Bài đọc: Deut 8:2-3, 14b-16a; 1 Cor 10:16-17; Jn 6:51-59.
1/ Bài đọc I: 2 Anh em phải nhớ lại tất cả con đường mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, đã dẫn anh em đi suốt bốn mươi năm nay trong sa mạc, để bắt anh em phải cùng cực; như vậy Người thử thách anh em cho biết lòng dạ anh em, xem anh em có giữ các mệnh lệnh của Người hay không.
3 Người đã bắt anh em phải cùng cực, phải đói, rồi đã cho anh em ăn man-na là của ăn anh em chưa từng biết và cha ông anh em cũng chưa từng biết, ngõ hầu làm cho anh em nhận biết rằng người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời miệng ĐỨC CHÚA phán ra.
14 Anh em đừng kiêu ngạo mà quên ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, Đấng đã đưa anh em ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ.
15 Người đã dẫn anh em đi trong sa mạc mênh mông khủng khiếp, đầy rắn lửa và bọ cạp, trong miền đất khô cằn không giọt nước. Người đã khiến nước từ tảng đá hoa cương chảy ra cho anh em uống.
16 Trong sa mạc, Người đã cho anh em ăn man-na, thức ăn mà cha ông anh em chưa từng biết.
2/ Bài đọc II: 16 Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Kitô ư? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao?
17 Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể.
3/ Phúc Âm: 51 Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.”
52 Người Do-thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?”
53 Đức Giê-su nói với họ: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình.
54 Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết,
55 vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống.
56 Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy.
57 Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy.
58 Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.”
59 Đó là những điều Đức Giê-su đã nói khi giảng dạy trong hội đường, ở Ca-phác-na-um.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Ích lợi của việc lãnh nhận Mình và Máu Thánh Đức Kitô
Tuần trước, chúng ta đã cùng nhau tìm hiểu mầu nhiệm khó hiểu nhất trong Đạo Công Giáo, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi; tuần này, chúng ta cùng nhau học hỏi mầu nhiệm khó thứ hai, mầu nhiệm Mình và Máu Thánh Đức Kitô. Những người Do-thái đương thời với Chúa Giêsu hỏi nhau: “Làm sao ông này có thể lấy thịt ông cho chúng ta ăn được?” Có hiểu hay không, bí-tích Thánh Thể vẫn là một thực tại, có nguồn gốc từ biến cố Thiên Chúa nuôi dân bằng manna suốt 40 năm trường trong sa mạc, và được mặc khải cách rõ ràng trong chương 6 của Tin Mừng Gioan. Giống như lần trước, chúng ta sẽ tập trung trong những lợi ích mà bí-tích Thánh Thể mang lại cho con người.
Trong bài đọc I, Sách Đệ Nhị Luật cho chúng ta hiểu lợi ích của manna là để con người có sức mạnh vượt qua những thử thách của Thiên Chúa suốt 40 năm trường trong sa mạc trước khi vào Đất Hứa. Trong bài đọc II, thánh Phaolô nhấn mạnh đến sự hiệp nhất với Đức Kitô và với nhau là hiệu quả của bí-tích Thánh Thể, vì mỗi khi người tín hữu lãnh nhận Mình và Máu Thánh của Đức Kitô, họ trở nên một thân thể với Ngài. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến sự sống thần linh được ban cho những ai ăn thịt và uống máu Ngài. Hơn nữa, bí-tích Thánh Thể còn là Bánh mang lại sự sống trường sinh mà con người ở mọi nơi và mọi thời luôn khao khát nó.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Manna trong Sách Xuất Hành là hình bóng của Bí-tích Thánh Thể.
1.1/ Manna là của ăn anh em chưa từng biết và cha ông anh em cũng chưa từng biết: Biến cố Xuất Hành là một biến cố lớn và không thể quên của người Do-thái. Các nhà lãnh đạo và các ngôn sứ không ngừng nhắc nhở dân chúng nhớ lại biến cố Vượt Qua, như tác giả Sách Đệ Nhị Luật nhắc nhở dân chúng về mục đích của biến cố này: “Anh em phải nhớ lại tất cả con đường mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã dẫn anh em đi suốt 40 năm trong sa mạc, để bắt anh em phải cùng cực; như vậy Người thử thách anh em cho biết lòng dạ anh em, xem anh em có giữ các mệnh lệnh của Người hay không.”
Sau khi thoát khỏi Ai-cập, dân Israel hết lương thực và phải chịu đói khát. Họ kêu lên Thiên Chúa, và Ngài “đã cho anh em ăn manna là của ăn anh em chưa từng biết và cha ông anh em cũng chưa từng biết.” Manna là bánh bởi trời Thiên Chúa cho rơi xuống trên mặt đất mỗi sáng. Người Do-thái chưa từng biết đến manna trên mặt đất này. Trong tiếng Do-thái, manna đến từ “manhu,” có nghĩa là “Cái gì vậy?” Đây là câu hỏi khi người Do-thái đi lượm manna lần đầu tiên.
1.2/ Manna là của ăn đàng của dân Do-thái suốt 40 năm trong sa mạc: Thánh Vịnh 78:25, bản Do-thái gọi manna là Bánh của những người mạnh; trong khi bản Bảy Mươi gọi là Bánh của các thiên thần. Bản dịch Do-thái chính xác hơn, vì manna là Bánh ban sức mạnh cho người Do-thái, để họ có sức chịu đựng bao nhiêu thử thách xảy đến cho họ trong sa mạc trong suốt 40 năm trường. Chỉ khi dân Do-thái đặt chân tới đồng bằng Jericho, vào đúng ngày Lễ Vượt Qua, manna mới chấm dứt, và dân Do-thái bắt đầu dùng các thức ăn địa phương (Jos 5:12).
Khi còn lang thang trong sa mạc, ông Moses đã truyền cho dân chúng gom một bình đầy manna đặt trong Hòm Chứng Ước, cùng với cây gậy của Aaron và hai bia đá có khắc Thập Giới (Heb 9:4), để kỷ niệm biến cố Thiên Chúa đã làm mưa từ trời cho dân có bánh ăn trong sa mạc. Manna được giữ trong nơi Cực Thánh, như chúng ta giữ Mình Thánh Chúa ngày nay, để người Do-thái luôn cảm thấy sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa họ.
+ Khi người Do-thái nghĩ ông Moses đã làm cho cha ông họ có manna ăn trong sa mạc, Chúa Giêsu đã sửa sai họ: “Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Moses đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực, vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian” (Jn 6:31-32). Sau cùng, manna cũng được nhắc trong mặc khải cho hội thánh tại Pergamum, một trong 7 Hội Thánh trong Sách Khải Huyền: “Ai có tai, thì hãy nghe điều Thần Khí nói với các Hội Thánh: Ai thắng, Ta sẽ ban cho manna đã được giấu kỹ; Ta cũng sẽ ban cho nó một viên sỏi trắng, trên sỏi đó có khắc một tên mới; chẳng ai biết được tên ấy, ngoài kẻ lãnh nhận” (Rev 2:17). Tác giả Sách Khải Huyền nối việc ăn manna với những người chiến thắng.
2/ Bài đọc II: Bí-tích Thánh Thể là nguồn mạch hiệp nhất.
2.1/ Thánh Thể là Bánh hiệp nhất mọi người với Đức Kitô: Thánh Phaolô chất vấn các tín hữu Cotintô: “Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Kitô ư? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao?” Truyền thống của các nước miền Cận Đông tin: Khi con người dâng lễ vật cho bất cứ thần nào, chính thần ấy nhập vào lễ vật họ dâng; và khi họ ăn phần dâng cúng được các tư tế trả lại cho họ, các thần sẽ vào trong thân thể họ và làm cho họ được khỏe mạnh, thông minh và nhân đức như các thần. Cũng vậy, khi người Kitô hữu nhận lãnh Mình Máu Thánh Chúa, họ trở nên một phần của thân thể Đức Kitô. Tương tự, một gia đình hay một cộng đoàn cùng lãnh nhận Mình Thánh Chúa, tất cả đều trở nên những phần tử của thân thể Đức Kitô. Tất cả đều dự phần vào cuộc sống thần linh của Thiên Chúa.
2.2/ Thánh Thể là Bánh hiệp nhất mọi người với nhau: Không phải các tín hữu chỉ thông hiệp với Đức Kitô, nhưng họ còn thông hiệp với nhau, “Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể.” Theo thần học về thân thể của Đức Kitô, mỗi người chúng ta trở nên những chi thể của một thân thể là Giáo Hội, với Đức Kitô là Đầu. Vì thế, mỗi người không còn giữ và làm theo ý riêng mình nữa; nhưng tất cả đều cùng chung một ý muốn và làm theo thánh ý của Đức Kitô, và như thế, họ cùng hiệp nhất với nhau. Nếu đã cùng hiệp nhất trong một thân thể của Chúa, các tín hữu không thể làm bất cứ điều gì chia cắt thân thể của Đức Kitô.
3/ Phúc Âm: Chúa Giêsu là Bánh ban sự sống thần linh và sự sống đời đời cho con người.
3.1/ Phân tích từ ngữ Hy-lạp: Lời tuyên bố của Chúa Giêsu sau đây cần được nghiên cứu từng từ ngữ và cách cấu trúc: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.”
+ Cụm từ “ego eimi” theo sau bởi một thành ngữ xảy ra 7 lần trong Gioan, và túc từ theo sau đều mặc khải một sứ vụ đặc biệt của Đức Kitô như: Ta là Bánh Hằng Sống; Mục Tử Tốt Lành; Cửa Chuồng Chiên; Cây Nho; Sự Sống Lại và Sự Sống; Ánh Sáng Thế Gian; Đường, Sự Thật, và là Sự Sống.
+ Túc từ “o arton o zon” có thể mang nhiều nghĩa khác nhau tùy theo cách dịch:
(1) Có thể dịch là “bánh hằng sống hay bánh trường sinh,” có nghĩa bánh không bao giờ hư nát. Khi áp dụng vào Chúa Giêsu, có nghĩa Chúa là Bánh Hằng Sống.
(2) Hay có thể dịch là “bánh mang sự sống thần linh.” Khi áp dụng vào Chúa Giêsu, có nghĩa, Ngài là bánh mang sự sống thần linh cho con người như trong (Jn 6:33).
(3) Hay cũng có thể dịch là “bánh đang sống.” Khi áp dụng vào Chúa Giêsu, có nghĩa Ngài là Bánh đang sống.
Theo văn mạch và nội dung, nghĩa thứ (2) có lẽ thích hợp hơn cả; mặc dù hai nghĩa kia vẫn đúng với Chúa Giêsu.
+ Cụm từ: “từ trời xuống” nhắc nhở cho con người biến cố Thiên Chúa cho manna rơi xuống từ trời làm lương thực cho con cái Israel suốt 40 năm trong sa mạc. Manna là hình ảnh báo trước của bí-tích Thánh Thể. Bánh mang lại sự sống đời đời có thực và có nguồn gốc từ trời.
+ Bánh Hằng Sống chính là thịt (sárk) của Chúa Giêsu. Ngay từ đầu Tin Mừng, Gioan đã dùng danh từ này để nói về mầu nhiệm Nhập Thể: Và Ngôi Lời đã mặc lấy xác phàm (sárk) và đã cư ngụ giữa chúng ta.
+ Phản ứng của người Do-thái: Điều họ tranh luận ở đây không phải về nguồn gốc của Chúa Giêsu, nhưng là thịt của Ngài: Làm sao một người đang sống có thể lấy thịt của mình cho kẻ khác ăn? Trừ phi người đó phải chết! Điều khó khăn nữa là người Do-thái không có thói quen ăn thịt người.
3.2/ Sự cần thiết của bí-tích Thánh Thể: Đức Giêsu nói với họ: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình.”
+ Công thức “amen amen = thật, tôi bảo thật” báo hiệu trước một chân lý sẽ được mặc khải trong Tin Mừng Gioan. Chân lý Chúa Giêsu mặc khải ở đây là “Nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình.” Nếu Chúa Giêsu không mặc khải chân lý cho con người, sẽ không có ai biết được.
+ Hai động từ ăn (esthio) và uống (pino) mà Gioan dùng ở đây là hai động từ căn bản dùng trong việc ăn uống của con người: như ăn bánh và uống nước.
+ Chúa Giêsu phân biệt hai sự sống: thể lý (psyche) và thần linh (zon). Nếu không ăn thịt và uống máu Chúa, con người vẫn có sự sống thể lý; nhưng không có sự sống thần linh.
+ Sự sống muôn đời (zon aivonion): Sự sống thần linh sẽ dẫn con người đến sự sống muôn đời: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết.” Như Chúa Giêsu khi mang thân xác con người, mặc dù con người vẫn phải chết cách thể lý, nhưng sẽ được sống lại vinh hiển, và sẽ không bao giờ phải chết nữa.
+ Thịt và Máu Chúa là lương thực nuôi sống con người: “vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống.” Hai danh từ dùng để so sánh: của ăn (brosis) và của uống (posis) là hai danh từ dùng để chỉ lương thực căn bản của con người.
+ Sự sống thần linh là sự sống của chính Thiên Chúa: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy.” Chúa Giêsu và người rước Chúa trở nên một, như thánh Phaolô tuyên bố: “Tôi sống, nhưng không còn là tôi; mà là chính Đức Kitô sống trong tôi.”
+ Sự sống thần linh giúp con người hiểu biết sự khôn ngoan và các mầu nhiệm của Thiên Chúa mà trí khôn con người không hiểu thấu được. Sự khôn ngoan có được là do Thánh Thần của Đức Kitô hướng dẫn con người. Sự sống thần linh giúp cho con người có sức mạnh để đáp ứng lời mời gọi nên trọn lành của Đức Kitô mà sức riêng con người không thể làm được. Ví dụ, con người có được tình yêu nguyên thủy của Thiên Chúa để yêu thương kẻ thù, làm ơn và cầu nguyện cho người ghét mình.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Như manna rơi xuống từ trời để nuôi dưỡng và tăng sinh lực cho dân Do-thái suốt 40 năm trường trong sa mạc, Chúa Giêsu trong bí-tích Thánh Thể cũng là Bánh từ trời xuống để nuôi dưỡng và tăng sinh lực cho chúng ta trong suốt cuộc đời trên dương gian.
– Bí-tích Thánh Thể là căn nguyên của sự hiệp nhất. Nếu mỗi người trong gia đình, trong cộng đoàn, giáo xứ hay Giáo Hội năng lãnh nhận Bí-tích Thánh Thể, tất cả sẽ hiệp nhất với Thiên Chúa và với nhau.
– Bí-tích Thánh Thể làm chúng ta được tham dự cuộc sống thần linh với Thiên Chúa ngay từ đời này, và chuẩn bị cho chúng ta cuộc sống hạnh phúc muôn đời với Thiên Chúa ở đời sau.
(Suy niệm của Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy Niệm
“Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết nhưng tôi muốn con tôi được sống”. Đó là lời của bà Susanna sau khi được cứu trong trận động đất ở Ácmêni vào tháng 12-1987.
Trong số hàng ngàn người bị vùi lấp dưới đống gạch, có hai mẹ con bà Susanna may mắn còn sống sót. Cô con gái bốn tuổi đòi uống nước. Tìm đâu ra nước khi hai mẹ con không có lối ra? Tình mẫu tử đã gợi lên cho bà một ý nghĩ táo bạo, đó là rạch ngón tay mình chảy máu để cho con mút. Đứa bé đã đỡ khát nhờ máu người mẹ. Nó đã sống cho đến khi cả hai mẹ con được cứu. Câu truyện trên giúp ta hiều phần nào bí tích Thánh Thể.
Đức Giêsu đã chết để chúng ta được sống. Ngài chấp nhận chịu đổ máu qua cái chết thập giá, và Ngài muốn máu Ngài trở nên thức uống cho chúng ta.
Trong các nhà thờ, vào dịp lễ Giáng sinh, thường có những người ngoài Kitô giáo đến dự lễ. Cũng có ít người tò mò lên “ăn bánh thánh”. Họ ngạc nhiên vì tấm bánh mỏng manh, nhạt nhẽo. Nhưng họ sẽ ngạc nhiên hơn nhiều nếu chúng ta bảo họ: “Ăn tấm bánh đó là ăn thịt Chúa, uống chén rượu đó là uống máu Chúa”. Thật là kinh khủng, làm sao có chuyện như vậy?
Đây là mầu nhiệm đức tin, không dễ giải thích cho người ngoài.
Tất cả bắt đầu từ ước muốn lạ lùng của Đức Giêsu. Ngài muốn nuôi nhân loại bằng chính con người Ngài. Ngài muốn trở thành đồ ăn thức uống cho nhân loại: “Các con hãy cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy. Các con hãy cầm lấy mà uống, đây là Máu Thầy.”
Mình và Máu tượng trưng toàn thể con người Đức Giêsu. Nên khi rước lễ, ta không chỉ rước thịt mình Ngài, mà rước lấy cả con người Ngài dưới dạng tấm bánh.
Rước lễ là gắn bó với một ngôi vị: “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy (c.56).
Rước lễ không phải là đón nhận một xác chết, nhưng là gặp gỡ Đức Giêsu đã chết và nay đã phục sinh. “Như tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, kẻ ăn tôi cũng sẽ sống nhờ tôi như vậy” (c.57).
Rước lễ là đón lấy sự sống từ Đấng đang sống, cũng là sự sống duy nhất bắt nguồn từ Chúa Cha.
Hôm nay, Đức Giêsu phục sinh có một lối hiện diện mới mẻ. Ngài không hiện diện dưới dạng một con người, nhưng dưới dạng đồ ăn, đồ uống.
Như thế cả vật chất bất động cũng được nâng lên, cả lao công của con người cũng được thánh hiến. Vật chất trở thành biểu tượng cho sự hiện diện thần linh. Vật chất có chỗ trong thế giới của Thiên Chúa.
Ước gì thế giới vật chất ở quanh ta cũng nên thánh, nhờ được chia sẻ trong yêu thương.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bài Tin Mừng hôm nay có 10 từ “sống”. Bí tích Thánh Thể là bí tích ban sự sống. Bạn có thấy thánh lễ đem lại sức sống cho bạn không? Nếu không, tại sao?
Bạn nghĩ gì về thái độ của bạn khi rước lễ? Đó có phải là một cuộc gặp gỡ thân tình không? Bạn có chuẩn bị gì khi rước lễ? Bạn có dành những giây phút lặng lẽ để tâm sự với Chúa sau rước lễ không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, có một ngọn đèn dầu gần Nhà Tạm, ngọn đèn đỏ mời con dừng bước chân, và nhắc con về sự hiện diện của Chúa.
Con mong sự hiện diện ấy lan tỏa khắp nơi, để đâu đâu cũng thấy những ngọn đèn đỏ.
Nơi xóm nghèo mùa mưa nhớp nháp, nơi lớp học tình thương lúc chiều tà, nơi những trung tâm phục hồi nhân phẩm, nơi bảo sanh viện nâng niu sự sống của trẻ thơ, nơi khách sạn năm sao, nơi quán bia đầu ngõ, nơi các tiệm cho mướn băng video, nơi tình yêu trong ngần của đôi bạn trẻ…
Nhưng lạy Chúa, trước hết, xin cho đời con là một ngọn đèn, xin cho chúng con là những ngọn đèn màu đỏ, mời người ta dừng lại, trầm tư, và gặp được Chúa.
(Suy niệm của Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy Niệm
Còn gì đẹp bằng việc cả gia đình tham dự Thánh Lễ Chúa nhật!
Còn gì vui bằng việc đi nhà thờ và gặp những người bạn thân!
Mỗi Thánh Lễ là một cuộc gặp gỡ linh thánh với Thiên Chúa,
nơi cả triều thần thiên quốc, cả thế giới người sống và người chết,
gần nhau, nâng đỡ nhau và cầu nguyện cho nhau.
Dự lễ Chúa Nhật đâu chỉ là một luật buộc của Giáo Hội,
mà còn là niềm vui được tặng ban cho người kitô hữu.
Dự lễ Chúa Nhật là để tạ ơn Thiên Chúa.
Bí tích Thánh Thể tự bản chất là bí tích Tạ Ơn.
Chúng ta có bao lý do để nói một lời tạ ơn Thiên Chúa,
vì tất cả những gì Ba Ngôi làm cho chúng ta qua các công trình
sáng tạo, cứu chuộc và thánh hóa, đã và đang diễn ra.
Chúng ta luôn có lý do để tạ ơn vì những điều chân thiện mỹ
vẫn tồn tại nơi mọi sự và nơi con người, bất chấp những bóng tối.
Dự lễ Chúa Nhật là nhân danh muôn loài thụ tạo để ca ngợi Chúa Cha,
nhờ Chúa Kitô, và trong sự hiệp thông với Chúa Thánh Thần.
Dự lễ Chúa Nhật là dự một bữa tiệc, mặc áo đẹp, lòng vui như mở hội,
vì đại tiệc này do chính Chúa Kitô khoản đãi.
Ngài mời từng người: “Tất cả anh chị em hãy đến mà dự tiệc của Tôi!”
Ngài nuôi ta bằng Lời ban sự sống của Ngài, qua việc nghe các Bài Đọc.
Ngài còn nuôi chúng ta bằng Mình và Máu của Ngài, qua việc rước lễ.
Trong bữa Tiệc Vượt Qua, ngay trong đêm Ngài bị bắt ở Vườn Dầu,
Đức Giêsu đã cầm lấy bánh, bẻ ra, trao đi và nói một câu bất ngờ:
“Các con hãy cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy.”
Ngài lại trao cho các môn đệ chén rượu nho và nói:
“Các con hãy cầm lấy mà uống, đây là chén Máu Thầy.”
Chúng ta tin bánh đã trở nên Mình, rượu đã trở nên Máu Chúa.
Đức Giêsu mời chúng ta ăn uống Mình và Máu Ngài
dưới dạng bánh và rượu đã được biến đổi cách mầu nhiệm
nhờ lời của Ngài và nhờ quyền năng Thánh Thần.
Dự lễ Chúa nhật là thông hiệp vào hy lễ thập giá trên núi Sọ.
Đức Giêsu đã không chỉ nói: Đây là Mình Thầy, đây là Máu Thầy.
Nhưng Ngài nói: “Đây là Mình Thầy bị trao nộp vì anh em,
Đây là Máu Thầy đổ ra vì anh em.”
Như thế Ngài đã nói đến cái chết sắp đến của Ngài.
Rước Mình và Máu Thầy là mở lòng đón lấy
Đấng đã hy sinh mạng sống để cứu chuộc thế gian,
để rồi có sức hy sinh đời mình cho người khác.
Đức Kitô đã đổ máu mình trên thập giá duy chỉ một lần,
nhưng hy lễ ấy lại trở thành hiện thực trong từng Thánh Lễ.
Từ đó ơn cứu độ tuôn trào trên thế giới và trên từng người.
Hãy tham dự Thánh Lễ một cách sốt sắng.
Vì bí tích Thánh Thể là hy lễ của Đức Kitô,
nên khi dự lễ, ta hãy đem theo đời mình làm lễ dâng,
với muôn khổ đau, nhọc nhằn, để kết hợp với hy lễ của Đức Kitô.
Hãy dâng đời mình như những hạt lúa bị xay, bị nướng thành bánh,
như những trái nho bị ép để làm thành rượu nho.
Khi rước lấy Đấng ban sự sống, Đấng là sự sống,
chúng ta được ở lại trong Ngài và sống nhờ Ngài (Ga 6,56-57).
Xin cho chúng ta đi hết cuộc đời lữ thứ trần gian
nhờ tâm linh được dưỡng nuôi bằng lương thực thiên quốc.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa,
Chúa là thức ăn, thức uống của con.
Càng ăn, con càng đói;
Càng uống con càng khát;
Càng sở hữu, con lại càng ước ao.
Chúa ngọt ngào trong cổ họng con,
Hơn cả tầng mật ong,
Vượt quá mọi thứ ngọt ngào khác trên đời.
Lúc nào con cũng thấy đói khát và ước ao,
Vì con không sao múc cạn được Chúa.
Ngài nghiền nát con hay con nghiền nát Ngài?
Con chẳng rõ; vì ở thẳm sâu lòng con,
Con cảm thấy cả hai.
Chúa đòi con nên một với Ngài,
Đòi hỏi đó làm con đau đớn,
Vì con không muốn từ bỏ
Những thói quen của con
Để ngủ yên trong tay Chúa.
Con chỉ biết tạ ơn Chúa,
Ca ngợi và tôn vinh Chúa,
Bởi đó là sự sống đời đời cho con.
(Trích trong ‘Manna’ – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)
Cả các Kitô hữu cũng ngỡ ngàng trước bí tích Thánh Thể. Ăn thịt và uống máu người mình yêu là điều khủng khiếp chẳng ai dám nghĩ tới. Nhưng Đức Giêsu lại muốn nuôi cả nhân loại bằng Thịt và Máu Ngài. Và thực sự Ngài đã nuôi ta bằng cái chết thập giá – ở đó Ngài đã hy sinh Máu Thịt mình.
Đúng hơn, Ngài nuôi chúng ta bằng sự sống của Ngài: sự sống được trao đi qua cái chết tự nguyện, và sự sống được lấy lại qua phục sinh vinh quang.
Đức Giêsu ban cho ta Tấm Bánh (c.51). Ngài còn tự nhận mình là Tấm Bánh (cc.48.51): Tấm Bánh có sự sống và Tấm Bánh ban sự sống. Tôi là Tấm Bánh: đó là định nghĩa của Đức Giêsu về mình.
Định nghĩa này có làm ta ngạc nhiên không? Bánh là cái gì ăn được và đem lại sự sống. Bánh không sống cho mình, nhưng cho người khác.
Chấp nhận là bánh có nghĩa là chấp nhận mất mình, mà chỉ khi mất mình như thế, bánh mới thật là bánh, mình mới thật là mình. Thật ra bánh vẫn hiện diện và nên một với người ăn. Đức Giêsu là Tấm Bánh đặc biệt. Khi tôi ăn, Ngài thành tôi và biến tôi thành Ngài. Một sự ở lại hai chiều, một sự hiệp thông sâu thẳm.
“Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy” (c.56).
Rước lễ là đón lấy dòng sự sống, chấp nhận sống nhờ. Đức Giêsu sống nhờ Cha và chúng ta sống nhờ Đức Giêsu (c.57). Như cành nho sống nhờ thân cây nho, chúng ta cũng sống nhờ, nghĩa là sống trong và sống cho Chúa.
Trong nhiều thế kỷ, Hội Thánh đã từng có thái độ nhìn và thờ lạy Thánh Thể hơn là cầm lấy mà ăn. Động từ ăn được nhắc đến 8 lần trong bài Tin Mừng này, như một lời mời gọi tha thiết của Đức Giêsu.
Ngày nay, người ta rước lễ nhiều hơn trước. Tiếc thay lắm khi cuộc gặp gỡ này khá vội vã, thiếu chuẩn bị và cũng thiếu đối thoại thân tình.
Tôi lên rước lễ chỉ vì mọi người trong hàng ghế đã lên. Phút thinh lặng sau rước lễ cũng bị cắt ngắn. Tôi phải về ngay vì phải lấy xe, vì nhà thờ đóng cửa… Chính vì thế rước lễ chẳng gây được âm vang nào nơi tôi. Nó trở thành một thói quen, một nghi thức thuần tuý.
Tôi lên ăn một vật thánh, thay vì đón một người.
Ít khi có vị khách quý nào bị thường xuyên tiếp đón lạnh nhạt như thế! Rốt cuộc chẳng có cuộc gặp gỡ nào xảy ra, nên tôi vẫn cứ là tôi như trước.
Hãy dự lễ như người đi dự tiệc Lời Chúa, Mình Chúa.
Chỉ ai biết ăn, biết thưởng thức và nghiền ngẫm, người ấy mới gặp được sự sống và gặp được Giêsu.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Chúa đến với chúng con dưới dạng tấm bánh bình thường.
Tấm bánh chẳng nói gì, chỉ biết lặng lẽ chờ đợi.
Tấm bánh hiện diện là để phục vụ cho con người.
Tấm bánh quá đỗi mong manh, nhỏ bé, có thể bị ẩm mốc làm hư hoại,
và tan rất mau sau khi được nhận lãnh.
Lạy Chúa Giêsu,
có cái gì tương tự giữa phận làm người và phận làm bánh của Chúa.
Xin cho chúng con biết cách đến với con người hôm nay:
đơn sơ, khiêm hạ, không chút vinh quang hay quyền lực.
Nhờ ăn tấm bánh của Chúa,
chúng con cũng trở nên tấm bánh ngon,
được bẻ ra để đáp ứng khẩu vị của nhiều người.
Ước gì chúng con dám rước Chúa đi vào mọi vùng mờ tối của lòng mình,
để sự hiện diện của Chúa trong con được lớn lên.
Và ước gì chúng con trở thành những Nhà Tạm di động,
đem Chúa đến cho đồng bào và quê hương chúng con. Amen.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Giáo lý Công giáo dạy chúng ta: khi linh mục chủ sự thánh lễ lặp lại lời Chúa Giêsu đã nói trong bữa tiệc ly: Này là Mình Thày, này là Máu Thày…. thì Chúa Thánh Thần tác động làm cho bánh thành Mình Thánh Chúa và rượu thành Máu Thánh Chúa. Tuy vậy, nếu nhìn bằng con mắt thể lý, trước và sau lời “truyền phép” này, bánh và rượu vấn y nguyên, không có gì thay đổi. Thánh Thể là mầu nhiệm của đức tin, nghĩa là chỉ cảm nhận bằng đức tin, như chúng ta vẫn hát trong bài Ca Thánh Thể (Tantum ergo): “Ta hãy lấy đức tin bù lại, nếu giác quan không cảm thấy gì”. Sau lời truyền phép, linh mục chủ sự thánh lễ cũng tuyên bố với cộng đoàn phụng vụ: “Đây là mầu nhiệm đức tin”, như lời khẳng định: chỉ có đức tin mới nhận ra sự biến đổi tự bản thể của bánh và rượu. Thánh Thể chính là sự hiện diện của Chúa Giêsu giữa trần gian. Tấm bánh đơn sơ là thế, nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, trở nên Tấm Bánh Nhiệm Màu đối với các Kitô hữu.
