánh giá. Hình ảnh này đã được chiếu trên màn ảnh truyền hình và người ta đã trông thấy những giọt nước mắt chảy xuống trên gò má anh. Anh khóc không phải chỉ vì đã đạt huy chương vàng, mà còn khóc vì cách đó 2 năm, anh đã mắc phải bệnh ung thư, và trước trận đấu 18 tháng, anh đã phải giải phẫu. Vậy mà giờ đây, khi dấn thân vào trận đấu quan trọng này, anh đã đoạt được chiến thắng lớn nhất trong đời mình. Với những giọt nước mắt này, anh đã thực sự lôi cuốn và hấp dẫn mọi người, cũng như đã trở nên giống chúng ta một cách tuyệt vời và đầy cảm động.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta cũng thấy được nét đẹp tuyệt vời và đầy cảm động ấy nơi Chúa Giêsu. Chúng ta nhìn thấy Ngài, là Con Thiên Chúa, nhưng đã khóc bên nấm mồ của Ladarô. Từ đó, chúng ta khám phá ra bản tính con người của Ngài. Chính bản tính con người ấy làm cho Ngài trở nên giống chúng ta. Bởi vì Ngài đã từng chịu đói, chịu khát, chịu mệt mỏi, chịu đớn đau, cho nên Ngài sẽ hiểu chúng ta hơn, khi chúng ta lâm vào những cảnh huống như thế, như người xưa đã bảo: Đoạn trường ai có qua cầu mới hay. Và như vậy, Ngài hiểu rõ thân phận chúng ta. Và chính sự hiểu biết này đem lại cho chúng ta hiềm vui mừng và hy vọng.
Tuy nhiên đoạn Tin Mừng còn chuyển đến cho chúng ta một sứ điệp khác cũng không kém phần quan trọng, đó là Chúa Giêsu không phải chỉ khóc thương Ladarô, mà còn làm cho anh ta được sống lại. Điều đó chứng tỏ, Ngài không phải chỉ là một người như mọi người, mà Ngài còn là Con Thiên Chúa, đầy quyền năng. Với bản tính con người, Ngài cảm thông và chia sẻ với chúng ta. Còn với bản tính Thiên Chúa, Ngài nâng đỡ và trợ giúp chúng ta, trao ban cho chúng ta nguồn sức mạnh và thực hiện những điều chúng ta van xin, kêu cầu.
Bởi đó hãy tin tưởng và phó thác bản thân cũng như cuộc đời cho Chúa vì Ngài là Thiên Chúa quyền năng, đồng thời là một người Cha nhân từ và khoan dung, hằng yêu thương chăm sóc đến mỗi người chúng ta.
Đối với nhiều người Việt Nam, sự chết không nhất thiết là điều đáng sợ. Người xưa coi chết là mãn kiếp, tức là hết đời sống, nên thường ung dung thư thái đón chờ cái chết và chuẩn bị cho cái chết của mình ngay những tháng năm còn khoẻ mạnh. Chẳng hạn như mua sắm quan tài và những đồ khâm liệm đề phòng khi cái chết đến. Cho nên ông Nguyễn Khuyến, vì không muốn phí phạm xa hoa, nên đã căn dặn con cái:
– Đồ khâm liệm chớ nề xấu tốt,
Kín chân tay đầu gót thì thôi.
Trong khi đó, người Tây phương thì không làm như vậy. Họ không sắm sẵn quan tài và những đồ khâm liệm. Thậm chí, họ còn sắp xếp để người thân yêu của mình không chết trong gia đình. Tốt hơn nên để người đó chết ở bệnh viện, rồi từ đó đưa thi hài người quá cố, tới quàn tại nhà xác trước khi đưa tới nhà thờ, và từ nhà thờ đưa thẳng ra nghĩa địa.
Còn Chúa Giêsu, Ngài nghĩ gì về cái chết? Theo Cựu Ước, người Do Thái không quan niệm chết là hồn lìa khỏi xác, vì đó là quan niệm của người Hy Lạp. Còn người Do Thái thì cho rằng chết là mất hết sự sống. Với phép lạ cho Lagiarô sống lại, Chúa Giêsu không quan tâm đến việc tìm hiểu xem sự sống và sự chết là gì, nhưng điều chính yếu Ngài muốn gởi gấm, muốn xác quyết: Ngài chính là sự sống lại và là sự sống.
Đây cũng là một chủ đề được đề cập đến nhiều lần qua Tin Mừng theo thánh Gioan. Với người phụ nữ Samaria bên bờ giếng Giacob, Ngài xác quyết: Nước Ta ban sẽ vọt lên đem lại sự sống đời đời. Sau phép lạ bánh hoá nhiều, Ngài nói với người Do Thái: Ta là bánh ban sự sống. Nơi khác Ngài bảo: Ta là ánh sáng mang lại sự sống. Có lần Ngài đã mạnh mẽ công bố: Ta là đường, là sự thật và là sự sống. Mục đích của Ngài đến trong thế gian là gì, nếu không phải là để cho chúng ta được sống và được sống một cách dồi dào.
Và để thực hiện mục đích này Ngài đã phải trả một cái giá thật đắt bằng chính mạng sống của Ngài với cái chết trên thập giá. Ngài đã sánh ví mình như hạt lúa được gieo trên ruộng đồng, có mục nát đi, thì mới sinh nhiều bông hạt. Ngài đã sánh ví mình như người mục tử nhân lành, hiến mạng sống vì đàn chiên. Và chính Ngài đã thực hiện lời giảng dạy: Ta đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình là giá cứu chuộc cho nhiều người.
Qua cái chết của mình, Ngài đã đem lại cho chúng ta ơn cứu độ, cũng như biểu lộ được tình yêu tuyệt vời Ngài đã dành cho chúng ta, bởi vì không ai yêu hơn người liều mạng sống mình vì bạn hữu.
Để chuẩn bị bước vào tuần thánh, chúng ta hãy suy gẫm lời thánh Phaolô: Chúa đã yêu thương tôi và đã nộp mình chịu chết vì tôi.
14.Chúa Kitô là sự sống lại và là sự sống
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Với Chúa nhật của Niềm Vui (Lætare) vừa qua, màu hồng Phụng Vụ của Giáo hội là màu của bình minh, hé mở ánh sáng huy hoàng của Đại Lễ Phục Sinh sắp tới. Dù còn hai tuần nữa, nhưng niềm vui ấy đã ló rạng trong các bài đọc Chúa nhật hôm nay, tuy không nói về sự sống lại của Chúa Giêsu vì đó là điều tất yếu, nhưng nói về sự phục sinh của chúng ta, chính Chúa Kitô ban cho chúng ta: trỗi dậy từ trong cõi chết.
Phục sinh Lagiarô báo trước cái chết của Chúa Giêsu
Sự kiện Lagiarô sống lại như một bi kịch giữa Sự Sống và Sự Chết, giữa Đấng được Chúa Cha sai đến là Đức Giêsu Kitô, Chúa của Sự Sống, và thủ lãnh sự chết tiềm ẩn nơi: bệnh tật, cái chết của Lagiarô, cũng như các âm mưu chống lại Chúa Giêsu.
Ngay từ đầu, Chúa Giêsu cho thấy những thử thách về bệnh tật của bạn mình, cũng như cái được cái mất trong cuộc thương khó của Ngài: “Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng để làm sáng danh Thiên Chúa ” (Ga 11, 4). Chúa Giêsu biết rõ, Lagiarô chết và việc của Ngài nên nói với các môn đệ: ” Lagiarô đã chết ” (Ga 11, 14). Nhưng Ngài sẽ cho sống lại, vì “sáng danh Thiên Chúa ” (Ga 11, 4).
Đây là phép lạ thứ bẩy và cuối cùng thu hút sự chú ý nhất của dân chúng vào Chúa Giêsu trước khi Ngài bị bắt. Khi loan báo cho các môn đệ biết về ý muốn trở lại Giuđêa của Chúa Giêsu để gặp Lagiarô đã chết, các ông hết sức ngạc nhiên và lo lắng nên nói: “Thưa Thầy, mới đây người Do thái tìm ném đá Thầy, mà Thầy lại trở về đó ư? “(Ga 11, 8). Quả thật, các nhà lãnh đạo Do thái đã để mất Chúa Giêsu vào dịp này: ” Bởi vậy từ ngày đó, họ quyết định giết Người ” (Ga 11, 53). Nhưng phản ứng của Chúa Giêsu là: ” Lagiarô đã chết, chúng ta hãy đi với anh ta” (Ga 11, 15), Ngài sẽ đánh bại sự chết, cứu con người khỏi chết và ban cho sự song.
Niềm hy vọng của chúng ta
Trọng tâm của Tin Mừng hôm nay là câu: ” Ta là sự sống và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ “(Ga 11, 25-26). Nếu chúng ta đặt niềm tin vào Chúa Giêsu, Chúa Cha ” Đấng đặt Thánh Thần của Ngài trong chúng ta, và chúng ta đang sống ” sự sống của Người (Ez 1, 13) thì chúng ta sẽ được Thiên Chúa cho sống lại ngày sau hết.
Chúa cho Lagiarô sống lại như Ngài đã làm cho con gái ông Giairô, con trai của bà góa thành Naim trở lại sự sống tự nhiên lần thứ hai trong một thời gian ngắn. Trái lại, “Ðức Kitô sống lại từ cõi chết, không còn chết nữa, sự chết không còn bá chủ được Ngài nữa” (Rm 6, 9) vì Ngài sống sự sống của Thánh Thần Thiên Chúa. Nhưng “nếu Thánh Thần của Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại ở trong anh em, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại cũng cho xác phàm hay chết của anh em được sống, nhờ Thánh Thần Người ngự trong anh em” (Rm 8,11). Sao chúng ta không thể hy vọng được.
Phần lớn chúng ta mong đợi trở lại cuộc sống tự nhiên. Chắc chắn chúng ta sẽ chết, bởi vì ” thân xác chúng ta đã chết vì tội lỗi ” (Rm 8, 10) nhưng ” nếu Đức Kitô ở trong chúng ta” và chúng ta ở trong Ngài với đức tin sống động, thì linh hồn chúng ta sẽ sống bằng sự sống của Thiên Chúa và được tham dự vào sự bất tử của Ngài. Hơn nữa: chúng ta tin vào phép rửa ” Vậy nhờ thanh tẩy, ta đã được mai táng làm một với Ngài trong sự chết, ngõ hầu như Ðức Kitô, nhờ bởi vinh quang của Cha, mà được sống lại từ cõi chết, thì cả ta nữa, ta cũng bước đi trong đời sống mới “. (Rm 6, 4).
Thật là đại tin mừng: ” Nơi Ngài là sự Sống, và sự Sống là sự Sáng cho nhân loại. Và sự sáng rạng trong tối tăm, và tối tăm đã không tiêu diệt được sự sáng” (Ga 1, 4-5). Nếu như tác giả Tin Mừng đã hai lần thuật lại điều Martha và Maria than với Chúa về đau khổ của hai bà: “Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết”, há không phải muốn nhấn mạnh rằng, từ nay, tiếng khóc không còn nữa đó sao? Chúa Giêsu thổn thức và xúc động. Người hỏi: ” Đã an táng Lagiarô ở đâu? ” Nước mắt Chúa như mưa, Lagiarô như hạt giống, và ngôi mộ như một thửa đất. Chúa Giêsu hô lớn tiếng, tiếng Ngài làm cho sự chết run sợ, Lagiarô đã bung lên như hạt giống, anh bước ra khỏi mồ và tôn thờ Đấng đã cho anh sống lại.
Mãnh lực của sự chết đã thống trị Lagiarô bốn ngày. Chúa Giêsu đã đánh bại sự chết ngày thứ ba, đúng như lời Ngài đã hứa rằng, Ngài sẽ sống lại ngày thứ ba sau khi chết (x. Mt 16, 21).
” Hãy đẩy tảng đá ra ” (11, 39). Cái gì vậy, Đấng đã làm cho kẻ chết sống lại, nay không thể mở cửa mồ hay phán một lời để di chuyển tảng đá đóng cửa mồ hay sao? Chắc chắn, Ngài có thế khiến tảng đá lăn ra khỏi mồ bằng lời Ngài phán, khi Ngài bị treo trên thập giá, Ngài đã từng chẻ đôi tảng đá và mở tung các cửa mồ (Mt 27,51-52).
” Hãy cởi ra cho anh ấy đi “(11, 44). Chúa bảo người chung quanh cởi cho anh để họ nhận ra chính anh là người họ đã bọc vào trong khăn an táng, thân xác đã phân hủy, nay sống lại nhờ quyền năng Chúa.
Hình ảnh báo trước và là lời hứa phục sinh cho các dự tòng
Là người thật, Ðức Kitô đã khóc Lagiarô, bạn hữu Người; là Thiên Chúa hằng sống, Người đã truyền cho Lagiarô sống lại ra khỏi mồ. (Kinh Tiền Tụng). Hôm nay Chúa cũng tuyên bố: ” Ta là sự sống lại và là sự sống” và hỏi “Con có tin điều đó không?” Cùng với Martha chị của Lagiarô các anh chị em dự tòng thưa: “Thưa Thầy, vâng, con đã tin Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian” (Ga 11,). Chúa phục sinh Lagiarô là hình ảnh báo trước sự phục sinh cho các dự tòng là những người mong đợi trong Đêm Vọng Phục Sinh. Khi dìm mình trong nước nước Rửa tội, người dự tòng được giải thoát khỏi sự chết và sống lại với Chúa Kitô. Sự sống lại này, như lời tiên tri Êgiêkiêl: “Ta sẽ mở cửa mồ cho các người, Ta sẽ kéo các người ra khỏi mồ ” (Ez 37, 12-14). “Ta đặt thần khí ta vào tâm hồn anh em ” (Ez 37, 6): nhờ Phép Rửa tội, Thần Khí Đức Kitô ngự vào trong chúng ta (Rm 8, 8-11), Thần Khí kết hợp người chịu phép rửa trong tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con; khi đón nhận, chúng ta được tham dự vào tình yêu này của Ba Ngôi Thiên Chúa. Amen.
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ của R. Veritas)
Hôm nay đã là Chúa Nhật V Mùa Chay và Chúa Nhật tới đây là Chúa Nhật Lễ Lá bắt đầu Tuần Thánh. Tuần chúng ta được mời gọi suy niệm nhiều hơn và cử hành mầu nhiệm chết và sống lại của Chúa. Bài Phúc Âm hôm nay như là một chuẩn bị cho chúng ta để cử hành mầu nhiệm chết và sống lại của Chúa.
Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại, chúng ta cũng sẽ phải chết và được sống lại với Chúa. Khi nói về sự sống lại thì nhiều người anh chị em chúng ta có lẽ nghe khó tin. Mới đây tập hợp điều tra về niềm tin của những người công giáo bền Italia về sự sống đời sau sau cái chết, kết quả cho biết rằng, mặc dù đa số tin có Thiên Chúa, nhưng khi được hỏi về niềm tin của họ vào sự sống đời đời thì họ tỏ vẻ do dự. Quan tâm của họ về sự sống đời đời xem ra như càng ngày càng ít đi, dường như có hai hoàn cảnh làm cho con người dễ xa lìa Thiên Chúa, quên đi cuộc sống đời đời. Đó là khi con người giàu sang, quyền quí hoặc khi gặp cảnh cùng cực thái qúa. Giàu quá dễ bị cám dỗ quên Chúa và nghèo quá cũng làm con người tuyệt vọng.
Bài Phúc Âm hôm nay ghi lại biến cố Chúa Giêsu đến với gia đình chị em Martha, Maria và Lagiarô để mạc khải cho họ sự thật căn bản về sự sống đời đời: “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống. Ai sống mà tin Ta sẽ không chết bao giờ”.
Vào hoàn cảnh mà Chúa Giêsu chọn để mạc khải sự thật này cho chị em Martha, Maria là cái chết của Lagiarô, người được Chúa thương. Đây có thể nói là một biến cố không thuận lợi chút nào, Lagiarô đã bị đau cần Chúa đến nâng đỡ chữa trị thì Chúa không đến, xem ra như lơ là hai chị em đã nhắn tin cho Chúa Giêsu biết hoàn cảnh đau yếu của Lagiarô, nhưng Chúa vẫn trì hoãn không đáp lại. Một thử thách cho người bạn của Chúa, chờ đợi Chúa mau mắn đáp lại và ỷ lại vào tình bạn với Ngài, nhưng Chúa đã không đáp lại như lòng họ mong ước: “Nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết”.
Rồi sau khi Lagiarô chết rồi, gia đình Martha và Maria đang sống trong sự tang chế đau buồn thì Chúa lại đến, và thay vì nói lời an ủi hay là một điều gì liền ngay theo như mong ước thường tình của con người trong hoàn cảnh tương tự như vậy, thì Chúa Giêsu lại nói điều mà Martha và Maria cả hai người đều không nghĩ đến, đó là Chúa mạc khải sự thật và sự sống đời đời, kêu gọi hãy tin vào Chúa, tin vào sự thật Chúa mạc khải: “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta sẽ không chết bao giờ”.
Có thể nói là những lời chói tai, không hợp thời, lạc đề xem từ phía con người đang phải chịu thử thách, đang gặp phải những đau thương: “Nếu Thầy có mặt thì em con không chết”. Sự đáp trả của hai chị em Martha, Maria và của hai người Do Thái đến chia buồn lúc đầu chưa được trọn hảo. Martha nghĩ đến sự sống lại ngày sau hết, còn hai người Do Thái có mặt ở đó quan sát xem Chúa Giêsu có làm gì để thay đổi hoàn cảnh hay không? Martha và Maria ra khỏi hoàn cảnh cụ thể của mình để đến với Chúa, để gặp Chúa ở nơi mà Chúa muốn ở ngoài hoàn cảnh tang thương, tang chế của họ vào lúc đó để được Chúa hoán cải, để tuyên xưng: “Lạy Thầy, con tin”.
Chúng ta đã biết những gì xảy ra sau lời tuyên xưng đức tin đầy khiêm tốn và can đảm của hai chị em Martha và Maria. Sống mà không có niềm tin thì kể như là đã chết. Trong biến cố mà Phúc Âm thánh Gioan ghi lại cho chúng ta hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu làm phép lạ không phải chỉ cho Lagiarô được sống lại mà thôi, mà cho ba người được sống lại, đó là Martha, Maria và Lagiarô.
Sống lại đầu tiên đó là sống lại với niềm tin vào Chúa, có thể nhiều người trong chúng ta cũng đã chết trong niềm tin vào Chúa và không còn tin Chúa nữa. Chúng ta cần Chúa cho chúng ta sống lại, sống lại trong niềm tin vào Ngài như Martha, Maria: “Lạy Thầy, con tin”. Nhờ lời tuyên xưng của Martha và Maria mà tiếp sau đó Chúa Giêsu cho Lagiarô trở lại cuộc sống. Tất cả qui hướng chúng ta về quan điểm cuối cùng, đó là Chúa Giêsu làm Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa, Ngài là Chúa, là chủ của sự sống và có quyền năng trao ban sự sống cho con người.
Vì biến cố phép lạ Lagiarô chuẩn bị cho biến cố lạ lùng nhất sắp diễn ra là biến cố chính Chúa chết và sống lại mà chúng ta sẽ cữ hành trong Tuần Thánh sắp đến. Chúa chết và sống lại để hoàn tất công trình cứu chuộc con người, để ban cho chúng ta được sống và sống lại với Chúa: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống, và ai sống và tin vào Ta sẽ không chết bao giờ. Con có tin điều đó không?” Chúa Giêsu sẽ hỏi chúng ta: phần con, con có tin điều đó hay không?
Ước chi mỗi người chúng ta cũng được khiêm tốn thưa như Martha, như Maria: Lạy Chúa, con tin. Đức tin làm cho con được sống thật, dù chết hay sống nếu con tin thì không còn gì phải lo lắng nữa. Xin Chúa hãy cho chúng ta được sống lại trong niềm tin của mình vào Chúa để rồi chúng con được sống và sống lại với Chúa mai sau. Amen.
(Suy niệm của Lm Ignatiô Trần Ngà)
Con người có nhiều cơn khát: Khát tiền, khát danh vọng, khát quyền lực, khát tình yêu, khát hạnh phúc… Và trong hàng loạt cơn khát đó, thì khao khát được sống là cơn khát mãnh liệt nhất, thúc bách nhất, khẩn thiết nhất.
Để đáp ứng khao khát này, người ta sẵn sàng lao động vất vả, chấp nhận muôn vàn hy sinh gian khổ để nuôi sống mình, để vun đắp cho đời sống mình được sung túc hơn.
Rồi khi sự sống bị đe dọa trầm trọng bởi bệnh tật, như bị ung thư chẳng hạn, người ta sẵn sàng bán hết tất cả những gì mình có để chạy chữa đến cùng, hễ còn nước thì còn tát…
Vì quý trọng mạng sống nên từ cổ chí kim, không ai trên đời chịu đem mạng sống mình để đổi lấy trân châu bảo ngọc hay phú quý giàu sang hoặc quyền cao chức trọng… Sự sống luôn luôn là trên hết.
Tuy nhiên, đời sống con người cũng như bông hoa sớm nở chiều tàn, như bóng đèn hiu hắt trước gió… Dù ta có tiếc nuối, có kìm giữ, có níu kéo cách nào đi nữa, cũng không thể giữ lại sự sống cho mình. Đến ngày, đến hạn, nó sẽ ra đi.
Vì thế, mọi người đều nơm nớp lo sợ thời khắc định mệnh ấy, lo sợ ngày tang tóc ấy, không biết sẽ chụp xuống lúc nào.
Thần Chết như đang lởn vởn, rình rập đâu đây, sẽ vung lưỡi hái ra tước đoạt mạng sống người ta bất cứ lúc nào!
Hy vọng đã bừng lên
Thế rồi, một niềm vui và hy vọng đã bừng lên: Giữa khung trời u tối và tang tóc vì sự sống sẽ mất đi và sự chết đang bao trùm ấy… bỗng lóe lên một tia chớp hy vọng, hy vọng được cứu sống.
Qua việc làm cho La-da-rô, một thanh niên đã chết bốn ngày, mùi tử khí đã xông lên nồng nặc, được sống lại và trở về với cuộc sống, Chúa Giê-su mang đến nhân loại một tin vui, tin vui đó là Ngài sẽ ban lại sự sống cho những ai lìa trần và không chỉ ban cho họ sự sống đời này mà thôi, nhưng còn ban sự sống vĩnh cửu đời sau. Ngài khẳng định điều đó với cô Mác-ta: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11, 25).
Thế là nhờ Chúa Giê-su, bóng đêm sự chết không còn bao phủ địa cầu. Ngài đến xé tan màn đêm sự chết, tiêu diệt thần chết và ban lại sự sống cho những ai tin vào Ngài.
Thế thì từ đây, nhân loại nắm được một bí quyết rất đỗi tuyệt vời để dành lại sự sống và đạt tới sự sống đời đời, đó là TIN vào Chúa Giê-su. Thế là từ đây, ước mơ cao cả nhất, khát vọng lớn lao mãnh liệt nhất của con người đã được Chúa Giê-su đáp ứng.
Muốn được thoát chết và được sống muôn đời muôn kiếp với Thiên Chúa trên thiên đàng, thì mỗi người phải TIN vào Chúa Giê-su, nhưng không phải là tin suông, vì tin mà không có hành động kèm theo thì vô nghĩa; Ai thực sự tin Chúa Giê-su thì phải thực hành giáo huấn của Ngài, noi gương bắt chước Ngài và sống như Ngài đã sống.