Đây là Tấm Bánh Nhiệm Màu vì có Chúa Giêsu hiện diện. Suốt bề dày lịch sử của dân riêng, tức là dân Do Thái, Thiên Chúa hiện diện và đồng hành với họ. Ngài ở bên họ để chúc lành, hướng dẫn. Sự hiện diện của Chúa giữa dân Ngài là niềm tự hào của dân được tuyển chọn. Ông Môisen đã nói với người Do Thái: “Anh em hãy xem, có dân nào được các vị thần linh ở gần như Thiên Chúa ở gần chúng ta không?”. Sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa còn thể hiện qua việc Ngài nuôi dưỡng họ trong hành trình sa mạc. Ông Môisen (Bài đọc I) đã nhắc lại những lần Chúa làm phép lạ để nuôi dưỡng dân Ngài: manna, chim cút, nước tử tảng đá…
Nếu trong lịch sử, Thiên Chúa hiện diện giữa dân Ngài qua các biểu tượng như đám mây, cột lửa, sấm sét… thì hôm nay, Chúa Giêsu lại đang hiện diện giữa Giáo Hội và giữa trần thế qua Thánh Thể. Công đồng Tridentinô đã khẳng định: Trong Bí tích Thánh Thể, có trọn vẹn mình và máu, thiên tính và nhân tính, linh hồn và thân xác của Đức Giêsu. Để giữ lời hứa: “Này đây, Thày sẽ ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế”, Chúa Giêsu đã thiết lập Bí tích Thánh Thể. Qua Thánh Thể, Chúa ở giữa chúng ta để chia sẻ phận người, nhất là đối với những người đau khổ và bất hạnh, những người cô thế cô thận và bị gạt ra bên lề của cuộc sống. Chúa hiện diện để lắng nghe nỗi lòng của chúng ta, đồng thời ban lời hướng dẫn, giúp chúng ta vượt lên những khó khăn vất vả trên đường đời. Thánh Thể không phải là một hình ảnh tượng trưng, mà là chính sự hiện diện của Chúa Giêsu.
Thánh Thể được gọi là “Bí tích” và là một trong bảy bí tích do Chúa Giêsu thiết lập. “Bí” là khía cạnh bí nhiệm, vô hình, thiêng liêng; “Tích” là khía cạnh hữu hình, có thể cảm nhận bằng giác quan. Khi lãnh nhận Thánh Thể trong thánh lễ hoặc khi “chầu” Mình Thánh, chúng ta chỉ thấy một tấm bánh đơn sơ, đó là khía cạnh “tích” mà chúng ta cảm nhận, còn khía cạnh “Bí” thì vô hình, chỉ có thể cảm nhận bằng đức tin.
Là Tấm Bánh Nhiệm Màu, Thánh Thể ban sức sống thần thiêng cho các tín hữu. Khi rước lễ, người tín hữu được hiệp thông với Thiên Chúa, được nuôi dưỡng bằng sức sống thần linh. Nói cách khác, nhờ Thánh Thể, chúng ta đón nhận sự sống của chính Thiên Chúa, được kết nối với Ngài, như cành nho đón nhận sức sống từ thân nho để sinh hoa kết trái. Không chỉ được tiếp sức sống trong cuộc đời hiện tại, Thánh Thể còn là bảo đảm cho chúng ta được sống đời đời. Tin Mừng Thánh Gioan ghi lại cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu với người Do Thái về đề tài “Bánh hằng sống”. Chúa Giêsu đã khẳng định: Bánh hằng sống là chính bản thân Người. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời. Việc lãnh nhận bánh hằng sống giúp cho người tín hữu kết hợp với Chúa Cha và Chúa Con. “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy”.
Tấm Bánh Nhiệm Màu cũng nối kết các tín hữu thành một thân thể. Thánh Phaolô đã khẳng định: “Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (Bài đọc II). Thật là huyền diệu! Thánh Thể liên kết các tín hữu và làm cho họ trở nên những người thân thiết, đến nỗi được so sánh như những chi thể của một thân thể, cùng chung chia vui buồn và cùng cảm thông nâng đỡ nhau. Như vậy, nhờ Thánh Thể, không còn ai là người xa lạ, nhưng đều là anh chị em với nhau trong gia đình Giáo Hội, để cùng nhau liên kết làm nên vẻ đẹp của tình mến và tình hiệp thông.
Ta hãy đến thờ lạy Tấm Bánh Nhiệm Màu với đức tin và với tình yêu mến. Ta hãy tuyên xưng: đây là Bí tích của tình yêu, vì qua Bí tích này, Chúa Giêsu hiến mình nên của ăn của uống cho con người. Sống mầu nhiệm Thánh Thể, chính là thực hiện tình yêu, cụ thể qua những nghĩa cử chia sẻ, hy sinh vì hạnh phúc của tha nhân, noi gương Đấng đã hy sinh và hiến mình vì chúng ta.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
I/ “Ai ăn thịt và uống máu Tôi thì được sống muôn đời”. Lời giảng đó của Chúa Giêsu chỉ rõ về phép Thánh Thể. Thịt máu Chúa Giêsu là toàn diện con người Chúa gồm thiên tính và nhân tính. Xét về thiên tính, Người là Ngôi Hai Thiên Chúa, nên Người nói “Tôi là Bánh Hằng sống từ trời xuống”. Xét về nhân tính, Người có thịt máu, hồn xác, nên Người nói “Thịt Tôi thật là của ăn, máu Tôi thật là của uống”. Khi rước Mình Máu Người là rước chính Chúa Giêsu trót thiên tính và nhân tính, là rước Ngôi Hai xuống thế làm người, là rước chính Đức Chúa Giêsu chịu chết và phục sinh, cho nên Mình Máu Người là của ăn, là bánh hằng sống, ban cho kẻ ăn được sống lại và được sống muôn đời.
Dân Do Thái không hiểu như thế. Họ chỉ hiểu theo góc độ ăn uống thịt máu vật chất loài người như ta ăn thịt heo, thịt cá và uống tiết canh. Họ hiểu như câu hát thề phanh thây uống máu quân thù, thì làm sao ai dám lấy thịt máu mình cho kẻ khác ăn. Họ chỉ thấy Đức Giêsu là con ông Giuse, anh thợ mộc, chứ không phải từ trời xuống. Họ mới được Chúa làm phép lạ cho bánh hóa nhiều nuôi bao nhiêu ngàn người ăn khỏi đói, thế mà họ cũng không tin Người là Thiên Chúa. Họ càng thấy chói tai ghê tởm và cãi nhau dữ dội khi Người nói: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta”, họ tưởng như những bè đảng “uống máu ăn thề” nên họ thấy chói tai quá, họ đã bỏ đi và một số môn đệ cũng bỏ Thầy. Đây là một thử thách lòng tin, một thách đố lý trí vô phương giải cứu, thử thách này kinh khủng hơn thử thách cha ông họ đã nếm mùi khổ nhục trong “sa mạc mênh mông khô cằn khủng khiếp, đầy rắn lửa, bọ cạp, núi non hiểm trở …” (Bài đọc 1: Dnl, 8, 2-3, 14b-16)
Trong sa mạc, chỉ có Môsê vững tin Thiên Chúa ông đã vượt mọi thử thách cam go để tuân hành lệnh Ngài truyền và Thiên Chúa đã khiến nước chảy ra từ tảng đá cho dân uống và ban manna cho dân ăn (Dnl. 8, 3. 16)
Trong hoang địa, nơi Chúa Giêsu đang giảng chỉ có Phêrô đứng ra tuyên xưng đức tin: “Bỏ Thầy chúng con biết theo ai, Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga. 6, 68-69)
II/ Tại sao Đức Giêsu dùng kiểu nói ăn thịt và uống máu như vậy?
Thứ nhất, đối với người Do Thái: ăn thịt và uống máu, nhắc họ nhớ tới thịt máu con chiên vượt qua, máu chiên bôi lên cửa nhà họ làm dấu cứu con cháu họ khỏi bị tiêu diệt, còn nhà dân Ai Cập không có dấu máu chiên thì các con đầu lòng từ người đến vật và các thần đều bị tiêu diệt (Xh. 12, 1-14). Máu chiên vượt qua sẽ giúp họ thấy máu Người đổ ra trên Thập giá là dấu cứu họ vượt qua cõi chết để sống muôn đời. Còn thịt chiên vượt qua làm của ăn tăng sức mạnh cho họ ra đi thoát khỏi ách nô lệ Ai cập để trở về đất Hứa, miền đất quê hương tự do. Thịt của Đức Giêsu chẳng những ban cho họ sức mạnh thoát khỏi nô lệ, tội lỗi mà còn giúp họ thẳng tiến về quê trời vinh phúc muôn đời.
Thứ hai, đối với cả loài người: Thịt và máu Đức Giêsu thể hiện lễ hy sinh của Người trên Thánh giá. Sự hy sinh mạng sống là luật hy sinh trong vũ trụ này, con vật này phải chết đi làm của ăn cho con vật khác. Sự chết hy sinh cho sự sống, sự chết của hàng trăm sinh vật như tôm, cá, heo, gà, rau cỏ… đã hy sinh chết đi cho sự sống của tôi. Chúng phải chịu bắt, đánh đập, mổ xẻ, cắt chặt, nghiền nát, nung đốt để trở thành của ăn của uống cho tôi ăn để tôi sống, tôi khỏe mạnh, tôi phát triển.
Đức Giêsu muốn cho chúng ta được sống và được sống dồi dào muôn đời, Người phải hy sinh mạng sống để nuôi chúng ta sống, mạnh mẽ, sống sinh nhiều hoa trái tồn tại đến muôn đời.
Sau hết, đối với Đức Giêsu, kiểu nói: “Thịt Ta thật là của ăn, máu Ta thật là của uống” là kiểu nói duy nhất chỉ về sự thương khó, về lễ hy sinh trên Thánh giá, về lễ truyền phép bánh và rượu trở nên Mình và Máu Thánh Người làm của nuôi linh hồn ta đời đời, để cho ta được sống liên kết chặt chẽ với Người như những chi thể trong một thân thể Đức Kitô (Bài đọc II. 1Cr. 40, 16-17).
III/ Trong đoạn Tin mừng hôm nay chỉ có chín câu ngắn gọn mà Đức Giêsu đã nhấn mạnh đến 12 lần về sự sống: Bánh hằng sống, được sống muôn đời (3 lần), được sống (2 lần), không có sự sống, sống lại, sống mãi (2 lần), Cha là Đấng hằng sống, tôi sống nhờ Cha, chứng tỏ Người thiết tha chăm lo đến sự sống chúng ta vô cùng. Người sẵn sàng hiến mạng sống mình cho chúng ta. Hơn nữa Người còn hạ mình xuống như một thứ đồ vật vô tri vô giác làm đồ ăn cho chúng ta được sống, sống lại, sống mãi, sống muôn đời như Cha là Đấng hằng sống, như Con sống nhờ Cha.
Tình yêu của Chúa không lời nào của loài người diễn tả nổi, không việc làm nào của loài người có thể cảm tạ đẹp lòng Thiên Chúa, chỉ có cách duy nhất là: “Hãy siêng năng nâng chén lễ tạ ơn mà cảm tạ Thiên Chúa, để dự phần vào máu Đức Kitô. Hãy sốt sắng cùng nhau bẻ bánh thánh, để dự phần vào thân thể Người” (1Cr. 10, 16).
Vậy chỉ có cách siêng năng, sốt sắng rước lấy bánh hằng sống mới làm thỏa lòng Chúa tha thiết yêu ta.
Lạy Chúa Giêsu, không một người cha nào nuôi con bằng thịt mình, nhưng Chúa đã lấy thịt mình nuôi con, không một người mẹ nào nuôi con bằng máu mình, nhưng Chúa đã ban máu mình cho con làm của uống, không cha mẹ nào vui lòng chết khổ nhục vì con, nhưng Chúa đã chịu chết treo trên Thánh giá thay con. Xin Chúa cho con biết suốt đời dâng lễ cảm tạ Chúa, suốt đời dự phần vào Mình Máu Chúa, để thỏa lòng Chúa yêu con.
Thế giới chiến tranh lần thứ hai kết thúc với hai trái bom nguyên tử, gây cảnh đổ vỡ tan thương cho thiên nhiên và sinh mạng đến độ người ta đã nghĩ rằng: Con người, phải chấm dứt chiến tranh bằng không chiến tranh sẽ chấm dứt con người.
Ngày nay ở khắp nơi người ta đều quan tâm đến môi trường với tiếng kêu khẩn cấp: Trái đất đang lâm nguy. Vì vậy con người phải dừng lại để tìm kiếm phương thế cứu nguy địa cầu, bằng không địa cầu sẽ là nấm mồ không những chôn những người đã chết mà còn chôn cả những người đang sống, nước giàu cũng như nước nghèo.
Trong những cuộc hội nghị gần đây, ngoài những vấn đề có liên quan đến môi trường thiên nhiên, còn có vấn đề chênh lệch giữa những nước giàu và những nước nghèo, biến thiểu số những nước giàu tiêu thụ hoang phí những tài nguyên thiên nhiên mà các nước nghèo phải tàn phá để sinh tồn hầu cung phụng cho những nước giàu. Trong bối cảnh địa cầu đang lâm nguy vì bị con người khai thác bừa bãi và làm ô nhiễm trầm trọng để sản xuất, để hưởng thụ, thiết nghĩ lễ Mình và Máu Thánh Đức Kitô có thể gợi lên cho chúng ta một vài suy tư hữu ích.
Thực vậy đoạn Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta tìm hiểu ý nghĩa của bí tích Thánh Thể. Qua những động từ diễn tả các hành vi của Chúa Giêsu thực hiện trong phép lạ hoá bánh ra nhiều, tiên báo những cử chỉ sau này khi Ngài lập bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn bẻ ra, trao cho các môn đệ phân phát, chia sẻ để mọi người cùng ăn no nê. Đó là con đường Chúa Giêsu vạch ra phải được thực hiện từng bước nhưng liên tục để mọi người được thông phần vào việc bánh hoá nhiều. Ngày nay những nước giàu thường không muốn đi trên con đường này. Họ lấy các tài nguyên thiên nhiên và không xem đó là hoa màu ruộng đất và lao công con người, nhưng chỉ là những vật sở hữu họ bỏ tiền ra mua vì thế họ không bao giờ biết cám tạ Chúa và cám ơn thiên nhiên và người khác. Họ giữ lấy tài nguyên cho mình mà không biết bỏ ra, và càng không biết chia sẻ vì bỏ ra đối với họ là hư hao và chia sẻ là mất mát. Trong phạm vi cá nhân cũng vậy. Cử chỉ của Chúa Giêsu là một lời mời gọi. Ngài cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra và chia sẻ cho mọi người cùng ăn no nê.
Chúng ta cũng vậy, hay lấy cơm bánh của hoa màu ruộng đất, lấy các tài nguyên thiên nhiên, lấy khả năng và trọn con người mình để cảm tạ Thiên Chúa, cám ơn ruộng đất thiên nhiên, cám ơn công lao của con người. Rồi bẻ ra để sản xuất, để sinh lợi và sau cùng là chia sẻ. Chia sẻ kiến thức kỹ thuật, máy móc lợi nhuận để mọi người đều có cơ hội đồng đầu mà phát triển, nhờ đó cùng được thịnh vượng và hạnh phúc.
Thế nhưng liệu đây có phải là phương pháp mỗi người chúng ta phải sử dụng để cứu nguy địa cầu và đem lại hạnh phúc cho những người chung quanh hay không?
Một trận động đất kinh hoàng đã xảy ra tại Arménie hổi tháng 12 năm 1987. Trong số hàng ngàn người bị chôn vùi dưới đống gạch vụn, co hai mẹ con bà Suzana. Cả hai may mắn lọt vào một khoảng trống nhỏ, nên còn sống sót. Tất cả lương thực của họ chỉ là một hũ mứt, nhưng chẳng mấy chốc, hũ mứt cũng hết. Lúc đó cô con gái mới bốn tuổi đã kêu lên: Mẹ ơi, con khát quá, mẹ cho con uống nước nhé. Người mẹ lúng túng, biết tìm đâu cho ra nước bây giờ. Một ý nghĩ táo bạo bỗng nảy sinh trong đầu óc bà, đó là phải lấy những giọt máu cuối cùng của mình cho con uống, để cầm cự với tử thần. Bà tìm được một mảnh kính vỡ, cắt đầu ngón tay và bảo con mút. Đứa bé mút những giọt máu từ đầu ngón tay của người mẹ. Sau khi hai mẹ con được cứu sống, người mẹ kể lại rằng: Lúc bấy giờ tôi chỉ có một ý nghĩ, đó là phải làm thế nào cho con tôi được sống.
Với chúng ta cũng vậy. Trong suốt cuộc đời trần gian, Chúa Giêsu cũng chỉ có một ý nghĩ, cũng chỉ có một mục đích, đó là phải làm thế nào cho chúng ta được sống, không phải chỉ sự sống phần xác, mà còn là sự sống phần hồn. Chính vì sự sống phần hồn của chúng ta, mà Ngài đã chấp nhận cái chết tủi nhục trên thập giá, để cứu chuộc chúng ta. Và hơn thế nữa, Ngài còn thiết lập bí tích Thánh Thể, để làm của ăn nuôi sống linh hồn chúng ta và để ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế, bởi vì hiện nay với bí tích Thánh Thể và với Thánh Lễ được cử hành, hy lễ tiến dâng lên Chúa Cha và của ăn trao ban cho chúng ta không ngừng được tiếp diễn.
Thế nhưng, chúng ta đã có thái độ nào đối với bí tích Thánh Thể cũng như đối với Thánh Lễ? Tại nhiều nước Tây Phương, số giáo dân tham dự Thánh Lễ ngày Chúa nhật giảm sút một cách đáng kể. Điển hình tại Pháp, chỉ có 10% giáo dân tham dự mà thôi. Còn tại Việt Nam, mặc sù số người tham dự còn nhiều, nhưng có một số lại đứng ngoài nhà thờ, nói chuyện và hút thuốc trong khi Thánh Lễ đang được cử hành. Họ đi lễ chỉ vì sợ lỗi luật, sợ phạm tội, chứ chẳng có lấy một chút tâm tình và một chút yêu mến.
Trong Thánh Lễ, không phải chỉ có vai trò của vị chủ tế, mà hơn thế nữa, vai trò của người tín hữu cũng không kém phần quan trọng. Họ không phải chỉ xem lễ, như một khán giả xem đá bóng, xem cải lương, nhưng họ tham dự và cùng cử hành Thánh Lễ. Nói cho cùng, chẳng có hai Thánh Lễ giống hệt nhau, vì chính cuộc sống của người tham dự đã thay đổi.
Mỗi Thánh Lễ, tôi cảm thấy có một điều gì đó cần thống hối cách đặc biệt. Mỗi Thánh Lễ, tôi cảm thấy mình muốn đặt trên đĩa thánh một chút cố gắng, một chút đau khồ, một chút ước mơ riêng tư của tôi. Tôi không dự lễ với đôi bàn tay trắng, nhưng tôi dự lễ với lễ vật của riêng tôi. Lễ vật ấy là chính cuộc đời tôi.
Đồng thời trong Thánh Lễ, lời Chúa tác động trên tôi, rồi mỗi khi lên rước lễ, tôi nhớ rằng Ngài đã trở nên tấm bánh được bẻ ra cho tôi, thì tôi cũng phải trở nên tấm bánh được bẻ ra cho anh em tôi.
Thánh Lễ sẽ không nhàm chán, khi chúng ta biết nối dài Thánh Lễ trong cuộc sống. Và mỗi khi tham dự Thánh Lễ, chúng ta mang đến nơi bàn thờ của lễ xuất phát từ lòng cuộc đời mỗi người chúng ta.
Palestine là một vùng đất hiện vẫn còn rất đông người theo đạo Hồi. Ngày nọ có một vị thầy, lãnh đạo một cộng đoàn Hồi giáo, mời một linh mục Công giáo đến để công khai tranh luận về bí tích Thánh Thể trước sự hiện diện của các tín hữu đôi bên. Vị thầy hỏi:
– Làm sao một miếng bánh nhỏ lại có thể trở thành Đức Kitô được?
Vị linh mục trả lời:
– Được chứ sao lại không? Tôi xin minh chứng cho thầy biết bằng một thí dụ đơn sơ. Nếu thầy ăn cơm, thầy có thể biến cơm thành máu thịt của thầy, có thật thế không nào? Chớ thì tại sao Chúa lại không biến tấm bánh nhỏ trở thành máu thịt Chúa được.
Bậc thầy đó lại hỏi tiếp:
– Làm sao Đức Kitô to lớn như thế lại có thể ở trong miếng bánh nhỏ xíu?
Vị linh mục trả lời:
– Thầy hay nhìn trời, nhìn núi và các thôn làng. Bầu trời thì mênh mông. Ngọn núi thì cao lớn hùng vĩ, còn thôn làng thì rộng rãi bao la, thế mà con mắt nhỏ xíu của thầy có thể chứa được tất cả. Nếu con mắt của Thầy làm được chuyện đó thì tại sao Thiên Chúa lại không thể làm cho miếng bánh nhỏ xíu chứa đựng được Đức Kitô.
Bậc thầy không chịu thua lại hỏi thêm:
– Làm sao có thể cử hành nhiều thánh lễ cùng một lúc tại nhiều nơi trên thế giới, mà mỗi thánh lễ lại có Mình và Máu của Đức Kitô được?
Vị linh mục đáp:
– Đối với Thiên Chúa không có gì là không thể làm được.
Rồi để chứng minh cho câu trả lời này, vị linh mục lấy một tấm gương ném xuống đất khiến nó bể tan thành rất nhiều mảnh nhỏ. Tiếp đến, vị linh mục giơ tay chỉ cho bậc thầy đang ngạc nhiên và nói:
– Trước đây trong tấm gương này, thầy trông thấy gương mặt mình có phải không nào. Và bây giờ thầy cũng trông thấy gương mặt mình trong từng mảnh nhỏ. Thế thì tại sao Thiên Chúa lại không thể hiện diện tại nhiều nơi trong cùng một lúc được.
Cuộc tranh luận trên giúp chúng ta hiểu được phần nào mầu nhiệm Mình Máu Thánh Đức Kitô mà Giáo Hội cử hành mỗi ngày trong bí tích Thánh Thể. Vậy chúng ta phải có thái độ nào khi đi tham dự Thánh lễ?
Thánh lễ không phải là nơi trình diễn thời trang hay văn nghệ. Vì thế xén đầu bớt đuôi không tham dự đầy đủ, biến Thánh lễ thành buổi trình diễn chỉ có ca đoàn độc tấu từ đầu đến cuối, còn cộng đoàn thì yên lặng, là tỏ ra không hiểu gì về ý nghĩa phụng vụ và tinh thần cộng đoàn của Thánh lễ.
Nếu thánh lễ là một bữa tiệc, thì chúng ta phải cố gắng để Lời Chúa đúng là một món ăn thừa thãi. Tuy nhiên khi dọc tiệc, Thiên Chúa muốn chúng ta được ăn uống no say ơn thánh của Ngài. Nhưng vì Bí tích Thánh Thể là bàn tiệc thánh, nên muốn, tiếp nhận Chúa vào cõi lòng, thì linh hồn chúng ta cũng phải ở trong tình trạng ơn thánh, nghĩa là sạch tội trọng. Và hơn thế nữa mỗi khi tham dự Thánh lễ chúng ta hãy duyệt xét lại mọi tư tưởng, lời nói và việc làm của chúng ta xem có phù hợp với Tin Mừng và nhất là chúng ta đã thực sự sống bác ái yêu thương hay không. Bởi vì chúng ta phải làm hoà trước đã, rồi mới đến mà dâng Thánh lễ sau.
9.Lễ Mình và Máu Thánh Chúa – Anmai
Các bài đọc trong Thánh lễ hôm nay đã cho chúng ta thấy rõ Chúa Giêsu khẳng định cho chúng ta: “Ngài chính là Bánh Hằng Sống từ Trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời…”. Ngày xưa, tổ tiên, cha ông của người Do Thái được Chúa ban cho man-na nhưng rồi cũng sẽ chết. Còn với Chúa Giêsu, Ngài là Bánh Hằng Sống, Bánh Hằng Sống chính là Bí Tích Thánh Thể, là Mình và Máu Chúa ban cho con người.
Có người tin và có người không tin. Những người Do Thái không tin nên đã tranh luận sôi nổi sau khi nghe Chúa nói Chúa là Bánh Hằng Sống. Họ không dừng lại ở chuyện tranh luận nhưng họ đã đi quá xa cái chuyện tranh luận và cuối cùng đã dẫn họ đến chuyện kết án tử cho Chúa. Đặc biệt trong giờ phút chia ly, trong giờ phút trước khi chịu án tử, Chúa Giêsu đã trối lại cho các môn đệ Bí Tích Tình Yêu. Bí Tích Tình Yêu của Chúa đã lập hơn 2000 năm qua và Ngài vẫn còn mở ngõ cho sự đón nhận của con người. Ngày xưa vẫn thế và ngày nay vẫn vậy. Có những người không tin đã đành, có những người tin, vẫn đi tham dự Thánh lễ nhưng vẫn chưa sống mầu nhiệm Thánh Thể mà Chúa mời gọi.
Khi được nâng lên thành một Bí Tích, bữa ăn với lương thực chính là Đức Giêsu càng có giá trị vô song, đó là cho con người có chính sự sống của Thiên Chúa, và nhờ đó dần dần được tham dự vào thế giới Thiên Chúa, thế giới của vĩnh hằng và sung mãn. Sự sống ấy đã là cơ nghiệp Chúa Giêsu để lại cho ta rồi, như Ngài đã nói: “Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì có sự sống đời đời và Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết”(Ga 6, 54), cũng như cho con người sống với những kích thước lớn nhất và sâu nhất. Được mang lấy Đức Kitô trong mình, người kitô hữu cũng phải sống tinh thần của Ngài, mà Đức Kitô không sống cho riêng mình nhưng sống cho Chúa Cha và cho nhân loại. Ta trở nên một với Ngài không chỉ trong lúc cử hành Thánh Thể, nhưng cuộc đời của ta phải là một thánh lễ nối dài, đang khi trở về với cuộc sống thường nhật, mỗi người hãy ngợi khen và chúc tụng Chúa.
Chỉ xin đưa ra ba chiều kích nhỏ của việc sống Bí Tích Tình Yêu.
Hiệp thông với Thiên Chúa.
Trong cuộc lữ hành trần thế, Giáo Hội được gọi gìn giữ và cổ võ sự hiệp thông với Ba Ngôi Thiên Chúa và sự hiệp thông giữa các tín hữu. Vì mục tiêu ấy Giáo Hội có được lời Chúa và các Bí Tích, đặc biệt là Bí Tích Thánh Thể, nhờ đó Giáo Hội luôn sống động, tăng triển. Thánh Thể xuất hiện như đỉnh cao của tất cả các Bí Tích, vì nó làm cho nên hoàn thiện mối hiệp thông của chúng ta với Chúa Cha, bằng đồng hoá với Người Con yêu dấu của Người, nhờ hoạt động Chúa Thánh Thần với một đức tin sâu sắc.
Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã viết: “Khi bạn không được rước Mình Thánh Chúa và không tham dự thánh lễ, bạn có thể rước lễ thiêng liêng, đây là một thực hành đem lại nhiều ơn ích, qua đó tình yêu Thiên Chúa sẽ ấn dấu mạnh mẽ trên bạn”.
Việc trở nên chi thể Đức Kitô do Bí Tích Thanh Tẩy thực hiện, không ngừng được đổi mới và củng cố nhờ tham dự vào hy lễ tạ ơn, nhất là việc thông hiệp trọn vẹn qua việc rước lễ. Chúng ta có thể nói rằng không những mỗi người chúng ta tiếp nhận Đức Kitô, nhưng Đức Kitô tiếp nhận mỗi người chúng ta. Người thắt chặt tình bằng hữu với chúng ta: “Anh em là bạn hữu của Thầy” (Ga 15, 14). Quả thật, chính nhờ Người mà chúng ta có sự sống: “Ai ăn Ta sẽ nhờ Ta mà được sống” (Ga 6,57). Việc rước lễ thể hiện cách tuyệt đỉnh việc “ở trong nhau”, giữa Đức Kitô và mỗi môn đệ của Người: “Anh em hãy ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong anh em” (Ga 15, 4). Nhờ cử hành Bí Tích Thánh Thể, ngay từ bây giờ chúng ta được kết hợp với phụng vụ trên trời và tiền dự vào sự sống vĩnh cửu, khi Thiên Chúa có toàn quyền trên mọi sự (1Cr 15, 28).
Bởi thế, thánh Augustino đã kêu gọi: “Chúng ta hãy đến hiệp lễ, với lòng xác tín hiệp thông Mình và Máu Chúa Kitô. Vì dưới hình thức bánh, chính thân xác Người được ban cho bạn, còn dưới hình rượu thì có Máu Người, bạn chỉ còn là một Mình và một Máu với Người”.
Vậy ăn lấy Đức Kitô trong tâm hồn là gì? phải chăng là sự lãnh nhận tinh thần và sự sống của Người, một sự quyện lấy nhau, người này ở trong người kia. Nơi Chúa chỉ có một sự sống duy nhất là sống cho nhau và cho người khác.
Chia sẻ và trao ban.
Trao đổi, chia sẻ trong Bí Tích Thánh Thể được đẩy đến mức tận cùng. Bánh ơn trời, hoa màu của ruộng đất và công lao của con người, xin dâng lên Thiên Chúa! Con người dâng lên và Thiên chúa trao lại tất cả. Chính trong Bí Tích Thánh Thể mà người Kitô Hữu sống lấy giây phút hiện tại, điều mà thánh Gioan đã thốt lên: Thiên chúa đã yêu thương thế gian như thế đó, đến nỗi đã thí ban Người Con Một… (Ga 3,16); và cũng chính trong Bí Tích Thánh Thể mà chúng ta có thể “trút cả mọi lo âu cho Chúa, vì Người chăm sóc chúng ta” (1Pr 5,7). Trong Bí Tích Thánh Thể, chia sẻ không còn chỉ là lời lẽ hay quà tặng bên ngoài, mà là chia sẻ đến mức không tưởng: “Anh em hãy cầm lấy mà ăn, này là Mình Thầy…”. Quà tặng Người trao chính là thân mình tự hiến của Người. Đó là tuyệt đỉnh của tình yêu.
Thân mình tự hiến cho chúng ta, phải chăng chính là để chúng ta biết tự hiến thân mình cho anh em? Chắc hẳn đó mới là sự trao đổi và cũng là sự tưởng nhớ mà Đức Giêsu mong muốn: “Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Đón nhận tấm bánh bẻ ra, thúc giục người Kitô Hữu phải chia sẻ bánh trong cuộc sống hằng ngày, đó là chia sẻ bánh bác ái, những gì chúng ta là và những gì chúng ta có, nó phải biến đổi chúng ta thành những người đồng bàn trong Giáo Hội và với từng con người, nó cũng dạy chúng ta cách phục vụ Giáo Hội qua anh chị em mình.
Việc cử hành Thánh Thể kêu gọi ta thực thi đức ái cách mãnh liệt, bằng cách lưu tâm đặc biệt đến anh em túng thiếu, những người được miêu tả như “bí tích hiện diện của Đức Kitô”. Như thánh Gioan Kim Khẩu đã nói: “Bạn muốn tôn kính thân mình Chúa. Bạn đừng khinh thường khi thấy thân mình này được bao phủ bởi những giẻ rách, sau khi tôn vinh thân mình trong nhà thờ, được vận toàn lụa là, bạn đừng để thân mình bên ngoài bị lạnh, đừng để thân mình này lâm cảnh khốn cùng… Đấng đã nói: “Đây là Mình Tôi”, và bảo đảm với bạn những điều đó là thật, Đấng ấy cũng nói: Điều mà ngươi không làm cho kẻ bé mọn nhất này là chính người cũng không làm cho Ta.
Bí tích Thánh Thể đòi buộc chúng ta phải chăm sóc người nghèo. Để thực sự lãnh nhận Mình và Máu Đức Kitô đã nộp vì chúng ta, chúng ta phải nhận# ra Người trong những người nghèo nhất. Thánh Thể thực sự dẫn đến yêu thương và thái độ phục vụ mà Đức Kitô yêu cầu các môn đệ thực hiện (Lc 22, 24-27; Ga 13, 14). Đáp lại sự tranh chấp của các môn đệ, là hành vi cúi xuống rửa chân của Đức Giêsu. Người đã trở nên gương mẫu yêu thương phục vụ tha nhân cách khiêm nhường (Ga 13, 14-17). Một tình yêu khiến Người trở nên của ăn “Đây là Mình Thầy hiến tế vì anh em” (Lc 22, 19). Một tình yêu được nâng lên thành một luật nền tảng, đúng hơn là một lối sống, làm mô phạm cho mọi người, mọi tương quan trong Giáo Hội “Các con hãy làm như Thầy đã làm cho các con” (Ga 13, 15). Điều này được thực hiện sống động nơi cộng đoàn tiên khởi: hiệp thông, chuyên cần bẻ bánh, cầu nguyện không ngừng, giúp đỡ người nghèo, những khách hành hương, thăm viếng các tù nhân và nuôi dưỡng những ai túng thiếu (Cv 2, 42- 47; 4, 32-35; 5, 14, 46).
Đức ái Kitô Giáo chỉ thực hiện được, nếu tình yêu Thiên Chúa được chuyển từ Đấng Cứu Thế sang cho người khác.
Biến đổi và thăng hoa cuộc sống.
Một câu hát có lẽ đã đi sâu vào ký ức nhiều người:
“Chúa đến thăm con, thăm con mỗi sáng ngày
Linh hồn thấy lại tuổi thơ ngây…”.
Cuộc viếng thăm đích thực nào cũng động chạm tới cõi lòng và làm biến đổi cuộc sống. Biến đổi sẽ đến mức trọn vẹn khi ta có thể thốt lên: “Tôi sống nhưng không phải tôi, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20).
Đức Kitô đến thăm viếng tâm hồn mỗi người Kitô Hữu, nhưng điều quan trọng là sự biến đổi nơi người kitô hữu, người đón nhận cuộc viếng thăm. Nếu sự biến đổi bánh và rượu trở nên Mình và Máu Thánh Chúa Kitô là trên bình diện thân thể, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, thì cũng dưới tác động của Chúa Thánh Thần, người Kitô Hữu biến đổi tận bình diện nào khi lãnh nhận Thánh Thể? Nói khác đi Thiên Chúa viếng thăm, chấp nhận ra khỏi chính mình để mang lấy những gì thuộc về con người, vậy con ngườiù liệu có ra khỏi chính mình để nhận lấy những gì thuộc về Thiên Chúa hay không? Câu trả lời tất nhiên thuộc về Thánh Thần và thái độ tâm hồn của mỗi người chúng ta.
Tham dự Thánh Lễ là tham dự vào bàn tiệc Thánh Thể, là cảm nếm trước bàn tiệc Nước Trời, nơi đó Chúa Kitô mời gọi mọi tín hữu đến rước lấy Ngài để có sự sống đời đời. Do đó mỗi khi tham dự Thánh Lễ, người tín hữu sẽ rước Thánh Thể để nuôi dưỡng đời sống đức tin. Đức ấy phải được hiện tại hóa qua đời sống hằng ngày. Thánh Phaolô đã lưu ý mọi Kitô Hữu về sự kết hợp với Thiên Chúa qua tất cả thụ tạo và việc làm, như một cách hiểu Thánh Thể nối dài trong cuộc sống: “Dù ăn, dù uống hay bất cứ làm việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1Cr 10, 31). Đồng thời ngài cũng cảnh cáo sự chia rẽ giữa các tín hữu với nhau. Nói khác đi, Phaolô lên án việc cử hành Bí Tích Thánh Thể cắt đứt với cuộc sống thật: Tất cả cùng hiệp thông với một thân mình Chúa Kitô qua tấm bánh và chén rượu duy nhất, nhưng lại phân biệt giàu nghèo và chia rẽ nhau” (1Cr 11, 17-34).
Bữa tiệc Thánh Thể phát sinh một hiệu quả thánh hóa thân xác ta. Thánh Thể tác động một cách thần thiêng, gây ảnh hưởng không phải bằng sự đụng chạm khả giác nhưng bằng sự lan tỏa Chúa Thánh Thần, mà Mình Thánh Chúa đang mang theo. Phẩm giá của xác thịt nhân loại ngày càng trở nên cao trọng nhờ việc rước Thánh Thể. Một cách mầu nhiệm, Đức Kitô đến che giấu sự cao cả của xác thịt Ngài trong xác thịt hèn hạ của chúng ta, và muốn cho xác thịt ta tham dự vào việc thần hóa nhân tính. “Thân xác ta là đền thờ của Thiên Chúa”. Chính vì thế, thân xác ta phải được biến đổi và tinh sạch. Vì nó thuộc về một ngôi vị con người và chia sẻ sự cao trọng của ngôi vị ấy. Nhất là nó đã trở nên nơi ở của Thiên Chúa, khi ta đón rước Chúa Ba Ngôi ngự vào lòng. Đối với người hấp hối, khi rước của ăn đàng, họ đón nhận được Đức Kitô là Đấng sẽ đưa linh hồn họ sang cõi sống bên kia, và đồng thời trong thân xác sắp tan rã, họ cũng nhận được sự bảo đảm có một sự sống trổi vượt, sẽ thắng được sự chết vào ngày thế mạt. Của ăn đàng đưa linh hồn vào hạnh phúc trên trời và đưa thân xác đến phúc sống lại.
Như thế, Thánh Thể là suối nguồn bình an sâu thẳm, vì nó xác nhận việc con người hòa giải cùng Thiên Chúa. Thánh Thể còn phát sinh ra sự bình an, bởi lẽ nó mang lại cho con người điều thiện hảo duy nhất có thể làm cho con tim thỏa mãn, là chiếm hữu được chính Thiên chúa. Nhờ đó khi gặp cơn cám dỗ, sự bình an ấy giúp con người được bình tĩnh và tín thác vào sự che chở của Thiên Chúa.
Nhớ lại câu dẫn vào Thánh lễ rất quen thuộc của một cha giáo: “Anh em thân mến! Mỗi một lần chúng ta tham dự Thánh lễ là mỗi một lần chúng ta biến đổi cuộc đời chúng ta nên một với Đức Giêsu. Sau mỗi lần tham dự Thánh lễ mà chúng ta không để cho cuộc đời chúng ta nên một như Đức Giêsu thì Thánh lễ chúng ta tham dự trở nên vô ích”.
Nghe một lần chưa thấm, nghe nhiều lần rồi thấm và phải suy nghĩ. Đúng như vị linh mục ấy nói. Nếu cứ tham dự Thánh lễ xong rồi cuộc đời đâu lại vào đấy thì quả là chán vì khi ta tham dự Thánh Lễ, ta được kết hợp với Thiên Chúa là nguồn vui, nguồn bình an, nguồn hạnh phúc thật của đời ta.
Và bài hát rất quen thuộc của linh mục nhạc sĩ Thành Tâm: “Ta về thôi vì Thánh lễ đã hết, nhưng đời ta là thánh lễ nối dài, mang tình thương Thiên Chúa đến mọi nơi, ta sống sao để thành chứng nhân!”. Thánh lễ nào cũng kết thúc, cũng chia tay, cũng tạm biệt nhưng Thánh lễ sẽ không kết thúc, không tạm biệt, không chia tay với cuộc sống của ta. Hoa quả của Thánh Lễ, hoa quả của Bí Tích Thánh Thể chính là lối sống, hành vi, lời ăn tiếng nói, cách cư xử của mỗi người chúng ta với anh chị em đồng loại.
Thánh Phaolô mời gọi chúng ta sống kết hiệp với Chúa như Ngài đã kiết hiệp: “Tôi sống nhưng không còn là tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20). Ước gì mỗi Kitô hữu cũng mặc lấy, cũng sống lấy tâm tình của Thánh Phaolô để mọi người xung quanh chúng ta nhìn vào chúng ta họ thấy có một Đức Giêsu đang hiện diện với họ.
Nguyện xin Chúa Giêsu Thánh Thể đến và ở lại với mỗi người chúng ta và xin Ngài làm chủ cuộc đời mỗi người chúng ta. Xin Chúa nuôi dưỡng và gìn giữ chúng ta đi qua cuộc lữ hành trần thế này để mai kia chúng ta được cùng hưởng nhan Thánh của Ngài trên Thiên Quốc.
10.Thần lương – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Vào năm 1263, tại nhà thờ thánh Catherine, thành Bolsène nước Ý, có một linh mục trong khi dâng lễ, sau khi đọc lời truyền phép đã nghi ngờ về bánh và rượu trở thành Mình và Máu Chúa. Xảy ra là Máu Thánh chảy ướt khăn thánh và khăn bàn thờ. Đức Giáo Hoàng nghe tin và đã rước khăn thánh về để tạm tại nhà thờ Orviette. Sau đó, xây nhà thờ để thờ kính Máu Chúa nơi Khăn Thánh này. Ngày 8 tháng 9, 1264, Đức Giáo Hoàng Urbanô IV (1262-1268) đã ban hành tự sắc Transiturus, lập lễ kính Mình Máu Thánh Chúa Kitô và cử hành sau tuần 8 ngày của lễ Chúa Thánh Thần. Thánh Tôma Aquinô đã sáng tác bài Pange Lingua và Adoro Te để tôn kính Mình Máu Thánh Chúa.
Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ muôn loài và quan phòng mọi sự một cách lạ lùng. Mọi thụ tạo trong hoàn vũ đều thay đổi mỗi giây phút. Các loài có sự sống từ thực vật, động vật đến sinh vật đều theo một tiến trình phát triển, có sinh và có tử. Trong mọi loài Chúa đã dựng nên, được phát triển và nẩy nở theo thời gian năm tháng tùy theo mỗi loại. Nơi mọi loài có sự sống, đều phải hấp thụ dưỡng chất qua môi trường chung quanh để sinh tồn. Có nghĩa mọi loài hiện hữu cần có ăn uống, hấp thụ, tiêu hóa, đào thải, phát triển, già nua và tiêu diệt. Ăn uống là nhu cầu cần thiết để sống và sinh tồn. Ngày xưa dân Do-thái lữ hành trong sa mạc trên đường về miền Đất Hứa, Thiên Chúa đã nuôi dân bằng Manna, thịt chim cút và nước nguồn. Chúa đã nuôi dân suốt thời gian: Trong hoang địa, Người đã nuôi các ngươi bằng Manna mà cha ông các ngươi chưa từng biết tới (Đnl 8, 16a). Manna lương thực nuôi dưỡng hằng ngày là hình ảnh của bánh trường sinh.
Khi ra rao giảng tin mừng, Chúa Giêsu đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân. Cả bốn phúc âm đều kể lại sự kiện biến hóa 5 chiếc bánh và 2 con cá nhỏ. Chúa Giêsu đã cầm bánh và cá, ngước mắt lên trời, tạ ơn và bẻ ra trao cho các tông đồ và các tông đồ trao cho hơn năm ngàn người ăn no nê và còn dư thừa. Chúa rộng ban một cách dồi dào dư giả. Chúa Giêsu nhận biết các nhu cầu cả tâm linh lẫn thể xác của những người đang đi theo Chúa. Chúa Giêsu đã dậy dỗ họ và đã nuôi dưỡng họ. Nhưng chúng ta biết Chúa đến trần gian không nhằm đáp ứng mọi nhu cầu đòi hỏi về thân xác của con người. Chúa làm phép lạ để minh chứng về sứ mệnh cứu độ của Chúa và để chuẩn bị tinh thần họ đón nhận của ăn cao quí hơn. Đó chính là của ăn nuôi hồn và là thần lương tinh tuyền. Chúa muốn dùng chính thân mình Ngài làm của ăn ban sự sống đời đời.
Chúa Giêsu đã lập Bí tích Thánh Thể trong bữa tiệc ly, trước khi Ngài chịu chết. Như đã hứa, Chúa Giêsu đã chọn bánh miến và rượu nho làm của ăn nuôi hồn. Chúa Giêsu thiết lập Bí tích Thánh Thể: Ngài cầm lấy bánh, tạ ơn, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ và nói: Tất cả các con hãy nhận lấy mà ăn vì này là Mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con. Rồi Ngài cầm lấy chén rượu, tạ ơn, dâng lời chúc tụng, trao cho các môn đệ và nói: Tất cả các con hãy nhận lấy mà uống, vì này là chén máu Thầy, máu giao ước mới và vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được ơn tha tội. Và truyền: Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy. Khi Chúa nói: Đây là Mình Thầy và đây là Máu Thầy, thì bản thể của bánh và rượu trở nên Mình và Máu Thánh Chúa. Chúng ta hiểu Chúa Giêsu nói: Đây là Mình Thầy, chứ không phải là dấu chỉ của Mình Thầy.
Chúng ta có thể nhận biết hình dáng bên ngoài của bánh và rượu như mầu sắc, mùi vị, hình thù và kích cỡ. Trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta không thể nhìn thấy Chúa Kitô với con mắt trần. Chúng ta chỉ có thể nhìn với con mắt đức tin. Chúng ta tin rằng Chúa Kitô hiện diện trọn vẹn trong hình bánh rượu, bởi vì Chúa đã sống lại và không còn chết nữa (Rm 6, 9). Với quyền năng vô biên, Chúa đã biến đổi bánh và rượu trở nên Mình và Máu Thánh Chúa. Chúng ta học biết chính Chúa đã tạo dựng vũ trụ muôn loài từ hư vô. Chúa hóa bánh nuôi năm ngàn người. Chúa biến nước thành rượu tại tiệc cưới Cana. Chúa cho kẻ chết sống lại. Chúa đã làm rất nhiều phép lạ để chứng minh quyền năng vô biên. Bí tích Thánh Thể là sự lạ vượt trên tầm trí hiểu của con người. Đây là mầu nhiệm của đức tin.
Chúng ta có thực sự tin Chúa Giêsu ngự thật trong Bí tích Thánh Thể không? Chúng ta có tin bánh và rượu thực sự trở nên Mình và Máu Thánh Chúa Kitô sau khi linh mục đọc công thức truyền phép trong thánh lễ không? Trong cuộc thăm dò ý kiến (Gallup poll) mới đây về thái độ của một số người Công giáo về Bí tích Thánh Thể. Kết qủa làm cho nhiều người Công giáo bị lo lắng xôn sao về một trong những niềm tin căn bản nhất của Giáo Hội. Nói rằng chỉ có 30 phần trăm những người được hỏi ý kiến, tin là họ đã lãnh nhận Mình và Máu Thánh, linh hồn và thần tính của Chúa Giêsu Kitô dưới hình bánh và rượu trong khi rước lễ.
Trải qua truyền thống của hai ngàn năm, lời Kinh Thánh và giáo huấn của Giáo Hội luôn dậy rằng Bí tích Thánh Thể chính là Mình và Máu của Giêsu Kitô, không còn là bánh và rượu bình thường. Phúc âm thánh Gioan chương 6 đã nêu rõ: Bấy giờ, Chúa Giêsu nói với họ: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Người, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi (Ga 6, 53). Chúa Giêsu nhấn mạnh về Thịt và Máu, chứ không phải chỉ là biểu tượng. Vì có một số môn đệ nghe lời Chúa nói về ăn thịt và uống máu Ngài, họ đã không thể chấp nhận và đã bỏ đi. Chúa Giêsu không kêu gọi các ông trở lại để giải thích rằng Ngài chỉ có ý nói một cách biểu trưng. Chúa Giêsu xác tín lời thật: Ai ăn thịt và uống Máu Ta, thì có sự sống đời đời và Ta, ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết (Ga 6, 54).
Thời kỳ Giáo Hội sơ khai đã khắc cốt ghi tâm những lời truyền này một cách rất cẩn thận. Thánh Phaolô trong thơ gởi cho tín hữu thành Corintô đã làm rất sáng tỏ: Bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa (1Cor 11, 27). Phaolô đã tin nhận bánh và rượu trở nên Mình và Máu Chúa Kitô thực sự. Giáo Hội luôn luôn dạy rằng qua lời truyền phép của linh mục trong Kinh Nguyện Thánh Thể, bánh và rượu đã được biến đổi bản thể. Mặc dầu hình dạng bề ngoài vẫn là bánh và rượu, nhưng bởi quyền năng của Chúa, bánh rượu đã trở nên Mình và Máu Thánh Chúa. Làm sao chúng ta có thể hiểu biết điều này? Đòi hỏi niềm tin. Sau khi truyền phép, linh mục nâng Mình Máu Chúa và tuyên xưng: Đây là mầu nhiệm đức tin. Là mầu nhiệm, giống như tình yêu, chúng ta không bao giờ hiểu thấu hoàn toàn. Tất cả mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, thần tính của Chúa Giêsu, sự Chết và Sống lại của Chúa Kitô đều là những mầu nhiệm.
Nhận lãnh Bí tích Thánh Thể, chúng được thông hiệp với Chúa và với nhau: Tấm bánh mà chúng ta bẻ ra chẳng phải là thông hiệp vào Mình Chúa đó sao?(1Cor 10, 16b). Thánh Thể liên kết chúng ta nên một. Thánh Phaolô diễn tả rất rõ: Vì có một tấm bánh, nên chúng ta tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể, vì hết thảy chúng ta thông phần cùng một tấm bánh (1Cor 10, 17). Chúa Giêsu đã dùng của ăn cụ thể nuôi thân xác để biến đổi trở thành của ăn nuôi hồn. Chúa hiện diện với đoàn con cái mọi nơi và mọi lúc qua Bí tích Thánh Thể trong Nhà Tạm.
Lạy Chúa, với quyền năng vô biên, Chúa đã nuôi dưỡng chúng con bằng bánh hằng sống. Xin cho chúng con biết chuẩn bị tâm hồn xứng đáng để lãnh nhận của ăn thiêng liêng và hồng phúc này. Xin cho chúng con đáng hưởng phần gia nghiệp Chúa hứa ban: Ai ăn thịt và uống Máu Ta, thì có sự sống đời đời.
Sau mỗi trận đấu bóng đá, chúng ta thường thấy các cầu thủ đổi áo cho nhau để làm kỷ niệm, hoặc những người lính trước khi ra chiến trận, hay tặng cho nhau chiếc lược, cây viết, để sau này còn nhớ đến nhau, nhớ lại thời kỳ oanh liệt đã qua. Lãng mạn hơn nữa, là những người vợ, người chồng hoặc hai người yêu nhau, trước khi đi xa cũng thường trao cho nhau những chiếc nhẫn để khi nhớ đến nhau nhìn vào kỷ vật như đang thấy được người yêu, người vợ bên cạnh, cho dù lúc đó họ đi xa, hay đã mất. Cũng thế, trước khi về trời, trong bữa tiệc ly, Đức Giêsu cũng để lại cho con người một kỷ vật tình yêu, đó là việc Chúa lập phép Thánh Thể để lưu lại cho loài người một bằng chứng tình yêu vĩ đại. Thật vậy, kỷ vật mà Thiên Chúa để lại cho chúng ta không giống như kỷ vật mà con người để lại cho nhau. Kỷ vật của Ngài không phải vàng bạc, cũng chẳng phải tiền của, nhưng kỷ vật mà Đức Giêsu lưu lại cho loài người hết sức đặc biệt, mà từ xưa đến nay tôi chưa thấy ai làm, đó chính là bản thân Ngài, chính Mình Ngài, là một kỷ vật tình yêu huyền nhiệm với hai đặc tính:
Thứ nhất, là kỷ vật được phát xuất từ tình yêu cao thượng
Kỷ vật mà con người trao cho nhau cũng được phát xuất từ tình yêu giữa hai người bạn, hai người thân, hai người yêu hay hai vợ chồng, nói chung tình yêu này được phát xuất giữa con người với con người. Còn kỷ vật mà Đức Giêsu để lại phát xuất từ tình yêu giữa Thiên Chúa với con người, giữa Đấng Tạo Hoá với loài thụ tạo. Vậy có tình yêu nào cao cả cho bằng tình yêu khiêm hạ như thế, có ngôn từ nào để diễn tả cho hềt tình yêu đó. Hơn nữa, kỷ vật mà Thiên Chúa trao ban chính bằng xương bằng thịt Ngài, một kỷ vật sống chứ không phải như những kỷ vật chết mà con người trao cho nhau. Thật là một sáng kiến lạ lùng mà chỉ có tình yêu Thiên Chúa mới nghĩ ra được điều đó, là lấy máu thịt Ngài để làm của ăn, của uống nuôi sống chúng ta
Thứ hai, kỷ vật từ trời và hằng sống
Trước khi trao kỷ vật cho con người thiên Chúa đã chuẩn bị từ ngàn xưa và được manh nha khá rõ khi dân Do Thái đi trong sa mạc, đã được Thiên Chúa cho thứ lương thực Manna “bánh từ trời”. Đó chính là hình ảnh tiên báo về thứ Bánh Hằng Sống Thiên Chúa sẽ ban chính là Mình và Máu Chúa, Bánh Ngài ban chính là Bánh từ trời, như chính Đức Giêsu đã khẳng định: “Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn và họ đã chết”. Đúng vậy, bánh mà Chúa ban chính là Chúa Giêsu, Đấng “từ Chúa Cha mà ra” đã trở thành kỷ vật trường tồn giúp cho con người sống khoẻ, sống mạnh, sống đẹp ở đời này, vừa bảo đảm cho sự sống lại và cuộc sống vĩnh cữu vì “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi, thì Tôi sống trong người ấy và Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết và được sống đời đời”.
Như vậy, kỷ vật mà Thiên Chúa để lại cho loài người không phải là do công trạng của con người, mà là do sáng kiến tình yêu của Thiên Chúa, kỷ vật này không phải ở trần gian mà là từ trời xuống, kỷ vật này cũng không như Manna ăn mà vẫn chết, nhưng được sống đời. Do đó, ai biết đến với Chúa nhận lấy kỷ vật mà Ngài trao ban sẽ thuộc về Chúa ngay từ đời này và mai này sẽ thuộc về Ngài mãi mãi. Vì kỷ vật này là dấu chỉ cho đời sống vĩnh cữu đã khởi sự, và là bảo chứng cho sự sống lại vào ngày sau hết. Đó là ý nghĩa mầu nhiệm Mình máu Thánh Chúa mà chúng ta long trọng cử hành hôm nay.
Vì yêu mà con người trao kỷ vật cho nhau, ngày ngày họ quý trọng và nâng niu kỷ vật như chính người yêu đang sống với họ vậy. Còn Bí Tích Thánh Thể, một kỷ vật tình yêu Thiên Chúa, đã ban cho loài người thì sao? Ngài cũng muốn chúng ta nâng niu quý trọng và sống mật thiết với Ngài, nghĩa là đồng hoá với Ngài, nên giống Ngài trong tư tưởng lời nói và hành động. Để làm dược điều đó cần có đức tin và lòng khao khát, vì thiếu đức tin mà trong bài Tin Mừng hôm nay người Do Thái trở nên bỡ ngỡ không thể chấp nhận điều Đức Giêsu nói, có lẽ vì họ hiểu theo nghĩa qua vật chất, nên không còn thấy cái thiêng liêng nữa. Đúng là: “khi người ta tham lam những cái phù vân, người ta sẽ trở nên lạnh nhạt với những cái vĩnh cữu” hay “quá chăm chú về phần xác sẽ nhếch nhác về phần hồn”.
Vậy, để sống tốt với kỷ vật mà Thiên Chúa để lại, chúng ta cần có đức tin và lòng khao khát được thể hiện qua việc năng tham dự Thánh Lễ và Rước Lễ, vì “phúc cho ai được mời đến dự tiệc chiên Thiên Chúa” tất cả chúng ta đều được mời đến dự tiệc Thánh Thể, thế nhưng có khá đông người tham dự Thánh Lễ mà không rước lễ, có khác chi được mời đến dự tiệc mà chẳng ăn uống gì, chỉ ngồi đó “nhìn miệng” người khác ăn rồi ra về sao. Về việc đi lễ, cha mẹ càng phải trở nên tấm gương cho con mình hơn vì “cha nào con nấy”, chúng ta không thể làm biếng mà con mình trở nên siêng năng được. Như câu truyện Thầy Thỏ mở lớp dạy học…. Vì thế, cha mẹ phải trở nên gương sáng thì con mình sẽ làm theo.
Ngoài việc đi lễ, rươc lễ còn phải đi tham dự tham lễ cách tích cực, thưa kinh ca hát với cộng đoàn có tâm tình và lòng sốt mến, chứ không phải kiểu đi lễ cho có, đi cho khỏi mắc tội, hoặc ngồi dửng dưng thờ ơ kiểu “hồn con đây mà xác con đâu”, hay kiểu:
“khen ai khéo đúc chuông chì
dáng thì có dáng, đánh thì không kêu”
Chỉ có bề ngoài mà không có bên trong. Nếu chỉ tham dự thánh lễ như thế thì chúng ta quá dửng dưng với kỷ vật mà Thiên Chúa đã ban, nghĩa là chúng ta đang dửng dưng với Chúa, vì kỷ vật là chính Chúa, là Mình Máu Thánh Chúa mà chúng ta đang cử hành trong thánh lễ hôm nay.
Vậy, mỗi người hãy nhìn lại xem mình đến với Chúa bằng tâm tình nào? Đang đi xem một vật triển lãm chăng? Hay đang đi thư giãn vì một tuần làm việc vất vả? Không! Như vậy thì thật sai lầm, vì Chúa để lại kỷ vật cho con người không phải để nhìn, để xem, mà là để sống, sống với Chúa, sống cách chân tình, không những bằng thể xác, tâm hồn, con tim mà bằng cả con người biết kết hiệp mật thiết với Chúa và trở thành một với Ngài như thánh Phaolô đã từng thốt lên: “Tôi sống nhưng không phải là tôi, mà là Đức kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Amen.
12.Tấm bánh tình yêu – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Mỗi khi chiêm ngắm Thánh Thể Chúa, tôi không ngừng ngỡ ngàng trước tình yêu của Người. Tình yêu ấy vô cùng cao cả nhưng lại rất đỗi đơn sơ. Đơn sơ như hình ảnh tấm bánh.
Tấm bánh, tình yêu gần gũi.
Sao Chúa không hoá thân làm viên kim cương quý giá mà lại làm một tấm bánh? Tấm bánh bình thường, quen thuộc quá. Từ khi kinh tế phát triển, bánh càng ngày càng xuống giá, bớt được quý trọng.
Tuy bình thường, nhưng bánh vẫn là lương thực cần thiết cho con người. Cũng như khí trời, như nước, bánh đi vào sinh hoạt hằng ngày của con người. Bình thường lắm nhưng không có không được.
Chúa trở thành tấm bánh để gần gũi với loài người, để đi vào sinh hoạt đời thường của con người. Con người có thể đến với Chúa dễ dàng, không e ngại, sợ sệt. Chỉ là một tấm bánh vừa tầm tay mọi người. Chỉ là một tấm bánh sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của con người. Thật khiêm nhường mà đầy ý nhị.