Lạy Chúa Giê-su là nguồn ban sự sống cho trần gian,
Không gì trên đời quý bằng được sống. Không gì đáng khao khát cho bằng sự sống đời đời.
Xin cho chúng con luôn kết hợp với Chúa cách mật thiết, như bàn tay kết hợp với thân mình… để được đón nhận sự sống đời đời do Chúa truyền ban và kiên quyết không bao giờ phạm tội trọng để khỏi đánh mất sự sống muôn đời. Amen.
17.Nối kết với Chúa Giêsu là Nguồn ban Sự Sống
(Suy niệm của Lm Ignatiô Trần Ngà)
Sự sống vô cùng quý báu
Mạng sống hơn đống vàng. “Thà là một con chó (đang) sống còn hơn là một con sư tử chết.” (nhà văn Jack London)
Ai cũng khao khát sống, sống lâu sống khoẻ, trẻ mãi không già.
Người ta mưu cầu sự sống bằng đủ mọi cách, với bất cứ giá nào.
Nếu có phương thuốc trường sinh, thì dù phải mua với giá cao ngất, thậm chí phải bán cả gia tài mới đủ, người ta cũng quyết mua cho bằng được.
Thế nhưng, cuộc sống lại quá mỏng giòn
Thực tế cho thấy cuộc sống hiện tại thật mỏng giòn, mong manh, tạm bợ. Như quả bóng bóng xà phòng do một em bé thôi lên, trông long lanh hấp dẫn, óng ánh muôn màu. Nhưng rồi, bụp một cái! Nó tan biến hết, chẳng còn gì!
Vì thế mà một nhà thơ Việt nam, ông Nguyễn công Trứ than rằng: “Ôi, nhân sinh là thế, như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao…”
* * *
Cái chết của Ladarô nói lên thân phận mong manh kiếp người
Cuộc đời của Ladarô cũng mong manh như thế. Đang nửa chừng xuân, đang tuổi còn dồi dào sức sống, Ladarô vội vã từ giã cuộc đời, để lại vô vàn đau thương tiếc nuối cho thân nhân cũng như bè bạn.
Đó là một mất mát vô cùng lớn lao mà không gì trên đời bù đắp nổi. Mất gì người ta cũng có thể kiếm lại được và có thể tậu lại cái mới tốt hơn; còn mất mạng sống là mất tất cả và dường như chẳng còn cách nào phục hồi lại được!
Chính vì thế mà khi Lagiarô chết đi, bà con họ hàng vô cùng thương tiếc. Cho dù Lagiarô đã an nghỉ trong mộ bốn ngày rồi mà hai người chị là Matta và Maria vẫn còn ngậm ngùi thổn thức… Ngay cả Chúa Giêsu khi đến thăm mộ cũng không cầm được nước mắt trước cái chết của người thanh niên còn xuân trẻ nầy.
Khát vọng lớn nhất của nhân loại là khát sống. Cho dù cuộc sống hôm nay chỉ là tạm bợ, nay có mai không, có nhiều đắng cay cơ cực, có nhiều vất vả muộn phiền, nhưng ai ai cũng khát khao được sống.
Chúa Giêsu đem lại sự sống đời đời cho nhân loại
Vậy phải tìm đâu cho có sự sống lâu bền? Phải làm gì để biến đổi đời sống mau qua trở thành vĩnh cửu?
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta bí quyết. Ngài tỏ cho Matta và Maria biết bí quyết nầy: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống”.
Nếu chỉ nói suông thì lời nói đó chẳng có giá trị gì. Điều quan trọng là lời khẳng định của Chúa Giêsu được củng cố bằng sự việc kèm theo. Dù Lagiarô đã chết và được mai táng trong mộ bốn ngày rồi, thân xác bắt đầu sình lên và đã nặng mùi, thế mà khi Chúa Giêsu kêu gọi: “Lagiarô, hãy ra đây!” thì người chết bắt đầu vươn vai chỗi đậy, bước ra khỏi mồ theo lời Chúa truyền dạy trước sự kinh ngạc của những người chứng kiến, trước sự hoan hỉ khôn tả của thân nhân họ hàng.
Sự kiện Chúa Giêsu làm cho Lagiarô sống lại, kèm theo sự kiện chính Ngài đã tự mình sống lại sau khi đã chết trên thập giá và mai táng trong mồ… chứng tỏ rằng Ngài là Đấng hằng sống và có thể ban sự sống cho mọi người.
Hãy kết nối với Chúa Giêsu để nhận được sự sống đời đời
Chúa Giêsu là Nguồn ban sự sống. Muốn sống đời đời thì hãy nối kết với Chúa Giêsu.
Bóng đèn muốn được toả sáng thì phải được nối kết với nguồn điện.
Cành nho muốn được trổ sinh hoa trái phải được tháp nhập vào thân nho.
Bàn tay muốn sống còn và hoạt động thì phải liên kết với cơ thể.
Con người muốn được sống dồi dào và vĩnh cửu thì phải nối kết với Nguồn ban sự sống là Chúa Giêsu.
* * *
Lạy Chúa Giêsu, qua bí tích Rửa Tội, Chúa đã nối kết chúng con nên một với Chúa, để được trở thành chi thể của Chúa.
Qua bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu cho chúng con được trở nên đồng huyết nhục với Chúa và từ đó, sự sống thần linh của Chúa được thông truyền cho chúng con.
Tiếc thay, khi phạm tội trọng, chúng con đã tự cắt lìa mình ra khỏi Chúa như cành nho lìa thân nho, như bàn tay bị cắt lìa khỏi cơ thể và như thế chúng con đánh mất sự sống đời đời.
Xin cho chúng con sớm giao hoà với Chúa qua bí tích Giải Tội, để được nối kết lại với Chúa và để cho sự sống thần linh của Chúa tiếp tục thông truyền cho chúng con.
18.Sự sống – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Sự sống là một mầu nhiệm. Tạo hóa trao ban sự sống cho mọi loài: Thực vật, động vật và loài người. Khí thở là nguồn của sự sống. Mọi loài sống đều cần có không khí để hít thở và nuôi dưỡng. Sự sống di động trong toàn thân. Trong thân thể con người, khi hơi thở và máu huyết ngưng đọng, con người sẽ chết. Mỗi người đều có một sự sống riêng biệt. Sự sống nơi mỗi người có thể kéo dài cả trăm năm và cũng có thể tan bay trong khoảnh khắc. Sư sống dài hay ngắn không quan trọng bằng sống cho có ý nghĩa và hữu ích. Thiên Chúa là chủ tể của sự sống. Sự sống tiếp nối sẽ không bị tiêu diệt, chỉ có xác thể sự sống bị chết. Tiên tri Edêkien đã viết: Ta sẽ cho các ngươi thần trí của Ta và các ngươi sẽ được sống, Ta sẽ cho các ngươi an cư trên đất các ngươi, và các ngươi biết rằng: Ta là Chúa, chính Ta đã phán và đã thi hành (Ez 37, 12-14). Thiên Chúa là Chúa và là tác giả của mọi sự sống. Con người không thể sáng tạo sự sống mà chỉ bắt chước và tạo môi trường để sự sống phát triển.
Dựa vào các diễn tiến của sự sống tự nhiên, các nhà khoa học đã tìm hiểu nguyên nhân, cách kết cấu và sự vận hành phát triển của các tế bào để tạo cơ hội phát triển. Khoa học hiện nay có thể giúp kéo dài sự sống nơi con người như lắp ghép tim, gan, thận, xương hay tiếp máu và thay máu. Có nghĩa là khi con người còn có hơi thở sự sống, cho dù sức yếu, các nhà chuyên môn có thể tiếp giúp tăng cường và kéo dài sự sống. Nhưng một khi sự sống đã ngừng, trái tim ngưng đập, ngưng thở, óc chết và các tế bào ngừng hoạt động và sự chết đến, con người đành bó tay. Trong một khoảng thời gian ngắn nào đó, sau khi chết, một số cơ phận trong con người có thể được xử dụng ngay để phẫu thuật ghép. Một số trường hợp, các bác sĩ có thể dùng một số cơ phận của những người mới qua đời để lắp ghép cho các bệnh nhân cần. Người đã chết không thể trở lại với cuộc sống. Họ vĩnh biệt ra đi.
Bài phúc âm hôm nay kể câu chuyện dài nói về sự kiện Chúa Giêsu cho ông Ladarô đã chết và chôn trong mồ bốn ngày được sống lại. Chúa Giêsu tỏ uy quyền trên sự sống. Diễn tiến của câu chuyện có nhiều chi tiết rất tỉ mỉ. Chúa dự phòng sự việc Chúa sẽ thực hiện tại Bethania, Chúa nói: Nhưng Ta mừng cho các con, vì Ta không có mặt ở đó để các con tin. Vậy chúng ta đi đến với anh ấy (Ga 11, 15). Khi nghe tin Ladarô đau bệnh thập tử nhất sinh, Chúa Giêsu còn lưu lại nơi Chúa đang giảng dậy ít ngày nữa. Chúa dùng cơ hội này để tỏ uy quyền Thiên Chúa và mạc khải về sự sống và sự sống lại. Đây là một đề tài đức tin chính yếu và rất quan trọng. Chúa đã mạc khải một cách tiệm tiến dựa vào lòng tin yêu của con người. Chúa Giêsu nói: Em con sẽ sống lại (Ga 11, 23).
Trước khi làm phép lạ vĩ đại này, Chúa Giêsu đã khơi niềm tin: Chúa Giêsu nói: “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống (Ga 11, 25). Dầu có chết cũng sẽ được sống, lời nói như một mệnh lệnh và một sự xác tín trong niềm tin. Chị em Martha và Maria, các tông đồ và những người đi theo Chúa vẫn như còn trong mơ. Sự việc Chúa sắp thực hiện hoàn toàn vượt ngoài sức tưởng tượng của con người. Người chết chôn bốn ngày thì xác đã thối rữa rồi. Sự sống mà Chúa ban lại cho ông Ladarô là sự sống mới trong thân xác đã chết. Nói rồi, Người kêu lớn tiếng: “Ladarô! Hãy ra đây!”(Ga 11, 43). Và kìa, lời quyền năng đã thành hiện thực: Người đã chết đi ra, chân tay còn quấn những mảnh vải, trên mặt còn quấn khăn liệm. Chúa Giêsu bảo:”Hãy cởi ra cho anh ấy đi” (Ga 11, 44).
Ông Ladarô đã sống lại và đi ra khỏi mồ. Ông đã sống thêm được một khoảng thời gian trên dương trần, nhưng ông cũng đã chết theo luật tự nhiên. Chỉ có Thiên Chúa làm chủ sự sống. Muốn bước vào sự sống vĩnh cửu thì mỗi người đều phải bước qua ngưỡng cửa sự chết. Đây là vấn đề hoàn toàn của niềm tin. Chúng ta không thể lý luận và đưa ra chứng cứ cụ thể. Tin rằng con người phải trải qua sự chết mới được vào cõi sống. Thân xác này sẽ trở về cát bụi trong lòng đất và hồn thiêng sẽ tiếp tục sống chờ đợi ngày được sống lại kết hợp cả hồn và xác để hưởng hạnh phúc bất diệt. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh hạt lúa mì gieo xuống đất: Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác ((Ga 12, 24).
Niềm tin vào Đức Kitô là niềm tin hy vọng tuyệt đối. Từ bao đời, đã có biết bao thế hệ con người đã qua đi. Thân xác bị hủy diệt và trở về tro bụi. Thánh Phaolô tông đồ đã xác tín với chúng ta về Tin mừng cứu độ nơi Chúa Kitô, ngài nói: Nhưng nếu Chúa Giêsu Kitô ở trong anh em, cho dù thân xác đã chết vì tội, nhưng tinh thần vẫn sống vì đức công chính (Rm 8, 10). Con người có linh hồn và thể xác. Sự sống là sự kết hợp giữa hồn và xác. Khi hồn lìa xác, con người sẽ đi về cõi sau. Vì thân xác là tro bụi và sẽ trở về bụi tro. Tinh thần hay linh hồn không bị tiêu diệt vì hồn thiêng liêng. Thánh Phaolô nói tinh thần vẫn sống vì đức công chính.
Chúng ta đặt niềm tin tưởng vào Chúa Kitô là nguồn ban sự sống. Chúa Kitô là hoa qủa đầu mùa của những kẻ yên giấc. Chúa Giêsu đã sống lại từ cõi chết và không còn chết nữa. Sự chết không còn làm chủ được Người nữa. Thánh Phaolô đặt trọn niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh: Và nếu Thánh Thần của Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại ở trong anh em, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại cũng cho xác phàm hay chết của anh em được sống, nhờ Thánh Thần ngự trong anh em (Rm 8, 12). Đây là niềm tin và niềm hy vọng của chúng ta đang trong cuộc lữ hành dương thế. Chúng ta đã đầu tư và đánh đổi cả cuộc đời để tin tưởng vào sự sống và sự sống lại ngày sau. Chúng ta bước đi trong niềm tin, chứ không bằng thị giác (walk by faith, not by sight). Vì nếu Chúa Kitô không sống lại, thì tất cả niềm tin của chúng ta trở thành trống rỗng và vô nghĩa.
Những đề tài của các Chúa Nhật Mùa Chay, chu kỳ năm A, đã từng bước dẫn chúng ta đi sâu vào niềm tin nội tâm. Lần lượt mỗi tuần một đề tài: Chúa vào hoang địa ăn chay, cầu nguyện và chịu những cơn cám dỗ; Chúa Biến Hình sáng láng; Chúa ban nước hằng sống cho người phụ nữ Samaria và dẫn vào con đường sự thật; Chúa chữa người mù từ bẩm sinh và Chúa cho người đã chết sống lại. Đây là hành trình đức tin, Giáo Hội đã từng bước dẫn dắt chúng ta suy tư sâu lắng vào mầu nhiệm ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã sắp sẵn. Trong câu chuyện đối thoại với chị em Martha và Maria: Chúa Giêsu lại nói: “Ta chẳng bảo con rằng: Nếu con tin, thì con sẽ xem thấy vinh quang Thiên Chúa sao?” (Ga 11, 40). Tất cả niềm tin qui vào Chúa Giêsu Kitô. Chúa Giêsu đã đi trước mở cửa ngõ vào cõi trường sinh bất diệt. Chúng ta không thể đi con đường nào khác ngoài bước theo con đường Chúa đã đi. Bước theo Chúa, phải trải qua đau khổ để vào vinh quang.
Mùa chay là mùa tịnh tâm, cầu nguyện và tập luyện các nhân đức: Đức tin, đức cậy và đức mến. Đức mến phủ trùm mọi khía cạnh của cuộc sống. Mỗi một lời nói, cử chỉ và hành động bác ái, chúng ta cần phản ánh tình yêu thương chia sẻ. Con đường dẫn vào Nước Trời được xây trên nền tảng của tình bác ái yêu thương. Tình yêu mạnh hơn sự chết. Chúa Kitô vì yêu thương nhân loại đã hiến mình chịu đau khổ, chịu chết trên thánh giá và đã sống lại vinh quang.
Lạy Chúa, Chúa là sự sống và là sự sống lại. Xin cho chúng con biết sống xứng đáng và sinh ích trong cuộc sống đời tạm này, để sinh hoa kết qủa tốt đẹp đáng hưởng hạnh phúc mai sau.
19.Cho một niềm tin – Thiên Phúc
(Trích “Như Thầy Đã Yêu”)
Thời chiến quốc, có người đem dâng vua nước Sở một vị thuốc bất tử. Người ấy bưng vịt huốc vào, viên quan canh cửa hỏi rằng:
– Vị thuốc này có uống được không?
Người ấy đáp:
– Uống được.
Tức thì viên quan giật lấy mà uống. Chuyện đến tai vua. Ông liền bắt viên quan đem giết. Viên quan kêu rằng.
– Thần đã hỏi người đem dâng thuốc. Người ấy nói rằng: “uống được”, nên thần mới dám uống. Thế là thần vô tội mà lỗi ở người dâng thuốc. Vả chăng, người đem dâng thuốc nói là thuốc bất tử. Thế mà thần mới uống vào đã sắp phải chết, vậy là thuốc thử chứ sao gọi là thuốc bất tử được? Nhà vua giết thần, thực là bắt tội một người vô tội. Hơn nữa, còn chứng tỏ rằng thiên hạ dối được nhà vua mà nhà vua vẫn tin.
Vua nghe nói có lý, bèn tha cho viên quan ấy, không giết ông nữa.
***
Làm gì có thuốc bất tử trên trần gian này! Chỉ có những kẻ quá ham sống sợ chết nên mới mơ tưởng đến loại thần dược chỉ có trong huyền thoại. Chúng ta không bao giờ có thể thuyết phục cái chết dời xa cánh cửa đời ta.
Thực ra, vẫn có sự sống bất tử, nhưng là trong cuộc sống đời sau. Tuy nhiên, vị thuốc bất tử ấy người ta lại phải chiếm hữu cho bằng được trong cuộc sống đời này. Tin mừng hôm nay giới thiệu cho chúng ta vị thuốc bất tử ấy: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy sẽ không bao giờ phải chết (Ga 11,25-26). Vâng, chính “niềm tin vào Đức Kitô” là một bảo đảm tuyệt đối để được sống mãi muôn đời. Đâu phải chỉ vì tình bạn thân thiết với Ladarô mà Đức Giêsu cho ông được sống sau khi chôn bốn ngày trong huyệt đá, mà chính là niềm tin của Maria và Macta vào Đức Kitô là “sự sống và là sự sống lại” (c.25).
Phép lạ cho Ladarô sống lại chỉ là chuẩn bị cho một phép lạ vô cùng lẫy lừng, một phép lạ trọng đại nhất trong đạo, chính là Đức Giêsu Kitô đã chết và đã sống lại vinh quang mà chúng ta sẽ cử hành trong Tuần Thánh sắp đến. Đức Kitô chết và sống lại là để dẫn đưa con người từ cõi chết trở về cõi sống, từ nơi tạm bợ về chốn vĩnh hằng. Đó là niềm tin của người tín hữu, cũng là đức tin của Kitô giáo. Niềm tin đó bảo đảm cho sự trường tồn của Giáo Hội. Thánh Phaolô nói: “Nếu đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của mình” (1Cr 15,17)
Tin Đức Kitô là “sự sống lại và là sự sống”, chính là sống yêu thương tự hiến như Đấng đã sống và đã chết cho tình yêu.
Tin Đứ Giêsu là “sự sống lại và là sự sống” chính là chết đi cho tội lỗi để được sống lại vinh quang với Đấng Phục Sinh.
Tin Đức Giêsu là “sự sống lại và là sự sống”, chính là chết cho tình yêu trần thế, để sống cho niềm tin Nước Trời.
***
Lạy Chúa, trong đoạn Tin mừng hôm nay có một câu ngắn nhất trong toàn Kinh Thánh. Đó là câu “Đức Giêsu liền khóc” (Ga 11,35). Ngắn nhất nhưng lại bày tỏ một tình yêu sâu đậm nhất Chúa dành cho Ladarô.
Xin cho mối tình thân thiết của chúng con với Chúa ngày càng mật thiết hơn, để chúng con cũng được Chúa thương, cho cùng sống lại với Chúa trong vinh quang đời đời. Amen.
Biến cố sập nhịp cầu Cần Thơ 26.09.2007 là biến cố gây kinh hoàng và ám ảnh của các gia đình và người thân của gần 100 sinh mạng phải mất đi vĩnh viễn mà không một lời từ biệt. Những người thân chỉ còn biết kêu gào đau khổ trong tuyệt vọng. Lúc đó hình ảnh nhịp cầu với những thanh sắt to nằm tua tủa trong những khối bê tông nặng hàng ngàn kilôgram. Nó như một nấm mồ khổng lồ chôn tập thể những người thân mình mà không biết cầu cứu cùng ai. dẫu rằng trong cuộc sống ai cũng biết sinh – lão – bệnh – tử là điều không thể tránh khỏi nhưng khi mất người thân thì ai cũng phải đau buồn. Maria và những người Do Thái cũng đau buồn khóc lóc trước cái chết của Lazarô.
Trước nỗi đau khổ đó, Đức Giêsu cũng có một thái độ đầy tình người: “các ngươi đặt ông ấy ở đâu?”. Và Người bật khóc, do đo người Do Thái mới nói: “kia xem! Ông ta thương anh Lazarô biết mấy!”. Nhiều lối giải thích cho rằng Đức Giêsu thương Lazarô nên đã khóc. Lối cắt nghĩa này không hoàn toàn sai. Nhưng có một điều hơi khúc mắc là tại sao Ngài biết chắc mình sắp cho Lazarô sống lại mà con khóc thương? Điều đó hơi có phần vô lý. Ngoài ra, Thánh sử còn diễn tả tâm tình Đức Giêsu qua việc “Đức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến. Người ta luôn thắc mắc về ý nghĩa các tâm tình đó. Có kẻ xem đây là cơn giận của Chúa Giêsu đối với cái chết mà tác giả của nó là Satan. Số khác lại coi đây là cơn giận của Ngài vì sự cứng lòng tin của những người Do Thái. Điều đó có thể hợp lý hơn, vì cái chết và cứng lòng tin đều quy về Satan như nguyên nhân tác thành. Quả thật, Đức Giêsu không phải cho thân xác Lazarô sống lại để kéo dài thêm tuổi thọ ở trần gian. Nhưng muốn cho con người thấy được Thiên Chúa sẽ ban cho những người tin vào Người sự sống ở trần gian. Như trong bài Tin Mừng Đức Giêsu đã khẳng định: “Phục sinh và sự sống chính là Ta, ai tin vào Ta thì dẫu chết cũng sẽ sống và mọi kẻ sống mà tin vào Ta, sẽ không phải chết bao giờ. Ngươi có tin thề không?”
Trong câu chuyện Gioan tường thuật ta cứ ngỡ Lazarolà nhân vật chính, nhưng đi sâu vào bài Tin Mừng, ông chỉ là chất xúc tác đặc biệt làm rõ lên tính cách của các nhân vật khác. Dĩ nhiên tất cả các nhân vật đó đều phải tuỳ thuộc vào Đức Kitô. Người đã từng bước dẫn các nhân vật trong câu chuyện từng bước đến ánh sáng Phục Sinh, Ánh Sáng của sự sống lại. Hầu như lúc đó tất cả còn đang trong nỗi sợ hãi và suy nghĩ của người đời, nào là Mátta, nào là Maria và vô số những người Do Thái đang đến chia buồn với họ. Nhân cơ hội này, Đức Giêsu đã đưa họ đến với niềm tin Phúc Sinh.
Mặc dầu Đức Giêsu rất thương Lazarô, nhưng Ngài lại quan tâm đến việc quan trọng hơn, đó là đức tin của những người đang có mặt. Và để khẳng định mục đích và ý nghĩa của việc sắp làm, người đã ngước mắt lên mà nói: “ngõ hầu họ tin rằng Cha đã sai Con”. Nói thế, Người lớn tiếng gọi Lazarô và ông ra khỏi mồ.