Thật đơn sơ nhưng cũng thật sâu xa vì tấm bánh nói lên tình yêu tự hiến.
Tấm bánh, tình yêu tự hiến.
Bánh sẽ chẳng còn ý nghĩa nếu chỉ để trưng bày cho người ta chiêm ngắm. Bánh chỉ có ý nghĩa khi được sử dụng. Được sử dụng là bị bẻ ra, bị nghiền nát, bị tan biến, bị tiêu hoá. Vì thế, trở thành tấm bánh là chấp nhận chịu đau đớn, chịu huỷ hoại. Đây không phải là một chấp nhận bất đắc dĩ, vì tấm bánh bao giờ cũng mời mọc tiêu thụ.
Khi xưng mình là bánh bởi trời, Chúa Giêsu bày tỏ một tình yêu tha thiết, sẵn sàng chịu nghiền nát, tan biến, chịu chết cho nhân loại. Chúa chịu chết cho ta được sống. Chúa chịu huỷ hoại cho ta được lành lặn các thương tích. Chúa bé nhỏ đi cho ta được lớn mạnh.
Tấm bánh bị tiêu hoá để thực hiện một tình yêu hiệp thông.
Tấm bánh, tình yêu hiệp thông.
Chúa Giêsu tha thiết với sự hiệp thông. Người không ngừng mời gọi con người đến sống thân mật với Người. Người tự nhận mình là cây nho và mời gọi mọi người hãy trở thành cành nho gắn kết với cây nho.
Hôm nay, Người còn chủ động trở thành tấm bánh để hoà vào từng giòng máu, từng thớ thịt của con người trong một kết hiệp sâu xa. Người tự tiêu huỷ mình để trở thành thịt máu của con người. Không còn sự kết hợp nào sâu xa khăng khít hơn nữa.
Tấm bánh gợi lên một bàn tiệc tại đó anh em quây quần trong tình thương, chia sẻ lương thực và chia sẻ tâm tình. Không còn gì đẹp hơn. Chính Chúa Kitô tự hiến mình để quy tụ chúng ta. Chính Chúa Kitô bị bẻ ra để cho tình huynh đệ nhân loại được mặn mà thắm thiết.
Với những gợi ý như thế, Chúa hướng dẫn tôi trong tình yêu mến, trong cử hành và trong cách sống Bí tích Thánh Thể.
Yêu mến Bí tích Thánh Thể là gì nếu không phải là trở nên hiền lành khiêm nhường, sống gần gũi với những người nhỏ bé nghèo hèn?
Cử hành Bí tích Thánh Thể là gì nếu không phải là chấp nhận hao mòn, quên mình, thiệt thòi vì Chúa và vì anh em?
Sống Bí tích Thánh Thể là gì nếu không phải là xây dựng tình đoàn kết, tình huynh đệ với những người sống quanh ta, trong mọi môi trường cuộc sống?
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, con cảm tạ tình yêu vô biên của Chúa. Con chúc tụng ngợi khen Chúa muôn đời. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Khi dâng lễ, tấm bánh có gợi lên cho bạn điều gì về tình yêu của Đức Giêsu không?
2) Khi bạn rước lễ, bạn có cảm nghiệm được tình yêu của Chúa không?
3) Phép Thánh Thể thôi thúc bạn làm gì?
13.Thịt Máu Chúa là của nuôi hồn
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Ngoài sống vui, sống khỏe, sống hạnh phúc, con người ở mọi nơi mọi thời vẫn hằng khao khát sống sống trường sinh. Thế nên, người ta ra công tìm mọi cách để kéo dài sự sống bao lâu có thể. Một trong những thứ đó là “Bánh” mà phụng vụ lễ Mình Máu Thánh Chúa năm A đề cập đến: bánh vật chất, bánh Giêsu và bánh Thánh Thể.
Manna của ăn trong sa mạc
Trong sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa đối với dân mà Ngài đã cưu mang và dẫn ra khỏi Ai cập. Trên hành trình về Đất Hứa để chứng tỏ tình thương và lòng thành tín của Chúa đối với dân giữa xa mạc khô cằn, Ngài đã ban cho họ Manna, theo Môsê, “Đó là bánh Thiên Chúa ban… làm của ăn” (Xh 16, 16), không chỉ làm lương thực đi đường mà còn giáo huấn họ về lòng yêu thương vô cùng của Chúa.
Thật đáng ngưỡng mộ, Thiên Chúa đã làm mưa Manna từ trời xuống mỗi ngày cho cha ông chúng họ ăn no thỏa thích. Đó là lý do tại sao người ta nói: “Bánh Thiên Thần phàm nhân được hưởng” (Tv 77, 25). Nhưng cho dù là Manna từ trời xuống nuôi dân Israel trong sa mạc, hay bánh Thiên Thần mang đến cho Êlia nuôi sống người ta 40 ngày cùng lắm là 40 năm đi nữa, thì những thứ bánh đó cũng chỉ nuôi sống con người cách rất tạm bợ, kẻ ăn những thứ bánh ấy vẫn đói, vẫn khát và vẫn phải chết. Hôm nay, Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta bánh bởi trời xuống là chính Chúa, Người đến làm no thỏa cái đói tinh thần con người, ai ăn chính Người sẽ khỏi đói muôn đời, và nhất là khỏi chết đời đời: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời” (Ga 6, 51).
Bánh Giêsu
Chúa Giêsu là bánh từ trời xuống, là hồng ân bởi trời, có khả năng duy trì sự sống không phải chỉ trong một lúc hay một đoạn đường, mà luôn mãi. Người là lương thực ban sự sống đời đời, bởi vì Người là Con Một Thiên Chúa, ở cung lòng Thiên Chúa Cha, đến để trao ban cho con người sự sống tràn đầy, dẫn con người vào trong chính sự sống của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã thất bại, gặp phải điều cấm kỵ trong dân Israel khi tuyên bố: “Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống” (Ga 6, 51 ). Người dẫn chứng: “Cha ông các ngươi đã ăn Manna trong sa mạc và đã chết”, khiến họ tranh luận với nhau: “Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được? ” (Ga 6, 52). Họ không vượt qua được nguồn gốc trần thế của Chúa Giêsu, vì thế họ khước từ tiếp nhận Chúa Giêsu như Lời nhập thể của Thiên Chúa. Và như một hệ quả, họ đã mang án tử để đi vào cõi chết vì không tin. Họ còn quá xa bánh bởi trời và không cảm thấy đói bánh ấy.
Thế giới ngày nay có rất nhiều người đói và cần bánh. Có người cam chịu chết đói, chết vì cô đơn, vì thiếu hy vọng, nhưng cũng có nhiều người cần đến Chúa Giêsu. Có ba cái đói và ba phương thế để chuyển hóa ba loại bánh: bánh vật chất, bánh Giêsu và bánh Thánh Thể.
Bánh Giêsu là bánh quan trọng nhất. Nếu không có Chúa Giêsu, chúng ta không thể sống như lời Chúa nói “Không có Thầy, anh em không thể làm gì được” (Ga 15,5). Tuy nhiên, Chúa muốn nuôi dưỡng những người đói khát. Có lẽ Chúa nghĩ rằng đó là một cách tốt để mạc khải và biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa là Đấng Cứu Thế. Nhưng Chúa cũng muốn trở thành bánh cho chúng ta, để nuôi dưỡng chúng ta trong hành trình dương thế, ngõ hầu chúng ta được ở lại trong tình yêu của Chúa mà được sống đời đời. Người khuyên chúng ta phải tìm kiếm và sống trong Người. Khi nuôi dưỡng những kẻ đói khát, Chúa chỉ cho chúng ta tình yêu tự hiến của Chúa trong Bí tích Thánh Thể: “Ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời” (Ga 6,58). Theo thánh Augustinô thì “khi chúng ta ăn Chúa Kitô, là chúng ta ăn sự sống (…), thật vậy, giả như, anh em tự tách mình ra không ăn thịt và uống máu Chúa nữa, anh em sẽ không có sự sống”.
Muốn sống đời đời, hãy ăn Bánh Giêsu
Xưa kia Chúa Giêsu mời gọi những người Do thái, giờ đây Chúa bảo chúng ta hãy đến mà ăn cho no uống cho thỏa. Nếu chúng ta khao khát sự sống trường sinh, thì đây là cơ hội tốt để có được mầm sống ấy. Hãy đến gặp Chúa Giêsu và đón nhận Người, bởi chính Người: “Là Bánh Hằng Sống” (Ga 6,51).
Thật hạnh phúc khi được mời gọi ăn thịt và uống máu Chúa Giêsu để được sống đời đời: “Ai ăn thịt và uống máu Ta thì có sự sống đời đời” (Ga 6, 54) và hơn thế nữa còn được Người đến cắm lều ngay nơi lòng kẻ ấy: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy” (Ga 6, 56). Chúa Giêsu là bánh bởi trời xuống làm no thỏa cái đói, cái khát, nhất là cái ước vọng lớn nhất của con người mọi nơi mọi thời là sự sống đời đời.
Thánh Thể thần lương vượt thế trần
Nếu như trong sa mạc, Manna là quà tặng do lòng thương xót của Chúa dành cho dân, lương thực cứu đói tạm thời, nay Mình Máu Thánh Chúa là lương thực giúp người tín hữu có đủ sức, đủ nghị lực vượt qua trần thế về tới quê trời hưởng phúc vinh quang.
Trong sa mạc, manna chứng tỏ Chúa không bỏ dân của Chúa, ngày nay Chúa ở giữa Hội Thánh và trong thế giới bằng chính mình trong bí tích Thánh Thể. Nhờ Bí tích ThánhThể, người cô đơn tìm được nguồn an ủi ; người yếu đuối tìm được sức mạnh; người tội lỗi tìm được ơn tha thứ ; người đau yếu tìm được sự chữa lành ; người bất hạnh tìm được nghị lực tinh thần ; người hấp hối tìm được sự đỡ nâng ; người bị bỏ rơi tìm được nguồn tình yêu chất chứa đầy sự thông cảm và âu yếm… Và còn một ý nghĩa rất quan trọng, manna ngày xưa của ăn trong sa mạc, Thánh Thể thần lương vượt thế trần.
Lạy Chúa Giêsu ngự thật trong phép Mình Thánh, xin cho con biết ra đi tìm kiếm của ăn không hư nát là chính Chúa và đón rước Chúa hầu được sống muôn đời. Amen.
14.Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Này là Mình Thầy… Này là Máu Thầy hiến tế vì anh em (Ga 6, 51-59)
Theo truyền thống từ thế kỷ XIII, vào ngày thứ Năm sau lễ Chúa Ba Ngôi, tức 60 ngày sau lễ Phục sinh, Giáo hội cử hành lễ kính Mình Máu Thánh Chúa. Lễ này do Đức Ubanô IV thiết lập ngày 11 tháng 8 năm 1264 còn gọi là lễ của Chúa, lễ Mình Máu Thánh Chúa. Vì hôm nay, Giáo hội không chỉ cử hành lễ Mình và Máu Thánh Chúa Kitô, Festum Corporis Christi, mà còn rước kiệu trọng thể Mình Thánh Chúa ra khỏi nhà thờ, đi trên các nẻo đường, vừa đi vừa hát bài: “Chúa nuôi dân bằng lúa mì tinh hảo, mật ong rừng, Người cho hưởng thỏa thuê” (Ca nhập lễ – lời của thánh Tôma Aquinô). Để loan truyền công khai rằng: Chúa Giêsu hiện diện thực sự trong Bí tích Thánh Thể và Hy tế của Chúa Kitô là ơn cứu độ cho toàn thế giới.
Cử hành Thánh Thể
Giáo hội công khai cách long trọng Bí tích Mình và Máu Thánh Chúa Kitô, mầu nhiệm được thiết lập trong bữa Tiệc Ly và hằng năm được tưởng nhớ vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh, nay được biểu lộ cho hết mọi người, bởi đức tin sốt mến và lòng sùng kính của cộng đoàn Giáo hội.
Trên bàn thờ Chúa, chúng ta đã thấy tận mắt Bánh và Rượu được truyền phép. Nhưng cần phải được soi sáng, chúng ta mới nhận biết và tin rằng Bánh chính là Mình Chúa Kitô và Rượu là Máu Chúa Kitô. Thật không có ngôn ngữ nào có thể diễn tả hết niềm tin của chúng ta: Làm sao Bánh lại có thể là Mình Chúa Kitô và Rượu lại là Máu Chúa Kitô được?
Chúng ta tin Chúa Giêsu hiện diện thực sự trong Bí Tích Mình Thánh. Bánh thánh trở thành Bí tích cần thiết để nuôi dưỡng linh hồn chúng ta, và dẫn dắt chúng ta trên đường về tới thiên đàng! Trước khi về Trời, Chúa Giêsu đã hứa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20). Người ở lại với chúng ta thế nào? Bí tích Thánh Thể là kho tàng cao quí thực hiện lời hứa trên.
Chúa Giêsu hiện diện thật sự giữa chúng ta. Giáo hội quả quyết rằng: Sự hiện diện thật của Người trong Bí tích Thánh Thể là chân lý cơ bản của Đức tin Công giáo. Chúng ta phải tôn thờ, Tấm Bánh truyền phép được đặt trước mặt chúng ta nói về quyền năng vô cùng của tình yêu được bộc lộ trên Thánh Giá vinh hiển. Bánh Thánh nói cho chúng ta về sự hạ mình khó tin của Đấng đã biến mình, hiện diện khiêm tốn dưới hình bánh và hình rượu.
Thánh Tôma Aquinô cho chúng ta biết: Con độc nhất của Thiên Chúa, muốn cho chúng ta thông phần vào thiên tính của Chúa, đã làm người. Để cứu chuộc con người, Người đã đổ máu mình ra rửa chúng ta sạch muôn vàn tội lỗi, giao hòa chúng ta với Chúa Cha trên bàn thờ Thập Giá.
Đây không phải là máu chiên, bò, nhưng là Máu Châu Báu của Chúa Kitô, Thiên Chúa thật. Bánh và rượu trở nên Chúa Kitô, Con Thiên Chúa làm người. Vì thế, Người được các tín hữu ăn: “Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống” (Ga 6,55-56). Từ phép lạ bánh hóa nhiều để nuôi đám đông trong hoang địa. Chúa Giêsu đã chính thức hứa ban cho chúng ta của ăn thiêng liêng nuôi sống linh hồn chúng ta (Lc 9, 11b-17).
Bí tích Thánh Thể là Tình Yêu tột đỉnh của Người đối với chúng ta: “Trong đêm bị nộp, Người cầm lấy bánh và tạ ơn, bẻ ra và phán: “Các con hãy lãnh nhận mà ăn…”. Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén và phán: “Các con hãy cầm lấy mà uống. Chén này là Tân Ước trong Máu Ta; mỗi khi các con uống, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta” (1 Cr 11, 23-26). Thật là niềm an ủi cho những người đã buồn vì sự vắng mặt của Chúa” (Bài giảng của Thánh Thomas Aquinas, Booklet 57).
Thánh Gioan Kim Khẩu nói: “Anh em hãy để tâm suy nghĩ về vinh dự khi anh em được cất nhắc lên đồng bàn tham dự tiệc thánh. Điều mà các thiên thần run sợ khi chiêm ngắm Ánh Huy Hoàng chói lọi, Đức Kitô lại ban cho chúng ta làm của ăn, bằng mọi cách, Người lấy chính máu mình nuôi dưỡng chúng ta, Người kết hợp chúng ta với Người, để chúng ta được hợp cùng Đức Kitô và hiệp nhất cùng nhau như một thân mình và một xác vậy”. (Thánh Gioan Kim Khẩu)
Bí tích Thánh Thể là chóp đỉnh về lòng nhân ái của Thiên Chúa đối với chúng ta: “Chúa Kitô tháp nhập vào mỗi tín hữu nhờ Bí tích này. Những kẻ Người đã sinh ra thì Người nuôi dưỡng bằng chính bản thân Ngài, qua Bí tích Thánh Thể, Người làm cho ta vững tin rằng Người đã mang lấy chính xác thân của ta”. Người tan biến trong chúng ta, “làm một với chúng ta, làm cho chúng ta trở nên thân mình của Ngài” (Thánh Gioan Kim Khẩu).
Việc biến đổi bánh và rượu thành Mình và Máu Chúa Kitô, là nguyên tắc cho việc thần thiêng hoá tạo vật. Vì thế, lễ kính Mình và Máu Thánh Chúa Kitô có đặc điểm hết sức riêng biệt là rước kiệu Mình Thánh Chúa.
Rước kiệu Mình Thánh Chúa
Khi kiệu Mình Thánh Chúa và đưa Chúa ra khỏi nhà thờ. Giáo Hội tuyên xưng Chúa Giêsu ngự thật trong phép Mình Thánh, mang Chúa vào trong đời ta, với mong ước nhà ta là nhà dành cho Chúa, đường đời ta là đường của Chúa Giêsu. Xin Chúa Giêsu luôn hiện diện trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta!
Khi đặt Mình Thánh vào Mặt nhật, dưới dạng mặt trời, ngụ ý rằng Chúa Giêsu là “Mặt Trời”: Ngài là ánh sáng của lòng ta (đó là ý nghĩa của từ “mặt nhật”)
Bình khói hương thơm nghi ngút vừa đi vừa xông, tượng trưng cho lời nguyện cầu của chúng ta tỏa bay lên trước tòa Chúa.
Các em bé rắc trên đường nhắc lại cuộc Rước Chúa Giêsu vào Thành Thánh, và những lời tụng ca của các em rất làm Chúa hài lòng.
Qua cuộc rước kiệu, chúng ta thấy Chúa và chắc chắn Chúa thấy tất cả những khổ đau của những bệnh nhân; những nỗi cô đơn của những người trẻ và của những người già; những cám dỗ, những nỗi lo lắng trong cuộc sống của chúng ta. Cuộc rước kiệu này còn có ý nghĩa là xin Chúa chúc lành cho chúng ta và cho toàn thế giới.
Lạy Chúa Giêsu đang ngự trong phép Mình Thánh, là Bánh đích thực nuôi dưỡng chúng con trên mặt đất này, xin hướng dẫn chúng con đến bàn tiệc trên Trời, trong vinh quang các thánh của Chúa, có Mẹ Maria là Mẹ chúng con.
Lạy Mẹ Maria, Trinh Nữ Chí Thánh, Mẹ của Chúa Giêsu, Đấng đầu thai Vô Nhiễm, từ hai ngàn năm nay, đã chấp nhận, hiến dâng mọi sự, hiến dâng thân xác Mẹ hầu rước lấy thân xác Đấng Sáng Tạo, xin giúp chúng con chiêm ngưỡng, xin giúp chúng con thờ lạy và yêu mến, Đấng đã yêu thương chúng con dường ấy, hầu chúng con được sống đời đời với Người. Amen.
(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Để có thể hiểu văn mạch của đoạn 6,51-58, cần phân tích cấu trúc của chuơng 6. Chương nầy gồm hai đoạn: tường thuật hai câu chuyện làm bánh hoá ra nhiều (cc. 1-15) và Chúa Giêsu đi trên nước (cc. 16-21), và diễn từ về Bánh hằng sống tại hội đường ở Capharnaum (cc. 22-59). Diễn từ nầy có thể chia thành hai phần: 6,22-40 và 6,41-58. Phần còn lại của chương 6 là đối thoại giữa Chúa Giêsu và các môn đệ của Người về sự thách đố của diễn từ đối với họ (cc. 60-65), và đối thoại giữa Chúa Giêsu và Phêrô về căn tính của Người (cc. 66-71).
Đoạn 6,41-59 có thể chia thành hai phần: – Chúa Giêsu nói về bánh ban từ trời xuống (6, 41-51); và Chúa Giêsu ban bánh nầy làm của ăn (6,52-59). Hai đoạn nói kết với nhau qua từ ngữ “sarx” (cc. 51.52). Đoạn Tin mừng của Chúa nhật hôm nay thuộc về phần hai. Phần nầy dẫn vào bằng câu hỏi của người Do thái về việc ban thịt để ăn (c. 52) và diễn từ kết thúc với câu 59. Trong khi đó các câu 53-58 khai triển chủ đề “ăn thịt” và “uống máu”.
Câu hỏi của người Do thái (c. 52). Trong cuộc tranh luận trước với người Do thái, từ vấn đề “bánh bởi trời” (c. 31) Chúa Giêsu dẫn họ đến tuyên bố Người là bánh hằng sống thật (c. 35), rồi “Tôi là bánh từ trời xuống” (c. 41); và cuối cùng, bánh bởi trời xuống nầy chính là “thịt của Tôi” (c. 51). Tuy nhiên, người Do thái không hiểu những điều Người nói (x. 6,41-42.52). Họ hiểu “sarx” là “thịt” theo nghĩa đen, là phần thịt mềm bao bọc xương cốt của của thân thể đang sống, chung cho người và thú vật (x. 3,6). Cách đặt câu hỏi “Làm sao có thể”, pōs dunatai, diễn tả ý nghĩ là điều ấy không thể xảy ra được. Như Nicôđêmô nghĩ là một người khi đã già rồi, không thể sinh ra lại được (3,4.9); như người Pharisêô nghĩ là Thiên Chúa không thể nhận lời một người tội lỗi để cho người đó làm phép lạ (9,16). Vậy, trong câu hỏi người Do thái muốn nói là đối với họ không thể có chuyện Chúa Giêsu lấy “thịt” của Người cho họ ăn được.
Câu trả lời của Chúa Giêsu (cc. 53-58). Các câu nầy được khai triển theo cấu trúc đối đảo:
6,53: Người không ăn và uống máu …không có sự sống đời đời
6,54: Người ăn.. có sự sống đời đời
6,55: Thịt Thầy thật là của ăn và Máu Thầy thật là của uống.
B’ 6,56: Người ăn…ở trong Thầy cũng như Thầy ở trong người ấy
A’. 6,58: Cha ông … đã chết
Cách trình bày với cấu trúc nầy muốn nhấn mạnh sứ điệp chính nằm ở câu 55 là thịt và máu của Người mới là của ăn và của uống thật (6,55).
“Sars” và “haima” của Người Con Nhân Loại (c. 53) là xác và máu của Con Thiên Chúa làm người, “Ngôi Lời đã trở nên xác phàm” (1,14). Tước hiệu “Người Con Nhân Loại” gắn liền với kinh nghiệm cuộc thương khó, cái chết và phục sinh. Do đó, có thể hiểu là Chúa Giêsu ban thịt và máu nầy trong cái chết và sống lại của Người; bởi đó thịt và máu nầy mang lại sự sống đời đời.
Hành động trōgō sarx “nhai thịt”, và pinō haima “uống máu” của Người được lập lại tới bốn lần trong mỗi câu (cc.54.56.57.58). Đến lúc phải thực hành. Trong ngữ cảnh của chương 6, dân chúng đói khát, Chúa Giêsu đã làm phép lạ bánh hoá nhiều cho họ ăn (6,1-13). Họ muốn tôn Người làm vua, vì Người giải quyết được lương thực cho họ (6,15), và họ tìm kiếm Người chỉ vì mục đích nầy, “bởi vì các ngươi đã được ăn bánh no nê” (6,24-26). Câu chuyện nầy được thuật lại với mục đích giáo huấn là họ cũng phải đi xa hơn và tìm kiếm của ăn chân thật do Chúa Giêsu ban. Động từ trōgō, “nhai, ngấu nghiến” diễn tả hành động đưa thức ăn vào thân thể cách cụ thể và hiện thực hơn cả động từ ethiō, “ăn”. Vậy, Người là Bánh để được ăn, và Máu để được uống. Lời giáo huấn nầy nhắm đến mọi người.
Hiệu quả của việc ăn uống nầy là để “có sự sống đời đời” (c. 53) và “ở trong Tôi và Tôi ở trong người ấy” (c. 56). Về “sự sống đời đời”, muốn có sự sống nầy phải tin vào Con Thiên Chúa (3,15.16; 3,16; 6,47); nghe lời Con Thiên Chúa và tin vào Người (5,24).
Chính trong sarx và haima nầy chứa đựng sự sống nầy. Nói cách khác đây là sarx và haima của Đấng Sống Lại. Động từ anistēmi “làm cho chỗi dậy” trong Gioan thường dùng cho Chúa Giêsu. Chính Người làm cho người tin vào Người hoặc ăn thịt và uống máu Người được chỗi dậy “trong ngày sau hết” (6,36.40.44.54). Chúa Giêsu có sự sống trong Người (10,28; 17,2). Theo nghĩa nầy và trong viễn cảnh của sự sống lại ngày sau hết, sarx và haima là của ăn và của uống thật (c. 55). Về của ăn, brōsis, Chúa Giêsu đã dùng chữ nầy để chỉ chính của ăn của Người (4,32). Đây là của ăn thật, alethēs, vì của ăn nầy có đặc tính là không hư nát mà tồn tại trong sự sống đời đời, và do Chúa Giêsu ban cho (6,27). Điều nầy sẽ được thực hiện cách dứt khoát trong bữa Tiệc Ly. Vậy của ăn thật chính là của ăn do Chúa Giêsu ban trong đó có sự sống đời đời.
Hai câu tiếp theo 57 và 58 giải thích về nguồn mạch của sự sống đời đời trong của ăn và thức uống thật. Chúa Giêsu đặt sự sống nầy trong tương quan với Chúa Cha. Người cho thấy sự sống nơi Người đến bởi Chúa Cha, dia ton patera (c.57). Như thế chính nơi Người, thịt và máu, có sự sống đời đời; bởi đó, ai ăn Người, được sống nhờ Người, dia eme. Gioan thường dùng cách trình bày là mọi tương quan thông hiệp với Chúa Giêsu đều gắn liền với Chúa Cha như là nguồn mạch; qua đó làm nên một thực thể duy nhất: làm vinh danh (5,23); yêu mến (15,9); tuân giữ giới răn (15,10); ở trong (17,21), sai đi (20,21). Vậy, Chúa Giêsu là trung gian giữa Thiên Chúa và con người.
Câu 58 tổng kết lại những điều đã đề cập trước trong diễn từ. Chúa Giêsu nhắc lại “bánh bởi trời”, manna, mà người Do thái nghĩ là do Môsê ban cho (c. 31). Người tuyên bố là cha ông họ đã ăn bánh ấy và đã chết, vì không phải là bánh thật. “Bánh thật bởi trời”, chú ý tính từ alethinon “thật”, chỉ do Thiên Chúa ban (6,32-33). Bánh nầy ban sự sống đời đời. Phần cuối của câu 58 lập lại từng chữ trong câu 51 “bánh nầy ban sự sống đời đời” để đóng khung lại diễn từ về bánh hằng sống.
Chúa Giêsu là của ăn và của uống thật. Đời sống đức tin chỉ được nuôi dưỡng bằng lương thực nầy. Chúa Giêsu ban chính Người cho chúng ta. Hãy đến lãnh nhận mà ăn.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có những hình ảnh, những vật đã trở thành biểu tượng của tình yêu. Nó giúp cho người đang yêu bày tỏ tình yêu một cách lãng mạn mà không cần nói bằng lời. Với một trái tim đỏ thắm hoặc hình trái tim bị mũi tên đâm xuyên qua đều là biểu tượng cho tình yêu. Trái tim đỏ thắm nói: tôi xin dâng tặng cả trái tim này! Một trái tim có mũi tên đâm qua như muốn nói: Tôi đã yêu đơn phương! Hai trái tim có mũi tên xuyên qua diễn tả: Chúng mình đã gắn kết với nhau bởi tình yêu!
Hoa hồng cũng là biểu tượng tình yêu. Theo truyền thuyết kể rằng: có một thiếu nữ tên Rodanthe. Nàng đẹp kiều diễm nên rất nhiều chàng trai theo đuổi. Thấy nàng bị dồn ép quá mức, nữ thần săn bắn Diana biến nàng thành một bông hồng rực rỡ và ngát hương, biến những chàng trai yêu cô thành những gai nhọn tua tủa. Một truyền thuyết khác lại cho rằng những bông hoa hồng này sinh ra từ những giọt rượu tiên mà Thần Tình Yêu Cupid đã vô tình đánh rớt xuống mặt đất. Tình yêu đẹp, tình yêu nồng nàn nhưng cũng đầy đau khổ…
Bí tích Thánh Thể cũng là biểu tượng tình yêu mà chính Chúa Giêsu đã thiết lập. Ngài không dùng những hình tượng bên ngoài nên dấu chỉ tình yêu mà Ngài dùng chính Thân Thể Ngài trở thành tình yêu tự hiến cho con người. Thật cụ thể. Thật gần gũi. Qua tấm bánh Chúa ở lại với con người và hiến dâng thân mình nên thần lương nuôi sống cho con người. Thánh Thể Ngài thực sự trở thành một biểu tượng tình yêu tự hiến đến tan biến cho người mình yêu.
Quả thực, không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người tự hiến vì người mình yêu. Tình yêu của Chúa Giêsu không dừng lại ở việc chết cho người mình yêu mà còn hiến ban chính Thánh Thể Ngài nên nguồn sức sống cho con người. Vì yêu con người nên Ngài đã nhỏ những giọt rượu tiên ân phúc xuống cho dương gian. Từ đây “Ai ăn và uống máu Ngài thì sẽ có sự sống đời đời”. Từ đây qua bí tích Thánh Thể Ngài sẽ ở cùng con người mọi ngày cho đến tận thế.
Điều tâm huyết mà Chúa muốn nơi chúng ta thực thi đó chính là “hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Khi Chúa cầm bánh và rượu dâng lên và trao ban cho các môn đệ Ngài đều tha thiết mời gọi: “hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Đó là việc của hiến tế, việc của yêu thương đến trao ban chính máu thịt mình cho anh em. Chúa muốn người môn sinh của Chúa lập lại hằng ngày trên mọi nẻo đường dương gian hành vi của yêu thương và tự hiến cho người mình yêu.
“Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” chính là hãy bẻ đời mình ra như tấm bánh đem lại niềm vui, sức sống, hạnh phúc cho tha nhân. Có lẽ ai cũng đã từng nâng niu chiếc bánh. Ai cũng từng vui sướng khi mẹ trao cho tấm bánh. Tấm bánh nào cũng có những giá trị riêng. Tấm bánh nào cũng mang lại niềm vui cho người được nhận vì tấm bánh tự bản thân là tự hiến cho con người. Do đó, cuộc đời người tín hữu cũng được mời gọi hãy là tấm bánh mang lại niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân. Cuộc đời người tín hữu cũng trở nên tự hiến để yêu thương và phục vụ con người. Không có yêu thương phục vụ thì đời người tín hữu không có giá trị như tấm bánh đã hết date hay đã không còn sử dụng làm của ăn cho con người.
Có lẽ chúng ta còn nhớ tới vụ động đất tại Nhật Bản vào tháng 3 năm 2011 với một câu chuyện thật cảm động về tình mẹ. Chuyện kể rằng: Sau khi động đất qua đi, lực lượng cứu hộ bắt đầu các hoạt động tìm kiếm cứu nạn. Và khi họ tiếp cận đống đổ nát từ ngôi nhà của một phụ nữ trẻ, họ thấy thi thể của cô qua các vết nứt. Nhưng tư thế của cô có gì đó rất lạ, tựa như một người đang quỳ gối cầu nguyện; cơ thể nghiêng về phía trước, và hai tay cô đang đỡ lấy một vật gì đó. Ngôi nhà sập lên lưng và đầu cô.
Đội trưởng đội cứu hộ đã gặp rất nhiều khó khăn khi anh luồn tay mình qua một khe hẹp trên tường để với tới thi thể nạn nhân. Anh hy vọng rằng, người phụ nữ này có thể vẫn còn sống. Thế nhưng cơ thể lạnh và cứng đờ cho thấy cô đã chết.
Cả đội rời đi và tiếp tục cuộc tìm kiếm ở tòa nhà đổ sập bên cạnh. Không hiểu sao, viên đội trưởng cảm thấy như bị một lực hút kéo trở lại ngôi nhà của người phụ nữ. Một lần nữa, anh quỳ xuống và luồn tay qua khe hẹp để tìm kiếm ở khoảng không nhỏ bên dưới xác chết. Bỗng nhiên, anh hét lên với vẻ đầy ngạc nhiên: “Một đứa bé! Có một đứa bé!”.
Cả đội đã cùng nhau làm việc; họ cẩn thận dỡ bỏ những cái cọc trong đống đổ nát xung quanh người phụ nữ. Có một cậu bé 3 tháng tuổi được bọc trong một chiếc chăn hoa bên dưới thi thể của người mẹ. Rõ ràng, người phụ nữ đã hy sinh để cứu con mình. Khi ngôi nhà sập, cô đã lấy thân mình làm tấm chắn bảo vệ con trai. Cậu bé vẫn đang ngủ một cách yên bình khi đội cứu hộ nhấc em lên.
Bác sĩ đã nhanh chóng kiểm tra sức khỏe của cậu bé. Sau khi mở tấm chăn, ông nhìn thấy một điện thoại di động bên trong. Có một tin nhắn trên màn hình, viết: “Nếu con có thể sống sót, con phải nhớ rằng mẹ rất yêu con”.
Một tin nhắn thật cảm động. Cảm động vì nó nói lên một tình yêu hy sinh cao đẹp mà người mẹ dành cho con. Qua bí tích Thánh Thể Chúa Giêsu cũng để lại cho chúng ta một tin nhắn: “Hãy làm việc này mà nhớ đến Ta”. Chúa Giêsu không chỉ muốn chúng ta hãy nhớ rằng Ngài rất yêu thương chúng ta mà Ngài còn mời gọi chúng ta hãy tiếp tục thi thố tình yêu ấy đến cho anh em.
Ước gì là người ky-tô hữu chúng ta hãy làm cho tình yêu của Chúa được hiện tại hóa qua đời sống yêu thương phục vụ của mình. Ước gì từng lời nói, từng việc làm của chúng ta cũng để lại một tin nhắn cho anh em chính là tin nhắn của tình yêu tự hiến cho anh em. Amen.
17.Hiến lễ cuộc đời – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Theo giáo lý của Hội thánh “Bản chất của Bí tích Thánh Thể không chỉ là bữa ăn chung, mà còn và trước tiên là hiện tại hóa hy lễ thập giá. Thiếu giá trị hy tế, Mầu Nhiệm Thánh Thể không có ý nghĩa và chỉ có giá trị như là một buổi gặp gỡ giao hảo và huynh đệ” (BT cứu độ).
Vì thế, hôm nay chúng ta cùng nhau khơi gợi lại ý nghĩa và những giá trị thiêng liêng của thánh lễ để qua đó chúng ta sẽ tham dự thánh lễ một cách tích cực và sốt sắng hơn. Vậy, thánh lễ là gì?
Thánh lễ là diễn lại cuộc hy tế của Chúa Giêsu ngày xưa trên thập giá, là bàn tiệc Nước Trời mà chúng ta được mời gọi tham dự; là thông phần khổ nạn và phục sinh của Chúa Kitô, vì thế, khi chúng ta tham dự thánh lễ, là chúng ta đóng vai trò của:
– Đức Trinh Nữ Maria: Mẹ dâng lên Thiên Chúa Cha lời xin vâng trọn vẹn qua sự hiệp thông với Con yêu qúy để cứu độ trần gian. Chính Mẹ đã kết hợp đau khổ từ trái tim của mình với đau khổ máu đổ tuôn rơi của Con để mang lại mùa xuân cứu rỗi cho trần gian.
Cũng vậy, khi chúng ta đi dâng thánh lễ, là chúng ta đem những lao công vất vả trong ngày của mình, những khổ đau trong tâm hồn, đem những tâm tình vui tươi, lạc quan của mình, hợp với của lễ trên bàn thờ là Đức Kitô dâng lên Thiên Chúa Cha, để nhờ Đức Kitô, xin Ngài ban ơn cho chúng ta, tha tội cho chúng ta và xin ơn cứu độ cho toàn thể thế giới. Một sự hy sinh vất vả của một đời lao nhọc để đem lại nguồn sống và hạnh phúc cho mái ấm gia đình, là một lễ vật tuy không đổ máu nhưng cô quặng trong những giọt mồ hôi, những giọt nước mắt chảy ngược vào tim. Đó là một hiến tế mà bổn phận đòi hỏi chúng ta phải chu tòan. Đó là lễ vật mà hằng ngày chúng ta có thể thưa lên với Chúa: “Xin Chúa nhận lễ vật bởi tay cha để tôn vinh danh Chúa và sinh ơn ích cho toàn thể Hội thánh Người.
– Chúng ta cũng đóng vai trò của thánh Gioan Tông đo, đã gan dạ đứng kề bên thập giá như một chứng nhân cho cái chết hiến tế của Thầy Chí Thánh Giêsu. Gioan không chạy trốn như bao môn đệ khác. Gioan không bàng quang như bao người khách qua đường, nhưng ông đứng dưới chân thập giá như muốn nói lên tấm lòng sẵn lòng cùng Thầy trải qua cuộc thương khó đau thương.
Cuộc sống của chúng ta luôn có thánh giá, thánh giá trong bổn phận, trong trách nhiệm, trong những lao nhọc của công ăn việc làm, trong những ưu tư lo lắng cho con cái, cho hạnh phúc gia đình. Đó là thánh giá mà Chúa đang cần chúng ta ôm lấy vào cuộc đời mình. Không trốn tránh thập giá, nghĩa là không lẩn trốn đau khổ, lẩn trốn trách nhiệm. Cuộc đời này ai cũng muốn an nhàn nhưng để được hưởng những tháng ngày an nhàn thì cần phải có những ngày tháng lao động cực khổ. Có gieo – có gặt. Có trồng mới có ngày hưởng nếm những thành quả của mình.
– Cuối cùng, khi tham dự thánh lễ là chúng ta thông hiệp vào Mình và Máu Thánh Chúa Kitô. Chúng ta được kết hợp nên một trong Chúa Kitô. Chúa Kitô là Đầu Hội Thánh đã dâng chính mình làm tế lễ, còn chúng ta là những chi thể trong nhiệm thể của Người, chúng ta cùng ăn một bánh, cùng uống một chén thánh là chính Mình Máu Thánh Chúa Kitô, chúng ta có cùng chịu hiến tế chính mình như Đức Kitô là Đầu của Hội thánh hay không? Liệu rằng, chúng ta có thể đứng nhìn Chúa chịu sát tế, còn mình không chịu làm gì cả, hay chỉ đứng đó như những khách bàng quang, đứng bên vệ đường nhìn xem máu Chiên Con vô tội đang đổ ra vì loài người, mà lòng mình không cảm thấy một chút hổ thẹn hay ái ngại lương tâm? Chúa Kitô vẫn đang đổ máu vì tội lỗi loài người. Giáo hội vẫn đang hiệp thông với đau khổ của Con Chiên Thiên Chúa, còn chúng ta sẽ đóng góp phần vụ gì trong việc đền tội cho thế giới và cứu độ trần gian?
Chúng ta biết rằng, trên bàn thờ tế lễ Giáo hội buộc phải có tượng Chúa chịu nạn, chính là để nhắc nhở chúng ta phải hy sinh, phải dâng hiến mình như Chúa Giêsu đã hiến dâng. Phải đóng góp phần chúng ta như Mẹ Maria đã đóng góp chính nỗi đau khổ xé nát lòng mình, hiệp thông với đau khổ của Chúa Giêsu để dâng lên Chúa Cha. Phải đóng góp phần chúng ta như Gioan đứng sát cây thập giá để nói lên tình yêu thuỷ chung sắt son với Thầy, cho dù phải cùng Thầy trải qua những cam go của đỉnh đồi Calve.
Thiết tưởng để thánh lễ thực sự mưu ích cho phần rỗi chúng ta và cho toàn thể nhân loại. Mỗi người chúng ta cũng phải biết gom góp hy sinh mỗi ngày như những hạt lúa bị nghiền nát, như trái nho ép thành chén rượu mới có của lễ để dâng trên bàn thờ. Đó chẳng phải là mồ hôi nước mắt trong lao công con người làm nên hay sao? Đó chẳng phải là những hy sinh, những chén đắng trong cuộc đời mà mỗi người chúng ta đang chấp nhận vì lòng yêu mến Chúa hay sao?
Lạy Chúa, xin nhận lấy hạt lúa chấp nhận phân huỷ, mục nát là cuộc đời chúng con. Dưới cối xay của bổn phận trong bậc sống của mình, của những thập giá đắng cay trong những thất bại, bị bỏ rơi, bị hiểu lầm,… Xin cho con được nghiền nát cho Chúa, cho dẫu tâm hồn và thân xác của con có tan nát nhưng xin cho ngọn lửa tình yêu mến làm con trở nên một tấm bánh tinh tuyền hiến dâng cho Thiên Chúa. Amen.
18.Sức sống dâng trào – Thiên Phúc
(Trích “Như Thầy Đã Yêu”)
Tại Tây Ban Nha có một cậu bé tên là Macxilano. Mới sinh ra cậu bị người ta quăng trước cửa tu viện, và đã được các tu sĩ đem về nuôi.
Vốn tính hay nghịch ngợm, nên thầy đầu bếp không cho cậu leo lên gác. Nhưng vì tò mò, một ngày kia Macxilano lén leo lên, cậu ngạc nhiên thấy một người khổng lồ bị treo trên thập giá. Nghĩ rằng người ấy chắc là đói lắm, nên đêm hôm ấy Macxilano vào bếp ăn cắp bánh mang lên cho ông Người khổng lồ đưa tay nhận bánh và mỉm cười với cậu.
Từ đó, ngày nào cậu cũng đem bánh cho người ấy. Ngày kia, ông âu yếm ôm lấy cậu bé và hỏi:
– Con thích nhất điều gì trên trần gian nầy?
Cậu mau mắn thưa:
– Con muốn được gặp mẹ con.
Người ấy liền nói với cậu bé:
– Con sẽ được gặp mẹ con ngay tức khắc nếu con chấp nhận phải chết đi.
Hôm sau các thầy tìm thấy cậu nằm chết như đang ngủ say trong vòng tay thương mến của Chúa Giêsu.
***
Vì yêu thương mẹ, muốn được ở bên mẹ, mà Macxilano đã bằng lòng chịu chết. Vì yêu thương con người, Đức Giêsu cũng đã sẵn lòng chịu chết để cho con người được sống. Hơn nữa, Người còn có sáng kiến là hiện diện trong Bí tích Thánh Thể, để được ở lại mãi với con ngưồi, để làm của ăn của uống, như lương thực nuôi dưỡng con người trên cuộc hành trình về quê trời. Người đã hứa: “Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời” (Ga 6,58).
Thánh thể là Bí tích tình yêu.
Khi mời gọi: “Con con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”, Đức Giêsu muốn các Kitô hữu hãy lập lại cái chết tự hiến vì yêu thương của Người, bằng cả cuộc sống dấn thân và trao ban.
Khi lãnh nhận bánh Thánh Thể, người tín hữu ý thức mình đang lãnh nhận tình yêu Chúa. Và như dòng suối ân tình, họ lại tuôn trào tình yêu Chúa sang cho anh em đồng loại.
Khi chia sẻ bàn tiệc Thánh Thể, người tín hữu cũng muốn chia sẻ cơm bánh cho tha nhân, chia sẻ hồng ân của Đức Kitô cho những kẻ đói nghèo, túng thiếu, không nơi nương tựa.
Chính khi nhận lãnh Thánh Thể để rồi chia sẻ trao ban, người tín hữu lại nhận được sự sống trường sinh và niềm vui lại tràn ngập tâm hồn.
Vì thế, sống bí tích Thánh Thể chính là sống yêu thương, sống bí tích Thánh Thể là sống cho và vì Đức Kitô, sống bí tích Thánh Thể là sống như Đức Kitô đã sống và đã hiến trao cách quảng đại cho tha nhân.
Người tín hữu không lãnh nhận bánh Thánh Thể để cất giữ cho riêng mình, nhưng là để biến con người mình thành lương thực nuôi dưỡng anh em.
Việc chia nhau một tấm bánh nhắc nhở chúng ta sống là phải chia sẻ và trao ban, sống là yêu thương và hy sinh cho nhau.
Trong thánh lễ bế mạc Đại Hội Thánh Thể Quốc tế lần thứ 45, Đức Thánh Cha kêu gọi: “Chúng ta không thể rước Mình Thánh Chúa Kitô mà đồng thời lại sống xa lạ với những người đang đói khát, kẻ bị bóc lột, tù đầy hay đau yếu”.
*
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, khi chúng con sống yêu thương là chúng con đang làm chứng rằng: Chúa chính là sức sống mãnh liệt của chúng con.
Xin cho chúng con khi lãnh nhận bánh Thánh Thể cũng đón nhận được sức sống mới của Chúa, để chúng con ra đi làm chứng cho tình yêu Chúa trong cuộc sống chúng con. Amen.
19.Bánh Hằng Sống – Lm. Bùi Quang Tuấn, CSsR
“Bánh hằng sống chính là Ta… Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời” (Gn 6, 51 – 58).
Theo sinh vật học, khi cơ thể con người thiếu đi những chất dinh dưỡng cần thiết, lúc bao tử không đủ cung cấp cho các tế bào những sinh tố căn bản thì tay chân run lên, tai ù đi, mắt mờ lại. Các hoạt động của mọi cơ phận khác cũng bị trì trệ. Lý trí dễ mất khả năng cảm nhận, suy xét và quyết định chính xác. Hậu quả là người ta mất dần những cảm quan và tương giao với tha nhân và với môi trường chung quanh. Khi bị cơn đói dày xéo, con người có thể trở nên tàn nhẫn với người khác hay bán đứng nhân phẩm của mình.
Trong Tân ước, hình ảnh của “người con hoang đàng” cũng đủ cho thấy cơn đói không những dễ khiến người ta đánh mất nhân quyền, nhưng còn nhân phẩm, và danh dự dân tộc. Vì đói anh ta chấp nhận đồng hàng với… heo.
Người Do thái coi heo là con vật ô uế bẩn thỉu. Lịch sử chứng nhận có người thà mất mạng sống còn hơn ăn thịt heo, như trường hợp “Cụ Già Elêaza” hay “Bà Mẹ Với Bảy Người Con” trong sách Macabêô. Truyền thống oai hùng xa lánh loài heo là thế. Vậy mà, vì đói người con hoang đàng chẳng màng chi nhân phẩm hay danh dự; anh chỉ mong ngốn cho đầy bụng đồ ăn của heo, một sản phẩm còn dơ nhớp hơn cả thịt heo. Thật là nhục nhã!
Người đói, kẻ nghèo không chỉ thuần tuý chịu đựng những hành hạ của thiếu thốn, nhưng lắm khi còn bị đồng loại khinh miệt và đối xử kém thua loài vật. Hình ảnh Lazarô và ông phú hộ trong Phúc âm Luca đã phác hoạ hố sâu ngăn cách giữa hai con người và hai cảnh sống. Lazarô thì nghèo quá và đói quá. Nhà phú hộ lại giàu quá và no đủ quá, cứ ngày ngày “yến tiệc linh đình”. Khoảng cách giữa hai con người còn bị đào sâu bởi thái độ lạnh lùng thờ ơ của nhà phú hộ. Tâm hồn ông dường như không chút dao động trước con người sắp chết vì đói. Riêng Lazarô, không được dự phần bàn tiệc với người giàu đã đành, ngay như muốn dự phần với chó mà đợi hoài cũng chẳng thấy chi.
Đói nghèo đúng là kẻ thù của nhân phẩm, nhân quyền và sự sống. Thế nên, Giáo hội không thể ngồi yên khi phẩm giá con người bị đe doạ và tổn thương. Giáo hội Chúa Kitô không bao giờ chấp nhận vì giàu nghèo mà có cảnh con người bị đối xử như con thú.
Từ thuở khai sinh, Giáo hội không ngừng lên tiếng kêu gọi con cái mình đối xử công bằng và tôn trọng lẫn nhau, đừng khinh nghèo chuộng giàu, đừng thấy người ăn mặc bảnh bao mà xun xoe: “Mời ông an toạ nơi này”, “mời ngài ngự tới nơi kia”, còn người nghèo thì: “Hãy ngồi dưới bệ chân tôi” hay “anh hãy đứng đó” (Gc 2).
Nhưng do đâu có cảnh giàu nghèo? Phải chăng vì lòng ích kỷ, tham lam, và bất công của con người. Vì ích kỷ nên không muốn mất đi những gì đang có, sợ phải chia sẻ trao ban. Vì tham lam nên mạnh tay thu vét, bất chấp đúng sai, miễn sao có càng nhiều càng tốt.
Lòng ích kỷ, tính tham lam, sự bất công là những nguyên nhân trực tiếp tạo nên đói nghèo. Nhưng suy cho cùng, nguyên do chính yếu khiến cho con người trở nên hà tiện, gian dối, tàn ác, bất công là vì thiếu yêu thương.
Thiếu yêu thương nên khoá lòng khi gặp người đói khổ, không muốn san sẻ với kẻ chẳng may, đối xử với nhau mất hết tình người, và đánh mất nhân phẩm của mình cũng như đồng loại.
Vì thiếu yêu thương mà đói nghèo nảy sinh, không chỉ về thân xác vật chất, song con cả linh hồn thiêng liêng.
Đức Giêsu đã đến trong thế gian để rao giảng cho con người Tin Mừng Tình Yêu và cũng là Tin Mừng Sự Sống. Ngài mời gọi con người chia cho nhau những nén bạc hồng ân mà Thiên Chúa ban tặng, làm phong phú sự sống tha nhân trong tinh thần yêu thương sẻ chia.
Không chỉ mời gọi, Đức Giêsu còn là mẫu gương của thương yêu và trao ban tận cùng. Ngài trao ban chính mình để thế gian được sống và sống dồi dào (Gn 10:10). Ngài tự hiến toàn thân làm lương thực xoa dịu cơn đói khát của tâm hồn nhân thế.
Làm no thoả cơn đói sâu thẳm nơi con người là mục tiêu căn bản trong hành trình rao giảng của Đức Giêsu. Qua tấm bánh vật chất, Ngài hướng nhân loại đến với tấm bánh thần linh: “Ta là Bánh Hằng Sống từ trời xuống… cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn Bánh này sẽ sống đời đời” (Gn 6:51-59).
Như thế, tấm bánh thần linh chính là Ngài. Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể sẽ xoa dịu cơn đói khát tận cùng nhất của con người là yêu và được yêu.
Khi yêu thương người ta muốn hoà chung sự sống trong nhau để không còn là hai nhưng là một. Phải chăng đó cũng là lý do nhiều người hôn nhau mà cứ như ăn nhau? Có những bà mẹ thương con, vừa hôn vừa nựng: “Mẹ muốn ăn con”.
Phải chăng yêu thương cũng chính là động lực khiến Thiên Chúa hủy mình, trở nên tấm bánh đơn sơ để được ăn và nên một với con người. Bài Phúc âm trong Chúa nhật Mình Thánh Chúa tuần này không dài nhưng động từ “ăn” lại được lập đi lập lại đến 9 lần.
Thiên Chúa không ăn con người nhưng lại để con người ăn Thiên Chúa. Song khi ta ăn Chúa thì không thuần tuý là ta rước Chúa vào lòng, nhưng đúng hơn, Ngài rước ta vào cung lòng yêu thương bao la của Ngài.
Trong Bí tích Thánh Thể, bạn và tôi được mời gọi nên một với Thiên Chúa bằng tình yêu đón nhận, đồng thời nên một với tha nhân trong tinh thần chia sẻ trao ban, hầu tất cả cùng được sung túc trong tình Chúa và tình người.
Con người là xác và hồn. Con người gồm có vật chất, tinh thần và những yếu tố thuộc tính linh thiêng. Là con người, chúng ta không thể chỉ sống bằng cơm bánh, chúng ta còn được nuôi dưỡng bằng những của ăn tinh thần như học tập, giải trí, lao động nghệ thuật…Hơn nữa, chúng ta còn phải đón nhận lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng đời sống linh hồn của mình nữa. Thấu hiểu điều đó nên Chúa Giêsu đã nói: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban tặng là thịt Ta đây để cho thế gian được sống” (Ga 6, 51)…Như thế, chính Mình Máu Chúa Giêsu là lương thực thiết yếu nuôi dưỡng con người chúng ta, để cho chúng ta sống, tồn tại và can đảm tiến bước trên đường lữ thứ về quê hương đích thực. Chính Mình Máu Chúa đang làm thỏa mãn niềm khao khát của tâm hồn của chúng ta.
Bởi vì Thiên Chúa yêu thương con người nên Ngài đã dựng nên con người, dựng con người “theo hình ảnh Ngài, theo hoạ ảnh Ngài” (St 1, 27). Thiên Chúa yêu thương con người nên đã cho Ngôi Con xuống trần gian mạc khải cho con người biết tình thương của Thiên Chúa và Ngài đã chết vì yêu thương nhằm để cứu chuộc con người, Ngài đã mang lại phẩm giá cao sang mà con người đã đánh mất vì nguyên tội bất tuân. Hơn nữa, trước khi đi vào cuộc thương khó và phục sinh, Ngài đã lập bí tích Thánh Thể để lại ân huệ của sự sống cho con người, Ngài muốn cho con người đón nhận ngài bằng việc “ăn uống” chính Thịt Máu của Ngài để được hiệp thông với Ngài, hiệp thông với sự sống vĩnh cửu, để con người còn có thể hiệp thông với nhau nhờ “ăn uống” Mình Máu Ngài. Do đó, Ngài cho con người thông dự vào bản tính thần linh của Thiên Chúa nhờ việc đón lấy Mình Máu Chúa, thông dự trước vinh quang Nước Trời, nếm trước nguồn hạnh phúc vĩnh cửu. Nhờ đón lấy Mình Máu Chúa Kitô, con người được kết hợp mật thiết với Ngài và với nhau làm nên Thân Thể Mầu Nhiệm Chúa Kitô mà Chúa Kitô là Đầu và là Thủ lãnh của một dân tộc mới, dân tộc thánh thiện làm nên dân thánh của Ngài.
Bí tích Thánh Thể là bí tích Tình Yêu, là trung tâm của đời sống yêu thương của con người. Vì yêu thương Chúa Kitô đã có sáng kiến thiết lập bí tích Thánh Thể, Ngài dùng chính Thịt Máu Ngài để nuôi dưỡng loài người chúng ta. Ngày xưa dân Do Thái đi trong sa mạc sống nhờ ăn manna từ trời và uống nước từ tảng đá vọt ra nhưng họ vẫn phải chết. Còn hôm nay, con người sống trong thời đại mới, thời đại giao ước mới của Chúa Kitô, người kitô hữu được nuôi dưỡng bằng chính Thịt Máu Chúa Kitô, Thịt Máu con Vua Trời,…nơi bàn tiệc Thánh Thể. Của ăn Thịt Máu Chúa Kitô sẽ làm cho chúng ta được sự sống đời đời như Chúa giêsu đã nói “Ai ăn Thịt Ta sẽ được sự sống đời đời”. Chúng ta sẽ sống chứ không phải chết nhờ ăn uống Thịt Máu Ngài. Chính Chúa Kitô đã xác quyết mạnh mẽ: “Thịt Ta thật là của ăn và Máu Ta thật là của uống” (Ga 6, 55). Ngài đã chấp nhận trở thành của ăn và của uống là những thứ thường tình nhất của đời sống con người để đưa con người vào sự sống đời đời.
Từ việc được kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể sẽ đưa chúng ta đến việc hiệp nhất với tha nhân. Nhờ đón rước bí tích Thánh Thể, chúng ta sẽ có thêm tình yêu và nghị lực để sống tinh thần hiệp thông, chia sẻ với tha nhân. Mình Máu Chúa Kitô giúp chúng ta yêu thương Thiên Chúa nhiều hơn và cũng biết yêu thương tha nhân nhiều hơn. Yêu mến Thiên Chúa giúp chúng ta tránh lỗi phạm đến những giao ước, lề luật và tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Yêu thương tha nhân giúp chúng ta dễ gần gũi, dễ thông cảm, dễ sẻ chia và dễ tha thứ cho tha nhân. Khi đó tình yêu của Thiên Chúa nơi Mình Máu Chúa là động lực thúc đẩy chúng ta sống yêu thương một cách trọn vẹn và chân tình, cụ thể và thâm sâu.
Mở rộng tâm hồn đón nhận Mình Máu Chúa, con người sẽ mở rộng trái tim và đôi bàn tay để đón nhận Ngài nơi tha nhân. Chúa Giêsu từ trời xuống thế cũng nhằm mục đích lôi kéo con người trở về với Thiên Chúa Cha. Người Kitô hữu cũng có trách nhiệm lôi kéo anh em mình trở về với Thiên Chúa như vậy. Khi được chia sẻ mình Máu Chúa Kitô, người Kitô hữu cũng đưỡc mời gọi chia sẻ cơm bánh hằng ngày cho tha nhân. Và kỳ diệu thay, chính khi chia sẻ với tha nhân, con người cảm nhận được sự sống và niềm hạnh phúc vĩnh cửu trong tâm hồn ngay trong chính cuộc sống này.
Lạy Chúa Giêsu, cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con lương thực trường sinh chính là Mình Máu Thánh Chúa. Xin cho chúng con siêng năng rước Chúa, thường xuyên tâm sự với Chúa bằng việc viếng Thánh Thể. Chúa đã tự hiến vì yêu thương chúng con, xin giúp chúng con cũng biết sống yêu thương tha nhân bằng việc chia sẻ, giúp đỡ, tha thứ và giúp đỡ tha nhân thăng tiến đời sống con người và đạt được hạnh phúc đời đời. Amen.
21.Kết hợp với Chúa và với tha nhân
(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Thái Hòa)
Nếu đặt câu hỏi: “Tại sao ông bà (anh chị) tham dự Thánh Lễ?”, chúng ta sẽ có nhiều câu trả lời khác nhau: nào là để gặp lại anh chị em Kitô hữu làm thành một cộng đoàn, hiệp nhất trong một niềm tin, nào là để cầu nguyện, để nuôi dưỡng đức tin, để lắng nghe Lời Chúa… Qua tất cả những câu trả lời này, chúng ta thấy rằng đi lễ đem lại rất nhiều lợi ích. Tốt! Nhưng chúng ta chưa đề cập đến điểm chính yếu của thánh lễ.
Thánh lễ là một bí tích, một hiện thực cứu độ trong đó Chúa Kitô tự hiến mình cho chúng ta qua nghi thức phụng vụ. Chúa Giêsu nói: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ai bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Khi Chúa Giêsu nói về thịt Người làm lương thực, đó không phải là xương, thịt, gân cốt hoặc một phần thân thể nào đó, mà là toàn diện bản thân Người. Khi Chúa Giêsu nói đến việc cho máu của Người làm thức uống, không phải Người nói đến thứ chất lỏng màu đỏ mà là sự sống làm cho con người được sống. Nói đến mình và máu Chúa Giêsu tức là nói đến chính bản thân và sự sống của Người.
Chính bởi thân thể và máu của mình, Chúa Giêsu đã đi vào lịch sử loài người. Thánh lễ là sự nhập thể luôn tiếp diễn. Thánh Tôma Aquinô có nói: “Thánh lễ là phép lạ lớn nhất của Chúa Giêsu”.
Trong thánh lễ, chúng ta cử hành việc hiến mình của Chúa Kitô làm lễ dâng lên Chúa Cha, và cùng với Người, chúng ta dâng hiến bản thân của mình. Chúng ta dâng bánh và rượu, là hoa màu ruộng đất và cũng là thành quả lao động con người. Bánh và rượu là những thức ăn thuộc về con người. Do đó, khi dâng lên Chúa Cha bánh và rượu để trở thành mình và máu Chúa Kitô, chúng ta dâng lên Người những hoạt động chân tay và tinh thần, dâng lên Người đời sống của chúng ta với tất cả nỗi vui buồn. Kết hợp với hy lễ của Chúa Kitô, Chúa Cha làm cho của lễ này có tầm vóc thần linh và vĩnh cửu. Từ đó, bánh và rượu biểu tượng cho cuộc sống toàn diện của chúng ta. Tóm lại, bánh và rượu đại diện cho chính chúng ta. Trong đức tin, bánh và rượu này, tuy không thay đổi thành phần vật lý và hóa học, bấy giờ trở thành chính Chúa Kitô, bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần.
Thánh lễ là sự chuẩn bị cho hiệp lễ (communion, kommunion), hay nói một cách chính xác hơn, toàn thánh lễ trở thành hiệp lễ. Thánh lễ phát triển tác động của Chúa Kitô làm cho chúng ta trở thành thân thể huyền nhiệm của Người, tức là Giáo Hội. Vậy là chúng ta đã hiểu hiệp lễ quan trọng như thế nào: hiệp lễ tóm lược toàn bộ thánh lễ.
Nhiều lúc chúng ta không dám lên rước lễ vì nghĩ rằng mình không xứng đáng. Thực ra, rước lễ không phải là một công trạng hay phần thưởng cho những ai sống gương mẫu, thánh thiện. Rước lễ là một lương thực. Chúng ta hãy nhớ lại câu mà cộng đoàn đọc trước khi rước lễ: “Lạy Chúa, con chẳng (xứng) đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời, thì linh hồn con sẽ lành mạnh”. Qua câu nói này, điểm chính yếu không phải là việc nêu lên phẩm giá của mình, mà ngược lại, ý thức được rằng rước lễ không phải là một quyền lợi, nhưng là một ân huệ. Hơn nữa, thánh lễ không phải là một ân huệ trong số những ân huệ khác. Thánh lễ là chính Chúa, Đấng ban ân huệ. Khoảng cách giữa sự thánh thiện của Chúa và của chúng ta lớn đến mức không thể nào nêu lên vấn đề chúng ta có xứng đáng hay không để rước Chúa Kitô vào lòng.
Lời nguyện trên lập lại lời của viên sĩ quan đã không dám tiếp đón Chúa Giêsu vào nhà mình: “nhưng xin Ngài phán một lời” (Lc 7,7). Trong Chúa Giêsu, Lời và bản thân Người chỉ là một. Để ý đến lời mời của Chúa Giêsu “Hãy cầm lấy mà ăn” quan trọng hơn là việc tìm kiếm phẩm cách của chúng ta.
Tuy nhiên, có một vài ngoại lệ. Ngoài vấn đề những người bị vạ tuyệt thông hoặc phạm tội nặng không được rước lễ, có thể vào lúc rước lễ, chúng ta cảm thấy thực sự chưa sẵn sàng trong tâm hồn để tiến lên đón nhận Mình thánh Chúa. Rước lễ là một cử chỉ biểu hiện đức tin cao độ, vì thế phải cố gắng làm sao tránh rước lễ một cách máy móc và nhàm chán.
Tuy nhiên, cử hành thánh lễ mà không thể rước lễ là một thái độ đáng tôn trọng. Đức Cha Jacques Jullien, trong tác phẩm “Demain la famille” (Gia đình ngày mai) đã viết: “Có một số người không thể rước Chúa một cách trọn vẹn, đó là nỗi khổ của họ. Nhưng họ có thể rước Lời Chúa, kết hiệp với Chúa, với nhiệm thể của Người là Giáo Hội và hoạt động theo ân huệ của họ”.
Khi chia sẻ tấm bánh duy nhất, Chúa Kitô thực hiện ý muốn của Người là làm cho chúng ta thành một thân thể, thân thể của chính Người. Rồi Người sai chúng ta đến với anh chị em. Chúa cần và mong chờ chúng ta xây dựng một thế giới công bằng và bác ái.
Ước gì trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta luôn kết hiệp với Thiên Chúa và kết hiệp với nhau. Amen.
22.Thánh Thể – Lương thực của tình yêu Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Minh)
I. Dẫn vào Phụng vụ Thánh Thể
Năm 1264, Đức Giáo Hoàng Urbanô ra sắc dụ lập lễ kính Thánh Thể trong toàn Giáo Hội mà chúng ta mừng kính hôm nay, đó là lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu Kitô. Mục đích của việc thiết lập lễ này là để long trọng tạ ơn Chúa Giêsu Kitô đã dùng quyền năng siêu việt mà lập Bí tích Thánh Thể để ban bánh trường sinh cho nhân loại.
Trong ngày lễ trọng tôn vinh Mình Máu Thánh Chúa Kitôhôm nay vốn được gọi là bí tích Tình yêu: Thánh Thể, tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô; Thánh Thể diễn tả mầu nhiệm hiệp thông trong Hội Thánh để mời gọi Kitô hữu sống tình bác ái huynh đệ.
II. Thánh Thể, Tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô:
Trong bài đọc thứ nhất trích sách Đệ Nhị Luật, kể lại dân Itrael sau khi rời đất Ai Cập đã lâm vào tình cảnh đói khát, liền kêu than với Môsê. Môsê vừa trình bày thì Chúa tỏ lòng thương dân bằng cách cho bánh Manna từ trời rơi xuống, cho nước từ tảng đá vọt ra, dân hết đói hết khát trong suốt thời gian rong ruổi trong sa mạc.
Bài Tin Mừng trong Thánh Lễ hôm nay, Thánh Gioan đặt bài diễn từ dài của Đức Giêsu về bánh sự sống vào phép lạ hoá bánh ra nhiều (Ga 6, 35-58). Bài diễn từ này gồm 2 phần. Phần thứ nhất gồm các câu 35-50, phần thứ hai gồm các câu 51-58. Trong phần thứ hai này diễn từ về chủ đề Thánh Thể được Chúa Giêsu làm nổi bật khi liên kết bánh hằng sống với thịt và sự sống của Người, để làm nên lời loan báo và hình dung trước về mầu nhiệm Thánh Thể mà Người sẽ thiết lập.
Khởi từ nguồn mạch tình yêu của Chúa Cha, Chúa Giêsu đến để công bố và trao ban tình yêu ấy cho nhân loại. Cho nên mọi hành vi và lời nói của Người đều thể hiện một mục đích duy nhất ấy. Chúa giảng dạy vì thương con người đi trong u mê lầm lạc của tội lỗi cần được khai sáng; Chúa chữa lành vì thương muốn giải thoát bệnh nhân khỏi gánh nặng của đau khổ; Chúa hóa bánh ra nhiều vì thương, Chúa muốn cho người đói khát được no nê. Và trên hết Người đã dâng hiến chính bản thân mình, chính máu mình như lời Người dạy: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn và máu tôi thật là của uống.Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (cc54 – 56). Lương thực này tặng hiến cho nhân loại để họ được sống và sống dồi dào như lời hứa của chính Người. Để thể hiện lời hứa, Người đã trở nên tấm bánh bẻ ra cho nhân loại để nuôi sống thể xác lẫn tâm hồn, cùng với đời sống tâm linh của dân Người. Sự dâng hiến xác thân của Con Thiên Chúa được gọi là Bí tích Thánh Thể, đó là sự dâng hiến tình yêu cho đến tận cùng của Thiên Chúa qua Người Con Một yêu dấu là Đức Giêsu Kitô.
Ngày nay, Chúa Giêsu vẫn trao ban tình yêu của Thiên Chúa Cha cho chúng ta trong hiến tế Thánh Thể. Đón nhận Thánh Thể là đón nhận tình yêu của Thiên Chúa trong Chúa Kitô, là sống mối tình của Thiên Chúa, để rồi sẽ trải lòng ra yêu thương mọi người.
III. Thánh Thể mời gọi Kitô hữu sống hiệp thông và bác ái huynh đệ:
Khi các môn đệ đề nghị Chúa Giêsu giải tán dân chúng để họ đi tìm kiếm thức ăn thì chính Người đã nói với các ông: “Các con hãy cho họ ăn đi”. Điều này cho thấy Chúa Giêsu muốn mời gọi sự cộng tác của con người vào trong công việc của Người. Trong Bí tích Thánh Thể cũng thế, Mình Thánh Chúa được biến đổi từ chính của lễ do con người dâng hiến là bánh và rượu, là hoa màu ruộng đất, là sản phẩm của cây nho và lao công của con người. Xin dâng lên để bánh và rượu trở nên Mình Máu Thánh Chúa.
Công đồng Vaticanô II đã khẳng định: “Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch và chóp đỉnh của đời sống Kitô giáo” (Lumen Gentium). Vì thế, Bí tích Thánh Thể là dấu chỉ yêu thương và hiệp nhất là trung tâm của đời sống Kitô hữu. Tiệc Thánh Thể là cuộc họp mặt của các tín hữu. Cộng đoàn phụng vụ hiện diện, mặc dù, bao gồm nhiều thành phần đa dạng, nhưng với tiệc Thánh Thể chúng ta trở nên duy nhất trong Chúa Kitô. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Côrintô đã viết: “Bởi vì chỉ có một tấm bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một tấm bánh ấy, nên tuy nhiều người chúng ta cũng chỉ là một thân thể”. Do đó còn gì gần gũi hơn, thân thiết hơn khi trong chúng ta đều luân lưu một của ăn và một thức uống, đều có chung một nguồn sống là Chúa Kitô. Nhưng từ đó, nguồn suối mang sự sống của Chúa Kitô cũng phải được chuyển thông cho anh chị em đồng loại của mình. Thế giới chung quanh ta ngày nay có rất nhiều tiến bộ, với những phát minh khoa học kỹ thuật tiên tiến; nhưng thống kê của cơ quan lương thực thuộc Liên Hiệp Quốc cho biết mỗi ngày có khoảng 400.000.000 người phải đi ngủ với bụng đói, không có gì để ăn và 15.000 người phải chết đói hàng ngày. Những người này cần được thương xót tinh thần lẫn vật chất, cần có cơm ăn, áo mặc, cần có nơi cư trú, cần tình thương, cần nâng đỡ ủi an. Vậy “hãy thương xót như Cha trên trời”.
Để thể hiện tình yêu thương của Chúa đối với nhân loại, người tín hữu hãy cầu xin Chúa Thánh Thần đến đốt cháy lửa mến yêu trong lòng chúng ta, để chúng ta nhận ra chúng ta đói khát Mình Chúa và Lời Chúa, là quà tặng vô giá Chúa ban cho nhân loại. Và xin Chúa Thánh Thần đào luyện con tim chúng ta trở nên con tim biết “chạnh lòng thương” như Chúa Giêsu, để chúng ta cũng trở nên tấm bánh bẻ ra cho muôn người.
Xin Chúa giúp mỗi người tín hữu trở nên giống Chúa mỗi ngày một hơn nhờ việc tham dự vào tiệc Thánh Thể, cũng như qua việc được chia sẻ sự sống của Chúa. Xin Chúa giúp mỗi người chúng con được lớn lên, được trưởng thành trong đức ái, sẵn sàng đóng góp phần của mình để phục vụ anh chị em, để rồi trong cuộc đời lữ hành trần gian chúng con sẽ được no đủ và vững bước tiến về quê trời mà không lo sợ phải mệt lả dọc đường.
Anh chị em thân mến.
Trong tác phẩm Anh phải sống của cố tác giả Khái Hưng có viết một câu chuyện cảm động như sau:
Nơi một làng quê, có một gia đình nghèo, chỉ có một khu vườn nhỏ để trồng tỉa, nên hằng ngày nếu có giờ thì hai vợ chồng cùng lên thuyền để vớt những cành củi đang trôi nổi trên dòng sông, mang về bán kiếm thêm chút thu nhập cho gia đình. Một hôm hai người đang vớt củi như bao nhiêu ngày khác, bỗng bầu trời dường như tối lại, gió mạnh thổi đến, cơn mưa đổ xuống. Chiếc xuồng nhỏ không chịu nổi cơn sóng dữ, nó bị nhận chìm, hai người đang cố sức để bơi vào bờ, nhưng người vợ càng ngày càng kiệt sức, chồng mới cố gắng để cho vợ bám vào, vừa bơi vừa la to “cố lên”. Trong lúc nguy hiểm như thế, người vợ bỗng nhớ đến đứa con thơ, cô tự nhủ “nếu cả hai cùng chết thì đứa con thơ của mình sẽ ra sao? Như vậy anh phải sống.” Thế rồi cô từ từ rời xa chồng và trôi theo dòng nước đang chảy xiếc cách giận dữ. Người chồng không biết lý do gì mà mình dường như nhẹ hẳn lên, anh bơi nhanh vào bờ để thoát hiểm. Anh chỉ còn biết nghỉ ngơi, nhưng bất chợt anh không còn nhìn thấy vợ mình nữa. Nhìn dòng nước đang hung hãn và được tiếp sức bởi những tiếng thét gào của cơn gió mạnh, anh chỉ còn biết ôm đầu than khóc và quay trở về với đứa con thơ của mình. Đứa con được sống và lớn lên nhờ mạng sống của người mẹ, nhờ tình yêu cao cả, dám chết cho người mình yêu thương, nên đứa con đã được sống.
Sau nầy khi người con biết được sự hy sinh cao cả đó, nó sẽ sống như thế nào cho xứng đáng?
“Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì sẽ được sống đời đời”.
Chúa Giêsu không chỉ chịu chết cho con người được sống, nhưng Ngài còn nhìn thấy, con người cần được nuôi dưỡng để kéo dài sự sống. Người đã để lại một phương tiện tuyệt vời cho con người được nuôi sống, đó là chính Thịt và Máu của Người. Ngài không để cho con người phải khổ cực đi tìm của ăn nuôi sống, nhưng Ngài ban cho con người thức ăn để con người được sống mà đến với Ngài trong tình yêu thương bao la tuyệt vời.
Nhưng những người đã được cứu sống và được nuôi dưỡng, có nhận ra được tình yêu bao la nầy chăng? Hay họ không hề hay biết gì về sự sống của mình bởi đâu mà có và tại sao mình được sống đến ngày hôm nay?
Mỗi người trong chúng ta để ra một ít phút suy nghĩ về con người và sự sống của chính mình: Biết bao người đã từ giã cõi đời, người ra đi trong hạnh phúc, người ra đi trong bất hạnh, người ra đi trong vui mừng, người ra đi trong ưu phiền sầu lo. Họ ra đi và đi về đâu? Đi đến sự sống hay đi tìm cái chết. Còn chúng ta vẫn còn hiện diện trên trần gian, chúng ta cũng sẽ ra đi như họ. Vậy chúng ta đi tìm sự sống hay đi tìm cái chết? “Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì sẽ sống đời đời và Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại trong ngày sau hết”. Lời Chúa Giêsu đã hướng dẫn chúng ta đến con đường sự sống. Biết bao người đã đi trên con đường sự sống vì họ biết dùng của ăn nuôi sống cho mình.
Chúng ta cũng nghe Lời nầy nhiều lần, chúng ta cũng biết đến của ăn nầy rất nhiều vì chúng ta cũng đã ăn rất nhiều, nhưng chúng ta có cảm nhận được sức mạnh từ của ăn mà chúng ta hưởng dùng không? Sức mạnh của Tình Yêu Thương, vì yêu thương mà Thiên Chúa dám chết để cho chúng ta được sống và cũng vì yêu thương mà Ngài đã ban của ăn nuôi sống là Chính Thịt và Máu Mình cho người mình Yêu được sống. Người mẹ đã cho đứa con mạng sống khi bà hy sinh mạng sống của mình, còn người cha thì nuôi dưỡng đứa con. Còn chúng ta, chúng ta được cho mạng sống và được nuôi dưỡng bởi Đấng yêu thương, nhưng chúng ta vẫn không cảm nhhận được để sống cho xứng với tình yêu được sao?
Nếu chúng ta biết yêu thương qua cử chỉ của hành động trong cuộc sống đời thường, nếu tất cả mọi việc làm của chúng ta biết làm vì yêu thương, thì những việc làm của chúng ta đang đưa chúng ta đến con đường sự sống. Nếu chúng ta biết siêng năng đến để ăn của ăn mà Đấng Yêu Thương đã ban thì chúng ta đang sống trong tình yêu, thì chúng ta đang đi trên con đường sự sống. Đó là chúng ta đang đáp lại Tình Yêu.
Xin cho chúng con biết siêng năng đến rước Chúa để chúng con được sống trong tình yêu thương và con đường sự sống.
(Suy niệm của Phêrô Trần Đình Phan Tiến)
Sự sống nhân thế hệ tại ăn và uống, uống ăn, ăn uống cứ quẩn quanh và sinh ra rất nhiều phiền toái. Ăn thế nào cho ngon, cho sang, cho bổ, cho khỏe. Đó là công việc của nhân thế, thế nhân thường sử dụng lời nói “làm ăn”. Làm lụng vất vả để có cái ăn, điều ấy thật tốt lành, “cũng như lao động là vinh quang”, dùng sức lao động tạo ra cái ăn là vinh quang.
Từ đầu sáng thế, Thiên Chúa tạo dựng nên con người, chưa cần làm lụng vẫn có cái ăn. Qủa thật là thiên đàng, nhưng rồi vì án phạt con người phải làm lụng vất vả mới có cái ăn, cuối cùng con người phải “chết”. Vì thân xác con người đã mang án phạt, nên con người phải chết, nghĩa là cái ăn của trần thế chỉ mang lại sự sống nơi thế gian, cho dù nhân thế có ăn uống cao lương mỹ vị, sơn hào hải sản quý đến đâu đi nữa, con người cũng không thể duy trì sự sống trên trần gian, như vậy tại sao con người phải chết? rõ ràng là án phạt nguyên tổ. Như vậy nhân thế chờ mong điều gì nơi Đấng Tạo Thành. Há chẳng phải là ơn cứu độ sao? Ơn cứu độ để làm gì? Há chẳng phải là để được sống và sống muôn đời sao?
Sống muôn đời mà phải làm lụng vất vả, tìm kế sinh nhai, lao động là vinh quang vì cái ăn, thì sống đời đời để làm gì? Có khác gì với đời sống thế trần đâu?
Như vậy ăn uống luôn gắn liền với sự sống của con người, ngay cả khi họ chết rồi, họ cũng được thân nhân cúng cơm, cúng nước và cúng giỗ hằng năm. Cái ăn, cái uống không thể tách rời nhân thế khi sống ở thế trần hay khi về âm phủ, chầu âm ty.
Thật đáng thương cho nhân thế, nếu không có lương thực vĩnh cửu, trường tồn, thì họ chỉ biết lấy cái ăn làm chuẩn mực cho cuộc sống trên dương thế cũng như âm phủ. Triết lý sống trần thế chỉ có thế thôi!
Nhưng, “Thiên Chúa đã yêu thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho thế gian, để ai TIN vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Như vậy rõ ràng, Thiên Chúa không bỏ mặc thế gian. Thiên Chúa đã ban sự sống từ Thiên Chúa cho thế gian một lần nữa, sau lần sáng thế. Nhưng sự sống nơi Thiên Chúa được trao ban qua Con MỘT của Ngài là Đức Kitô Giêsu. Chỉ có đấng từ trời mới ban cho Lương thực bởi trời, tức là Thần Lương, Thần Lương tức không còn là lương thực tự nhiên như cơm bánh, nước và rượu nữa, vì những thứ đó tự bản chất không phải là Thần Lương. Thần lương tức lương thực siêu nhiên, chỉ ăn một lần mà sống mãi, đó là Niềm TIN. Thật vậy, khi nhân thế chỉ TIN vào Đấng cứu thế Giêsu một lần là đủ cho họ, nhưng niềm tin cũng cần nuôi dưỡng để nó lớn lên và trưởng thành, như vậy, chúng ta cần kết hiệp với Đấng Cứu thế thường xuyên, liên tiếp khi nào có thể, để Thần lương huyền nhiệm vì tình yêu sẽ nâng đỡ chúng ta trong mọi nơi, mọi lúc, cho đến khi chúng ta được Chiêm ngưỡng vinh quang của Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay, được Đấng Giêsu Kitô quả quyết cách xác thực chính Thần Lương từ trời là “THỊT và MÁU” của Người, nghĩa là phần nhân tính hữu hình của Đấng thiên sai không phải là sự hư nát, tiêu hao như phần nhân tính của phàm nhân. Bởi vì, Người là Thiên Chúa, ăn THỊT và uống MÁU Chúa Giêsu là Tin tuyệt đối vào mầu nhiệm nhập thể của Con Thiên Chúa làm Người, ở giữa nhân loại. Sự sống Người mang đến cho nhân loại là mầu nhiệm nhập thể và làm Người cùng với phần Thiên tính là Thiên Chúa của Người. Bí tích Thánh Thể không thể hiểu theo nghĩa hẹp, khi Chúa Giêsu còn ở trần gian, mà là khi Người đã hoàn tất mầu nhiệm cứu độ. Mầu nhiệm cứu độ bao gồm sự nhập thể – nhập thế làm Người, tử nạn và phục sinh. Bánh và rượu thánh không mang lại sự cứu độ vì nó không phải là Thần Lương, nó không cho sự sống trường sinh, ví nó là phương tiện hữu hình của trần gian. Không có giá trị nào thay thế THỊT và MÁU Chúa Giêsu được. Vì chính Thân Thể hữu hình “ấy” được treo lên, thì THỊT và MÁU “ấy” sẽ trở nên Thần Lương CHO NHỮNG AI TIN VÀO NGƯỜI LÀ THIÊN CHÚA.
“Vì thịt Tôi thật là của ăn, và máu Tôi thật là của uống” (c 55), chứ không phải bánh và rượu là của ăn và của uống nữa. Thịt và Máu của Chúa Giêsu chính là lương thực đích thực nuôi sống nhân thế đời đời và những ai đón nhận thì không hề đói khát, vì Thần lương vĩnh hằng chính là Thiên Chúa duy nhất. Đến đây, xin nhớ đến linh hồn thân phụ tôi, người mà luôn thì thầm bên tai tôi, mỗi khi tham dự Thánh lễ Misa, khi tôi còn thơ ấu.
Khi linh mục đọc lời truyền phép và dâng bánh lễ lên: Thầy cả làm gì khi dâng bánh? Thầy cả lấy dĩa thánh có bánh lễ dâng lên, bánh ấy trở nên Mình Thánh Đức Chúa Giêsu. Thầy cả làm gì khi dâng rượu? thầy cả rót rượu nho vào chén Thánh, rượu nho trở nên Máu Thánh Đức Chúa Giêsu và một chút nước lã,hai chất ấy chỉ Máu và Nước bởi cạnh nương long Chúa đã chảy ra khi Người chịu treo trên cây Thánh Giá. Thầy cả rửa tay thì kẻ giúp làm gì? Kẻ giúp đổ nước trên ngón tay thầy cả để chỉ lòng ăn năn sám hối, ta cũng phải rửa linh hồn ta cho sạch và ăn năn thảm thiết về tiền khiên ta đã phạm, để xứng đáng dâng thánh lễ cực trọng nầy.
Như vậy, bánh và rượu là hình thức tượng trưng cho THỊT và MÁU Chúa Giêsu Kitô, Đấng từ trời mà đến, đem lại sự sống vĩnh cửu cho những ai tin và đón nhận và làm no thỏa mọi khao khát của nhân loại.
Lạy Chúa Giêsu, con tin vào Chúa, xin Chúa trợ giúp lòng tin yếu kém của con. Amen.
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Mình Máu Thánh Chúa Giêsu là kho lương thực của Giáo Hội, là sự sống, là kho tàng vô giá. Vì chính Chúa tự trao ban Thịt Máu Ngài cho chúng ta làm của ăn. Hằng ngày, chúng ta vẫn ăn lấy Chúa, nhưng Giáo Hội muốn nhắc cho chúng ta nhớ đến Bí Tích quan trọng nầy một cách đặc biệt hơn, vì lắm khi, vì quen thuộc chúng ta không còn để ý đến hồng ân tuyệt diệu nầy của Chúa. Thói quen bào mòn mọi sự. Những gì quan trọng trở nên quen thuộc và không còn hấp dẫn.
Chúa Giêsu tuyên bố một cách rõ ràng không tránh né: “Tôi là bánh từ trời xuống.” Đây không phải là bánh của trần gian mà là bánh từ trời xuống. Bánh đó là bánh gì? Ngài nói rõ: “Và bánh tôi ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Và Ngài lại thêm: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời”. Những lời nói không ai có thể hiểu, Vì thế, những người Do thái nghe vậy đã sừng sộ và phản đối kịch liệt. Ăn thịt và uống máu người ta là một điều không thể chấp nhận được đối với người Do thái. Chúng ta cũng không thể chấp nhận. Những kitô hữu đầu tiên đã bị những người chung quanh gọi họ là những kẻ ăn thịt người. Thế nhưng Chúa Giêsu không đính chính.
Trong bữa Tiệc Ly, Ngài mới thực hiện những gì đã nói. Trong bầu không khí trang trọng và thâm trầm đó, Chúa Giêsu cầm bánh lên và nói những lời không thể tưởng tượng được: “Nầy là Mình Thầy…Hãy cầm lấy mà ăn.” Lời trao gởi ấy, lệnh truyền ấy là của Thiên Chúa. Tấm bánh ấy đã trở thành thịt của Thiên Chúa làm người.
Con người chúng ta nhỏ hèn, Thiên Chúa đã tìm một phương thế để tiếp cận chúng ta. Ngài đã dùng một phương tiện rất đơn thường hợp với con người xác thịt của chúng ta và đi thật sâu vào chúng ta. Thịt Máu Ngài hôm nay là Thịt của một Thiên Chúa nhập thể, nhưng đã sống lại vinh quang, là Bánh ban sự sống.Ngài là Thiên Chúa hằng sống. Ngài muốn và đòi buộc chúng ta phải ăn lấy Ngài để có sự sống: “Ai không ăn Ta người ấy không có sự sống”. Ngài mượn lấy một hình thức hết sức khiêm tốn, một tấm bánh nhỏ, nhưng Ngài vẫn là Thiên Chúa quyền năng và vì Ngài là Đấng quyền năng tuyệt đối, Ngài có thể sử dụng mọi hình thức để thực thi ý muốn yêu thương của Ngài.
Hạnh phúc cho chúng ta biết bao vì chúng ta được yêu thương đến mức độ tuyệt đối như thế! Thiên Chúa trở thành thân cận đến mức tối đa. Thiên Chúa trở thành một của ăn. Thánh Gioan nói: “Điều chúng tôi đã nghe, đã thấy tận mắt đã chiêm ngưỡng và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống”, chúng ta còn đi xa hơn. Chúng ta đã được nếm, được ăn, được nuốt vào người, đó là Thịt Máu Con Thiên Chúa hằng sống.
Đó chính là mầu nhiệm nhập thể được tái diễn trong chúng ta. Trèo cây nào có thể đến với Thiên Chúa? Con người không thể vươn tới Thiên Chúa, Thiên Chúa đã xuống thấp, thật thấp để gần với con người. Không những gần mà ở trong, thành một xương một thịt. Điều mà tình yêu nhân loại mơ ước mà không thể thực hiện, Thiên Chúa đã thực hiện bằng cách nhập thể, bằng cách trở thành của ăn. Thiên Chúa đã sử dụng một phương tiện thông thường nhất để thực hiện một điều cao cả nhất.
Trong Thánh Thể, chúng ta nhìn thấy sự nhỏ hèn của Thiên Chúa vừa nhìn thấy quyền năng tuyệt đối của Ngài. Thật đáng tôn thờ, Đấng cao cả tuyệt vời đã trở thành nhỏ bé nhất! Chúng ta có nhìn thấy tình yêu Chúa trong tấm bánh nhỏ đó không? Con mắt phàm trần của chúng ta vẫn không thể thấy được nếu không được Thánh Thần soi sáng. Đứng trước tình yêu lạ lùng của Chúa, tình yêu loài người chỉ là hình bóng nghèo nàn mờ nhạt. Có ai đã trở thành một với người mình yêu? Có ai một xương một thịt với người mình yêu? Trong tình yêu nhân loại, trong lúc người ta tưởng đã đạt đến sự hiệp nhất thì chỉ trong một khoảnh khắc, người ta rơi lại trong sự bất lực của mình. Con người mãi mãi là tuyệt vọng vì sự nhỏ hèn của mình. Điều gì con người không làm được Thiên Chúa vẫn làm được. Ngài trở nên một với chúng ta nhờ một cách nhập thể mới là trở thành của ăn. Ăn lấy Ngài, nuốt lấy Ngài, chiếm đoạt lấy Ngài. Đó là niềm hạnh phúc tuyệt vời, chúng ta có biết không? Chúng ta ăn, không phải một ấm bánh mà là Chúa chúng ta, một Thiên Chúa trở thành nhỏ bé, một Thiên Chúa hoàn toàn dưới quyền sử dụng của chúng ta, một Thiên Chúa nhập thể để trở thành xương thịt chúng ta. Mầu nhiệm thật lạ lùng, thật cao cả! Thiên Chúa thật đáng tôn thờ nhưng thật đáng yêu! Chúng ta có thể đến với Chúa mà không ngại ngùng. Không gì ngăn cản chúng ta khi Chúa tự mình đến với chúng ta trong sự nhỏ hèn khiêm tốn. Bà Marie Noel nói về Chúa Giêsu Thánh Thể: “Tôi sợ con người chứ tôi không sợ một tấm bánh”.