Chắc chúng ta cũng không lấy làm bỡ ngỡ, khi Giáo hội chọn Chúa Nhật V Mùa Chay để công bố Tin Mừng Đức Giêsu cho Lazarô Phục Sinh, là dịp để chúng ta đón nhận đại lễ Phục Sinh sắp đến. Quyền năng Thiên Chúa sẽ chiến thắng tử thần. Trong khi Lazarô chết đã 4 ngày được Đức Giêsu cho sống lại, chứng tỏ cho mọi người thấy quyền năng của Thiên Chúa trên sự chết. Sự chiến thắng mà chúng ta sẽ được thấy rõ hơn trong chính sự Phục Sinh của Người. Ngày đó, tử thần hoàn toàn bị đánh bại và niềm hy vọng vào một cuộc sống mới, cuộc sống trường cửu sẽ được ban tặng cho chúng ta.
Khi mà con người đã đủ niềm tin vào sự Phục Sinh, thì cái chết như là một sự biến đổi. chính Đức Giêsu đã mở cánh cửa niềm tin cho mọi người, Ngài đã đập tan đêm tối buồn phiền, u mê bằng cách đập tan cửa mồ ngăn cách để đưa con người đến một chân trời hy vọng tràn đầy niềm vui. Người có toàn quyền ban cho ta cuộc sống mới đó. Cuộc sống mà Người đã làm cho người bạn mình là Lazarô. Do đó, Người cũng ban cho chúng niềm hy vọng vào cuộc sống bất diệt trong đó chỉ có tình yêu ngự trị không còn bóng dáng của tội lỗi và sự chết. Như Đức cố Hồng y Px. Nguyễn Văn Thuận đã nói trong đường hy vọng: “Đối với Kitô hữu không có người chết. Tất cả các kẻ chết của chúng ta vẫn đang sống. Họ là chi thể của Chúa Kitô như chúng ta, chúng tôi thông hiệp với nhau trong đức tin”.
Lạy Chúa! Xin cho con biết hướng về cuộc sống mai sau chính là cuộc sống mà thiên Chúa đã dành sẵn cho mỗi người chúng con. Amen.
21.Thời gian là của Chúa – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Nếu được hỏi cái gì cần nhất? Có lẽ nhiều người trong chúng ta sẽ trả lời là tiền. Vì tiền là Tiên, là Phật. Thế nhưng, có một thứ mà tiền cũng không thể mua được, đó là thời gian. Thời gian khép lại cũng đồng nghĩa mọi sự sẽ qua đi chẳng còn ích lợi gì cho chúng ta. Dù rằng chúng ta có khối tài sản lớn. Dù rằng chúng ta có một địa vị cao. Thời gian chấm hết thì mọi sự cũng sẽ chia tay chúng ta. Hơn nữa, thời gian của con người thật mong manh tựa như bóng câu qua cửa sổ, tựa như cơn gió thoảng qua…
Có một người rất keo kiệt, lúc nào cũng chắt bóp chẳng dám ăn tiêu gì. Tích cóp cả đời, anh ta để dành được cả một gia tài lớn.
Không ngờ một ngày, Thần Chết đột nhiên xuất hiện đòi đưa anh ta đi. Lúc này anh ta mới nhận ra mình chưa kịp hưởng thụ chút gì từ số tiền kia. Anh ta bèn nài nỉ:
– Tôi chia một phần ba tài sản của tôi cho Ngài, chỉ cần cho tôi sống thêm một năm thôi.
– Không được. – Thần Chết lắc đầu.
– Vậy tôi đưa Ngài một nửa. Ngài cho tôi nửa năm nữa, được không? – Anh ta tiếp tục van xin.
– Không được. – Thần Chết vẫn không đồng ý.
Anh ta vội nói:
– Vậy… tôi xin giao hết của cải cho Ngài. Ngài cho tôi một ngày thôi, được không?
– Không được. – Thần Chết vừa nói, vừa giơ cao chiếc lưỡi hái trên tay.
Người đàn ông tuyệt vọng cầu xin Thần Chết lần cuối cùng:
– Thế thì Ngài cho tôi một phút để viết chúc thư vậy.
Lần này, Thần Chết gật đầu. Anh run rẩy viết một dòng:
– Xin hãy ghi nhớ: “Bao nhiều tiền bạc cũng không mua nổi một ngày”.
Hóa ra ở đời điều quan trọng không phải là tiền. Điều quan trọng là mình biết sử dụng thời gian có ý nghĩa hay không? Có tiền mà sống vô nghĩa cũng uống phí. Có tiền mà không biết tận hưởng hạnh phúc cuộc sống cũng bằng thừa. Thế nên, hãy biết trân trọng thời gian. Hãy làm việc tích đức cho cuộc đời. Đừng để uổng phí cuộc đời trong những đam mê của danh lợi thú. Thời gian sẽ trôi qua không chờ không đợi. Thời gian sẽ qua đi như hoa sớm nở chiều tàn. Hãy sống cho có ý nghĩa là sống có ích cho tha nhân, cho cuộc đời. Đừng chỉ sống cho mình kẻo uổng phí thời gian.
Người ta cho rằng tuổi thọ trung bình của người Việt là 70 năm. Nhưng trong 70 năm ấy, có người sống trọn nhưng không để lại thứ gì cho đời. Có người sống 30 năm nhưng lại để lại biết bao điều tốt đẹp cho đời.
Thiên Chúa là chủ thời gian. Chính Ngài làm chủ sự sống của chúng ta. Sống chết đều nằm trong sự quan phòng của Ngài. Thế nên, hãy sống trong ân nghĩa với Ngài. Hãy sống trong sự hiệp nhất với Đấng làm chủ cuộc đời chúng ta, để chính Ngài sẽ cho chúng ta được sống và sống đời đời.
Lagiarô dầu được Chúa trả lại sự sống một lần nhưng rồi với quy luật thời gian, ông cũng chết như bao người khác. Điều quan trọng và quý giá của cuộc sống là biết sống trong ân nghĩa với Thiên Chúa, biết sống kết hợp trọn vẹn với Thiên Chúa cả ở đời này lẫn đời sau. Nhờ vậy mà chúng ta được sống hạnh phúc đời này và cả đời sau.
Giả dụ như chúng ta cũng được như Lagiarô Chúa cho chết rồi sống lại. Chúng ta sẽ sống cuộc sống còn lại như thế nào? Liệu có còn muốn bon chen, tích góp, giành giật hay sống dành thời gian cho có ý nghĩa với gia đình, với cuộc đời. Nếu ai đã từng trải qua bệnh tật thập tử nhất sinh có lẽ sẽ cảm nghiệm điều này: tiền tài, danh vọng chẳng là gì một khi đã nhắm mắt xuôi tay. Một khi mình không có nắm giữ được chúng nữa thì những gì mình tích góp cũng uổng công.
Đồng tiền không mua được thời gian, ước gì chúng ta biết sử dụng thời gian cho hợp lý. Xin đừng vì danh lợi thú mà sống xa rời Thiên Chúa, lỗi luật với Ngài để rồi chúng ta sẽ mãi lạc vào cõi hư vong. Ước gì chúng ta biết noi gương Chúa Giê-su sống trọn vẹn thời gian trong sự kết hợp với Chúa Cha và phục vụ tha nhân với hết khả năng của mình. Có như vậy chúng ta mới sống tròn ý nghĩa cuộc đời là tôn vinh Thiên Chúa và phục vụ tha nhân. Amen.
22.Niềm tin tín thác – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Cuộc đời có đau khổ, có hạnh phúc. Đau khổ và hạnh phúc hoà quyện vào nhau làm thành một cuộc đời đầy thi vị và ý nghĩa. Tựa như chanh và đường có vị ngọt vị chua. Cuộc đời cũng có ngọt ngào của hạnh phúc và có cả chua cay của khổ đau. Thế nhưng, nhiều người lại sợ hoà những vị chua, vị cay vào kiếp người. Họ sợ đau khổ. Họ sợ bất hạnh. Họ sợ nghi nan. Đối với họ, Thiên Chúa là lá bùa hộ mệnh để đảm bảo cho họ một cuộc đời an vui hạnh phúc. Họ cho rằng, dấu chỉ sự hiện hữu của Thiên Chúa là đẩy lùi sự dữ ra khỏi cuộc đời của họ. Có Chúa thì không thể có bất hạnh, không thể có khổ đau.
Đó là điều mà Matta và Maria đã từng nghĩ như thế! Các bà đã trách Thầy “nếu Thầy ở đây thì em con không chết”. Thế nhưng, Lagiaro đã chết! Phải chăng hai bà cũng ngầm trách Chúa, lúc đó Thầy ở đâu? Lúc mà Lagiaro đang ốm nặng? Lúc mà tình thế có thể được cứu vãn? Nếu Thầy đến nhanh hơn một chút thì có lẽ đã chẳng có thảm cảnh hôm nay.
Thực vậy, khi Chúa Giêsu đến nhà Matta và Maria thì Lagiaro đã chết và đã chôn cất được 4 ngày rồi. Một thời gian đủ để thân xác có thể bắt đầu tan rã để hoà trộn với bùn đất. Dầu vậy, ở đây chúng ta thấy đức tin trổi vượt của Matta, một đức tin không lay chuyển trước thử thách để có thể thưa lên với Chúa rằng: “nhưng bây giờ con biết. Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho”. Quả là một đức tin tinh tuyền, tuyệt đối, không lay chuyển trước sóng gió cuộc đời. Matta là một con người thật chân thành, bộc trực. Bà trách Chúa nhưng lòng bà vẫn tin vào quyền năng của Chúa. Trong đau khổ bà vẫn không tuyệt vọng. Thế nên, Chúa đã nói cùng bà: “Em con sẽ sống lại”. Matta ngạc nhiên hơn là cảm động. Bà không hiểu nổi và chỉ ú ớ tuyên xưng: “Con biết em con sẽ sống lại khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết”. Lúc này Chúa Giê su làm nổ tung một bí ẩn, chiếu sáng đức tin và đòi hỏi một lòng tin tín thác: “Thầy là sự sống và là sự sống lại. Ai tin Thầy thì dù có chết cũng sẽ sống lại, chị có tin được như thế không? Matta thưa: “Thưa Thầy con tin. Con tin Ngài là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến trong thế gian”.
Cuối cùng, Chúa đã nói với Matta và Maria và những người đang đứng đó: “nếu tin, thì sẽ thấy vinh quang Thiên Chúa”. Và rồi Ngài đã gọi Lagiaro trong mồ bước ra trước sự ngỡ ngàng, sửng sốt của gia đình Matta, của dân chúng làng Bêtania.
Kính thưa quý Ông Bà Anh Chị Em,
Trong cuộc sống đầy bon chen để kiếm miếng cơm manh áo, chúng ta thấy cuộc đời sao khổ quá! Nhất là trong thời kỳ gạo quế củi châu, lạm phát gia tăng, kiếm đồng tiền đổi lấy chén gạo bát canh đã khó lại càng khó khăn hơn. Rồi cuộc đời đâu mấy khi bình yên. Sóng gió tư bề. Đau khổ bệnh tật. Thiên tai lũ lụt, hạn hán hoành hành. Năm nay, Việt Nam còn hứng chịu cái lạnh kéo dài khiến cho hàng trăm con trâu bò bị chết cóng, hàng trăm ngàn hecta đất không thể trồng cấy đúng mùa. Dịch bệnh lan tràn. Người dân nghèo lại càng nghèo thêm. Cái lạnh của trời đất hoà với cái lạnh của tình người khiến cho cái đói, cái khổ cứ lận vào cả một kiếp người. Đặc biệt là trân động đất gây nên sóng thần tại Nhật Bản đã khiến hơn 10 ngàn người thiệt mạng, hàng trăm ngàn người không có nhà cửa và biết bao khu phố phồn thịnh nay chỉ còn là đống hoang tàn.
Đứng trước một viễn cảnh đầy những khổ đau như thế, nhiều người đã thầm trách Chúa, Chúa ở đâu sao để cuộc đời luôn giăng đầy những sầu đau? Chúa có nhìn thấy những bất hạnh mà con đang gặp phải trong cuộc đời vốn dĩ lắm nổi trôi lại nhiều phiền muộn này? Bài phúc âm hôm nay, mời gọi chúng ta đặt niềm tín thác vào Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn luôn quan tâm đến chúng ta. Người luôn đi bước trước để an ủi, nâng đỡ chúng ta. Người cũng đang mời gọi chúng ta đặt niềm tin vào Chúa như Matta để trong những biến cố đau thương nhất của cuộc đời chúng ta vẫn có thể thưa lên cùng Chúa. Con tin rằng: Chúa có thể làm những điều tốt đẹp nhất cho con.
Đau khổ là một sự dữ. Bất hạnh của cuộc đời là đêm tối của đức tin. Tuy nhiên qua những biến cố này, niềm tin lại toả sáng trong cuộc đời chúng ta. Chính trong những bất hạnh đó, chúng ta mới thấy con người thật nhỏ bé, tầm thường, chúng ta mới thấy sự bất toàn của kiếp người để đặt niềm tín thác vào Thiên Chúa. Con người luôn bất lực trước sự dữ, nhưng nếu Thiên Chúa muốn, Ngài có thể giải thoát chúng ta ngay bây giờ khỏi mọi điều sự dữ. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn biết đặt niềm tin tưởng cậy trông vào Chúa ngay giữa những gian nan của dòng đời và ngay giữa những bất hạnh của cuộc đời chúng ta. Amen.
Câu chuyện phép lạ Chúa Giêsu làm cho Ladarô sống lại là câu chuyện dài nhất và quan trọng nhất được nêu lên trong cuộc xét xử giữa ánh sáng và bóng tối. Qua câu chuyện phép lạ này, Chúa Giêsu chứng minh cho mọi người thấy ” Người là sự sống lại và là sự sống”, và Người có sự sống đời đời đem đến cho những ai tin vào Người. Hôm nay, tôi xin chia sẻ với quý ông bà anh chị em đề tài: Hành Trình Đức Tin. Trong bài tường thuật này, chúng ta thấy Mácta được xem như mẫu gương cho cuộc hành trình đức tin của mỗi người Kitô hữu. Qua diễn tiến của bài tường thuật, tôi thấy cuộc hành trình đức tin của bà trải qua ba giai đoạn sau. Thứ nhất, đó là một đức tin dựa trên nhu cầu của thân xác con người. Sở dĩ nói thế là vì khi em bà ngả bệnh nặng, bà sợ em bà sẽ chết, nên bà cho người đi mời Chúa đến cứu em bà. Thế nhưng Chúa không đến và em bà chết. Sự kiện này làm bà buồn rầu và tuyệt vọng. Nhưng đi xa hơn, tôi thấy được giai đoạn thứ hai, đó là một đức tin dựa trên những điều đã được truyền dạy. Bà đã được dạy chỉ có sự sống lại vào ngày tận thế và bà đã tin chắc như thế. Tin như vậy đúng và đủ chưa? Thưa chưa, điều này được thể hiện qua câu nói bà nói với Chúa: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết”. Thế nhưng trước lời đáp Chúa Giêsu khẳng định: “Em bà sẽ sống lại” (c. 23), bà đã nói: “con tin em con sẽ sống lại vào ngày sau hết”, và qua đối thoại thêm, bà khựng lại. Chính sự khựng lại này tạo cơ hội cho Chúa mạc khải Người chính là sự sống lại và là sự sống. Và tin vào Người chính là con đường duy nhất dẫn đến sự sống lại và sự sống bởi “tin thì đã đi ngang qua cái chết mà vào sự sống và dù có chết phần xác, thì tin vào Chúa đảm bảo cho có sự sống vượt trên sự chết. Thế mà Mácta vẫn chưa tin như Chúa muốn. Tuy nhiên, đi xa hơn nữa, tôi thấy được giai đoạn thứ ba và cũng là giai đoạn cuối, đó là một đức tin dựa trên kinh nghiệm đã gặp Chúa. Chúa biết bà còn yếu tin, nên Người làm phép lạ giúp khơi dậy đức tin sự sống thật là chính Người. Người đã yêu cầu “đem phiến đá đi” và dù chưa tin bà vẫn vâng lời làm theo lời Chúa nói. Chính vì vậy, Chúa ban thêm đức tin cho bà và qua việc Chúa gọi Ladarô ra khỏi mộ và anh bước ra, cặp mắt tâm hồn bà liền nhận ra Chúa là sự sống lại và là sự sống, tức khắc đức tin của bà đạt đến mức tột đỉnh, một đức tin Chúa muốn những người đi theo Chúa phải đạt được.
Thật vậy, cuộc hành trình đức tin của Mácta là một cuộc hành trình tiệm tiến giống như những nấc thang của một cầu thang. Nó khởi đi từ nấc đức tin dựa trên nhu cầu của thân xác con người để đến nấc đức tin đức tin dựa trên những điều đã được truyền dạy và rồi cuối cùng đạt đến nấc tột đỉnh của đức tin khi dựa trên kinh nghiệm gặp Chúa.
Giờ đây, chúng ta hãy nhìn lại cuộc hành trình đức tin của mình. Với Bí Tích Rửa Tội, chúng ta được Chúa ban cho sự sống của chính Chúa. Sự sống này được lớn lên dần nhờ cầu nguyện, nhờ Thánh Thể, nhờ Bí tích Hoà Giải, nhờ kết hợp với Chúa hằng ngày. Tuy nhiên, cuộc đời con người luôn là một cuộc chiến khốc liệt giữa ánh sáng và bóng tối. Ánh sáng là Đức Kitô. Còn bóng tối chính là sự chết, sự tội, những khó khăn thất bại. Chúng luôn tìm mọi cách đẩy chúng ta xa dần ánh sáng. Nếu không ý thức và không tỉnh thức, chúng ta sẽ không nhận ra. Trước những khó khăn thử thách, bệnh tật… Chúng ta thường xin Chúa ban ơn. Và rồi nếu Chúa không cho như ý chúng ta xin, chúng ta thường trách móc, phàn nàn và ngay cả chửi rủa Chúa nữa. Chính những sự này ngăn cản chúng ta nhận ra sự hiện diện và sự trợ giúp của Chúa. Vì vậy, khi những khó khăn thử thách xảy đến, chúng ta hãy coi đây như những phương cách Chúa gởi đến để thanh luyện đức tin của mình và để giúp mình ý thức sự bất lực của mình qua những thách đố đó. Đặc biệt, chúng ta cần đón nhận chúng với thái độ bình tâm, tin tưởng phó thác vào để những người xung quanh nhận ra trong chúng ta sự hiện diện của Chúa. Thí dụ về chiếc thuyền trên dòng sông là một minh hoạ cụ thể cho cuộc sống đức tin của chúng ta. Bình thường nó không di chuyển hoặc di chuyển không đáng kể. Nhưng khi gió bão đến, nếu không được cột, nó sẽ trôi dạt đi rất xa. Còn nếu được cột cẩn thận vào một cây cột đá, thì dù gió bão lớn đi nữa, nó cũng vẫn trụ lại được, có thể nó vẫn di chuyển qua lại. Cuộc sống đức tin của chúng ta cũng giống như chiếc thuyền trên dòng sống vậy. Nếu khi gặp khó khăn thử thách, chúng ta biết bám chặt lấy Chúa thì chắc chắn chúng ta sẽ vượt qua được vì khi ta đuối sức Chúa không bỏ chúng ta mà giơ taynắm lấy tay chúng ta, vì ở đâu có khó khăn thì ở đó có ơn Chúa. Với tâm tình Mùa Chay, Giáo hội mời gọi chúng ta sám hối, tức là hãy làm sống lại ơn ban sự sống của Chúa trong chúng ta, coi lại xem trước những khó khăn thử thách, chúng ta có thái độ nào? Buông xuôi hay thể hiện một đức tin trưởng thành bằng cách bám vào chúa để tin tưởng, phó thác và làm theo những gì Chúa dạy? Và giờ đây mỗi người tự hỏi: “tôi cần làm những gì và cần tránh những gì để khi giờ chết đến, tôi dám thưa với Chúa: “mọi sự đã hoàn tất”, để rồi ra đi cách bình an như Chúa muốn. Amen!
Đầu tháng 11.2007, báo chí Tp.HCM đã tốn nhiều giấy mực viết về cái chết của “đoá hoa hướng dương” Lê Thanh Thuý, một cô gái trẻ luôn ấp ủ trong lòng ước mơ cao đẹp. Mọi người gọi cô là “đoá hoa hướng dương” không chỉ vì cô yêu thích hoa hướng dương, mà còn vì cô đã nỗ lực vươn lên dù biết quảng đời còn lại của mình chỉ trải qua từng ngày, từng giờ. Mặc cho căn bệnh ung thư quái ác đang hoành hành và huỷ dần sự sống, cô vẫn vui sống với những chương trình hành động đậm tính nhân văn: lo lắng, chăm sóc cho các bệnh nhi đồng cảnh ngộ. Những dự tính còn trải dài phía trước, nhưng cuộc đời Thuý đã phải dừng lại. Nhiều trái tim rung động, nhiều giọt nước mắt rơi xuống tiễn đưa một đoá hoa luôn hướng về ánh sáng mặt trời.
Hôm nay, chúng ta cũng nghe thấy những giọt lệ khóc thương người thân yêu từ bài Tin Mừng. Matta, Maria và bà con láng giềng khóc thương trước cái chết của Lazarô. Anh chết đi khi tuổi đời còn quá trẻ. Người ta yêu quý sự sống, “tham sinh huý tử”, nên cảm thấy hụt hẫng, đớn đau trước cái chết của một người thân yêu.
Đức Giêsu cũng bồi hồi thổn thức trước nỗi đau của nhân loại. Ngài đến với hai chị em Matta – Maria trong lúc họ đang đau khổ nhất để chia sẻ nỗi đau với họ. Ngài, trong bản tính nhân loại, cũng không cầm được dòng lệ khi người bạn chết đi. Thế nhưng, vượt qua những đau thương hiện tại, Ngài đã loan báo cho gia đình cô Matta và cho cả nhân loại một niềm hy vọng. Đó là sự sống vĩnh cửu có từ nơi Ngài: “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta dù có chết cũng sẽ được sống” (Gn 11,25). Sự sống lại của Lazarô chính là dấu chỉ để mọi người nhận biết Đức Giêsu là Đấng ban sự sống và sự sống lại cho những ai tin vào Ngài.
Con người yêu quý sự sống, nhưng cũng cảm thấy sự sống sao mong manh quá. Từ cổ chí kim, người ta luôn tìm kiếm đủ mọi phương dược để được bất tử, hay ít là kéo dài tuổi thọ con người. Nhưng quy luật muôn đời không thay đổi: Ai ai rồi cũng phải chết.
Cái chết tạo nên một thử thách cho đời sống đức tin của chúng ta. Có những người chỉ nhìn thấy sự chết tước đoạt của con người tất cả, nên ra sức sống buông thả, bởi chết là hết. Họ sống theo triết lý Lamã xưa: “Hãy ăn uống no say, vì ngày mai bạn có thể chết”. Nhưng cũng có người sống theo quan niệm khác. Họ tin còn có sự sống vĩnh cửu. Họ sống một cuộc sống tích cực, đầy ý nghĩa để chuẩn bị cho cuộc sống đời sau và cái chết không là nỗi sợ hãi đối với họ.
Là Kitô hữu, chúng ta tin có sự sống lại. Và sự sống đời đời ấy không bắt đầu khi chúng ta chết đi mà bắt đầu ngay ở đời nầy. Nó được dệt bằng những nỗ lực trong từng công việc hằng ngày của chúng ta. Do đó, trong tất cả mọi việc, dù lớn hay bé, chúng ta hãy làm trong viễn cảnh vĩnh cửu; để nhờ những hy sinh bé nhỏ ngay từ bây giờ, chúng ta sẽ được hạnh phúc khi bước qua cái chết.