Chúng ta có yêu mến Chúa không? Nếu yêu mến Chúa thì hãy đến ăn lấy Ngài, Ngài đã muốn và đã buộc như thế: “Ai không ăn thịt và uống Máu Con Người người đó không có sự sống nơi người đó”. Ăn lấy Thiên Chúa của mình không là một việc cao cả lắm sao, nhưng lại là một việc dễ nhất, vừa tầm chúng ta, đơn thường nhất. Chiếm hữu Thiên Chúa để Ngài thuộc về chúng ta là một điều không ai có thể nghĩ tới, nhưng lại là một điều thông thường như ăn cơm. Và điều đó mang lại cho chúng ta sự sống, không chỉ là sự sống vật chất mà sự sống vĩnh cửu, sự sống trong Chúa.
Chúa nói: “Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta, người ấy sống trong Ta và Ta sống trong người ấy”. Chúng ta đi từ niềm vui đến hạnh phúc. Chúa Giêsu đến trong chúng ta, sống cuộc sống của chúng ta trong chúng ta. Còn hạnh phúc nào bằng? Một bà đạo đức đến gặp một linh mục và nói: “Thưa Cha, con khổ quá, con không thể chịu nổi nữa”. Linh mục đáp: “Bà vừa rước Chúa phải không? Chúa đang đau khổ với bà đấy. Đừng sợ, hãy cùng với Ngài chấp nhận đi, Chúa sẽ thay bà gánh chịu mọi đau khổ của bà”. Bà ấy đã bình an trở về và đã tìm được can đảm. Đa số chúng ta không hiểu được hạnh phúc được sống với Chúa. Thánh Phaolô đã nói: “Tôi sống, nhưng không phải tôi mà Chúa Giêsu sống trong tôi”. Ngài đã sống với Chúa, đã để cho Chúa sống trong Ngài và đã chấp nhận bao nhiêu khổ cực và cả sự chết vì Chúa trong niềm vui. Ăn lấy Chúa, chúng ta trở thành một Giêsu mới, một Giêsu đang sống hôm nay, đang nhận lãnh bao nhiêu khổ cực của cuộc sống hôm nay. Chúa Giêsu đang lầm than nuôi sống gia đình… Chúa Giêsu đang lao động để làm cho cuộc đời đẹp hơn… Ngài mượn con người chúng ta để tiếp tục cuộc nhập thể của Ngài cho đến tận thế. Nhưng chúng ta không sống thực sự huyền nhiệm nhập thể đó. Chúng ta không dám cho Ngài cuộc đời chúng ta, thân xác chúng ta, trí khôn chúng ta để Ngài tiếp tục công trình cứu chuộc của Ngài. Chúng ta sợ mất mát. “Ai liều mất mạng sống mình thì sẽ tìm được”. Nhưng chúng ta không dám liều. Chúng ta chưa dám nhìn nhận tình yêu và quyền năng của Ngài. Chúng ta không dám như thánh Phaolô, đành mất mát tất cả để chiếm được Chúa Giêsu. Chúng ta không dám yêu Ngài. Yêu là sống chết với người yêu và cho người yêu. Chúa đã dám còn chúng ta thì ngại ngùng. Chúng ta nặng nề trong thân xác chúng ta. Ngài biết như thế và chính Ngài mời gọi: “Hãy đến với Ta những ai vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”. Thịt Máu Chúa là một của ăn bồi dưỡng, tăng sức cho những tâm hồn yếu đuối như chúng ta. Chúng ta cần ăn lấy Chúa để chính Chúa trở nên sức mạnh cần thiết để chúng ta sống như Ngài và yêu mến Ngài trọn vẹn hơn.
Hôm nay, chúng ta có dịp để tôn thờ, yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể đặc biệt hơn. Hãy đến ăn lấy Chúa với một tâm hồn thật tình hơn và sống với Chúa tha thiết hơn. Không những hôm nay mà tiếp tục để “hôm nay hơn hôm qua và ngày mai hơn ngày hôm nay”.
Không ai có thể tuyên bố một cách thẳng thừng như Chúa Giêsu: “Tôi là bánh bởi trời xuống. Ai ăn bánh nầy sẽ được sống muôn đời. Và bành tôi ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Một lời tuyên bố thẳng thừng không úp mở. Nếu chúng ta có mặt lúc bấy giờ, chúng ta có ngạc nhiên không? Người Do thái ngạc nhiên và tranh luận với nhau: “Làm sao ông nầy có thể cho chúng ta ăn thịt ông được?” Họ ngạc nhiên là phải, vì lời tuyên bố đó quá lạ lùng! Vượt xa tất cả những gì người ta có thể tưởng tượng. Trước sự ngạc nhiên của đám đông, Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống trong mình. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời”. Khi nói tôi bảo thật các ông, là một cách xác quyết mạnh mẽ nhất của người Do thái, Chúa Giêsu khẳng định rõ ràng những gì Ngài nói là sự thật. Chúa muốn dẫn họ đến đâu? Ngài muốn đưa họ đi từ ngạc nhiên đến niềm tin. Tin vào một mình Ngài vì chỉ có Ngài mới là sự sống thật, vì chỉ có Ngài là Thiên Chúa, là Đấng được sai đến để mang lại sự sống cho con người.
Trước khi tuyên bố những lời lạ lùng đó, Chúa Giêsu đã làm những phép lạ cả thể trước đám dân chứng tỏ Ngài là Đấng phải đến, Đấng mọi người đang trông đợi: Ngài chữa lành người bất toại ở hồ Bêdatha, và đứa con của viên sĩ quan cận vệ nhà vua. Hơn nữa, Ngài đã nuôi hơn năm ngàn người với năm chiếc bánh và hai con cá và họ vừa muốn tôn Ngài làm vua đó sao? Những phép lạ đó vẫn còn rành rạnh trong trí của đoàn dân nầy. Bao nhiêu đó không đủ dể chứng minh cho Ngài sao? Nhưng họ vẫn không thể nào tin được. Họ chỉ tìm Ngài để được ăn no thôi. Con người vật chất vẫn che khuất con người linh thiêng! Còn chúng ta, chúng ta có tin không? Những lời đó hôm nay vẫn được lặp lại nơi bàn thờ, và chúng ta được mời dự vào bàn tiệc Mình Máu Thánh Chúa, và chúng ta có tin thật không? Đức tin của chúng ta mong manh quá! Biết bao nhiêu lần, chúng ta đã ăn lấy Bánh Hằng Sống, là Thịt và Máu Thánh Chúa, đức tin của chúng ta không tiến triển được bao nhiêu. Có lẽ con mắt phàm trần chúng ta thấy được dấu chỉ bánh rượu, nhưng con mắt tâm hồn chúng ta vẫn chưa sáng được để nhận ra Chúa thực sự hiện diện trong Thánh Thể. Chúng ta chưa thật lòng tìm Chúa.
Chúa Thánh Thần mới có thể giúp chúng ta tin vào Chúa trong Bí Tích Thánh Thể. Chính Chúa Thánh Thần mới mở được con mắt tâm hồn chúng ta để chúng ta tin thật. Ai cũng dám nói rằng, con tin thật Chúa ngự trong bí tích Thánh Thể, nhưng trong thực tế chúng ta vẫn còn rất mù mờ. Thánh Gioan Maria Vianey đã từng nói: “Nếu ai biết Thánh Thể là gì, người đó sẽ chết ngay, vì quá vui mừng”. Đúng thế, vì đó là dấu hiệu của một tình yêu không thể nào có trong thế gian. Thiên Chúa đã đến với chúng ta, mang lấy hình thức một tấm bánh để chúng ta ăn lấy Ngài, sống làm một với Ngài. Ngài sống thực sự trong xương thịt chúng ta, trở nên một xương một thịt với chúng ta. Có cái gì trên trần gian nầy có thể so sánh được không? Có mối tình nào làm cho chúng ta tan biến trong người yêu như Chúa tan biến trong chúng ta không? Tình yêu chân thật là như thế đó. Yêu là muốn nên một với người mình yêu. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Ngài là chủ muôn loài. Ngài sử dụng quyền năng của Ngài để thực hiện ý muốn tình yêu của Ngài. Chỉ có việc ăn uống mới có thể làm cho chúng ta hoàn toàn ở trong Ngài và Ngài ở trong chúng ta. Chỉ có Ngài mới đạt tới đỉnh tình yêu đó.
Đây là “mầu nhiệm đức tin”. Là một mầu nhiệm thì làm sao chúng ta có thể hiểu được một cách đầy dủ được? Chúng ta chỉ tin thôi, tin vào chính lời Chúa chứ không chỉ là lời của một con người. Biết bao nhiêu nhà thần học đã tìm cách giải thích về sự hiện diện của Chúa trong bí tích thánh nầy, và đã giúp cho chúng ta tin và yêu mến Chúa Giêsu trong bí tích nầy, nhưng vẫn chưa đủ, nếu chúng ta không cố gắng tìm mãi và cầu xin liên lỉ để được niềm tin cần thiết.
Tin vào Thánh Thể là tin vào tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa, một tình yêu không phai tàn, không giảm sút và luôn tràn đầy đến kinh ngạc, một tình yêu hi sinh đến tận cùng. Chúng ta được yêu đến như thế, chúng ta đáp trả thế nào? Với tất cả niềm tin, với tất cà sức lực? Phải yêu mến Chúa hết lòng, hết sức, trên hết mọi sự… Tình yêu của chúng ta đã đến mức độ nào? Hãy vui mừng vì chúng ta được yêu, hãy yêu mến trước hết bằng cách cố gắng đến ăn lấy Chúa càng nhiều càng tốt để Ngài dẫn chúng ta vào tình yêu của Ngài. Hãy để Ngài dìu chúng ta đi, đừng cản trở những hoạt động của Ngài bằng những ước muốn riêng tư, nhưng luôn nhìn vào Ngài và tuân theo những chỉ dẫn của Ngài. Chúng ta sẽ được biến đổi trong Ngài và sẽ được sống trong Ngài không ngơi. “Ai ăn Ta sẽ được sống trong Ta và Ta sẽ sống trong người ấy”.
(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
Từ ngày tổ tông loài người sa ngã phạm tội, tương quan tốt đẹp giữa con người với Thiên Chúa bị cắt đứt hoàn toàn, loài người phải xa lìa Thiên Chúa và phải mang án phạt đời đời.
Tuy nhiên, Thiên Chúa không đành để cho loài người phải đắm chìm trong đau khổ và sự chết do tội lỗi gây ra, nên đã tìm cách cứu vớt loài người khỏi vòng oan nghiệt đó.
Thế là Thiên Chúa lập nên một phương thế thần diệu để cứu độ con người. Phương thế này là Bí tích Thánh thể. Qua Bí tích cực trọng này, Thiên Chúa nhắm đến ba mục tiêu quan trọng sau đây:
1. Xóa bỏ tội lỗi con người.
2. Kết hợp nên một với con người và ở với họ mọi ngày cho đến tận thế.
3. Thông ban Sự Sống viên mãn của Thiên Chúa cho loài người.
Đây là ba hồng ân vô cùng cao quý, trỗi vượt trên mọi hồng ân khác.
Vậy thì Bí Tích Thánh Thể là gì mà có thể mang lại hiệu quả tuyệt vời đến thế?
Có thể trả lời vắn gọn như sau: Bí Tích Thánh Thể, thường được gọi là Thánh Lễ, là việc Chúa Giê-su hiến dâng thân mình trên thập giá trên đồi Can-vê cách đây 2.000 năm và còn đang tiếp diễn qua các thời đại cho đến ngày tận thế (GLHTCG 1323,1366).
Nói khác đi, việc Chúa Giê-su dâng mình trên thập giá trên đồi Can-vê năm xưa và Thánh lễ hôm nay chỉ là một (GLHTCG 1367).
1. Nhờ Thánh Lễ, Chúa Giê-su xóa bỏ tội lỗi và án phạt do tội gây ra.
Luật Chúa đã truyền: “Hậu quả của tội là sự chết” (Rm 6,23) [Ê-dê-ki-ên 18,20. Rm 5,12. Rm 6,23. Giacôbê 1,15]. Chiếu theo luật nầy, kẻ nào phạm tội thì người đó phải chết, trừ phi có ai chết thay cho họ. Thế là Ngôi Hai Thiên Chúa tình nguyện làm Đấng chết thay.
Khi dâng mình làm lễ tế trên đồi Can-vê hôm xưa, cũng là khi dâng mình trong Thánh lễ hôm nay, Chúa Giê-su chịu đền tội và chịu chết thay cho người tội lỗi để họ được ơn tha thứ và thoát khỏi án phạt đời đời (GLHTCG 1365, 1366, 1367).
2. Nhờ Thánh lễ, Chúa Giê-su cho ta được kết hợp nên một với Ngài và ở lại với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.
Làm thế nào để cho con người được nên một với Chúa Giê-su?
Chúa Giê-su có một sáng kiến tuyệt vời: Ngài hiện diện dưới hình tấm bánh, dưới hình rượu để cho chúng ta được ăn Ngài, được uống Ngài. Và một khi đã ăn Chúa Giê-su, chúng ta được nên cùng máu thịt, cùng một thân mình với Chúa như lời Ngài phán: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6, 56).
Thiên Chúa như đại dương bao la. Còn chúng ta như vũng nước nhỏ bên bờ đại dương. Khi ta rước Chúa vào lòng, ngăn cách giữa ta với Chúa không còn nữa: Ta được tan hòa vào Chúa như ao nước nhỏ tan hòa vào đại dương, nên một với đại dương, được nước đại dương làm cho trong lành.
3. Nhờ Thánh lễ, Chúa Giê-su ban sự sống của Ngài cho ta.
Muốn cho cành nho rừng tiếp nhận được sự sống của cây nho vườn, thì nó phải được tháp nối nên một với cây nho vườn.
Muốn cho một bàn tay bị cắt lìa thân được tiếp nhận sự sống từ thân thể thì bàn tay đó phải được ghép nối vào thân thể, trở nên một với thân thể.
Vậy muốn cho loài người tiếp nhận được Sự Sống của Chúa Giê-su thì phải làm cho họ nên một với Chúa Giê-su.
Khi rước Mình Máu Chúa Giê-su, chúng ta được kết hợp mật thiết với Chúa Giê-su, như bàn tay nối liền cơ thể. Nhờ đó, Sự Sống đời đời của Thiên Chúa nơi Chúa Giê-su sẽ được thông ban cho ta, tựa như sự sống của thân mình chuyển thông cho bàn tay. Nhờ đó, chúng ta được mang lấy Sự Sống đời đời của Thiên Chúa nơi thân mình chúng ta, như lời Chúa Giê-su xác nhận: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời” (Ga 6,54)
Như thế, khi hiệp dâng Thánh lễ sốt sắng và trọn vẹn, chúng ta được hưởng cùng một lúc ba hồng ân vô giá:
– Được xóa bỏ tội lỗi;
– Được kết hợp nên một với Chúa Giê-su
– Và được tiếp nhận Sự Sống đời đời do Chúa thông ban.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa phải trả giá rất đắt, trả giá bằng cả cuộc đời và sinh mạng của Chúa để đem lại cho chúng con những ân huệ quá đỗi tuyệt vời này. Lẽ nào chúng con lại ngoảnh mặt quay lưng hay tỏ ra thờ ơ hững hờ với những hồng ân cao vời như thế?
Xin cho chúng con sớm nhận ra hồng ân vô giá nầy để ngày ngày siêng năng tham dự Thánh lễ để tận hưởng những ân huệ lớn lao.
28.Hồng ân Thánh Thể – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Khi thông ban Sự Sống của chính mình cho nhân loại, Thiên Chúa ban cho họ một hồng ân cao quý hơn hết mọi hồng ân, một quà tặng tuyệt vời trên tất cả mọi món quà
Không gì trên đời quý bằng sự sống. Dù có bị thiên tai mất hết ruộng vườn, tài sản, nhà cửa, tiền bạc, nhưng chưa phải chết thì vẫn còn may.
Được sống là một hồng phúc lớn nhất, là một ân huệ vượt trên hết mọi ân huệ. Theo nhà văn Jack London thì “thà làm một con chó sống còn hơn làm một con sư tử chết”. Làm một con chuột sống còn hơn một con voi chết! Thế nên người ta thường nói: “Mạng sống quý hơn đống vàng”.
Vì yêu thương con người trên hết mọi sự, nên Thiên Chúa muốn dành cho họ quà tặng cao quý hơn tất cả mọi quà tặng, đó là sự sống; nhưng Thiên Chúa không chỉ ban sự sống sinh vật mà còn thông ban cả Sự Sống của chính Thiên Chúa cho con người nữa.
Thông ban sự sống thần linh
Thiên Chúa Cha là Cội Nguồn của Sự Sống. Sự Sống bắt nguồn từ Chúa Cha. Người thông ban Sự Sống của Người cho Chúa Con (Chúa Cha nhiệm sinh Chúa Con). Chúa Giêsu xác nhận sự sống của Người từ Chúa Cha mà đến: “Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha” (Ga 6, 57)
Một khi nhận được sự sống từ Chúa Cha, Chúa Giêsu không giữ lại cho riêng mình, nhưng tìm cách thông truyền Sự Sống cao quý ấy cho nhân loại.
Bằng cách nào?
Muốn cho cành nho rừng tiếp nhận được sự sống của cây nho vườn, thì nó phải được tháp nối để nên một với cây nho vườn.
Muốn cho một bàn tay bị cắt lìa thân được tiếp nhận sự sống từ thân thể thì bàn tay đó phải được ghép nối vào thân thể, trở nên một với thân thể.
Vậy muốn cho loài người tiếp nhận được Sự Sống của Chúa Giêsu thì phải làm cho họ nên một với Chúa Giêsu.
Thế nên, Chúa Giêsu lập nên bí tích Thánh Thể, hiến ban Thịt và Máu Người, dưới hình bánh rượu, làm của ăn cho nhân loại, để cho những ai lãnh nhận Mình Máu thánh Người thì được nên một với Người, được ở lại trong Người: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy.”
Những ai “ở lại trong Chúa Giêsu và có Chúa Giêsu ở lại trong người ấy”, thì tất nhiên Sự Sống của Chúa Giêsu sẽ được thông ban cho người ấy.
Điều tuyệt vời là Sự Sống mà Chúa Giêsu thông ban, qua việc tiếp nhận Mình Máu Người, không phải là sự sống sinh vật có thể bị lụi tàn theo năm tháng mà là Sự Sống vĩnh cửu không bao giờ tàn phai.
“Đức Giêsu nói với người Do-thái rằng: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.” (Ga 6, 51)
“Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết.” (Ga 6, 54)
Thế là thông qua việc ăn Mình và Máu Chúa Giêsu, con người được nên “cùng một thân mình, cùng một dòng máu” với Chúa Giêsu và do đó, Sự Sống thần linh của Chúa Giêsu sẽ được thông ban cho họ.
Khi thông ban Sự Sống của chính mình cho nhân loại, Thiên Chúa ban cho họ một hồng ân cao quý hơn hết mọi hồng ân, một quà tặng tuyệt vời trên tất cả mọi món quà.
Biến đổi con người thành Chúa Giêsu
Ngoài ra, khi tiếp nhận Mình Máu thánh Chúa Giêsu trong Bí Tích thánh thể, chúng ta còn được biến đổi để nên một Giêsu khác. Thánh Giáo hoàng Lê-ô Cả khẳng định:
“Thực thế, chúng ta thông phần Mình và Máu Chúa Kitô là để được biến thành Đấng chúng ta rước lấy” (trích bài giảng của thánh Lê-ô cả giáo hoàng, trong bài đọc kinh sách ngày thứ tư, tuần 2 phục sinh)
Giáo huấn của Hội Thánh còn dạy cho biết nhờ tiếp nhận Mình Máu thánh Chúa Giêsu, chúng ta được thông phần bản tính Thiên Chúa:
“Khi bạn ăn uống Mình và Máu Đức Kitô, bạn nên một với Người, cùng một thân mình, cùng một dòng máu. Như thế, chúng ta trở thành những người mang Đức Kitô, có Mình Máu Người thấm nhập khắp toàn thân. Nhờ vậy, theo lời thánh Phê-rô, chúng ta được thông phần bản tính Thiên Chúa.” (trích bài giáo huấn cho các tân tòng tại Giê-ru-sa-lem trong bài đọc kinh sách ngày thứ bảy, tuần bát nhật phục sinh)
Lạy Chúa Giêsu,
Hồng ân Chúa ban thật vô cùng lớn lao và quý báu nhưng tiếc thay, nhiều người không nhận biết nên tỏ ra hững hờ.
Xin cho tâm hồn chúng con tràn đầy hoan lạc trước hồng phúc vô giá và khao khát tiếp nhận hồng ân nầy với hết lòng cảm tạ tri ân.
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.)
Có một số Kitô-hữu cho rằng Đức Yêsu là biểu tượng của Thiên Chúa. Mình Máu Chúa Kitô cũng được một số người hiểu như biểu tượng Đức Yêsu hiện diện. Không sai khi nói Đức Yêsu là biểu tượng của Thiên Chúa, và bí tích Thánh Thể là biểu tượng Đức Yêsu phục sinh; tuy nhiên còn có điều gì hơn thế nữa.
1. Đức Yêsu là biểu tượng của Thiên Chúa
Biểu tượng khác dấu chỉ. Dấu chỉ là một thực tại hữu hình, chỉ tới một thực tại vô hình. Chẳng hạn, dấu chỉ hoặc dấu hiệu đi đường là những hình vẽ, giúp người lái xe hoặc khách bộ hành biết những thông tin cần thiết. Những dấu chỉ hoặc dấu hiệu này do quy ước mà có. Biểu tượng cũng là dấu chỉ, nhưng nó còn có liên hệ mật thiết đến thực tại nó biểu thị, chẳng hạn trái tim là biểu tượng của tình yêu; vì khi người ta yêu, nhịp đập của trái tim khác với những lúc bình thường.
Khi khẳng định Đức Yêsu là biểu tượng của Thiên Chúa, người ta không chỉ muốn nói Đức Yêsu là dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện hoặc yêu thương, nhưng còn muốn nói giữa Đức Yêsu và Thiên Chúa có một mối liên hệ đặc biệt. Nói theo ngôn từ của thánh Phaolô, Đức Yêsu là “hình ảnh của Thiên Chúa vô hình”. Các nhà thần học khi nói Đức Yêsu là con Thiên Chúa, thì không chỉ muốn nói Đức Yêsu là con Thiên Chúa như chúng ta là con Thiên Chúa, nhưng còn muốn nói Đức Yêsu Đức Yêsu là con Thiên Chúa một cách đặc biệt, chữ Con được viết hoa, hoặc là con đồng bản tính Thiên Chúa. Tuy nhiên khi nói Đức Yêsu là con đồng bản tính Thiên Chúa, các nhà thần học không có ý muốn nói Đức Yêsu và Thiên Chúa là hai Thiên Chúa.
Đức Yêsu là Con Thiên Chúa, là hình ảnh của Thiên Chúa, là dấu chỉ của Thiên Chúa, là biểu tượng của Thiên Chúa, là Đấng để Thiên Chúa chiếm đoạt Ngài hoàn toàn, đến độ ở một mức độ nào đó có thể nói Ngài “là Thiên Chúa”. Tuy vậy, chỉ có một Thiên Chúa.
2. Đức Yêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể
Trong việc tìm kiếm từ ngữ diễn tả về thực tại Đức Yêsu Kitô, các nhà thần học đã sáng chế ra từ ngữ “Ngôi Lời Thiên Chúa”. Đức Yêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể. Từ ngữ này làm cho người ta hiểu, Đức Yêsu không chỉ là một người, được Thiên Chúa chiếm đoạt và trở thành thần-nhân, một người được trở thành Thiên Chúa theo nghĩa “Thiên Chúa làm người để con người được trở thành Thiên Chúa”, nhưng còn nói một nghĩa đặc biệt: Đức Yêsu là Thiên Chúa nhập thể, là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể. Nơi Đức Yêsu còn có một điều gì hơn nữa, Ngài là Thiên Chúa ”từ trước”.
Đức Yêsu vẫn khác biệt với Thiên Chúa cho dù Ngài “là Thiên Chúa”, nên các nhà thần học diễn tả bằng từ ngữ, Ngài là “Ngôi Lời Thiên Chúa” nhập thể. Ngôi Lời Thiên Chúa và Thiên Chúa có gì khác? Các nhà thần học diễn tả: cái khác là “ngôi vị”. Có điều chữ ngôi vị này không giống chữ “persona” của con người ngày nay. Ngôi Lời, hay Ngôi Hai, hay Chúa Con, vẫn đồng nhất với Thiên Chúa, vẫn là một Thiên Chúa; không giống như bạn và tôi là hai ngôi vị, và hàm chứa là hai thực tại khác nhau.
Để hiểu Ngôi Lời (Chúa Con), Ngôi Cha (Thiên Chúa), Ngôi Ba (Thánh Thần) khác nhau thế nào, người ta phải hiểu trong văn mạch; đây là những từ ngữ diễn tả về Thiên Chúa, diễn tả thực tại đặc biệt của Đức Yêsu Kitô, và sau đó diễn tả tương quan giữa Đức Yêsu và Thiên Chúa cùng Thánh Thần.
Giáo Hội không áp đặt một ý nghĩa cho Thiên Chúa, rồi nói Thiên Chúa phải như vậy; nhưng Giáo Hội diễn tả thực tại Đức Yêsu và tương quan của Ngài với Thiên Chúa. Đức Yêsu là người tuyệt vời, và còn hơn là một người nữa. Còn hơn là một người nữa, nghĩa là gì? “Là Thiên Chúa”. “Là Thiên Chúa” nhưng vẫn khác với Thiên Chúa, và điều này nghĩa là gì? Các nhà thần học diễn tả điều này bằng “Ngôi Lời Thiên Chúa”, là “Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể”.
3. Bí tích Thánh Thể là Mình Máu Thánh Đức Chúa Kitô
Tấm hình chụp một người, là dấu chỉ về người đó. Một phần thân thể của một người, có thể trở thành dấu chỉ và biểu tượng của người đó. Những thói quen, những lời nói, có thể là những dấu chỉ gợi nhớ đến một người. Theo nghĩa này, nghi thức “bẻ bánh” có thể làm cho người ta nhớ đến Đức Yêsu vì Ngài vẫn hay làm điều này.
Bí tích Thánh Thể không chỉ là những hành vi gợi nhớ Đức Yêsu. Nếu chỉ là hành vi gợi nhớ, thì ai làm cũng được. Chỉ cần chọn một người xứng đáng nhất trong những người hiện diện để thực hiện hành vi này mà thôi. Nơi Tin Mừng được đọc hôm nay, những người Do Thái hiện diện không hiểu lời nói của Đức Yêsu đơn thuần như vậy. Họ hiểu theo nghĩa đen: “làm sao người này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được?” Những lời của Đức Yêsu được hiểu “đúng” tới mức độ gây ấn tượng rất mạnh đến nỗi nhiều môn đệ đã theo Đức Yêsu và bỏ đi khi nghe những lời này.
Đức Yêsu là lương thực nuôi dưỡng con người. Thịt máu Đức Yêsu là của ăn của uống cho con người. “Con người sống không chỉ nhờ cơm bánh nhưng còn bởi Lời Thiên Chúa nữa”. Bí tích Thánh Thể không chỉ là duyên cớ tập họp tín hữu để qua đó dân Chúa được dạy dỗ bằng Lời Thiên Chúa, nhưng còn là chính thân xác của Đức Yêsu Phục Sinh. Bí tích Thánh Thể là thân xác của Đức Yêsu phục sinh nuôi dưỡng con người, cũng tương tự Mình Máu Đức Chúa Yêsu là của ăn của uống cho con người mà ngày xưa Đức Yêsu đã đề cập đến.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn hiểu Đức Yêsu là Con Thiên Chúa như thế nào?
2. Bạn có tin hình bánh hình rượu sau truyền phép là Mình Máu Thánh Đức Chúa Yêsu Phục Sinh không? Bạn hiểu điều này như thế nào?
3. Bạn có thường dự lễ và rước lễ không? Theo bạn hiểu, khi rước Mình Máu Thánh Chúa Kitô, điều gì xảy ra nơi bạn?
30.Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Vào năm 1263, một Linh Mục người Đức cử hành Thánh Lễ tại Nhà Thờ kính thánh Christiana. Lúc bẻ bánh, đột nhiên cha thấy Mình Thánh Chúa không còn là hình tấm bánh trắng, mà đã biến thành Thịt và Máu thật sự ngay trước mắt cha và toàn thể giáo dân. Những giọt Máu Thánh loang ra thấm ướt tấm khăn thánh lớn trải trên bàn thờ. Cha vội nhanh tay gấp khăn lại, nhưng hễ vừa gấp tới đâu thì Máu Thánh lại thấm ra tới đó, tất cả qua 25 lần vải trắng.
Vừa xúc động vừa kính sợ, cha không thể tiếp tục dâng Thánh Lễ được nữa. Sự việc kỳ lạ này sau đó được cha đích thân xin yết kiến và tâu trình lại với Đức Giáo Hoàng Urbano. Đức Giáo Hoàng liền cử ngay một vị Giám Mục đến rước Mình Thánh Chúa cùng với tấm khăn đẫm Máu Thánh về Tòa Thánh, đặt ở Nhà Thờ Chính Tòa cho giáo dân đến tôn kính. Ngày 8 tháng 9 năm 1264, Đức Thánh Cha ra sắc dụ thiết lập Lễ Kính Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu trong toàn Giáo Hội Công Giáo (Nguồn câu chuyện: Sưu Tầm trên Internet).