Nhìn những công việc tốt đẹp của Lê Thanh Thuý, người ta nhận ra nơi cô một tâm hồn quảng đại luôn hướng về sự thiện như đoá hoa hướng dương hướng vế ánh sáng mặt trời. Ước gì mỗi người chúng ta cũng sống thế nào để mọi người nhận thấy chúng ta luôn hướng về Ánh Dương là Đức Kitô, nguồn sống của tất cả mọi người chúng ta.
25.Tình thương mạnh hơn sự chết
(Suy niệm của Cố Lm. Hồng Phúc)
Câu chuyện Chúa Giêsu cho Lazarô sống lại là một tường thuật căn bản của Phúc Âm thánh Gioan. Chúa Giêsu được mô tả như Ngôi Lời nhập thể, đến trong thế gian để con người được đưa từ bóng tối ra ánh sáng, từ sự chết vào cõi sống, từ đất đến trời. Đức Giêsu Nagiarét thật là một con người huyền diệu và là một Thiên Chúa toàn năng.
Gioan, người đồ đệ Chúa thương yêu, đã sống bên cạnh Chúa, đã nhìn thấy, đã sờ đụng, đã chứng kiến quyền năng của Ngôi Hai Thiên Chúa trong bản thể của con người. Đây là một bản tuyên xưng Đức Tin sống động mà Công đồng Chalcédoine năm 451 đã long trọng công bố: “Ngôi Lời, Con Một Thiên Chúa, sinh bởi Đức Maria về tính loài người, gồm hai bản tính không lẫn lộn, không thay đổi, không chia sẻ, không tách rời”. Đấng ấy Gioan đã nhìn thấy và minh chứng.
Ngài là một con người đích thực, biết yêu biết cảm. Gioan viết rằng tại làng Bêtania, “Chúa Giêsu thương Martha và em là Maria và Lazarô”, nhưng hôm nay, Lazarô đã chết và chôn được 4 ngày rồi. Trên đường dẫn ra mộ để thăm người bạn cũ, Gioan nhìn thấy khuôn mặt Chúa nhiều lần biến sắc: Ngài bồn chồn, xao xuyến, Ngài khóc khi thấy hai chị em khóc nức nở: “Nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết!”. Ngài là một con người đích thực, biết thương, biết cảm, biết chia sẻ tình bạn, biết liều mạng sống vì bạn hữu. Người Do thái nói: “Kìa, xem Ngài thương ông ấy biết là chừng nào”. Nhưng qua khuôn mặt con người đó, sáng chói quyền năng của một ngôi vị Thiên Chúa. Gioan mô tả những chặng đàng Chúa đi xuống với sự chết để rồi cùng với người chết đi lên với sự sống. Lazarô, người bạn thân của Chúa, ốm nặng, tắt thở, được chôn cất và đã nặng mùi, vì đã 4 ngày. Đó là tất cả thảm trạng của sự chết, hình ảnh sự chết của tâm hồn do tội lỗi.
Nhưng Chúa là chủ sự sống, Ngài không để bạn hữu mình trầm luân mãi trong bóng tối sự chết. Gioan nhìn thấy hình ảnh đặc ân rửa tội đến một cuộc tái sinh, một cuộc vươn lên sự sống, do Đấng là “sự sống và là sự phục sinh” mang lại.
Đứng trước hầm mộ, Ngài kêu lớn tiếng như để tiếng Ngài rạng đến cõi âm u của sự chết. Và Lazarô đã ra khỏi mồ, được tháo gỡ khỏi “xiềng xích sự chết” (Tv 116, 8), được sống lại đầy sinh lực. Gioan nhìn thấy ở đây hình ảnh một người tân tòng vừa bước ra khỏi giếng rửa tội.
Vì thế, Giáo hội đọc lên trong ngày tái sinh trong giếng nước rửa tội cũng như trong nghi lễ tiễn đưa một tín hữu đến nơi an nghĩ cuối cùng Lời của Chúa phán trước phần mộ của Lazarô: “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ”.
Ngài là ai mà tình thương mạnh hơn sự chết? Martha đã nói lên niềm tin của Bà cũng như niềm xác tín của chúng ta. “Thưa Thầy, vâng, con tin Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian”.
26.Thiên Chúa, Nguồn Sống và Sáng
(Suy niệm của Lm Bùi Quang Tuấn)
“Điều đã thành sự nơi Ngài là sự Sống, và sự Sống là sự Sáng cho nhân loại” (Gn 1:3). Những lời dẫn nhập trên đây trong Tin Mừng theo thánh Gioan được minh họa đầy đủ hơn qua trình thuật “Chúa chữa người mù” và “Phục sinh Lazarô”. Rõ ràng, vị thánh sử muốn khẳng định: Đức Giêsu chính là Sự Sống và Sự Sáng cho muôn dân.
Trong bài Phúc âm tuần trước, khi được các môn đệ hỏi “Tội ai đã gây ra tình cảnh bất hạnh cho người mù mắt thuở mới sinh,” Đức Giêsu trả lời: “Không phải tội ai cả, nhưng để nơi con người ấy công việc Thiên Chúa được rạng vinh.” Trong bài Phúc âm tuần này, khi có người báo cáo về tình hình nguy tử của Lazarô, Chúa Giêsu lại xác quyết: “Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng để làm sáng danh Thiên Chúa, và do đó Con Thiên Chúa sẽ được tôn vinh.”
Dưới đôi mắt loài người, bệnh hoạn, tật nguyền, đau thương, chết chóc là những mầm móng gieo rắc thống khổ, bất an và bất hạnh. Nhưng đối với Đức Giêsu, tất cả có thể trở thành phương thế ca ngợi quyền năng của tình yêu Thiên Chúa.
Như thế, một cái nhìn mới đã được trao ban cho nhân loại: thay vì kêu ca, nguyền rủa và khước từ khổ đau, con người có thể chấp nhận và sử dụng nó như phương tiện tiến tới vinh quang ngày mai.
Chúa Giêsu không đề cao đau khổ như cứu cánh của con người, nhưng Ngài lại dùng đau khổ để bày tỏ tình yêu là cội nguồn của ơn cứu độ. Bao năm trời rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu không ngừng ra tay giải thoát người ta khỏi những áp chế của bệnh tật, u sầu và chết chóc phần xác, nhưng chính Ngài lại đón nhận nỗi tang thương khủng khiếp nhất của kiếp người là cái chết ô nhục để mang lại cho thế giới sự sống thần linh phong phú.
Chúa Giêsu vừa “yếu đuối” để chia sẻ và cảm thông tận cùng nỗi khổ đau của con người, nhưng lại vừa “mạnh mẽ” để nâng đỡ và cứu độ cả thể xác lẫn linh hồn nhân thế. Thánh Gioan đã làm rõ nét chân dung của Chúa Giêsu với hai bản tính Thiên Chúa và con người, “mạnh mẽ” và “yếu đuối”, trong phép lạ “Phục sinh Lazarô.”
Kinh thánh kể: Đức Giêsu thương mến ba chị em Matha, Maria và Lazarô cách đặc biệt nên thường ghé nhà họ mỗi lần có dịp qua làng Bêtania. Thế nên khi Lazarô ốm nặng, Matha vội cho người cấp báo với Đức Giêsu, hy vọng rằng Ngài sẽ đến chữa ngay cho em mình. Tuy nhiên, Đức Giêsu biết rõ những gì sẽ xảy ra, nên Ngài tiếp tục lưu lại nơi đang ở là quận Pêrê thuộc mạn đông của giòng sông Giođan thêm hai ngày nữa, sau đó mới lên đường đi Bêtania. Như thế, người đưa tin đi hết một ngày đường, thêm hai ngày Chúa ở Pêrê, và một ngày đường Ngài đi về Bêtania, tổng cộng là 4 ngày, bằng số ngày Lazarô qua đời.
Tại Palestine, vì thời tiết nóng nực làm cho xác chết mau mục rữa và hôi thối, nên người ta thường đem chôn ngay trong ngày người chết vừa qua đời, sau đó mới tiến hành một tuần than khóc. Thế nên, Kinh thánh ghi nhận: “Có nhiều người bạn bè thân thích vẫn còn lưu lại với chị em Matha khi Chúa Giêsu đến.”
Rồi khi thấy tang gia cùng bao bạn bè thân thích than khóc về sự ra đi của Lazarô, Chúa Giêsu đã thổn thức xúc động (Gn 11,33). Thế rồi, đang lúc đi ra mộ thì Ngài khóc (Gn 11,35).
Tại sao biết trước những gì sẽ xảy đến cho Lazarô và những gì mình sẽ làm để tôn vinh Thiên Chúa mà Đức Giêsu lại thổn thức? Phải chăng thánh sử Gioan muốn xác quyết Chúa Giêsu là một con người đích thực: biết thương, biết cam, biết chia sẻ thân phận và niềm đớn đau mất mát của con người? Phải chăng Ngài đang đi sâu vào cõi âm u của sự chết, để rồi từ đó đưa con người tiến ra với sự sống.
Ngoài việc bày tỏ nhân tính, Chúa Giêsu còn mạc khải thiên tính: “Ta là sự sống lại và là sự sống.” Xưa nay, không người nào dám tuyên bố như thế, bởi vì có ai lại không bị thần chết khuất phục. Chỉ có Thiên Chúa mới là chủ tể của sự sống và sự chết. Không ai có thể tự mình bước vào cõi chết và sau đó lấy lại sự sống. Chỉ có Đức Giêsu mới làm được việc ấy.
Ngài hô lớn tiếng: “Lazarô! Hãy ra đây!”. Người chết đi ra, chân tay và mặt còn quấn các mảnh vải và khăn liệm. Đáng ngạc nhiên là việc người chết lại có thể nghe được tiếng hô của Đức Giêsu để sống lại! Như thế lời tiên báo của Ngài trước dân Do thái đã bắt đầu thành sự: “Quả thật, quả thật, Ta bảo các người: giờ đã đến – và là ngay bây giờ – các kẻ chết sẽ nghe tiếng Con Thiên Chúa, và ai nghe thì sẽ sống” (Gn 5,25)
Từ trong thâm cung của cõi chết, Lazarô đã nghe tiếng Con Thiên Chúa để rồi bước ra cõi sống. Điều đó hàm ngậm một chân lý: khi con người lắng nghe tiếng Chúa và thi hành, sự sống sẽ phát sinh. Đây là sự sống thần linh, không mục nát, không thối rữa mà Chúa Giêsu mang đến cho nhân loại. Như thế, dù thân xác có bị tan biến theo thời gian, sự sống Thiên Chúa tặng ban sẽ giúp con người tồn tại muôn đời.
Vậy thì hôm nay Chúa muốn nói gì với tôi, và tôi phải làm gì để có được sự sống thần linh đó?
Chúa nói “Hãy cởi khăn liệm cho anh ấy.” Như thế, Chúa muốn tôi ra tay tháo gỡ những mãnh khăn đang bó buộc tha nhân, đem lại cho họ nhân phẩm và sự sống đích thực của con người. Ngài muốn tôi thắp lên một ngọn lửa yêu thương, dù rất bé nhỏ, để góp phần soi sáng cuộc đời.
Chúa bảo dân chúng cởi khăn cho Lazarô, và Ngài cũng mời gọi tôi hãy cởi bỏ những đắng cay, buồn phiền, thất vọng, u mê cho kẻ khác.
Làm như thế là tôi đang sống trọn vẹn ý nghĩa của mùa Chay thánh, đồng thời đón nhận dồi dào ánh sáng Phục sinh của Đức Giêsu, Đấng Cứu độ con người.
27.Chứng nhân của tin mừng sống lại
(Suy niệm của Lm. Giuse Trương Đình Hiền)
1. Tin vào sự sống:
Trước huyền nhiệm sự chết, con người thường bị ném vào một hụt hẫng, vỡ vụn:
Để rồi không biết bao nhiêu câu hỏi đã đặt ra: Tại sao như thế? Con người là “Nhân ư linh vạn vật” kia mà? Và làm sao Thiên Chúa tốt lành, quyền năng lại để xảy ra như thế? Như những câu thơ oán thán “Trời già” của một người cha mất đứa con yêu:
“Ái ăn đâu, Ái ở đâu?
Để thương để nhớ để u sầu.
Trời già độc địa làm chi bấy?
Nỡ bắt con tôi bảy tuổi đầu!
Phải chăng đó cũng chính là dụng ý của câu nói mà hai chị em Matta và Maria ở Bê-ta-ni-a đã trách móc Chúa Giêsu khi đối diện với cái chết của người em trai yêu dấu: “Phải chi có Thầy ở đây thì em con không chết!”.
Phần chúng ta, vấn nạn “nhân sinh quan” nầy gần như đã được giải đáp ngay từ những trang đầu của Kinh Thánh. A-đam-E-Va, sau khi khước từ Lời Thiên Chúa “Ngày nào các ngươi ăn trái cây nầy, các ngươi sẽ phải chết” (St 2,17), nghe lời ma quỷ xúi dục, đã đưa tay “hái trái cấm”…và thế là “sự chết đã lan tràn tới mọi người” (Rm 5,12): Ca-in giết A-ben, lụt đại hồng thủy, bảo lửa hủy diệt Sodoma và Gomora…Và cho tới mãi hôm nay, hình như thế giới cứ lần mò tiến đi giữa một “nền văn minh sự chết”: khủng bố, chiến tranh, hận thù sắc tộc, tôn giáo, Si-đa, ma túy, phá thai, dịch bệnh…
Thế nhưng, đó lại không phải là ý càng không là chương trình của Thiên Chúa. Thiên Chúa không bao giờ là “Chúa của kẻ chết” mà là “Chúa của người sống”.
Cho nên, từ hơn năm trăm năm trước khi Chúa Cứu Thế giáng sinh, chính trong cái “vũng lầy nhầy nhụa” đầy những đống xương khô của bóng tối và sự chết, của đọa đầy và thất vọng, của đắng cay ưu phiền trong kiếp nô lệ của thời lưu đầy Babylon (587 B.C)…dân Ít-ra-en đã nghe vang lên lời của Thiên Chúa như “tiếng kèn hy vọng” qua miệng của ngôn sứ Ê-giê-ki-en: “Nầy hỡi dân ta, Ta sẽ mở cửa huyệt cho các ngươi. Ta sẽ đem các ngươi lên khỏi huyệt…Ta sẽ đặt Thần Khí của Ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được hồi sinh…” (BĐ 1).
Nếu thân phận lưu đày của ít-ra-en là ảnh hình của một nhân loại đọa đầy tội lỗi, thì “tin vui hy vọng” của Ê-giê-ki-en kia cũng chính là tín thư riêng tặng cho mỗi người chúng ta mà nội dung xuyên suốt chính là: niềm hy vọng chứa chan vào lòng trung tín của Thiên Chúa vượt trên khổ đau và chết chóc và tình yêu cứu độ của Thiên Chúa mãi mãi là sức mạnh hồi sinh, là quyền uy giải thoát. Chân lý nầy nếu được diễn tả bằng ngôn ngữ của đời thường cuộc sống hôm nay thì sẽ được hiểu rằng: chúng ta không được quyền thất vọng cho dù phải đối diện với bao thảm cảnh cuộc đời, cả cái chết. Bởi vì Thiên Chúa đang có mặt trên mọi nẽo đường và biến cố để thổi vào Thần Khí tác sinh, để gieo vào hạt mầm của sự sống và hồng ân cứu độ. Niềm tin đó không là chuyện hoang tưởng của những đầu óc mê lầm,lú lẩn, nhưng là một chân lý rõ như ban ngày đúng như nhận xét thâm thúy của Gilbert K. Chesterton: “Nếu những hạt giống trong lòng đất đen mà còn có thể biến thành những cánh hoa hồng xinh đẹp như thế, thì trái tim con người còn thể biến thành thế nào nữa trong cuộc hành trình hướng đến các vì sao”.
Và có một điều kỳ lạ là Thiên Chúa không bao giờ chỉ nói suông mà “Lời luôn đi kèm hành động”. Biến cố “cải tử hoàn sinh” cho người bạn La-gia-rô chết thúi 4 ngày trong huyệt mộ là một minh họa rõ nét cho chân lý nầy. Thật vậy, chính ngay “quê hương của tử thần”, ngay cánh cửa dẫn vào huyệt mộ, một tiếng nói quyền năng đã âm vang thấu tận âm phủ, mở toang cánh cửa âm ty: “Hỡi La-da-rô hãy bước ra”, “Ta là sự sống lại và là sự sống” (TM).
Như vậy bài học đầu tiên của Lời Chúa hôm nay mà chúng ta phải thuộc, tin mừng tiên khởi mà hôm nay chúng ta phải sống chính là:Tin vào sự sống.
Tin vào một Thiên Chúa tình yêu ban sự sống, tin vào một Đấng Kitô Phục sinh dẫn ta vào cuộc sống vĩnh hằng, tin vào Chúa Thánh Linh đang thổi vào hồn ta nguồn sống mới, thì liệu có mang lại chuyển biến nào cho chính ta và cho thế giới hay chăng? Thưa có đấy. Bởi vì chỉ với niềm tin như thế ta mới thấy thế giới đẹp vô cùng, ta mới thấy cuộc sống mới đáng sống làm sao, mới thấy mỗi một con người, mỗi một sinh linh là một công trình kỳ diệu, mới thấy mỗi một cuộc đời, cho dù què cụt điếc câm, cho dù thấp cổ bé miệng, cho dù dốt nát bần hàn…vẫn là một “kỳ công vĩ đại của Thượng Đế” luôn cần được kính trọng, luôn phải được sẻ chia, yêu thương và phục vụ. Bởi vì tất cả đều là sự sống tốt lành phát xuất từ nguồn sống vĩnh cửu và sẽ được thăng hoa, qui hướng về cội nguồn vĩnh cửu rạng ngời vinh quang đó.
Vâng, chỉ với niềm tin đó thì chúng ta mới trụ vững giữa trăm chiều thử thách, mới đủ can đảm mĩm cười với số phận cho dù số phận có khắc nghiệt oái ăm, mới đủ quảng đại và khoan dung để yêu thương và tha thứ, cho dù bị bách hại đọa đầy. Và nhất là, chỉ với niềm tin đó, chúng ta mới bình thản sống cuộc sống hôm nay như một cuộc lên đường, một cuộc vượt qua, một cuộc tái sinh để bước vào quê hương vĩnh cửu. Niềm tin đó sẽ củng cố niềm hy vọng vĩnh hằng trong ta và giúp ta mạnh mẽ góp phần xây dựng nền “văn minh sự sống”, “văn minh tình yêu”, cho ta con tim rộng mở để đón nhận và yêu thương con người, cho ta nghị lực và hy vọng để chiến thắng và đẩy lùi sự dữ trong ta và quanh ta.
Cách riêng đối với những anh chị em dự tòng sắp sửa lãnh nhận các bí tích gia nhập kitô giáo, niềm tin vào sự sống lại sẽ là một cảm nghiệm mới mẻ tinh khôi của những con người vừa kết thúc một chặng đường “vượt qua” đầy nhiêu khê và thử thách để hân hoan tiến vào “miền đất của tái sinh”, hội nhập vào một cuộc sống mới mẻ của một đoàn dân được cứu chuộc.
Tin vào sự sống, còn có nghĩa là tin vào một Thiên Chúa đã nhập thể trong chính nổi đau và cái chết:
2. Thiên Chúa đã nhập thể trong chính nổi đau và cái chết:
Quả thật, khi vào đời, Con Thiên Chúa nào tránh né cái kiếp phận long đong của con người. Hãy xem: những giọt nước mắt đã lăn dài trên má của Chúa Giêsu khi chứng kiến cái chết của người bạn thân La-da-rô ở Bê-ta-ni-a; và chắc chắn sẽ không thiếu những “nụ cười” chia sẻ niềm vui với đôi tân hôn tại tiệc cưới Cana khi giúp họ có thêm mấy trăm lít rượu ngon để niềm vui trọn vẹn và được mãi nối dài. Nếu không có “trái tim trắc ẩn” của Ngài dừng lại trên quan tài của người thanh niêm xấu số bạt phần thì làm sao có nổi vui đong đầy trong cõi lòng của người mẹ mất con, góa phụ Naim? Nếu không có đôi tay sẻ chia và phục vụ giơ lên để chúc lành thì làm sao mấy ngàn người đói meo giữa hoang mạc có được bánh cá thơm ngon đã đời chắc ruột? Phải chăng, vì chính Ngài đã không chê những giọt nước mắt nóng hổi tình yêu sám hối của M.Mađalêna để lại trên chân mà đã khiến cho Matthêô sẵn sàng bỏ lại tất cả để theo Ngài lang thang rao giảng tình yêu? Phải chăng vì Ngài đã không kết án người phụ nữ ngoại tình mà Gia-Kê trưởng ty thu thuế giàu sụ sẵn sàng leo lên cành sung để được ngắm nhìn Ngài cho sướng mắt để sau đó sẵn sàng trở nên kẻ nghèo để sẻ chia và sống công chính. Phải chăng vì Ngài đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh mà đôi mắt tâm hồn của tên trộm bị đóng đinh bên hữu đã chợt mở ra để nhìn thấy trong cái thân xác bê bết máu kia là chìa khóa của quyền uy đang mở cửa vào Vương quốc vĩnh hằng?
Sống đức tin hôm nay đó chính là ý thức mãnh liệt rằng: Đức Kitô phục sinh đang hiện diện trong mọi ngỏ ngách và biến cố cuộc sống, nhất là, Ngài có mặt ngay trong những phút giây và cảnh ngộ bi đát nhất như cảnh ngộ của gia đình Bêtania trong biến cố La-gia-rô qua đời.
Thê thảm nhất, khổ sầu nhất, thất vọng nhất, là khi con người chối từ và phản bội Thiên Chúa để không bao giờ thấy được ánh sao hy vọng ở cuối trời, không nhận ra ánh mắt yêu thương và tha thứ đang dõi nhìn theo…mà chỉ một mình loay hoay bước đi trong cõi nhân sinh buồn thảm. Trong hoàn cảnh đó, trong thái độ đó, quả thật cuộc sống đã trở thành cõi chết, hương vị ngọt ngào của cuộc sống đã trở nên ngải đắng, ánh sáng ấm nồng mùa xuân trở thành đêm đông băng giá…Và như thế, một liều thuốc độc, một phát súng, một dây thòng lọng đã trở nên “phương tiện gần gũi dẫn lối đưa đường vào cõi chết tuyệt vọng”! Chúng ta đừng quên câu chuyện “Ngày Thứ Năm Tuần Thánh”: khi Giu-đa phản bội Thầy, bỏ bàn tiệc ra đi, thì “bóng tối dâng lên”…và “bóng tối quái ác” đó đã phủ ngập trái tim Giu-đa cho đến khi y đưa đầu vào chiêc giây thòng lọng để chọn cái chết buồn tênh tăm tối. Trong khi đó, chiều Thứ Sáu hôm sau trên đồi Can-vê nắng úa, một kẻ trộm bị đóng đinh đang hấp hối, đã nhìn ra trong cái chết đớn đau oan nghiệt của con người tử tội Giêsu Na-da-rét một ánh sáng chứa chan niềm hy vọng: “Khi Thầy vào Nước của Thầy xin nhớ đến tôi”. Và lập tức anh ta được đáp ứng: “Hôm nay anh sẽ ở trên thiên đàng với tôi”. Như thế đó, Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô đã nhập thể trong chính nổi đau và cái chết để dẫn đưa những ai tin vào Ngài tiến vào cuộc sống đích thực, như hôm nay Ngài xác quyết: “Ai sống mà tin vào Ta sẽ không chết bao giờ”.
Phải chăng đây cũng chính là kim chỉ nam cho đời thường cuộc sống và là sự chuẩn bị cuối cùng của Mùa Chay Thánh, chuẩn bị bằng sự can đảm “chết đi cho cái tôi đáng ghét” của mình, can đảm quay lưng chối từ cái quá khứ của cuộc đời nô lệ tội lỗi, can đảm thoát ra khỏi vũng lầy của yếu đuối, đam mê và dục vọng…để đĩnh đạt cùng với Đức Kitô bước vào niềm hy vọng phục sinh, cuộc sống mới trong hoan vui ân sủng.
Tin vào sự sống, tin vào Đấng đã nhập thể trong nổi đau và cái chết để phục hồi tất cả trong vinh quang phục sinh sẽ không là một công thức suông được lặp đi lặp lại như “điệp khúc của mùa Chay”, mà phải hiện thực ngay trong thánh lễ nầy, khi chút nữa đây, Thịt Máu Ngài sẽ trở nên lương thực trường sinh để biến cuộc đời ta, thân xác ta ngập tràn “Thần Khí. Điều quan trọng giờ nầy là ta hãy mạnh dạn trả lời câu hỏi của Đức Kitô: “Con có tin như thế không?” không phải bằng cách lặp lại thuộc lòng lời của cô Matta: “Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian”, nhưng là bằng tất cả con tim và cuộc sống: con tim sẵn sàng yêu đến cùng cho dù phải thí mạng vì bạn hữu và cuộc sống sống hết mình cho vinh quang Thiên Chúa và cứu rỗi anh em cho dù phải kinh qua nẻo đường hẹp thập giá.
Để yêu và để sống như thế, dĩ nhiên, sẽ là chuyện bất khả khi với thân phận con người, nhưng lại là chuyện có thể khi chúng ta biết sẵn sàng để cho “Thần Khí chi phối”. Đó chính là kinh nghiệm của Thánh Phaolô, một con người đã được Thần Khí đổi mới toàn diện từ một tay “sát thủ” tận lực tiêu diệt kitô giáo đã trở nên chứng nhân của Tin Mừng sống lại.
Nguyện xin Thần khí của Đức Kitô hôm nay cũng biến đổi tất cả chúng ta nên những con người mới, nên những chứng nhân của Tin Mừng Sống lại. Amen.
28.Tin vào cái gì, hay là tin vào ai? – Achille Degeest.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Sau cuộc gặp gỡ với Giakêu, Chúa Giêsu rời Giêricô đi Giêrusalem. Các môn đệ tìm cách can ngăn Người vì biết rằng ở đó Người sẽ gặp sự kình địch của người Do Thái. Tin tức về bệnh tình của Lagiarô gây nên một cuộc bàn cãi sôi nổi. Cuối cùng Chúa Giêsu tuyên bố: “Lagiarô chết rồi Ta mừng cho chúng con vì Ta không có mặt ở đó, để chúng con được tin”. Niềm vui của Chúa trong một hoàn cảnh như thế có thể làm ta ngạc nhiên. Người vui vì Người sắp tỏ uy quyền của mình trên thế lực mù quáng của sự chết, và đàng khác vì sắp tăng cường lòng tin của các môn đệ đối với Người.
1) Cái chết của Lagiarô là một sự kiện tự nhiên. Con người sinh ra rồi chết, đó là chuyện tự nhiên chắc chắn, điều hòa khác nào thời tiết vần xoay. Nhưng trong cái tất định ấy, trong cái tất yếu kia, một người can thiệp vào và chế ngự được chúng. Con người ấy đầy từ bi và quyền năng, Người là Thiên Chúa. Sự can thiệp của Chúa Giêsu chứng tỏ Thiên Chúa không xa xôi, không hờ hững với tạo vật. Chúa đã nhập thể. Người muốn có con tim biết xúc động, xao xuyến. Người bị đánh động bởi số phận con người, bởi tình nghĩa, bởi nỗi buồn phiền của bạn hữu. Bây giờ Người biểu dương quyền năng và cho Lagiarô sống lại. Điều này cho thấy rằng tuy vẫn trung tín với mình trong sự tôn trọng định luật thiên nhiên, nhưng Thiên Chúa có thể lấy quyền năng mình thay đổi chúng để phụng sự những kẻ Người yêu mến.
2) Nên để ý tới câu trả lời của Martha. Chúa Giêsu hỏi: “Con có tin điều ấy không?” Nghĩa là, con có tin rằng ai tin vào Ta sẽ được sống và hơn nữa, sẽ không phải chết bao giờ chăng? Chúa hỏi Martha về một chuyện gì, về sự xác tín được sống. Nhưng câu trả lời của Martha nói về chính con người Chúa Giêsu. Bà không đáp: ‘Dạ, con tin rằng con sẽ không chết’ nhưng: “Con tin Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa”. Hẳn là nhờ lời tuyên xưng đức tin này (các môn đệ nghe rõ ràng) mà Chúa Giêsu tuyên bố với các môn đệ khi đi về Bêtania, rằng: Người vui mừng. Người đã muốn xảy ra việc Lagiarô sống lại để những người chứng kiến nó, tin Người được Chúa Cha sai đến. Điều này cho ta thấy: Đức tin không phải là một sự tin tưởng vào sự vật, dù là vào một thế giới đã được phục hồi trong sự công chính nguyên thủy, nhưng là tin vào Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa. Tin vào Chúa Giêsu vì Chúa Giêsu, đó là điều căn bản, mọi sự khác sẽ đến sau, và chỉ là thứ yếu.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Tin Mừng Ga 11: 3-7.17.20-27.33-35: Tin Mừng Chúa nhật V, Chúa Giêsu là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ngài thì được sống đời đời…
Chúa Giêsu là Ngôi Lời nhập thể làm người. Ngài đồng hành cùng mọi người trong đời sống trần thế. Ngài đã từng đến chia sẻ niềm vui trong đám cưới tại Cana (x. Ga 2,1). Ngài đã buồn sầu thương khóc Ladarô cùng với hai chị em cô Matta (x. Ga 11,32-38)…
Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật và là người thật. Tin Mừng các Chúa Nhật Mùa Chay kể chuyện rõ ràng, Ngài vừa là Thiên Chúa vừa là con người. Chúa Nhật I, Chúa Giêsu chịu cám dỗ trong thân phận con người. Chúa nhật II, Chúa Giêsu Hiển Dung trong thần tính vinh quang trên núi Tabor. Chúa nhật III, Chúa Giêsu là Nước Hằng Sống đem lại sự sống vĩnh cửu cho những ai tin vào Ngài. Chúa nhật IV, Chúa Giêsu là sự sáng thế gian, ai đi theo Ngài sẽ bước đi trong ánh sáng. Chúa nhật V, Chúa Giêsu là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ngài thì được sống đời đời.
Nhiều lần Chúa Giêsu nói về sự sống đời đời. Với người phụ nữ Samaria bên bờ giếng Giacob, Ngài xác quyết: Nước Ta ban sẽ vọt lên đem lại sự sống đời đời. Sau phép lạ bánh hoá nhiều, Ngài nói với người Do thái: Ta là bánh ban sự sống. Nơi khác Ngài bảo: Ta là ánh sáng mang lại sự sống. Có lần Ngài khẳng định: Ta là đường, là sự thật và là sự sống. Chúa Giêsu đến thế gian để cho con người được sống và sống dồi dào.
“Thầy là sự sống lại và sự sống”, lời tuyên bố của Chúa Giêsu trước khi làm cho Ladarô sống lại là một trong những lời kỳ diệu nhất đối với người thời đại cũng như bao người ngoài Kitô giáo và những người vô thần ngày nay. Nhưng đối với chúng ta, lời tuyên bố đó là chính nền tảng, và là hy vọng của cuộc đời.
Ladarô đau nặng, Matta và Maria sai người đến báo tin cho Chúa Giêsu hay: “Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng”. Chúa bảo: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang Thiên Chúa”.
Cho dù Ladarô đã chết, nhưng Chúa Giêsu vẫn nói với các môn đệ: “Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó để anh em tin”. Chúa Giêsu và các môn đệ lên đường tới Bêtania. Matta đón Ngài và biểu lộ niềm tin tưởng tuyệt đối: “Lạy Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Nhưng bây giờ con biết: bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy”. Ladarô đã chết nhưng Matta tin chắc chắn Chúa có thể làm cho em trai mình được sống bởi vì Ngài là Đấng quyền năng. Chúa Giêsu mạc khải: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”. Với lời xác quyết vừa trang trọng vừa lạ lùng này, Chúa Giêsu đòi hỏi Matta phải xác tín: “Con có tin điều đó không?”. Matta tuyên xưng: “Thưa Thầy có, con vẫn tin Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa, Đấng phải đến trong thế gian”. Matta biết Chúa Giêsu là Đấng quyền năng, Ngài có thể truyền lệnh cho sự chết cũng như Ngài đã truyền lệnh cho sóng gió phải im lặng. Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ. Ngài truyền cho Ladarô sống lại bước ra khỏi mồ, sau khi đã cầu nguyện và cảm tạ Chúa Cha. Trước sự thật hiển nhiên này, một số người đã tin theo Chúa. Một số khác, nhất là các Biệt phái và các Thượng tế lại chống đối cách quyết liệt hơn nữa. Họ hội họp với nhau và quyết định kết án tử hình cho Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay chứng minh cách tổng hợp, Chúa Giêsu vừa là Thiên Chúa quyền năng vừa là con người yêu thương. Quyền năng làm cho kẻ chết sống lại. Con người nhân ái đến thăm gia đình có người qua đời, trái tim rung động thổn thức. Chúa Giêsu khóc nức nở trước ngôi mộ của Ladarô khiến dư luận bàn tán: “Coi kìa. Ông ấy thương Ladarô biết dường nào!”. Thánh Gioan cũng thấy như vậy: “Đức Giêsu quý mến cô Mácta cùng hai người em là cô Maria và anh Ladarô”.
Ladarô đi vào đường hầm của sự chết. Chúa đã gọi anh quay trở lại: “Ladarô, hãy ra đây!… Người chết đi ra, chân tay còn quấn những mãnh vải…”. Ladarô xuất hiện với cùng một thân xác như khi đi vào mồ. Anh nằm trong mồ bốn ngày qua, thối rữa ra rồi.Thế mà Chúa bảo hãy đi ra. Anh đi ra thật. Giải băng còn quấn cứng ngắc…Sự hoảng hốt bao trùm. Niềm vui bùng nổ. Hàng ngàn người lại nườm nượp tuôn đến. Đến để xem người chết sống lại. Ladarô sống lại là hiện thân của một biến cố lịch sử ngàn năm một thuở.
Trong Cựu Ước, ngôn sứ Êlia đã làm cho con trai của bà góa ở Sarépta sống lại (x.1V 17,17-24), ngôn sứ Êlisa cũng làm cho đứa con trai của bà Sunêm sống lại (x.2V 4,32-37). Trong Tân Ước, Phêrô đã làm cho bà Tabitha đã chết sống lại (x.Cv 9,39-42). Chúa Giêsu đã làm cho người chết sống lại ít nhất ba lần: cho con trai bà góa thành Naim (x. Lc 7,11-15), cho con gái một ông trưởng hội đường (x. Mt 9,18-26; Mc 5,35-43; Lc 8,49-56), và cho Ladarô. Cũng như những người được hồng ân sống lại từ cõi chết, Ladarô sau này sẽ lại chết, người thân phải mai táng anh lần nữa.
Chúa Giêsu đối đầu với sự chết ngay trong lãnh địa thần chết. Ngài vào và ra khỏi đó như một người chủ vì Ngài nắm giữ chìa khóa sự chết và âm phủ (Kh 1,18). Ngài đã chịu chết nên Thiên Chúa đã ban triều thiên vinh quang cho Ngài (Dt 2,9); Ngài trở nên “trưởng tử giữa các vong nhân” (Cl 1,18). “Nhờ sự chết của mình, Chúa Giêsu đã giao hòa chúng ta với Thiên Chúa” (Rm 5,10) “để chúng ta được lãnh gia nghiệp đã hứa cho” (Dt 9,15). Đối với người Kitô hữu, chính cái chết thân xác mang một ý nghĩa mới. Chết không còn là một định luật con người đành phải tuân theo, đành phải chấp nhận hay một hình phạt do tội lỗi gây ra. Người Kitô hữu “chết cho Chúa”, như đã sống cho Chúa (Rm 14,7; Pl 1,20). Nếu họ hy sinh đổ máu để làm chứng cho Chúa, cái chết của họ là một hy lễ tiến dâng lên Thiên Chúa (1Tim 4,6) và đáng được triều thiên sự sống (Kh 2,10; 12,11).
Chúa Giêsu là sự sống lại và là sự sống.Tin vào Ngài là thông hiệp vào sự sống lại sau khi chết, khiến cái chết không còn nghĩa lý gì nữa. Cái chết của Ladarô chỉ là một giấc ngũ (Ga 11,11), người tin Chúa sẽ coi nhẹ cái chết chỉ như một giấc ngũ, một chặng đường dẫn tới sự kết hợp vĩnh viễn với Chúa. Đức tin, nền tảng tư duy dẫn vào cuộc đổi mới đời mình và đổi mới cả môi trường trần thế đang là đất sống của con người tại thế. Từ chỗ là do định luật thiên nhiên đáng lo sợ, cái chết trở thành cõi phúc “Phúc thay những người chết trong Chúa” (Kh 14,13), để được sống đời sống mới và ở đó “không còn sự chết nữa” (Kh 21,4). Đối với những ai sống lại với Chúa Kitô sẽ không có “cái chết lần thứ hai” (Kh 20,6). Như thế đối với người Kitô hữu, chết là một phúc lợi vì được chính Chúa Kitô là sự sống (Pl 1,21).
Thiên Chúa là Đấng có quyền trên sự sống của con người. Chúa Giêsu hứa ban sự sống lại vào ngày sau hết cho những ai tin vào Ngài. Chúa Giêsu đã nối kết niềm tin vào sự sống lại của con người với niềm tin vào chính sự sống lại của Ngài: “Ta là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11,25; 1Cor 15,16-19). Chúa Giêsu đã đưa ra một chiều kích hiện sinh mới, mở ra cho ta con đường tiến tới chân lý sự sống bằng sự chết mà Ngài đã thực hiện. Chính sự tử nạn và phục sinh của Ngài làm cho mọi cái chết trở thành Tin Mừng của sự sống.
Chúa Giêsu không chỉ yêu thương chúng ta bằng tình yêu thần linh của một vị Thiên Chúa, mà còn yêu bằng chính tình cảm đầy tính người của con người. Và dù mang tính con người, tình yêu ấy vẫn rất bao la, quảng đại và triệt để: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1b). “Đến cùng” ở đây là tới mức tận cùng của tình yêu con người, không ai có thể yêu hơn được nữa: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
Sự chết và sống lại của Chúa Giêsu Kitô không những đã chuộc lại những gì con người đã mất do tội lỗi nhưng còn là một cuộc sáng tạo. Nhờ sự chết và sống lại mà Ngài đã nối nhịp cầu hiệp thông liên kết giữa Thiên Chúa và con người, thiết lập một tương quan mới Cha con. Nhân loại từ đây không những được ơn tha thứ, được gột rửa sạch tội lỗi để khỏi án chết đời đời, nhưng còn được trở nên con cái Thiên Chúa, được gọi Người là Abba, Cha ơi (Rm 8,15).
Sự sống mà Thiên Chúa ban cho con người khi sáng tạo là sự sống trong tương quan giữa Hoá Công và thọ tạo. Sự sống mà Chúa Kitô đem lại cho con người là sự sống trong tương quan giữa Thiên Chúa là Cha và loài người được nâng lên địa vị làm con. Sự sống “tự nhiên” là một thực tại khách quan. Sự sống mới hay sự sống “siêu nhiên” là một trạng thái ân tình mà con người phải đi vào để được thực sự thông hiệp với Thiên Chúa.
Tin và sống trong ân tình Chúa Kitô chính là chiến thắng sự chết, là mang trong mình mầm mống của sự sống đời đời. “Ai sống và tin vào Thầy thì sẽ không bao giờ chết” (Ga 11, 26; 1Ga,14). “Không bao giờ chết” là không bao giờ mất hiện hữu trong tương quan với Ba Ngôi Thiên Chúa, không bao giờ mất sự sống trong tương quan ân tình với Người.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con.
Xin cho chúng con được sống lại trong niềm tin vào Chúa để chúng con được sống dồi dào trong tình thương của Chúa. Amen.
30.Bên một Lazarô – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Trong dịp hành hương Đất Thánh, tôi có đến thăm ngôi mộ Ladarô. Từ Vườn Cây Dầu, nếu đi băng đồi theo đường thẳng chỉ chừng 4 km, nhưng hiện nay nằm trong phần đất thuộc Palestine với bức tường bêtông ngăn lối cũ, nên phải đi vòng bằng xe bus khoảng 20 km mất chừng 30 phút. Bêtania tên hiện nay là El – Eizarya. Thăm căn nhà Bêtania. Viếng nhà thờ dâng kính cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và Matta trước khi Chúa làm phép lạ cho Ladarô sống lại. Nhà thờ bằng đá không lớn lắm. Phía ngoài nhà thờ, ngay bên đường lộ, một hầm sâu với bậc thang đi xuống, là mộ Ladarô. Mộ đục sâu vào đá, mấy chục bước tam cấp đi xuống, ánh sáng mờ ảo hắt lên những phiến đá lạnh lẽo nhập nhoà lung linh nơi Ladarô đã an nghĩ bốn ngày.
Đứng trước mộ Ladarô, tôi nhớ đến đoạn Tin Mừng Ga 11,1-45.
Ladarô đau nặng, Matta và Maria sai người đến báo tin cho Chúa Giêsu hay: “Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng”. Chúa bảo: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang Thiên Chúa”.
Cho dù Ladarô đã chết, nhưng Chúa Giêsu vẫn nói với các môn đệ: “Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó để anh em tin”. Chúa Giêsu và các môn đệ lên đường tới Bêtania. Matta đón Ngài và biểu lộ niềm tin tưởng tuyệt đối: “Lạy Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Nhưng bây giờ con biết: bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy”.
Ladarô đã chết nhưng Matta tin chắc chắn Chúa có thể làm cho em trai mình được sống bởi vì Ngài là Đấng quyền năng. Chúa Giêsu mạc khải: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”. Với lời xác quyết vừa trang trọng vừa lạ lùng này, Chúa Giêsu đòi hỏi Matta phải xác tín: “Con có tin điều đó không?”. Matta tuyên xưng: “Thưa Thầy có, con vẫn tin Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa, Đấng phải đến trong thế gian”.
Matta biết Chúa Giêsu là Đấng quyền năng, Ngài có thể truyền lệnh cho sự chết cũng như Ngài đã truyền lệnh cho sóng gió phải im lặng. Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ. Ngài truyền cho Ladarô sống lại bước ra khỏi mồ, sau khi đã cầu nguyện và cảm tạ Chúa Cha. Trước sự thật hiển nhiên này, một số người đã tin theo Chúa. Một số khác, nhất là các Biệt phái và các Thượng tế lại chống đối cách quyết liệt hơn nữa. Họ hội họp với nhau và quyết định kết án tử hình cho Chúa.
“Thầy là sự sống lại và sự sống”, lời tuyên bố của Chúa Giêsu trước khi làm cho Ladarô sống lại là một trong những lời kỳ diệu nhất đối với người thời đại cũng như bao người ngoài Kitô giáo và những người vô thần ngày nay. Nhưng đối với chúng ta, lời tuyên bố đó là chính nền tảng, và là hy vọng của cuộc đời.
Là Kitô hữu, chúng ta tin có tội lỗi, tin vào thánh giá, tin có sự đau khổ và sự chết, tin vào ơn tha thứ, tin vào niềm vui, vào sự giải thoát, tin vào sự sống và sự sống lại.
Chính vì thế mà tất cả những lời chứa đựng trong Kinh Thánh Tân ước được gọi là Tin Mừng. Chúa Giêsu Kitô chính là nội dung Tin Mừng. Thánh Phaolô thường gọi những lời thuyết giáo của Chúa là “Tin mừng Chúa Kitô” (x.1Tx 3,2; 1Cr 2,12; 4,4; 8,13; 10,14; Pl 1,27; Rm 15,19). Trong Tin Mừng bao giờ cũng nêu lên hai điểm chính yếu: Chúa Kitô đã chết và Ngài đã sống lại (x.1Tx 4,14; 2 Cr 13,4; Rm 4,24-25; 8,34; 14,9).
Sống và chết là qui luật tuần hoàn và phát triển của muôn loài muôn vật. Vạn vật tuy biến hóa, thay đổi hình dạng, nhưng nguyên khí vẫn là một. Trong sự biến hóa, thì chết là để phát sinh sự sống mới, vì: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12, 24). Như vậy: chết là điều kiện nhất thiết để triển nở và thành toàn; chết là một sự thay đổi cách thái hiện hữu ở một mức độ sung mãn hơn. Dựa theo qui luật tuần hoàn và phát triển đó, chúng ta cảm nhận cách sâu xa khi Chúa Giêsu nói về sự sống con người: “Ai yêu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.” (Ga 12, 25).
Chết và sống lại đó là hai sự kiện căn bản không thể tách rời. Không thể có sống lại nếu không chết. Trái lại, nếu Chúa Kitô chết không sống lại thì nói như Thánh Phaolô “đức tin của chúng ta chỉ là trống rỗng” (1Cr 15,14), nghĩa là vô giá trị, giả dối. Chết và sống lại là hai sự kiện “bất khả phân”. Hai sự kiện của một mầu nhiệm Chúa Kitô.
Bài Tin Mừng hôm nay chứng minh cách tổng hợp, Chúa Giêsu vừa là Thiên Chúa quyền năng vừa là con người yêu thương. Ngài là Thiên Chúa, vì có quyền năng làm cho kẻ chết sống lại. Là con người nhân ái đến thăm gia đình quý mến có người yêu thương đã chết, trái tim Chúa rung động trước những muộn phiền niềm đau chia ly trước sự chết. Chúa “thổn thức trong lòng và xao xuyến”. Chúa đã khóc khi đứng trước mộ Ladarô. Chắc hẳn Chúa đã tỏ ra xúc động rất nhiều đến nỗi những người có mặt ở đó đã phải thốt lên: “Kìa xem! ông ta thương anh Ladarô biết mấy!”.
Chúa đã cho Ladarô sống lại, hứa hẹn niềm hy vọng cho nhân loại: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”. Niềm hy vọng vào sự sống lại của những người đã chết được Thiên Chúa mạc khải dần dần, dựa trên niềm tin vào Thiên Chúa.Người “không phải Thiên Chúa của những người chết, nhưng của những người sống” (Mc 12,27).
Ladarô đi vào đường hầm của sự chết. Chúa đã gọi Ladarô quay trở lại: “Ladarô, hãy ra đây!… Người chết đi ra, chân tay còn quấn những mãnh vải…”. Ladarô xuất hiện với cùng một thân xác như khi đi vào mồ.
Trong Cựu Ước, ngôn sứ Êlia đã làm cho con trai của bà góa ở Sarépta sống lại (x.1V 17,17-24), ngôn sứ Êlisa cũng làm cho đứa con trai của bà Sunêm sống lại (x.2V 4,32-37). Trong Tân Ước, Phêrô đã làm cho bà Tabitha đã chết sống lại (x.Cv 9,39-42). Chúa Giêsu đã làm cho người chết sống lại ít nhất ba lần: cho con trai bà góa thành Naim (x. Lc 7,11-15), cho con gái một ông trưởng hội đường (x. Mt 9,18-26; Mc 5,35-43; Lc 8,49-56), và cho Ladarô. Cũng như những người được hồng ân sống lại từ cõi chết, Ladarô sau này sẽ lại chết, người thân phải mai táng anh lần nữa.
Chúa Giêsu đối đầu với sự chết ngay trong lãnh địa của nó. Ngài vào và ra khỏi đó như một người chủ vì Ngài nắm giữ chìa khóa sự chết và âm phủ (Kh 1,18). Ngài đã chịu chết nên Thiên Chúa đã ban triều thiên vinh quang cho Ngài (Dt 2,9); Ngài trở nên “trưởng tử giữa các vong nhân” (Cl 1,18). “Nhờ sự chết của mình, Chúa Giêsu đã giao hòa chúng ta với Thiên Chúa” (Rm 5,10) “để chúng ta được lãnh gia nghiệp đã hứa cho” (Dt 9,15). Đối với người Kitô hữu, chính cái chết thân xác mang một ý nghĩa mới. Chết không còn là một định luật con người đành phải tuân theo, đành phải chấp nhận hay một hình phạt do tội lỗi gây ra. Người Kitô hữu “chết cho Chúa”, như đã sống cho Chúa (Rm 14,7; Pl 1,20). Nếu họ hy sinh đổ máu để làm chứng cho Chúa, cái chết của họ là một hy lễ tiến dâng lên Thiên Chúa (1Tim 4,6) và đáng được triều thiên sự sống (Kh 2,10; 12,11).
Từ chỗ là do định luật thiên nhiên đáng lo sợ, cái chết trở thành cõi phúc “Phúc thay những người chết trong Chúa” (Kh 14,13), để được sống đời sống mới và ở đó “không còn sự chết nữa” (Kh 21,4). Đối với những ai sống lại với Chúa Kitô sẽ không có “cái chết lần thứ hai” (Kh 20,6). Như thế đối với người Kitô hữu, chết là một phúc lợi vì được chính Chúa Kitô là sự sống (Pl 1,21).
Thiên Chúa là Đấng có quyền trên sự sống của con người. Chúa Giêsu hứa ban sự sống lại vào ngày sau hết cho những ai tin vào Ngài. Chúa Giêsu đã nối kết niềm tin vào sự sống lại của con người với niềm tin vào chính sự sống lại của Ngài: “Ta là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11,25; 1Cor 15,16-19). Chúa Giêsu đã đưa ra một chiều kích hiện sinh mới, mở ra cho ta con đường tiến tới chân lý sự sống bằng sự chết mà Ngài đã thực hiện. Chính sự tử nạn và phục sinh của Ngài làm cho mọi cái chết trở thành Tin Mừng của sự sống.
Chúa Giêsu không chỉ yêu thương chúng ta bằng tình yêu thần linh của một vị Thiên Chúa, mà còn yêu bằng chính tình cảm đầy tính người của con người. Và dù mang tính con người, tình yêu ấy vẫn rất bao la, quảng đại và triệt để: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1b). “Đến cùng” ở đây là tới mức tận cùng của tình yêu con người, không ai có thể yêu hơn được nữa: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
Sự chết và sống lại của Chúa Giêsu Kitô không những đã chuộc lại những gì con người đã mất do tội lỗi nhưng còn là một cuộc sáng tạo. Nhờ sự chết và sống lại mà Ngài đã nối nhịp cầu hiệp thông liên kết giữa Thiên Chúa và con người, thiết lập một tương quan mới Cha con. Nhân loại từ đây không những được ơn tha thứ, được gột rửa sạch tội lỗi để khỏi án chết đời đời, nhưng còn được trở nên con cái Thiên Chúa, được gọi Người là Abba, Cha ơi (Rm 8,15).
Sự sống mà Thiên Chúa ban cho con người khi sáng tạo là sự sống trong tương quan giữa Hoá Công và thọ tạo. Sự sống mà Chúa Kitô đem lại cho con người là sự sống trong tương quan giữa Thiên Chúa là Cha và loài người được nâng lên địa vị làm con. Sự sống “tự nhiên” là một thực tại khách quan. Sự sống mới hay sự sống”siêu nhiên” là một trạng thái ân tình mà con người phải đi vào để được thực sự thông hiệp với Thiên Chúa.
Tin và sống trong ân tình Chúa Kitô chính là chiến thắng sự chết, là mang trong mình mầm mống của sự sống đời đời. “Ai sống và tin vào Thầy thì sẽ không bao giờ chết” (Ga 11, 26; 1Ga,14). “Không bao giờ chết” là không bao giờ mất hiện hữu trong tương quan với Ba Ngôi Thiên Chúa, không bao giờ mất sự sống trong tương quan ân tình với Người.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con.
Xin cho chúng con được sống lại trong niềm tin vào Chúa để chúng con được sống dồi dào trong tình thương của Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Trong hai tuần liên tiếp, chúng ta đã nghe tường thuật hai phép lạ cả thể của Chúa Giêsu: Chúa chữa người mù từ khi mới sinh và cho Ladarô sống lại. Hai phép lạ này chỉ có Gioan kể lại, các phép lạ khác đã có các thánh sử khác tường thuật, Gioan không cần phải kể lại. Và hai phép lạ này mang một ý nghĩa độc đáo và mạc khải cho chúng ta thấy khuôn mặt thần linh của Chúa Giêsu là ánh sáng trần gian và là sự sống. Hai phép lạ cùng một ý hướng như nhau: để vinh quang của Chúa được tỏ hiện. Công việc của Chúa là cứu vớt trần gian khốn khổ này, đem ánh sáng cho con người đang chập choạng trong đêm tối, mang lại sự sống và sự sống thật cho người đã chết trong tội.
Chúa Giêsu biết Ngài muốn làm gì và làm như thế nào, làm như Ngài đã có chương trình của Ngài, và Ngài thực hiện từng chi tiết, tuần tự, dẫn nó đến cùng đích Ngài muốn.
Thánh Gioan nói rõ: “Ngài quí mến ba chị em Matta”. Thế nhưng tại sao Ngài chậm trễ đến nỗi ba chị em phải đi ngang qua thử thách đau đớn như thế? Đây phải chăng là ý muốn của Ngài: “Để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa; qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh”. Những người thân của Ngài đều được mời gọi thông phần vào sứ mệnh cứu rỗi của Ngài nhờ đau khổ. Chị em Matta được mời gọi bước vào chương trình của Ngài bằng đau khổ, và các môn đệ cũng bước vào con đường đó. Tất cả những người có liên hệ mật thiết với Ngài đều phải thông phần đau khổ của Ngài, chia sẻ mầu nhiệm của Ngài như Mẹ Maria, như các môn đệ sau này.
Chị Matta đã sai người đến với Chúa Giêsu và báo cho Ngài biết: “Người Thầy thương đang bệnh”. Nhưng hình như Ngài không để ý gì đến tin đó và lại nói rằng: “Bệnh này không đến nỗi chết”, và Ngài vẫn tiếp tục rao giảng ở đó thêm hai ngày mới nhắc đến tình trạng của Ladarô. Ngài cũng không nói rõ chỉ nói một cách mơ hồ: “Bạn Ladarô của chúng ta đang yên giấc”. Các môn đệ không hiểu. Lúc đó Ngài mới nói thật: “Ladarô đã chết. Thầy mừng cho anh em, vì Thầy không có mặt ở đó, để anh em tin”. Câu này thật quan trọng: “Thầy mừng cho anh em… để anh em tin”. Điều này chứng tỏ, Chúa Giêsu muốn dùng cái chết của Ladarô để giúp đức tin của các môn đệ, cũng như trong tiệc cưới ở Cana, thánh Gioan đã nói: “Các môn đệ tin Ngài”. Điều quan trọng mà Ngài luôn chú ý là củng cố niềm tin cho các môn đệ. Lúc này là lúc Ngài sắp bước vào giai đoạn cựu kỳ quan trọng của đời Ngài, Ngài sắp bước vào cuộc thử thách nặng nề, cần phải củng cố đức tin của các môn đệ để khi việc xảy đến, các ông sẽ vững tin hơn.
Khi Chúa đến Bêtania, thì Ladarô đã nằm trong mộ bốn ngày rồi. Matta ra đầu làng đón Ngài bằng một câu như trách móc: “Nếu Thầy có ở đây thì em con không chết”. Cuộc đối thoại diễn ra ngắn ngủi thôi, nhưng đầy ý nghĩa, tập trung vào một vấn đề duy nhất: “Con có tin không”? Tin rằng Thầy là sự sống lại và là sự sống không?
Chúng ta có tin không? Chúng ta dám tuyên xưng như cô Matta không: “Thưa Thầy, con tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến trong thế gian”. Cuộc sống của chúng ta có thể hiện được niềm tin như thế không? Hay chúng ta nói tin mà lòng chúng ta không mấy xác tín? Thánh Phaolô cũng tin như chúng ta, đến nỗi “đối với Ngài, sống là Chúa Kitô”.
Matta trở về nhà báo tin cho Maria: “Kìa Thầy đến và gọi em”. Maria vui mừng chạy ngay vì cô cùng mấy chị em hàng xóm đang khóc. Gặp Thầy, Maria chỉ nói được một lời y như chị Matta: “Nếu Thầy ở đây thì em con không chết!” Cô òa lên khóc. Các chị em đi theo cô cũng khóc. Chúa Giêsu, đứng trước sự bùng nổ của niềm đau cũng không cầm được nước mắt. Những giọt nước mắt hiếm hoi của Thầy! Thầy khóc vì thấy Maria tiều tụy thảm thương. Ngài biết nỗi đau của Maria, nàng phải hy sinh vì vinh quang của Thiên Chúa. Ngài đã đòi hỏi sự hy sinh đó. Maria, cô con gái liếng thoáng và trầm tư đã từng ngồi dưới chân Ngài để nghe lời Ngài giảng dạy, hôm nay chỉ là hiện thân của đau khổ.
Chúa Giêsu đến trước mộ của Ladarô. Ngài khóc. Người Do Thái ngạc nhiên và cho rằng Ngài thương Ladarô đặc biệt, nhưng Ngài không chỉ khóc vì Ladarô, Ngài nhìn xa hơn. Ngài nhìn thấy Ladarô là hiện thân của một nhân loại đang tan rữa trong tội ác. Ngài khóc cho một nhân loại đang đi dần đến vực thẳm hư mất. Ngài đến là để vực dậy một nhân loại đã băng hoại trong ách nô lệ tội lỗi.
Sau giây phút mềm lòng, thái độ Chúa Giêsu thay đổi hẳn. Ngài trở nên hiện thân của quyền uy, một thứ quyền uy lạ lùng sẽ làm mọi người kinh hãi, đã làm cho bão tố im lặng, đã vực dậy chàng thanh niên con bà góa thành Na-in đã chết. Ngài ra lệnh: “Đem phiến đá này đi”. Chị Matta hoảng hốt can thiệp: “Thưa Thầy, nặng mùi rồi vì đã bốn ngày rồi”. Ngài đáp với một giọng uy quyền rõ rệt: “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng, nếu chị tin, chị sẽ thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?” Sau khi cầu nguyện, Ngài ra lệnh: “Ladarô, ra đây!” Người chết liền ra, chân tay còn quấn vải…
Chúng ta làm sao hiểu được niềm vui của chị em bà Matta! Chúng ta làm sao biết được phản ứng của những người chứng kiến dấu lạ! Tất cả đau khổ, buồn sầu biến tan trong niềm vui phục sinh. Không thể nào tưởng tượng được. Một người chết đã bốn ngày, giờ đây sống lại! Một việc vĩ đại chưa từng xảy ra. Chỉ cần một lời nói, mọi sự đã biến đổi. Những hy sinh của chị em Ladarô không vô ích.
Thánh Gioan tóm gọn trong một câu: “Tất cả những người đến thăm cô Maria và đã chứng kiến việc Đức Giêsu làm, có nhiều người đã tin vào Người. Đây là kết quả mà Chúa Giêsu nhắm tới khi để Ladarô chết: khơi lên đức tin của những người chung quanh.
Chúng ta tin không?
Chúng ta có tin rằng Chúa Giêsu là sự sống lại và là sự sống không? Chúng ta sẽ còn thấy một sự lạ cả thể hơn. Chính Chúa Giêsu sống lại vinh hiển. Cái chết và sự sống lại của Ladarô báo trước cái chết và sự phục sinh của Ngài. Ngài là sự sống và là sự sống thật. Ngài ban chính mạng sống của Ngài và Ngài có quyền lấy lại. Ngài đến trần gian là để chúng ta được sống vì chúng ta đã chết trong tội, được sinh ra trong tội. Chúa Giêsu là vị cứu tinh duy nhất của chúng ta.
Tin vào Ngài, chúng ta mới được sự sống mới. Thánh Phaolô luôn nói đến sự sống mới này.Muốn được sống đời đời, phải bám vào Đấng là sự sống lại và là sự sống, phải bỏ mình, vác thập giá. Chúng ta muốn được sống không? Hay cuộc sống hôm nay đã cuốn hút chúng ta làm cho chúng ta chỉ biết lo củng cố cuộc sống vật chất mà thôi?
Hôm nay, hãy đến với Đấng ban sự sống, Đấng ban nước hằng sống. Ngài đã đến với chúng ta qua tấm bánh nhỏ nơi bàn thờ, nhưng đó chính là Bánh Hằng Sống. Ăn lấy Chúa để đươc sống và được sống dồi dào. Trần gian chỉ là tro bụi. Hãy tìm Nước Thiên Chúa, và mọi sự khác sẽ được ban cho chúng ta.
32.Suy niệm của Lm. Gioakim Bùi Văn Ninh
Thời gian này chúng ta đi sâu vào Mùa Chay, và cũng trong thời gian này nhiều giáo xứ đã tổ chức Bí Tích Hòa Giải để nhiều người sám hối trở lại cùng Chúa, nhiều anh chị em dự tòng đang chuẩn bị tâm hồn đón nhận bí tích Thánh Tẩy. Tôi có tin nhận rằng Đức Giêsu Kitô đã chết và sống lại vì tôi không?
Các bài đọc hôm nay cho thấy sự xuyên suốt với chủ đề: Sự Sống Lại.
Bài đọc Cựu ước: Thiên Chúa cho dân Ngài sống lại.
Bài Tin Mừng: Đức Giêsu làm cho Ladarô sống lại.
Bài đọc Tân ước: Thánh Thần ban sự sống cho mọi xác phàm.
Qua phép lạ Chúa Giêsu đã làm Chúa muốn ban cho con người từ sự sống lại đến sự sống đời đời. Câu then chốt trong bài Tin mừng hôm nay là: “Phục sinh và sự sống chính là Ta! Ai tin vào Ta thì dầu chết cũng sẽ sống và mọi kẻ sống mà tin vào Ta sẽ không phải chết bao giờ” (c 25). Và để giúp người ta tin như thế, Chúa Giêsu đã cho Ladarô sống lại.
Bước vào đời sống rao giảng công khai, Chúa Giêsu đã không ngừng làm cho mọi người tin Người có sự sống đời đời đem đến cho người ta. Hôm nay sắp bước vào cuộc khổ nạn, Chúa càng khẳng định mạnh mẽ hơn để củng cố niềm tin của mọi người và nói lên ý nghĩa việc Người chấp nhận sự chết.
Sự sống thể xác:
Hầu hết ta lo lắng cho phần xác nhiều thời giờ hơn: ăn uống, tiền bạc, thuốc men, hưởng thụ… và cũng rất nhiều tội ta phạm vì quá lo cho sự sống thể xác.
Tin mừng Thánh Gioan kể lại hôm nay, bà Matta, bà Maria nhiều người Do thái thân cận cũng đã lo lắng, buồn phiền, thương tiếc trước cái chết thể xác của người thân là Ladarô cả Chúa Giêsu cũng thổn thức trong lòng ít nhất là 2 lần trước cái chết thể xác của Ladarô.
Ladarô được Chúa Giêsu cho sống lại, ông sống thêm một thời gian nữa rồi cũng phải chết như những người khác.
Ai cũng biết rằng sự sống thể xác con người gặp rất nhiều giới hạn và giới hạn cuối cùng là cái chết và chính Chúa Giêsu cũng chấp nhận cái giới hạn đó.
Sự sống thần linh:
Qua tiên tri Êdêkien Chúa phán: “Ta sẽ đặt thần khí của Ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được hồi sinh” (Ed 37, 14a).
Thánh Phaolô gởi thư cho tín hữu Rôma: Thánh Thần làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết sống lại trong anh em, thì cũng làm cho xác phàm hay chết của anh em được sự sống mới”.
Sự sống thần linh quan trọng hơn sự sống thể xác bởi sự sống này thuộc về Thiên Chúa.
Gợi ý áp dụng:
Ladarô được Chúa Giêsu cho sống lại để làm vinh danh Chúa, làm cho những người Do Thái, các Tông Đồ và cả tôi nữa tin rằng Chúa Giêsu đã được Thiên Chúa sai đến với nhân loại.
Ladarô sống lại giúp cho tôi xác tín vào niềm tin phục sinh của ngày mỗi người sẽ sống lại do quyền năng Thiên Chúa.
Kinh Tin Kính chúng ta tuyên xưng: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”, mà tôi không sống đúng với lời tuyên xưng niềm tin ấy và chưa dám tin vào Lời Chúa nói: “Ai dám liều bỏ mạng sống thì sẽ được sống đời đời”.
Mùa Chay giúp ta chuẩn bị chia sẻ sự sống đời đời với Đức Giêsu. Cuộc sống thần linh của ta có thể đã chết hay chưa sống dồi dào. Ta hãy kết hợp với Chúa Giêsu mà xin ơn Phục Sinh và tin chắc rằng ta sẽ được miễn là ta thực sự muốn mình Phục Sinh với Chúa.
Sau câu chuyện này Thượng Hội Đồng Do Thái đã quyết định giết Chúa Giêsu, như vậy Chúa đã chết để cho tôi được sống.
“Ai tin Ta sẽ không chết bao giờ” sau câu nói đó Chúa đã hỏi Matta: “con có tin như thế không”. Đó cũng chính là câu hỏi Chúa hỏi ta mỗi ngày và mỗi ngày ta sống như thế nào là câu trả lời đối với niềm tin vào Chúa Phục Sinh là sự sống đời đời.
Trong thánh lễ chúng ta luôn tuyên xưng: “Chúng con loan truyền Chúa chịu chết, và tuyên xưng Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến”, đó là lời nhắc nhở việc Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô.
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin Mừng Ga 11: 3-7.17.20-27.33-35: Lazarô đã chết, thế là Chúa Giêsu lên đường trở về Giuđêa, mặc dầu trước đó không lâu suýt nữa Chúa Giêsu đã bị ném đá…
Bêtania ở phía đông núi Ôliu, cách Giêrusalem 3 cây số. Đây là nhà của ba chị em Matta, Maria và Lazarô. Với Chúa Giêsu, Bêtania trở thành một nơi rất quen thuộc. Chúa nhiều lần đã qua lại nơi đây sau những ngày rao giảng mệt nhọc, nhất là sau khi cảm nếm sự cứng lòng của những người lãnh đạo Do Thái, khiến Người có cảm giác như bị thất bại và ruồng bỏ. Tình bạn giữa Chúa Giêsu và những thành viên trong gia đình Bêtania thật là thắm thiết, đến nỗi khi Lazarô đau nặng, hai chị em đã cho người báo tin cho Chúa: “Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng” (Ga 11,3).
Lazarô đã chết, thế là Chúa Giêsu lên đường trở về Giuđêa, mặc dầu trước đó không lâu suýt nữa Chúa Giêsu đã bị ném đá. Điều đó cho thấy Chúa Giêsu đã thương mến ba chị em như thế nào. Rồi qua diễn tiến câu chuyện chúng ta càng thấy rõ tâm tình của Chúa Giêsu dành cho gia đình này.
Chúng ta nghe tiếp câu chuyện: khi nghe tin Chúa Giêsu đến với gia đình, Matta đã đi đón Người: ”Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết”.
Sau đó bà về gọi Maria, em gái bà và nói với em rằng: “Thầy ở ngòai kia, Thầy gọi em”.
Maria đến gặp Chúa và cũng lặp lại lời của Matta:” Thưa Thầy, nếu Thầy ở đây thì em con không chết”. Khi thấy bà khóc và những người Do Thái bà cũng khóc, Chúa Giêsu thổn thức, xúc động và đã rơi lệ.
Một cảnh tượng thật cảm động. Một cảnh tượng cho thấy Chúa Giêsu thực là một con người. Một con người với tất cả những gì là tự nhiên nhất của nó.
Chính ở đây cho chúng ta thấy: Một Thiên Chúa đã phản ứng như một con người. Phải, chúng ta có một Thiên Chúa, một Thiên Chúa rất gần với con người. Một Thiên Chúa sống giữa con người. Một Thiên Chúa biết chia sẻ những mất mát lớn lao của những người thân trong gia đình. Người đã rơi lệ.
Một Thiên Chúa biết rung cảm với một gia đình mà ở đó chỉ có ba chị em. Hai người chị và một đứa em trai. Bây giờ đứa em trai đã chết. Quả thật, một sự mất mát vô cùng lớn đối với hai người chị này.
Và làm sao an ủi được hai chị em này. Thế là Chúa đã khóc. Chúa đã rơi lệ. Những giọt nước mắt rơi xuống. Những giọt nước mắt của một con người, nhưng cũng là một Thiên Chúa.
Tất cả đều hé mở cho chúng ta một điều vô cùng quan trọng: Không có một tôn giáo nào lại có một vị thần minh ở với con người như Chúa Giêsu ở với chúng ta. Phải, một Thiên Chúa đã đến ở với con cái loài người. Và vị Thiên Chúa đó đã cảm nhận được những nỗi đau thương, những nỗi thống khổ cũng như những mất mát của con người.
Và một phép lạ đã xảy ra: Lazarô đã sống lại.
Sự sống lại của Lazarô muốn nói với chúng ta điều gì?
Dĩ nhiên sự sống lại của Lazrô nói lên quyền năng của Chúa Giêsu, nhưng đồng thời cũng hé mở cho chúng ta về cuộc sống mai hậu.
Trong chúng ta không có ai có kinh nghiệm về sự sống lại, nhưng mấy năm gần đây, một số bác sĩ người Đức và Mỹ đã chú ý đến hiện tượng mà họ gọi là “kinh nghiệm cận tử” (near death experience): nhiều người vì một tai nạn hay vì một lý do gì đó làm họ ngất đi trong một thời gian khá lâu. Về mặt thể lý, coi như họ đã chết, nhưng sau đó họ sống lại.
Các bác sĩ đã phỏng vấn 1.370 trường hợp. Trong những điều họ thuật lại, có những điểm chung sau đây:
– Họ không còn sợ chết nữa.
– Cuộc sống ở “cõi bên kia” hạnh phúc hơn cuộc sống ở đời này.
– Họ không còn ham muốn kiếm tiền bạc, danh vọng và lạc thú nữa.
Điều duy nhất mà họ quan tâm là sống yêu thương, quảng đại, phục vụ mọi người.[1]
Kinh nghiệm của những người cận tử là họ không còn sợ chết nữa, nhưng ai trong chúng ta vẫn sợ hãi khi cái chết đến với chúng ta.
Một câu chuyện kể rằng:
Có người kia rất giầu sang phú qúi. Một hôm, ông tìm đến hang đá của vị ẩn tu nổi tiếng là thánh thiện và được đặc ân có đường dây liên hệ trực tiếp với Chúa. Người phú hộ xin vị ẩn tu cầu nguyện cho mình và hỏi Chúa xem sau khi chết ông có được vào thiên đàng hay không.
Lời thỉnh xin của người phú hộ xem ra hơi khác thường, nhưng vì người ấy cứ nài nỉ, nên vị ẩn tu chấp nhận sẽ cầu nguyện với Chúa cho ông, với điều kiện là cho thêm ít hôm để cầu nguyện với Chúa.
Một tuần lễ sau, nhà phú hộ trở lại với vị ẩn tu để được nghe lời Chúa muốn nói với ông. Vị ẩn tu nói:
– Tôi đã được Chúa cho biết điều ông mong ước cầu xin. Nhưng có một tin vui và một tin buồn, vậy ông muốn nghe điều nào trước? Tin vui hay tin buồn?
Nhà phú hộ phân vân suy nghĩ một lúc. Sau đó chọn xin cho biết tin vui trước.
Vị ẩn tu đáp:
– Tin vui là ông sẽ được rỗi linh hồn và sẽ được lên thiên đàng.
Nghe vậy, nhà phú hộ vui mừng thích chí lắm và tự nhủ: ”Ngoài tin vui mừng lớn lao này, trên đời này còn gì phải là tin buồn nữa”.
Như bị tính tò mò thôi thúc, nhà phú hộ hỏi thêm cho biết:
– Tin buồn là gì?
Vị ẩn tu đáp: Có lẽ tin buồn mà ông không muốn nghe nói tới, đó là ông sẽ phải chết ngay hôm nay.[2]
Bình thường thì ai cũng sợ chết, nhưng với kinh nghiệm của những người cận tử đã cho chúng ta thấy:
– Họ không còn sợ chết nữa.
– Cuộc sống ở “cõi bên kia” hạnh phúc hơn cuộc sống ở đời này.
– Họ không còn ham muốn kiếm tiền bạc, danh vọng và lạc thú nữa.
Điều duy nhất mà họ quan tâm là sống yêu thương, quảng đại, phục vụ mọi người Những điều nghiên cứu trên đây thật là một điều quí giá cho chúng ta. Nếu ai trên trần thế này cũng sống như kinh nghiệm của những người “cận tử” thì chúng ta thấy quả là thiên đàng đã xuất hiện ngay trên trần gian này rồi. Amen.
————————
[1] Willie Hoffsuemmer
[2] R. Veritas, Ánh sáng thế gian, trg. 151
34.Lưỡi hái hay chìa khóa vàng? – R. Veritas.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Thánh Charles Borrômê sống ở Italia trên 400 năm trước đây (1538-1584). Khi còn trẻ, Borrômê đầy những tước vị, danh vọng. Nhưng một lúc Borrômê đã nhận ra ngày nào đó, Ngài sẽ phải bỏ tất cả. Ngài muốn ghi khắc điều đó, nên nhờ một họa sĩ nổi tiếng vẽ bức bích họa trong tư thất để diễn tả cái chết. Bức họa hoàn thành: họa sĩ trình bày thần chết theo lối cổ điển: một bộ xương người nắm chặt lưỡi hái trong tay.
Borrômê ngạc nhiên: “Tại sao họa sĩ hình dung cái chết bằng chiếc lưỡi hái?”
Họa sĩ đáp: “Vì thần chết cắt hái mọi cuộc sống. Cái chết hủy hoại mọi cuộc đời.”
“Đồng ý”, Borrômê nói, “nhưng thần chết cũng mở cửa Nước Trời nữa chứ. Cái chết là cửa ngõ vào đời sống tốt đẹp hơn. Vì thế, tôi đề nghị họa sĩ xóa chiếc lưỡi hái đi và đặt vào tay thần chết chiếc chìa khóa vàng.”
Phải, Chúa Kitô đã chết và đã sống lại. Thập giá là chìa khóa Nước Trời. Thần chết đã buông lưỡi hái và cầm lấy chiếc chìa khóa vàng. Cửa Trời đã mở ra cho con người vào Nhà Cha.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Tôi là sự sống lại và là sự sống”. Lời tuyên bố của Chúa Giêsu trước khi làm cho Lagiarô sống lại là một trong những lời “lạ tai” nhất đối với người thời đại cũng như bao người ngoài Thiên Chúa giáo và những người không tin ngày nay. Nhưng đối với chúng ta, lời tuyên bố đó chính là nền tảng và hy vọng của cuộc đời.
Chúa Giêsu tuyên bố: “Tôi là sự sống. Ai đang sống mà tin tôi sẽ không bao giờ chết”. Chúa không nói đùa. Chúa không thể đùa với sự chết, vì nó hoàn toàn trái nghịch với Ngài. Là sự sống và đến để đem lại sự sống, Chúa không thể muốn sự chết cho con người. Phép lạ cho ông Lagiarô sống lại làm chứng rằng Ngài có quyền ban sự sống. Không phải sự sống như đám đông bao quanh Ngài thầm nghĩ – sống một thời gian rồi chết – cũng không phải sống lại ngày tận thế mà thôi, như Matta tin tưởng, mà là sống ngay bây giờ và sống đời đời, như Ngài đã nói: “Ai nghe lời Tôi và tin vào Đấng đã sai Tôi thì được sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng được từ cõi chết mà qua cõi sống” (Ga 5,24).
Vậy là có một sự sống khác. Có một sự sống thật. Sự sống ấy đã bắt đầu từ bí tích Rửa Tội và tiếp tục mãi đến đời đời. Sự sống thật này không mất đi khi con người chết, nhưng chỉ mất đi bởi tội lỗi (Ga 8,21). Tội lỗi mới là cái chết thật. Và ngược lại, cái mà chúng ta coi là sống chưa hẳn là sống.
Chỉ khi nào sống bằng chính sự sống của Chúa thông ban cho, lúc đó mới là sống thật và bảo đảm sống đời đời ngan qua cái mà chúng ta gọi là chết.
Thánh Phaolô, trong bài đọc 2 hôm nay (Rm 8,8-11) đã nói đến tình trạng những người “sống mà như chết” và “chết mà vẫn sống” đó: “Ai sống theo xác thịt, tội lỗi, thì dù có sống cũng như chết; ngược lại, ai sống theo Thánh Thần thì dù có chết cũng vẫn sống; hơn nữa, một ngày kia, Đấng đã cho Đức Kitô phục sinh cũng sẽ cho thân xác của những kẻ sống theo Thánh Thần được sống lại”.
Thưa anh chị em,
Một người nhắm mắt xuôi tay từ giã cõi đời này được coi là chết. Nhưng nhiều người đang sống vẫn tự coi mình đã chết. Vì sống mà không có hy vọng, sống không tình thương, sống mà bị đời bạc đãi, phản bội, sống không ra con người, và nhất là sống trong tội ác. Sống như vậy, con người không cần đợi đến chết mới là chết. Chúng ta khóc thương người chết, nhưng biết đâu người sống lại chẳng đáng khóc thương hơn?
Bất cứ ai đã thoát khỏi tội lỗi và sống trong ân sủng thì đang sống trong sự sống đời đời rồi. Sự chết thể xác không làm gián đoạn được sự sống thân thiết với Thiên Chúa trong Nước Trời. Sự sống lại ngày tận thế, sự sống vinh quang đời sau đã bắt đầu ở hiện tại như cây trái đã bắt đầu trong hạt giống.
Từ Lời Chúa hôm nay, chúng ta mới có được một cái nhìn lạc quan hơn về thân phận con người chúng ta. Là tội nhận, là loài người phải chết, nhưng chúng ta đã được Con Thiên Chúa xuống thế làm người mạc khải tình yêu thương của Thiên Chúa cho chúng ta và Ngài đã thực hiện công việc cứu chuộc của Thiên Chúa giữa chúng ta và cho chúng ta. Cuối cùng, bằng chính cái chết và cuộc Phục Sinh của Ngài, Ngài đã giải thoát chúng ta khỏi chết đời đời và cho chúng ta được tham dự vào sự sống bất diệt của Thiên Chúa.
Như thế, đối với chúng ta, những người đã tin nhận Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế và đang cố gắng sống Lời Chúa dạy, thì sống hay chết, không thành vấn đề, mà chỉ có một thực tại duy nhất là sống, sống trong Chúa, sống cho Chúa, sống thuộc về Chúa. Cái chết chẳng qua chỉ là bước vượt qua từ đời sống trần gian đến đời sống vinh quang vĩnh hằng với Chúa Cha trên trời. Chính vì có sự liên tục giữa hai cuộc sống mà đời sống trần gian này mới có ý nghĩa và mới quan trọng, đòi hỏi mỗi người chúng ta phải sống làm sao cho cuộc sống trần gian này là khởi điểm, là bảo đảm, là dấu chứng cho cuộc sống mai sau.
Anh chị em thân mến,
Trước khi bước vào Tuần Thánh là đỉnh cao của mầu nhiệm Khổ Nạn Phục Sinh, Giáo Hội đọc bài Tin Mừng hôm này nhằm kêu gọi chúng ta tin vào Đấng là sự sống lại và là sự sống. Niềm tin ấy thắp sáng lên trong chúng ta một hy vọng mà trần gian này dù đen tối đến đâu cũng không thể nào dập tắt được. Đức tin không chuẩn chước cho chúng ta khỏi những tang chế đau thương, những chia ly mất mát hay sự sợ hãi khi đối diện với cái chết. Nhưng đức tin là chấp nhận hiểu và sống các biến cố hiện tại dưới ánh sáng của sự sống siêu việt mà Đức Giêsu Kitô, Đấng là nguồn cội sự sống đã loan báo.
“Tôi là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Tôi sẽ không chết bao giờ”. “Matta, con có tin điều đó không?”, Chúa Giêsu hỏi.
“Vâng, thưa Thầy, con tin”. Matta nói lên niềm tin của chị cũng là niềm xác tín của chúng ta: “Con tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian”.
Chớ gì khi tuyên xưng: “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau”, trong kinh Tin Kính chúng ta sắp đọc, niềm tin ấy không chỉ được phát biểu cách máy móc ngoài môi miệng, nhưng sẽ trở nên sức mạnh giúp chúng ta đứng vững trước mọi đau khổ thử thách, ngay cả cái chết. Đồng thời niềm tin ấy thúc đẩy chúng ta đến với anh em, để góp phần mang lại sự sống dồi dào cho anh em.
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Khoa Toàn)
Người em trai báo tin ông cụ thân sinh tôi bị té nặng và đang nằm trong phòng cấp cứu của bệnh viện tỉnh Khánh Hoà, ngay trước giờ tôi chuẩn bị bài nói chuyện với các em thuộc Liên Đoàn Thanh Niên Công Giáo hôm Đại Hội cuối tháng hai vừa qua. Tiêu đề bài nói chuyện hôm ấy là “Mục Đích Đời Sống”. Và mục đích của đời sống công giáo chân chính là gì nếu không phải là sống chết cho nhau, nhất là cho những người đã dày công dưỡng nuôi mình khôn lớn…
Và tôi đã đáp chuyến bay sớm nhất về lại Sàigòn. Rồi thuê một cuốc xe chạy ngày đêm ra Nha Trang. Vào ngay bệnh viện, ông cụ nhận ra tôi ngay -tuy vẫn còn mê man lắm- và ra hiệu muốn nắm lấy tay tôi. Tay đứa con tha phương quyện trong đôi bàn gầy guộc chai cứng theo ngày tháng của người cha già một đời lam lũ hy sinh vì đức tin và vì lý tưởng. Rồi đôi mắt nhoà đẫm lệ, ông cụ hôn tay tôi -như một nụ hôn giả từ vĩnh biệt…
Tôi đã chuẩn bị tinh thần ngay từ khi đuợc báo tin. Nhưng sáng hôm sau, vào lại phòng cấp cứu, ông cụ tỉnh hơn đôi chút. Rồi lạ lùng thay, ông cụ thều thào nói chuyện, kể cho tôi nghe là ông cụ đã đi đến một chỗ nào đó cao xa:. “Ba thấy toàn một màu trắng. Rồi thấy rất nhiều bà Sơ. Nhưng chẳng thấy ông cha nào cả!” Tôi phá lên cười: “Con biết tại sao rồi!”
Ai cũng cừời theo, trừ ông cụ. Và hình như vẫn còn mãi mê về một chỗ cao xa trắng xoá tinh tuyền nào đó, ông cụ ra hiệu cho tôi ghé tai gần: “Ba biết Ba chưa chết!” Tôi liền trấn an, vững tin như Martha về Lagiarô: “Không! Ba không chết đâu!” Phải cấy niềm tin và sức mạnh cho ông cụ, như Chúa Giêsu đã cấy cho Martha hai ngàn năm trước, tôi nhủ lòng mình.
Một điều tôi cảm xúc nhất về câu chuyện Lagiarô, là khi Chúa Giêsu nói cùng Martha: “Ta Là Sự Sống”. Sự Sống. Ngay chính giữa cảnh chết chóc khóc lóc tang thương, Chúa đến mang sự sống; ngay giữa lúc khóc than, Chúa mang đến nụ cười. “Ta Là Sự Sống”: Ta Là. Không Ta Đã Là hoặc Ta Sẽ Là. Ta Là: Hiện Tại; Bây Giờ. Vì với Chúa không thể có quá khứ và chẳng bao giờ có tương lai. Không thể chết, nếu tin vào Sự Sống và Sự Sống Lại. Không thể chết, vì chết chỉ là một phần của đời sống trường sinh miên viễn…
Sắp bước vào Tuần Chay Thánh, và một lần nữa, câu chuyện người chết sống lại Lagiarô là một lời cảnh báo vừa nghiêm khắc vừa xúc động: là không thể có sự sống đời sau nếu không trọn vẹn và thành tín sống đời sống đời này. Không thể có tương lai hằng cữu nếu hiện tại chỉ là một con số không rỗng toác! “Ta Là Sự Sống”: nếu chúng ta đợi chờ sống đời sống trường sinh chỉ sau khi đã nhắm mắt xuôi tay thì chắc chắn đó là điều vô cùng ảo tưởng…
Là con người như bao con người, Chúa xúc động trước cái chết của Lagiarô: Người rơi lệ. Nhưng Người đã không để cho những bức xúc nhân tính lu mờ đi bản chất thiên tính của mình, như Lời Kinh Tiền Tụng: “Là người thật, Chía Kitô đã khóc Lagiarô, bạn hữu Người; là Thiên Chúa hằng sống, Người đã truyền cho Lagiarô sống lại ra khỏi mồ.”
Nói một cách khác, giữa những đớn đau mất mát về vật chất xác thịt kia, điều tưởng chừng như phải khóc than đau buồn là khi niềm tin vào Sự Sống và Sự Sống Lại đã phai nhoà mai một. Chúng ta phải khóc, phải buồn, phải xót thương khi người thân không còn nữa. Nhưng những giọt nuớc mắt và nỗi buồn kia phải quyện trong một niềm tin sắt đá là Sự Sống và Sự Sống Lại đã tiêu diệt sự chết 2000 năm trước đây trên đồi Golgotha cô liêu hoang vắng.
Điều cảm xúc và đáng suy nghĩ khác là khi Chúa Giêsu phán: “Lagiaro! Hãy ra đây!” Đó là một lệnh truyền! Hãy ra khỏi sự chết và hãy bước vào -mạnh dạn bước vào- Sự Sống.
Và vì thế, khi tâm trí dày đặc những ý tưởng sợ hãi, lo âu, buồn phiền, thất vọng; khi phải diện đối diện với những dục vọng vật chất xác thịt thấp hèn; khi phải vật lộn với những đam mê bất chính, những giả hình hèn kém vong nô, hãy nghe lệnh Chúa phán truyền với chính mình: “Bạn! Hãy ra đây!”
Và chúng ta phải nghe lệnh truyền ấy. Nghe và bước ra khỏi những hang mộ tối tăm kia, như Lagiarô đã nghe và đã bước ra từ mộ chết đời mình. Hãy đừng chần chừ! Hãy không do dự. Hãy mạnh dạn bước ra vì cuối đuờng hầm, Chúa Giêsu -Sự Sống và Sự Sống Lại- đang giang rộng tay chào đón.
Khi chúng ta khiêm cung nhận biết mình là phận hèn vật mọn, Thiên Chúa trong tâm hồn chúng ta quyền phép đến vô cùng…
36.“Ta là sự phục sinh của ngươi” – André Sève.
Trong buổi nói chuyện với Matta, Chúa Giêsu đòi hỏi có một tiếng khẳng định quan hệ giữa chúng ta với Ngài:
– Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dầu có chết cũng sẽ sống; hễ ai sống và tin Ta sẽ không bao giờ chết. Con có tin như vậy không?
Dĩ nhiên chúng ta nhanh chóng trả lời “Có! Ngài là sự sống”. Nhưng sự sống nào? Chúng ta là những người đang sống. Ngài thêm gì vào sự sống của chúng ta? Thực ra, chúng ta là những sinh vật nhỏ bé bị cái chết rình rập. Chúa Giêsu muốn làm chúng ta trở thành những kẻ chiến thắng sự chết.
Trong trần thuật dài và bi thảm nói về sự sống lại của Lagiarô, ba cái chết được gợi ra và xen lẫn vào nhau: cái chết của Lagiarô, cái chết của Chúa Giêsu và cái chết của chúng ta. Trong khi đi tới nhà Lagiarô, Chúa Giêsu biết rằng cái chết cũng đang đe dọa Ngài: “Người Do thái muốn ném đá Thầy, sao Thầy còn quay trở lại đó nữa?”, các môn đệ nói với Ngài như thế.
Khi thấy Maria quá buồn khổ, Chúa Giêsu cũng bối rối cảm động. Ngài cảm thấy sâu sắc sự tuyệt vọng của thân phận con người, Ngài khóc bạn, Ngài thông hiệp với nỗi khổ của các chị của bạn và nghĩ đến cái chết của mình đang đến gần. Chưa bao giờ Ngài chìm đắm trong nỗi buồn khổ của chúng ta như thế. Những người chung quanh nói: “Kìa, Ngài yêu bạn mình biết bao!”
Nhưng họ ngạc nhiên, cả chúng ta nữa: “Chẳng phải Đấng quyền năng đã nói: Ta đến để mang lại sự sống cho các ngươi. Ta là sự sống lại và là sự sống?” hay sao?
Không phải Chúa Giêsu muốn làm cho chúng ta sống mạnh mẽ ở bên ngoài những khó nhọc, những thảm kịch của chúng ta và thậm chí cái chết nữa. Ở tận thâm sâu sự tuyệt vọng mà Chúa Giêsu chịu đựng cùng với chúng ta, Ngài sẽ cho chúng ta một dấu hiệu hùng hồn về cuộc sống vinh quang. Ngài đứng dậy và nói lớn lên: “Hỡi Lagiarô, hãy đi ra!”
Như mọi khi, đứng trước một dấu hiệu, phải thấy rõ rằng đó là một dấu hiệu, nghĩa là một lời mời gọi đi xa hơn nữa. Sự sống lại của Lagiarô là sự chiến thắng cái chết, nhưng là một sự chiến thắng tạm thời. Thế đã là nhiều rồi, một sự hy vọng điên rồ có thể nổi lên, cái chết không còn là phiến đá đè bẹp tất cả. Chúng ta đứng dậy để nghe mặc khải tối hậu vượt lên trên sự sống lại đơn giản:
– Ta là sự phục sinh.
Đây là một điều khác hẳn! Chúa Giêsu không sống lại như Lagiarô. Sự sống lại của Chúa Giêsu là sự chiến thắng hoàn toàn trên sự chết, bước vào cuộc sống “vĩnh cửu”, không chỉ theo nghĩa vô tận, mà còn có nghĩa là một cuộc sống khác. Cuộc sống này chắc chắn vẫn là của con người, tuy vậy với những tính chất và chiều kích khác biệt.
Chúa Giêsu ban tặng cho chúng ta cuộc sống khác này. Ban tặng ngay tức khắc! Do đó mới có lời này: “Ta đến để chúng được sống”. Và tất cả điều khẳng định lạ lùng này được dùng ở thì hiện tại: “Ai nghe Ta thì được sống đời đời, người đó sẽ vượt qua cái chết mà đến sự sống” (5,24). Chúa Giêsu đã là “sự sống lại” cho Ngài và sẽ là “sự sống lại” cho chúng ta. Đây là lời tuyên xưng đức tin khó khăn nhưng chúng ta vẫn làm. Điều chúng ta ít hiểu đó là Chúa Giêsu là sự phục sinh như thế nào.
Ngài là sự phục sinh bởi vì Ngài có thể thông truyền cuộc sống phục sinh của Ngài, cuộc sống “thuộc về sự sống lại” của Ngài cho chúng ta. Khi chúng ta uống nước ở nguồn mạch này, chúng ta bắt đầu hiện hữu như thể chúng ta sẽ hiện hữu đời đời, trong khi hiệp thông tình yêu với Thiên Chúa và với anh em.
Đây không phải là những điều dễ nhận thấy được. Chúng ta tin rằng Mẹ Maria và các thánh đã trải qua một cuộc sống yêu đương trong sáng ở dưới thế này để đi đến sự viên mãn vĩnh cửu. Nhưng chúng ta, chúng ta có lẽ sẽ sống cho đến cuối đời một cuộc sống pha lẫn cái chết, bởi vì chúng ta không thông hiệp với cuộc sống của Chúa Kitô cho đủ.
Tôi nhớ lại một nữ tu bị bệnh ung thư đã chăm chú nghe tôi nói về tác động hiện tại có thể có của sự sống lại. tôi nói với chị: mỗi lần sự can đảm và tình yêu chiến thắng tội lỗi di căn nơi chúng ta, thì chính sức mạnh của sự phục sinh của Chúa Kitô đã giành lấy con người phục sinh từ cái chết rồi vậy.
Chúng ta thường nghe nói:
– Chết là hết.
Những người chủ trương như thế là những kẻ mang nặng đầu óc vật chất, không tin ở đời sau, không hy vọng gì ở một tương lai vĩnh cửu. Còn chúng ta thì khác. Với cái chết, thì một cuộc sống khác được khởi đầu. Có thể là hạnh phúc mãi mãi, nhưng cũng có thể là khổ đau đời đời, tùy theo việc lành dữ chúng ta đã làm khi còn sống ở trần gian này.
Đây là một vấn đề đòi hỏi chúng ta phải tin, như đoạn Phúc âm sáng hôm nay đã diễn tả. Thực vậy, Martha và Maria, đã sai người đến báo tin cho Chúa Giêsu hay:
– Lagiarô, bạn thân Chúa đang đau nặng.
Thế nhưng cơn bệnh này lại được xử dụng để làm sáng danh Thiên Chúa. Cho dù Lagiarô đã chết nhưng Chúa Giêsu vẫn nói:
– Ta mừng vì không có mặt ở đó để các con được tin.
Chúa Giêsu và các môn đệ lên đường tới Bêtania. Martha đón Ngài và biểu lộ niềm tin tưởng tuyệt đối của mình:
– Lạy Thầy, nếu Thày có mặt ở đây thì em con không chết. Nhưng bây giờ vẫn còn kịp bởi vì con biết rằng: Tất cả những gì Thầy kêu xin thì Thiên Chúa sẽ ban cho Thày.
Lagiarô em nàng đã chết nhưng nàng tin tưởng chắc chắn Ngài có thể làm cho nó được sống bởi vì Ngài là Đấng quyền năng. Chúa Giêsu đã trả lời cho Martha:
– Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ sống, và bất kỳ ai sống và Tin Ta thì sẽ không phải chết bao giờ.
Với lời xác quyết vừa trang trọng, lại vừa lạ lùng này, Chúa Giêsu đòi hỏi mỗi người chúng ta phải xác tín như lời Ngài hỏi Martha:
– Con có tin điều đó không?
Và Martha đã tuyên xưng:
– Lạy Thày con tin, Thày là Đức Kitô Con Thiên Chúa, là Đấng phải đến trong thế gian.
Nàng biết Chúa Giêsu là Đấng quyền năng, Ngài có thể truyền lệnh cho sự chết cũng như Ngài đã truyền lệnh cho sóng nước. Và Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ, Ngài truyền cho Lagiarô sống lại bước ra khỏi mồ, sau khi đã cầu nguyện và cảm tạ Chúa Cha. Trước sự thật hiển nhiên này, một số người đã tin theo Chúa, thế nhưng một số người khác, nhất là bọn Biệt phái và các thượng tế lại chống đối Ngài một cách quyết liệt hơn nữa. Họ hội họp với nhau và nhất trí kết án tử hình cho Chúa.
Cùng một sự kiện mà có người thì chấp nhận, nhưng có kẻ lại từ khước. Đức tin, dĩ nhiên là một ơn huệ của Thiên Chúa, thế nhưng nó không phải là một kho tàng được trao ban một lần thay cho tất cả vì sẽ không bao giờ bị mất đi. Trái lại, đức tin giống như một bông hoa quí nhưng lại dễ tàn và dễ héo, nếu chúng ta không biết chăm sóc cho nó.
Chúng ta nói nhiều về đức tin, nhưng thử hỏi được mấy người đã thực sự vun trồng cho đức tin trong cõi lòng của mình. Đức tin không phải là một món ăn được nấu chín và dọn sẵn cho chúng ta, nhưng là một cây được trồng nơi thửa đất là tâm hồn chúng ta.
Bởi đó, hãy vun trồng và chăm sóc cho cây đức tin của mình được đâm rễ sâu, vì rễ có sâu thì cây đức tin mới đứng vững được trước những phong ba và bão táp.
Người ta khóc vì nhiều nguyên do. Vui quá cũng khóc; buồn quá cũng khóc; đau khổ hay mất mát quá lớn cũng làm người ta khóc. Khóc là một cảm xúc tự nhiên của con người.
Chúa Giêsu trong Tin mừng hôm nay Ngài cũng khóc “Chúa Giêsu rơi lệ”. Nhưng tại sao Ngài khóc? Có phải vì Chúa nhớ thương một người bạn thân đã ra đi vĩnh viễn không? Chắc không phải thế đâu, vì Ngài biết việc Ngài sắp làm cho Lazarô là cho anh được sống lại. Vậy có phải Ngài khóc vì thấy có nhiều người khóc thương anh ấy không? Chắc cũng không phải thế, vì Chúa Giêsu không bao giờ chạy theo những tình cảm chóng qua của con người. Vậy tại sao Ngài khóc?
Thật ra, trước sự mất mát và đau buồn của tang gia và những người thân, Chúa Giêsu cũng xúc động. Đó cũng là cảm xúc tự nhiên của Con Thiên Chúa làm người. Nhưng nguyên do sâu xa hơn khiến Ngài phải “rơi lệ ” và thổn thức là do:
1. Sự cứng lòng tin của người Dothái và niềm tin nửa vời của Mátta và Maria. Trước bao nhiêu việc Ngài làm, bao nhiêu lời Ngài nói mà dân chúng vẫn thờ ơ, nghi ngờ. Thái độ ấy có ngay ở những người thân tín nhất của Ngài. Chúa khóc vì thương cho họ, ví tội nghiệp cho họ. Ngài đã mở mắt cho họ nhưng họ vẫn còn mù tối vì thái độ không cộng tác và những thành kiến cố hủ nơi họ.. Ta cũng hãy nhớ lại , có lần Đức Giêsu cũng dừng chân lại trước của thành Giêrusalem và khóc thương thành: “Giêrusalem, Giêrusalem! Ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai đến cùng ngươi! Đã bao lần Ta muốn tập hợp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập hợp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu. Thì này, nhà các ngươi sẽ bị bỏ hoang mặc cho các ngươi” (Mt 23, 37-38). Đó là tấm lòng xót thương bao la của người cha, người mẹ cho con cái mình.
Có người nói rằng: Tại sao Thiên Chúa không hành động theo ý Ngài nếu Ngài thấy điều đó là tốt đẹp cho con người? Câu trả lời là vì Thiên Chúa không muốn biến chúng ta thành những cổ máy Robot. Thiên Chúa đã ban cho con người sự tự do và con người phải chịu trách nhiệm về việc sử dụng tự do của mình. Nếu con người dùng tự do của mình để nghe theo Thiên Chúa, để làm điều thiện theo lời Ngài dạy, thì con người sẽ tìm được hạnh phúc và sẽ mãi mãi sống trong tự do thật sự. Còn ngược lại, con người sẽ phải đau khổ, phải chết và bị trầm luân mãi mãi trong đau khổ.
Lời Chúa vẫn còn đó, vẫn âm vang mỗi ngày bên tai và trong lòng chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta có thái độ nào trước lời mời gọi của Chúa mà thôi.
2. Đức Giêsu khóc cũng vì Ngài nghĩ đến cái chết của Ngài sắp xảy đến. Cái chết của Lazarô là dấu hiệu tiên báo về cái chết của chính Đức Giêsu cũng như tiên báo sự chiến thắng tạm thời của Satan. Sự xúc động của Đức Giêsu ở đây cũng giống như tâm tình của Ngài trong cơn hấp hối tại vườn Cây Dầu (Ga 12, 27. 13, 21). Việc Đức Giêsu phục sinh cho Lazarô cho chúng ta thấy quyền năng của Ngài như Ngài đã nói: “Ta là sự sống lại và là sự sống”. Hãy vững tin vào Ngài.
Chúng ta cũng hãy nhìn xem về thái độ của Mát-ta và Maria. Họ tuyên xưng và tin rằng Đức Giêsu là sự sống và tin Ngài có quyền làm cho kẻ chết sống lại. Nhưng trong thực tế, họ vẫn nghi ngờ. Chúng ta có thể nói được điều đó là vì khi Đức Giêsu bảo “Hãy đẩy tảng đá” ở cửa mộ của Lazarô ra, thì Mátta thưa với Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy, đã nặng mùi rối vì đã 4 ngày”. Thế đấy, tuyên xưng niềm tin bằng tâm tình và bằng lời nói thì xem ra rất dễ. Nhưng đi vào thực tế, thì chúng ta lại rất hay nghi ngờ. Chúng ta cũng hãy xét lại mình xem, tâm tình của chúng ta khi tuyên xưng niềm tin vào Chúa có giống như Mát-ta không?
(Suy niệm của Br Philip-Minh Khả, CRM)
Trong ký ức chúng ta có lẽ không quên biến cố khủng bố ngày 11 tháng 9 tại Trung Tâm Mậu Dịch quốc tế tại New York năm vừa rồi. Hai tòa nhà cao 102 tầng đã sụp đổ sau hơn một tiếng đồng hồ bốc cháy bởi hai chiếc máy bay dân sự do đám khủng bố điều khiển đâm vào, mang theo vận mạng một lúc mấy ngàn người trong các tòa nhà đó. Cả nước Mỹ bàng hoàng và đau đớn trong biến cố này. Đứng trước biến cố này, trong sự bàng hoàng, thương tiếc, đau khổ và tuyệt vọng, niềm tin vào sự hiện diện và tình yêu của Thiên Chúa nơi nhiều người bị lung lay. Nhiều người đã phải thốt lên rằng Thiên Chúa đâu rồi? Tại sao Chúa không ngăn ngừa khỏi xảy ra sự dữ này?
Câu hỏi tương tự ở trên cũng được thấy trong Tin mừng Gioan hôm nay. Martha và Maria trong cơn đau khổ mất em là Lazarô, gặp Chúa Giêsu, hai chị em vừa khóc, vừa trách Chúa rằng Chúa ơi, Chúa ở đâu khi em con đang bệnh; nếu Chúa ở đây thì em con đâu có chết. Đây có lẽ là tâm lý chung của con người khi gặp sự đau khổ. Trong đêm tối mịt mù của khổ đau, niềm tin nơi Thiên Chúa của chúng ta bị lung lay. Chúng ta cảm thấy hoài nghi sự hiện diện và tình yêu Thiên Chúa cho chúng ta.
Tin mừng Gioan hôm nay cho chúng ta thấy trong Martha và Maria đang đau khổ, Chúa Giêsu đến bên cạnh họ. Thánh Gioan trình bày ở đây một Thiên Chúa không xa vời ở nơi đâu, nhưng rất gần gũi với con người. Chúa Giêsu mang đến cho họ niềm an ủi. Chúa Giêsu thông cảm nỗi đau khổ của họ. Trong tâm tình xót thương, Người mủi lòng và khóc thương. Và chính niềm tin vào Thiên Chúa nơi Martha và Maria bừng sáng lên khi họ cảm nhận Chúa Giêsu ở bên họ và đặt niềm tin tưởng, phó thác vào Người.
Với niềm tin vào Thiên Chúa, chúng ta tin rằng trên vạn nẻo đường của cuộc sống mỗi người, bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu trong mọi biến cố vui buồn của cuộc sống, Thiên Chúa luôn có mặt để hướng dẫn và nâng đỡ chúng ta. Trong an vui hạnh phúc, trong thất bại khổ đau, trong hân hoan hay đau buồn, trong mạnh khỏe hay bệnh tật, Thiên Chúa luôn bên cạnh ta để mời gọi ta tin tưởng vào tình yêu của Ngài. Thật ra không phải con người đi tìm kiếm Thiên Chúa cho bằng chính Ngài luôn theo đuổi, kiếm tìm và ở bên cạnh con người như trường hợp của chị em Martha, Maria và Lazarô. Chúa Giêsu hằng luôn để ý tới họ và trong cơn đau khổ nhất khi Lazarô chết, Chúa Giêsu đã tìm đến bên cạnh họ để an ủi.
Trong cuộc sống vật lộn với công ăn việc làm để tìm miếng cơm manh áo, với biết bao buồn vui xảy ra đến trong cuộc đời, với những cái chết vì bệnh ung thư hoặc bị tai nạn xe hơi hay vì một lý do không may nào xảy đến, chúng ta luôn luôn được mời gọi để nhìn lên trên các biến cố ấy trong tương quan với đời sống vĩnh cửu, với niềm tin tôn giáo. Đây là cách duy nhất để chúng ta nhận thức được ý nghĩa và giá trị đích thực của cuộc sống.
Biến cố khủng bố ngày 11 tháng 9 tại Trung Tâm Mậu Dịch quốc tế là một sự dữ, là đêm tối đức tin cho nhiều người. Tuy nhiên, qua biến cố này, niềm tin được bừng sáng nơi nhiều người. Nhiều người nhận xét rằng, người ta cầu nguyện với Thiên Chúa nhiều hơn. Nhiều người xưa nay có thái độ bàng quan tới mọi người, nay tỏ thái độ yêu thương, chia sẻ. Niềm tin bừng sáng! Trong câu chuyện Lazarô sống lại, Martha và Maria trong đau khổ đã nhận được tình Chúa Giêsu và đặt niềm tin tưởng, phó thác vào Ngài. Niềm tin bừng sáng! Còn mỗi người chúng ta, cái nhìn, thái độ và niềm tin chúng ta thế nào đối với Thiên Chúa trong các biến cố xảy ra trong đời chúng ta?
40.Gieo mầm sự sống – Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Tuần qua, trên báo có bài viết: “Đường đi của cái chết” nói về những đường dây ma túy từ Châu Phi và từ một số quốc gia đang đổ vào Việt Nam dưới rất nhiều hình thức. Một điều khó khăn cho những người có trách nhiệm đó là ma túy ngày nay rất đa dạng và rất mới, còn hành động của những kẻ gieo rắc cái chết trắng thì hết sức tinh vi và là một mạng lưới xuyên quốc gia. Những chất ma túy này hằng ngày đang gieo bao nhiêu sự chết chóc cho người Việt, gây nên một sự bạc nhược uể oải cho lớp trẻ, và ăn mòn tuổi trẻ của nhiều người. Bên cạnh những cái chết trắng còn có nhiều người đang gieo cái chết âm thầm cho người khác qua việc sản xuất thực phẩm không an toàn, hoặc gieo rắc những hình ảnh những lối hành xử giết chóc vào trong tâm hồn người khác qua phim ảnh bạo lực sách báo với lối sống thù hằn. Ở Việt Nam còn có cái chết mà các nơi khác rất ít có, đó là cái chết đường phố: những hung thần trên đường phố tại Việt Nam mỗi tháng cũng cướp đi sinh mạng của hàng ngàn người, mỗi năm hơn 10 ngàn người chết vì tai nạn giao thông, và cũng có từng đó người thương tật.
Thưa quý OBACE, xã hội và thế giới quanh ta dường như càng ngày càng được bao trùm bởi sự chết chóc, lo âu và sợ hãi như thế, thì Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng muốn cho con người được sống và sống hạnh phúc. Đức Giêsu chính là Đấng đã sống lại từ cõi chết và đem đến sự sống cho nhân loại. Câu chuyện Chúa Giêsu cho anh Lazarô được sống lại hôm nay muốn nói lên điều đó.
Cái chết là đau khổ tột cùng của con người, đau khổ cho cả người chết và người còn sống. Khi đối diện với cái chết con người lo âu sợ hãi, sợ hãi vì họ phải đối đầu với cái chết một mình, cảm thấy cô đơn không có ai đi cùng. Đối diện với cái chết người ta sợ hãi là vì người ta không biết bên kia cánh cửa sự chết điều gì sẽ xảy ra cho họ, và họ sẽ bị hủy diệt vĩnh viễn. Chính vì thế mà ai cũng muốn kéo dài sự sống. Bên cạnh đó cái chết còn để lại cho người sống một nỗi đau đớn mất mát vì phải vĩnh viễn chia tay với người thân yêu. Vì những lý do đó mà cái chết luôn là sự ám ảnh sợ hãi cho con người.
Trong cái nhìn đó, chúng ta mới thấy hoàn cảnh đau thương của gia đình Matta và Maria, họ chỉ có ba chị em, mà giờ đây mất đi người em út. Đọc câu chuyện chúng ta thấy cái chết của Lazarô đã làm cho tinh thần của hai người chị xuống dốc trầm trọng và đức tin của họ bị chao đảo và thử thách nặng nề. Trước đây, họ vẫn đón tiếp Chúa Giêsu như một vị Thầy quyền năng, và chắc chắn đã nhiều lần hai cô cũng chứng kiến việc Chúa làm phép lạ cho kẻ chết sống lại, tuy nhiên lần này khi Lazarô bị bệnh nặng, báo tin cho Thầy Giêsu, thì Thầy đã không đến ngay, vì thế hai cô rơi vào thất vọng, nên khi Đức Giêsu vừa đến thì cô Matta đã trách Chúa trong tuyệt vọng: Nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết.
Dù là trách Chúa, nhưng cô vẫn còn một chút hy vọng khi cô nói: Nhưng con biết bây giờ Thầy xin gì cùng Thiên Chúa, thì Người cũng sẽ ban cho Thầy. Chúa Giêsu đã không nỡ để cho hy vọng cuối cùng ở nơi cô bị vụt tắt nên Ngài đã nâng đỡ đức tin cho cô khi nói với cô: Em con sẽ sống lại. Tuy nhiên cô Matta vẫn chưa vượt qua được sự cản trở tự nhiên và sự suy nghĩ của con người, nên cô cũng chỉ nói lên niềm tin vào sự sống đời sau mà thôi, chứ cô không tin rằng Đức Giêsu có thể làm cho em cô sống lại ngay bây giờ, vì thế cô nói: Vâng con biết đến ngày tận thế thì em con sẽ sống lại.
Chúa Giêsu đã muốn cho cô Matta đi một bước xa hơn trong niềm tin vào quyền năng Thiên Chúa ở nơi Ngài, tin Ngài có thể làm được tất cả, nên Ngài mới giải thích cho Matta: Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào Thầy thì dù có chết cũng sẽ được sống, ai sống mà tin vào Thầy thì không bao giờ phải chết. Giải thích điều đó, Chúa Giêsu muốn cô Matta tuyên xưng niềm tin của mình khi Ngài hỏi cô: Con có tin như thế không? Lúc này cô Matta đã vâng phục hoàn toàn không cần phải giải thích thêm, cô đã tuyên xưng: Thưa Thầy có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian. Với lời tuyên xưng này, cô Matta đã tin nhận Đức Giêsu là Đấng Kitô, có nghĩa là Đấng được xức dầu, là Đấng Cứu Thế, và còn tuyên xưng Ngài là Con Thiên Chúa, có nghĩa là tuyên xưng Đức Giêsu là chính Thiên Chúa, Đấng có quyền năng của một vị Thiên Chúa.
Mặc dù hoàn toàn tin tưởng Đức Giêsu là Thiên Chúa quyền năng, nhưng cô Matta, chị của người chết vẫn cứ để cho sự chết ràng buộc mình, cho nên khi Chúa Giêsu ra lệnh cho mọi người khiêng tảng đá lấp cửa mộ ra, thì cô Matta đã can ngăn mọi người: Thưa Thầy, không thể được, vì đã bốn ngày rồi. Một lần nữa Đức Giêsu lại nâng đỡ đức tin cho cô Matta: Nếu chị tin, chị sẽ thấy vinh quang Thiên Chúa. Bằng một mệnh lệnh: Lazarô hãy ra đây, người chết liền bước ra khỏi mồ, trên người còn quấn những khăn liệm. Chứng kiến phép lạ này nhiều người đã tin vào Đức Giêsu.
Đức Giêsu chính là Thiên Chúa là Đấng ban sự sống cho nhân loại và vũ trụ, Ngài là Đấng đã mang lấy thân phận của con người đã chấp nhận cái chết và đã dùng quyền năng của Thiên Chúa mà chỗi dậy từ cõi chết để đem đến cho nhân loại sư sống, những ai tin Ngài và đón nhận Ngài thì đón nhận được sự sống Ngài ban tặng. Việc hồi sinh cho Lazarô là một minh chứng về quyền năng của Thiên Chúa, tuy nhiên Lazarô vẫn chỉ hồi sinh để sống lại cuộc sống cũ, còn những người tin vào Đức Giêsu, thì đón nhận được một sức sống mới hoàn toàn khác hẳn với cuộc sống cũ. Sức sống mới này là sức sống của Thần Khí của Thiên Chúa mà Đức Giêsu trao ban sau khi Người từ cõi chết sống lại.
Thần Khí sự sống mà Đức Giêsu ban tặng đã được tiên tri Ezekiel nhắc đến khi tiên báo rằng: Thiên Chúa phán: Ta sẽ mở cửa mồ cho các ngươi, Ta sẽ đặt Thần Khí của Ta vào trong các ngươi, và các ngươi sẽ được hồi sinh. Thánh Phaolô đã hiểu điều này, đã tin và đã nói cho cộng đoàn Rôma rằng: Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, Ngài cũng sẽ dùng Thần Khí của Ngài mà làm cho thân xác anh em được sự sống mới.
Thưa quý OBACE, chúng ta vẫn phải đối diện với cái chết về thể xác, nhưng đối với những người tin vào Đức Giêsu, thì cái chết không còn là nỗi sợ hãi kinh hoàng nữa, vì chúng ta tin vào lời Chúa hứa hôm nay: Ai tin vào Thầy thì dù có chết cũng sẽ được sống, và ai sống mà tin vào Thầy thì sẽ không phải chết nữa. Do đó với người Kitô hữu cái chết sẽ trở nên nhẹ nhàng, là ngưỡng cửa bước qua để chúng ta được vào hưởng sự sống đời đời với Thiên Chúa.
Tuy nhiên chúng ta không chỉ mong đợi sự sống đời đời mai sau, nhưng ngay hôm nay, nhờ được dìm vào dòng nước rửa tội, cùng dìm vào cái chết của Đức Giêsu Kitô, thì ngay hôm nay, lúc này, chúng ta đang đón nhận được sự sống Ngài trao ban. Sự sống ấy chính là Thánh Thần của Thiên Chúa đang hiện diện và hoạt động trong chúng ta. Như thế, theo thánh Phaolô, chúng ta không thể để mình sống theo con người cũ, không thể để mình buông theo lối sống của xác thịt và của thế gian, nhưng phải để cho Thánh Thần chi phối và dẫn dắt, và chỉ những ai để cho Thánh Thần dẫn dắt thì mới thuộc về Đức Kitô. Mỗi người chúng ta đã được lãnh nhận sức sống của Thánh Thần trong ngày rửa tội và được tăng cường mạnh mẽ trong ngày lãnh Bí tích Thêm Sức, tuy nhiên, nhiều người đã bỏ quên sự hiện diện của Thánh Thần, đã để cho mầm sống mới của Đức Kitô bị thui chột bởi cuộc sống bê tha lười biếng.
Một lần nữa lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tái khẳng định niềm tin vào Chúa Giêsu, để nhờ tin vào Ngài, chúng ta được lãnh nhận Thánh Thần là sự sống của Ngài, và được sống. Hãy đem sự sống của Đức Giêsu vào trong đời sống và trong gia đình của mình, hãy lắng nghe và vâng theo sự hướng dẫn của Thánh Thần, Chúa Thánh Thần sẽ soi dẫn chúng ta, giải gỡ những khó khăn trong cuộc sống, giúp chúng ta điều chỉnh lại nếp sống để cho gia đình mỗi ngày thêm hạnh phúc hơn. Hãy cùng nhau tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu là Thiên Chúa quyền năng, và dám phó thác cuộc sống và gia đình cho Ngài, Ngài sẽ canh tân đổi mới cuộc sống gia đình chúng ta.
Nhiều người ngày nay đang bị chôn vùi trong tội lỗi, trong cái tôi ích kỷ lười biếng và tự mãn của mình, nhiều người trẻ thì bị những dây băng là các thứ nghiện ngập đam mê trói buộc như games, internet, phim ảnh, sách báo xấu, ma túy, cờ bạc, cá độ,… khiến họ nằm lỳ trong tình trạng xa Chúa, nhiều bạn khác vì bị nhồi nhét bởi những tư tưởng vô thần, những phong trào chống phá bôi xấu Giáo Hội, nó như nấm mồ chôn chặt cuộc sống và suy nghĩ của họ. Hãy tin tưởng vào quyền năng của Đức Giêsu để lăn tảng đá xấu xa đó ra khỏi cuộc đời, hãy giúp nhiều bạn trẻ tháo cởi khỏi những sợi dây băng chết chóc ràng buộc đó, để giúp họ có thể đến với Đức Giêsu và đón nhận được Thần Khí sự sống của Ngài. Amen.
Tin cùng chuyên mục:
Các bài Suy niệm Lễ Đức Mẹ Mân Côi: Con Thiên Chúa xuống thế để ở với con người
Chúa nhật XXVI thường niên năm A: Đường lối của Thiên Chúa và của con người
Ngày 30/09: Thánh Giêrônimô, Linh mục – Tiến sĩ Hội Thánh
Thứ bảy tuân XXV thường niên: Phải vượt gian khổ mới hy vọng đạt được vinh quang