Hôm nay, chúng ta mừng trọng thể lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu. Đây là Bí tích cao trọng nhất trong bảy Bí tích chính Đức Giêsu đã thiết lập, chúng ta thường gọi là Bí tích Tình yêu. Bởi vì, không có một tình yêu nào cao qúy hơn thế nữa. Thánh Augustinô khẳng định rằng: “Dầu Thiên Chúa quyền phép vô cùng, cũng không thể cho ta điều gì hơn nữa, dầu Thiên Chúa khôn ngoan vô cùng cũng không biết cho ta điều gì hơn nữa, và dầu Thiên Chúa giàu có vô cùng cũng không còn có gì cho ta hơn nữa.” Thánh Bênađô cũng nói: “Thánh thể là tình yêu vượt trên mọi tình yêu trên trời dưới đất.” Vì thế, Bí tích Thánh Thể đã trở thành nguồn cảm hứng cho biết bao bài hát ra đời. Chẳng hạn, trong bài hát CÙNG THỜ LẠY CHÚA, có đoạn: “Cùng thờ lạy Chúa, trong phép Thánh thể nhiệm mầu, ân tình cao sâu, ngàn đời ai hiểu được đâu, Chúa trở nên Bánh thánh, lương thực nuôi muôn dân;” hay trong bài hát THÁNH THỂ CAO SIÊU, có đoạn: “Qua Thánh thể cao siêu con ngợi ca tình yêu của Chúa, một tình yêu bao la vời vợi, tình yêu có từ bao đời…”
Thật vậy, vì yêu thương nhân loại nên Đức Giêsu đã lập nên phép Thánh Thể để ở lại với nhân loại mọi ngày cho đến tận thế. Trong bữa tiệc ly, Ngài cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra, trao cho các môn đệ và nói: “Tất cả các con cầm lấy mà ăn: Này là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con.” Rồi Ngài cầm lấy chén rượu, cũng tạ ơn, trao cho các môn đệ và nói: “Tất cả các con cầm lấy mà uống: Này là chén Máu Thầy, máu giao ước mới, giao ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho các con và mọi người được tha tội. Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (Lc 22,19-20; Mt 26, 26 -28; Mc 14, 22 -24; ICor 11, 23 -25 ).
Bí tích Thánh Thể trở nên nguồn mạch và tột đỉnh của mọi sinh hoạt Hội Thánh. Vâng lệnh Đức Giêsu, Hội Thánh không những cử hành mà mời gọi mọi thành phần tham dự, yêu mến và tôn thờ Bí tích Thánh Thể. Đồng thời, Thánh Thể là của ăn chính của linh hồn, cho nên Hội Thánh mời gọi mọi Kitô hữu năng dọn mình rước lễ và rước lễ mỗi ngày. Nhưng để rước lễ nên cần phải biết dọn mình. Thánh Phaolô nói: “Ai nấy hãy tự xét mình rồi hãy ăn” (1Cr 2,28). Về thể xác: phải ăn mặc sạch sẽ, thái độ phải nghiêm trang, giữ chay thánh thể đúng theo luật. Về phần linh hồn: phải trong trạng thái ân sủng, tức là phải sạch tội trọng; có lòng tin; có lòng khiêm nhường như viên sĩ quan trong Tin mừng thánh Mathêu: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con” (Mt 8,8); phải có lòng ước ao được rước Chúa vào lòng “Như Nai rừng khao khao nguồn nước, hồn con khát Chúa trời…” (Tv 41).
Nếu có được những điều kiện trên thì rước lễ sẽ được những ơn ích trọng đại sau đây:
Thứ nhất, được tăng thêm ơn thánh hóa. Khi chúng ta lãnh các Bí tích: Thêm sức, Giao hòa, Xức dầu, Truyền chức thánh và Hôn phối, chúng ta cũng được tăng thêm ơn thánh hóa. Nhưng khi nhận lãnh Bí tích Thánh Thể chúng ta được tăng thêm ơn thánh hóa nhiều nhất, vì không phải chúng ta chỉ lãnh thêm ơn thánh hóa mà là lãnh nhận chính Đấng ban ơn thánh hóa, là chính nguồn mạch ơn phúc.
Thứ hai, được kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu. Đức nguyện Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã nói: “Khi chúng ta ăn bất cứ thứ gì thì chúng ta biến nó trở nên thịt máu của chúng ta, nhưng khi chúng ta ăn Thịt và Máu Chúa Giêsu thì ngược lại, chính Chúa Giêsu biến đổi chúng ta thành chi thể của Ngài nhờ đó chúng ta được ở lại trong Ngài.” Đồng thời, Đức Giêsu sẽ sống trong chúng ta, như Ngài đã nói: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi và Tôi ở trong người ấy” (Ga 6,56). Khi đó, chúng ta có thể nói như Thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).
Thứ ba, được hiệp nhất với anh chị em tín hữu trong Hội Thánh. Bởi vì, chúng ta cùng chia sẻ một lương thực là cùng chia sẻ một sự sống, nên chúng ta hiệp thông và hiệp nhất với nhau, như Thánh Phaolô đã khẳng định trong bài đọc 2 hôm nay: “Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (1Cr 10,17). Do đó, khi chúng ta được hiệp nhất với Đức Giêsu thì chúng ta cũng được hiệp nhất với nhau.
Thứ tư, được tha các tội nhẹ. Hằng ngày chúng ta phạm nhiều tội nhẹ trong tư tưởng, lời nói, việc làm. Có những tội nhẹ vô tình nhưng cũng có những tội nhẹ cố tình. Những tội nhẹ này không những không ngăn trở chúng ta rước lễ, mà chính việc rước lễ sẽ tha các tội đó cho chúng ta.
Thứ năm, giúp bảo vệ chúng ta khỏi phạm tội trọng. Việc rước lễ như là tấm lá chắn ngăn chúng ta phạm tội trọng. Công đồng Trentinô đã nói: “Việc rước Chúa là một liều thuốc gìn giữ chúng ta khỏi sa ngã phạm tội trọng.”
Thứ sáu, bảo đảm cho chúng ta có sự sống đời đời. Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã khẳng định: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời” (x. Ga 6,54). Đức Giêsu không nói người ấy “sẽ được sống muôn đời” nhưng Ngài nhấn mạnh người ấy “được sống muôn đời.” Còn việc bảo đảm sẽ được sống lại sau này thì chính Đức Giêsu đã khẳng định: “…Tôi sẽ cho kẻ ấy sống lại vào ngày sau hết” (x. Ga 6,54). Như vậy, phép Thánh Thể, sự phục sinh và cuộc sống vĩnh cửu có tương quan với nhau, nghĩa là bây giờ nhờ rước Chúa, chúng ta có đời sống ân sủng, sau khi chết, linh hồn chúng ta được hạnh phúc trường cửu, và ngày tận thế thân xác chúng ta sẽ được đồng vinh hiển cùng với linh hồn.
Rước lễ được nhiều ơn ích như thế. Vậy mà, trong thực tế đời sống đạo, vẫn có nhiều người bỏ rước lễ. Họ bỏ rước lễ có thể do thái độ lãnh đạm, thờ ơ hay kiêu ngạo. Cũng có thể, họ bỏ rước lễ vì sự cao trọng của Bí tích Thánh Thể nên họ mặc cảm, tự ti, sợ sệt vì tội lỗi của mình mà không ăn năn thống hối để rước lễ. Nhưng dầu có vịn vào lý do nào đi chăng nữa thì: Bỏ rước lễ là khinh dễ, xúc phạm đến tình yêu và làm trái lệnh Đức Giêsu. Chính Đức Giêsu đã nói: “Ai không ăn thịt con người và uống máu Ngài thì không có sự sống nơi mình.” (Ga 6,53); Bỏ rước lễ là coi thường Giáo hội vì Giáo hội là kẻ sắm, bảo quản, ban phát Thánh Thể cho chúng ta; Bỏ rước lễ trong những trường hợp sau đây là lỗi luật của Giáo hội: trong vòng một năm không rước lễ, khi hấp hối và nguy tử (có cơ hội mà không rước lễ); Bỏ rước lễ cũng có thể trở thành gương mù gương xấu: Cha mẹ bỏ rước lễ trở thành gương xấu cho con cái. Thầy cô giáo lý viên bỏ rước lễ trở thành gương xấu cho học sinh. Người lớn bỏ rước lễ trở thành gương xấu cho trẻ em…; Người xưng mình là Kitô hữu, tin Chúa Giêsu, mà bỏ rước lễ thì tự phản lại lí lịch của mình và làm người ta hồ nghi về bản chất kitô hữu của mình.
Bên cạnh nhiều người bỏ rước lẽ thì lại có những người rước lễ không nên như: rước lễ khi còn mắc tội trọng; rước lễ khô khan khi không dọn mình trước, cám ơn sau; không có thái độ khiêm tốn, cung kính khi lên rước lễ hay trước Thánh Thể Chúa…
Còn thái độ của của chúng ta lâu nay đối với Bí tích Thánh Thể như thế nào? Có siêng năng tham dự thánh lễ không? Có siêng năng dọn mình rước lễ sốt sắng không? Hay chúng ta lại lười biếng bỏ rước lễ? Rước lễ trong khi mắc tội trọng?
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, vì yêu thương nên Chúa lập Bí tích Thánh Thể để ở lại với chúng con mọi ngày cho đến tận thế, xin cho mỗi người chúng con biết năng dọn mình rước lễ sốt sắng để được những ơn Chúa ban qua Bí tích Tình Yêu này. Amen.
31.Xin cho dài lâu – Lm. Đỗ Lực
Vào một ngày đẹp trời, một chiếc xe Limousine bóng loáng tự nhiên chạy đến và đậu ngay trước cửa nhà tôi. Một chàng trai trong mộng, một người dưng khác họ, bước xuống. Anh đi thẳng vào nhà và dìu tôi ra xe. Chúng tôi trực chỉ nhà thờ. Trước mặt cộng đoàn và linh mục, anh cầm lấy tay tôi và đọc: “Anh nhận em làm vợ và hứa giữ lòng chung thủy với em… để yêu thương và tôn trọng em suốt đời anh.” Lời gì mà êm ngọt quá! Lời hôn ước đó chỉ kéo dài mười lăm giây, nhưng dư âm còn vang vọng cả cuộc đời. Hôn ước như thấm vào từng thớ thịt đường gân. Tôi như run lên. Niềm vui truyền khắp thân thể. Tôi cảm thấy tê tê nơi đầu ngón tay và nơi tận con tim. Nỗi sung sướng chỉ nổi lên ít phút. Nhưng tôi đã phải trả giá bằng bao nhiêu mồ hôi, nước mắt.
Bây giờ nghĩ lại, tôi thấy hôn ước của chúng tôi giống giao ước của Chúa quá. Thiên Chúa đã cưới dân Do Thái. Chúa Giêsu đã chọn Giáo hội làm hiền thê. Chúa đã phải trả một giá quá mắc để hoàn thành một giao ước tuyệt vời. Chúa đã chết để giao ước thành sự thật. Chết đi để đem lại sự sống cho nhân loại. Cũng thế, tôi cũng phải “chết” đi mỗi ngày để cho tình yêu triển nở và gia đình vươn lên. Sự sống thăng hoa…
Sự sống vô cùng huyền nhiệm. Nhưng những gì đang xảy ra trong cuộc sống thường phủ che phần huyền nhiệm đó, đến nỗi con người dễ lãng quên hay đánh mất khả năng khám phá độ sâu của sự sống.
Hôm nay Chúa Giêsu muốn mạc khải một huyền nhiệm còn sâu hơn huyền nhiệm của sự sống tự nhiên. Đó là sự sống Thiên Chúa đang hiện diện và hoạt động mãnh liệt trong trần gian. Không dễ gì nhìn được sự huyền nhiệm siêu việt đó.
Làm sao có thể moi lên tự cõi thẳm sâu của cuộc sống một giá trị và ý nghĩa lớn lao như những thực tại Chúa mạc khải hôm nay? Thực tại đó hoàn toàn bị che dấu và đã gây kinh ngạc cho mọi người. Nhưng sự thật vẫn là sự thật. Chúa Giêsu trở thành thịt và máu nuôi sống muôn dân trong hiện tại và tương lai vĩnh hằng (x. Ga 6:53-54).
Trước hết, có thực trong Thánh Thể, Chúa thực sự hiện diện bằng xương thịt như khi Chúa còn sống nơi trần gian không? Không! Vì sự hiện diện ấy luôn mang tính bí tích. Nói khác, sự hiện diện nóng bỏng đó vẫn bị một lớp vỏ bất động là bánh rượu che phủ bên ngoài. Tuy thế, cũng không thể nói sự hiện diện đó chỉ có ý nghĩa biểu tượng.
Vậy Chúa Giêsu có ý gì khi quả quyết: “Đây là mình Thầy. Đây là máu Thầy”(Mt 26,26-28)? Phân tích cú pháp công thức truyền phép, người ta thường khẳng định có Chúa hiện diện thực sự trong Thánh Thể. Thực tế, trong công thức truyền phép đó, động từ “là” không loại trừ ý nghĩa biểu tượng (x. Ed 5,5). Không thể thuyết phục người ta tin nhận thực tại Thánh Thể, qua những cấu trúc ngữ pháp.
Vậy căn cứ vào đâu để có thể quả quyết Chúa Giêsu hiện diện đích thực bằng Huyết Nhục trong Thánh Thể? Nên nhớ, chính Chúa đã quả quyết Thánh Thể là một giao ước mới (x. Lc 22,19-20). Theo văn hóa Sêmít, muốn lập giao ước, đòi phải có lễ vật thực sự. Nếu chỉ có những dấu chỉ hay biểu tượng của những lễ vật đó, không thể lập giao ước (x. St 15,9-18; Xh 24,5; New Catholic Encyclopedia 2003:5, 411). Theo kinh nghiệm bản thân, tôi cũng thấy cả hai đứa chúng tôi phải là những con người thật, hôn ước mới thành sự. Tôi không thể cầm lấy tay của một tượng đồng hay gỗ để nói lời hôn ước. Dù tượng đó bằng vàng hay kim cương cũng chẳng giá trị gì đối với lời hôn ước của tôi. Tương tự, nếu Chúa Giêsu không hiện diện thực sự, Thánh Thể không thể trở thành giao ước nối kết Thiên Chúa với nhân loại.
Giao ước này chắc chắn phải vượt xa giao ước trong Cựu ước và đưa tất cả những lễ xóa tội thời Cựu ước tới mức viên mãn (x. Nhóm Phiên Dịch Các giờ Kinh Phụng Vụ: Lời Chúa Cho Mọi Người, tr. 446). Vì là giao ước, Thánh Thể trở thành nơi Chúa Giêsu dâng hiến chính mình để vinh danh Chúa Cha và cứu độ toàn thể nhân loại. Sở dĩ Thánh Thể có một năng lực vô cùng lớn lao vì Thần Khí đã biến đổi Mình Máu con người phục sinh của Chúa Giêsu thành của ăn nuôi sống dân Chúa. Như thế, khi rước Mình Máu Chúa, con người đón nhận vào huyết mạch sự sống Thiên Chúa và trở nên một với Người. Như thế, Chúa không chỉ hiện diện trong Thánh thể, nhưng trong chính con người đã ăn thịt và uống máu Người. Sự sống con người được hòa nhập và trở thành một với Chúa (x. Ga 6,56-57). Không còn phân biệt đâu là Chúa, đâu là dân Chúa nữa (x. Ga 6,57).
Sự sống đó thấm sâu vào tận xương tủy và kéo dài đến đời đời. Chỉ có sự hiệp nhất viên mãn với Chúa mới có thể giúp tín hữu vượt qua những giới hạn cuộc sống và bảo đảm cho họ sống mãi trong cõi vĩnh hằng. Nếu lương thực bình thường còn đem lại sức mạnh, niềm vui và hạnh phúc, thì làm sao lương thực thiên thần lại không nhân lên ngàn lần những hiệu quả tốt đẹp tương tự?! (Our Sunday Visitor’s Encyclopedia of Catholic Doctrine, ed. by Russell Shaw, p. 207: “Thánh Thể duy trì và tăng cường ân sủng trong người rước lễ; Thánh Thể có quyền tha tội nhẹ và làm cho con người vững mạnh để chống lại tội lỗi; Thánh Thể là niềm vui thiêng liêng cho những tâm hồn sốt sắng.”) Bởi đó, Thánh Thể góp phần, nếu không nói là nguyên nhân, làm cho cuộc đời thêm tươi sáng.
Đó là những hiệu quả vô cùng lớn lao Thánh Thể có thể làm cho cá nhân. Nhưng không phải chỉ dừng lại ở đó. Thánh Thể còn có khả năng quy tụ tất cả tín hữu và làm cho họ trở thành một thực tại lớn lao trên thế giới hôm nay và tương lai (Our Sunday Visitor’s Encyclopedia of Catholic Doctrine, ed. by Russell Shaw, p. 207: “Thánh Thể làm cho Giáo hội trở thành một cộng đoàn tín hữu, Dân Thiên Chúa, khiến Giáo hội thành toàn như thành đô Thiên Chúa, Giêrusalem mới.”). Con mắt đức tin nhìn thấy những nét cực kỳ huyền diệu và sức mạnh vô song của Thánh Thể đang hoạt động trong cộng đoàn Dân Chúa và biến Giáo hội thành một chứng nhân và trung gian hòa giải giữa nhân loại.
Tất cả mọi năng lực Giáo hội đều nằm trong Thánh Thể. Nhưng không thể quên Thánh Thể là một giao ước. Đó là một sáng kiến của Chúa Giêsu, kết quả của một tình yêu nhưng không và vĩ đại. Nếu Chúa không quan tâm tới phần rỗi đời đời của chúng ta, nhất định Người đã không lập bí tích Thánh Thể. Nếu không có “bánh hằng sống,” thế gian vẫn phủ màu tang tóc của thần chết và đầy những địch thù Thiên Chúa. Rất may Thánh Thể đã hiện diện để đem lại sự sống và phục sinh những gì đã tiêu vong trong biển trần gian.
Khi rước lấy Thánh Thể, Kitô hữu trở thành Thánh Thể giữa trần gian. Họ có mặt ở đâu, Thánh Thể hiện diện ở đó. Thật vậy, “tất cả bản tính nội tại của Giáo hội đều được mạc khải trong Thánh Thể. Khi tham dự các Mầu Nhiệm Thánh, các tín hữu trở thành ‘các người thân thuộc’ của Chúa Kitô. Đồng thời, ngay từ bây giờ họ cảm nghiệm trước công cuộc thần linh hóa trong giao ước đang nối kết bền chặt thiên tính với nhân tính” (Gioan Phaolô II: Tông thư Orientale Lumen, 02/05/1995) Thật là tuyệt vời!
Không phải đợi tới đời sau mới thấy được công cuộc thần linh hóa kỳ diệu trong giao ước đó. Ngay từ bây giờ, giao ước đó đang tìm thấy bóng dáng của mình trong giao ước hôn nhân. Nói khác, giao ước đó củng cố và là mẫu mực cho giao ước hôn nhân. Nhưng để lập giao ước mới trong bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu phải đổ đến giọt máu cuối cùng (x. Mt 26,28). Chính vì thế, muốn giao ước hôn nhân tồn tại và sinh hoa kết quả, Kitô hữu cũng phải trả giá bằng chính cuộc sống đầy hy sinh. Làm sao có đủ đức tin để thấy được tất cả bản chất và vẻ đẹp của giao ước Thánh Thể trong giao ước hôn nhân hôm nay? Làm sao có thể xác định vị thế và vai trò của mình để biến giao ước đó thành hiện thực trong gia đình cũng như ngoài xã hội? Khi rước lễ, họ làm mới lại giao ước giữa Thiên Chúa và con người, giữa Chúa Kitô và Giáo hội. Khi sống đời gia đình, họ làm cho giao ước mới ngày càng mới hơn.
Lạy Chúa, xin cho con luôn tin tưởng vào giao ước Chúa đã ký kết bằng Máu Chúa trong bí tích Thánh Thể, để mỗi ngày con càng trở nên giống Thánh Thể hơn. Amen.
32.Một trao đổi khôn lường – Achille Degeest.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Bài Phúc Âm này là phần chính của bài giảng về bánh sự sống, được Chúa dạy sau phép lạ hoá bánh ra nhiều và bước đi trên nước. Qua những phép lạ ấy, Chúa Giêsu đã chứng tỏ quyền năng của Ngài trên thiên nhiên, trên thân thể của Ngài và quyền phân phát vô tận lương thực thần linh, mà bánh hoá nhiều là biểu tượng. Như đối với phần đông các bản văn của thánh Gioan, đoạn này đòi hỏi sự suy niệm và đón nhận chăm chú hơn là lời bình giải. Chính để giúp suy niệm, mà một vài ghi chú sau đây được đề ra.
1) Ta là bánh sự sống từ trời xuống. Chúng ta có thể giải thích lời này như một mệnh đề phát biểu sự kiện Nhập thể. Sự sống đời đời hứa cho ai ăn bánh ấy là sự sống siêu nhiên, do Đức Kitô mang đến cho kẻ nào tin vào Ngài như là Đấng được Chúa Cha sai đến. Nhưng lời ấy còn có ý nghĩa khác. Bánh Ta sẽ ban là thịt Ta chịu nộp cho thế gian được sống. Ở đây Chúa Giêsu nói về tương lai. “Bánh” cho đến đây có thể chỉ Chúa Giêsu lương thực đức tin, nay mang một ý nghĩa mới… Đức Kitô – Bánh ăn – đã trao nộp thịt mình cho thế gian được sống. Điều ấy có nghĩa là nếu phép Thánh Thể là một lương thực, đồng thời cũng là lễ hy sinh. Đức Kitô tự nộp làm của lễ hy sinh trong cuộc Tử nạn và trên thập giá, Thánh Thể đồng hoá hy lễ ấy và tiếp nối cho đến mãi mãi. Chúng ta có nghĩ rằng khi tham dự vào bàn tiệc của Chúa, mối dây liên kết huynh đệ đầu tiên và chính yếu nhất nối liền chúng ta với Hy lễ của Ngài hay không? Những buổi cử hành phép Thánh Thể nối kết làm một sự thông hiệp của chúng ta với nhau. Đừng bao giờ chia cắt những gì Chúa đã liên kết. Các Thánh lễ của chúng ta, cử hành chia sẻ, cũng phải cử hành lòng thờ phượng.
2) Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, người ấy ở trong Ta và Ta ở trong người ấy. Lời này của Chúa cho thấy rõ một sự hỗ tương quan trọng. Thực vậy, thoạt xét người ta có thể đơn giản nghĩ rằng Đức Kitô ở trong người nào ăn mình Ngài. Như thế chưa đủ, điều ngược lại cũng đúng. Người ước ao mình được ở trong Ngài, người ấy được đi vào và ở trong Đấng tạo dựng Cứu chuộc, viên mãn của mình. Làm sao nghĩ tưởng một điều như vậy? Chúa đã muốn như thế. Ngài ban cho con người một khả năng phi thường hoà nhập vào Thần linh. Khi rước mình Đức Kitô, người tín hữu tiến dần đến sự hoà nhập với Đức Kitô. Nếu nghĩ rằng con người sẽ biến Thiên Chúa thành người thì được nuôi dưỡng bởi mình và máu Ngài thì thật là ấu trĩ. Con người được biến thành Thiên Chúa mới đúng. Con Thiên Chúa khi hiến thân làm lương thực thần hoá người nào ăn Ngài, Ngài cho người được tham dự vào bản tính Thần linh. Điều này khiến ta nghĩ đến câu tán tụng của mùa Giáng Sinh: Ôi trao đổi kỳ diệu, Thiên Chúa làm người để người được nên Thiên Chúa.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một cuốn phim mang tựa đề: “Cậu bé Marcellino” kể lại câu chuyện sau đây:
Ở cổng nhà dòng nọ có cậu bé bị bỏ rơi, một thầy dòng đã đem về nhà dòng nuôi. Với thời gian, cậu bé lớn lên, khôn ngoan và tinh nghịch. Vốn tính nghịch ngợm, cậu bé bị cấm không được leo lên kho trên gác. Nhưng vì tò mò, ngày nọ Marcellino đã leo lên kho trên gác. Cậu sửng sốt khi thấy có một người khổng lồ bị treo trên Thánh giá. Nghĩ rằng người này đang đói, nên ngay đêm đó, Marcellino đã lẻn vào bếp ăn cắp bánh và rượu đem lên cho người bị treo trên Thánh giá. Từ đó, ngày ngày cậu bé cứ âm thầm tiếp tế lương thực cho con người khốn khổ ấy. Thế rồi, một ngày nọ người khổng lồ ấy xuống khỏi Thánh giá, đến bên cạnh cậu bé và hỏi:
– “Con thích điều gì nhất”.
Cậu bé đáp:
– “Con muốn được thấy mẹ con”.
Người khổng lồ liền nói:
– “Con hãy nhắm mắt lại và ngủ say”.
Ngày hôm sau, các tu sĩ trong nhà không thấy Marcellino nữa, họ đi tìm khắp nơi và cuối cùng thấy cậu bé đã chết trong vòng tay của Chúa Giêsu trên Thánh giá.
Anh chị em thân mến, đối với Marcellino trong câu chuyện trên, bánh và rượu là ngôn ngữ cậu bé dùng để nói với Chúa Giêsu: “Con yêu mến Chúa”, “Con muốn được săn sóc Chúa, nuôi dưỡng Chúa”. Còn đối với Chúa Giêsu, bánh và rượu Ngài ban qua Bí tích Thánh Thể là dấu chỉ của tình yêu hiến thân để trở thành lương thực nuôi sống chúng ta, và Ngài muốn chúng ta mở rộng tâm hồn để đón nhận.
Mở rộng tâm hồn đón nhận Ngài trong Thánh Thể, con người mới có thể mở rộng trái tim và đôi bàn tay để đón nhận Ngài nơi tha nhân. Chúa Giêsu là Bánh từ trời xuống để lôi kéo họ về với Thiên Chúa. Chia sẻ sự sống thần linh nơi bàn tiệc Thánh Thể, người tín hữu được mời gọi chia sẻ cơm bánh hằng ngày với tha nhân. Và kỳ diệu thay, chính khi chia sẻ với tha nhân, người tín hữu cảm nhận được sự sống trường sinh và hạnh phúc đích thức tràn ngập tâm hồn.
Thưa anh chị em, Bí tích Thánh Thể là Bí tích của Tình Yêu. Vì yêu thương chúng ta, Chúa Giêsu đã có một sáng kiến lạ lùng là lấy chính Thịt Máu của Ngài làm của ăn của uống để nuôi sống chúng ta. Chính Chúa Giêsu đã khẳng định: Chính Ngài là của ăn và của uống Chúa Giêsu ban hoàn toàn khác với manna và mạch nước trong sa mạc: “Ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời”. Chúa Giêsu không nhằm thoả mãn cái đói cái khát thể xác. Thế nên, Ngài xác quyết: “Thịt Tôi thật là của ăn, Máu Tôi thật là của uống”. Vậy Bánh Ngài ban chính là Thịt Máu Ngài. Cụm từ “Thịt Máu” ở đây không những bao gồm tất cả những gì nuôi sống linh hồn con người để đưa đến sự sống vĩnh cửu, mà còn ám chỉ đến Mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Con Thiên Chúa đã nhập thể mang lấy xác phàm trong thân phận con người và đã đổ máu ra trên Thập giá để cứu chuộc nhân loại. Ngài đã chấp nhận trở thành của ăn của uống là những cái thường tình nhất của cuộc sống chúng ta để đưa chúng ta đến sự sống vĩnh hằng.
Vì lý do đó, Thánh Phaolô đã nhấn mạnh đến việc hiệp thông với Chúa Giêsu Thánh Thể là kết hiệp mật thiết với chính Chúa Kitô, nghĩa là đồng hoá với Ngài, nên giống Ngài trong tư tưởng, ngôn ngữ và cuộc sống: “Ai ăn Thịt Tôi và uống Máu tôi, người ấy sẽ ở trong Tôi và Tôi ở trong người ấy”. Không bí tích nào giúp chúng ta sống “với Chúa, nhờ Chúa và trong Chúa” bằng bí tích Thánh Thể. Từ đó, Thánh Phaolô dám khẳng định: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).
Từ việc kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể sẽ đưa chúng ta đến việc hiệp nhất với các anh chị em tín hữu. Vì liên kết với Chúa Kitô, nên chúng ta cũng liên kết với nhau để làm thành một thân thể duy nhất trong Chúa Kitô, điều mà Thánh Phaolô gọi là “Nhiệm thể Chúa Kitô”. Ăn Thịt và uống Máu Chúa Kitô là lãnh nhận một động lực mạnh mẽ nhất để dẹp bỏ và xua tan những mối bất đồng, những mâu thuẫn sâu xa nhất để chỉ còn trở nên với Chúa Kitô một thân xác và một linh hồn. Sự hiệp nhất của cộng đoàn Kitô hữu trong Bí tích Thánh Thể có sức mạnh thu phục những khách bàng quan, những người xa lạ đến với Giáo Hội, như các tín hữu thời sơ khai đã từng chinh phục và đem lại ảnh hưởng lớn lao cho thế giới ngoại giáo: Họ nói với nhau: “Kìa xem coi họ (các tín hữu Kitô) yêu thương đoàn kết với nhau biết chừng nào!” (x.Cv 2,42-47).
Anh chị em thân mến, “Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”. Tất cả chúng ta đều được mời đến dự tiệc Thánh Thể. Thế nhưng có khá đông người tham dự Thánh lễ mà không tiếp rước Mình Máu Thánh Chúa. Phải chăng Thánh lễ đối với họ chỉ còn là một nghi thức và bổn phận phải làm, chứ không còn là sự sống được trao ban và lãnh nhận? Hoặc phải chăng vì thấy việc rước lễ xem ra không có hiệu quả trong đời sống, nên họ thất vọng và không muốn rước lễ nữa? “Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”. Chẳng lẽ được mời đến dự tiệc mà chẳng ăn uống gì, chỉ ngồi đó “nhìn miệng” các thực khách, rồi ra về mà lòng vẫn u sầu và bụng vẫn đói meo? Thiết tưởng không phải vô ích khi khẳng định lại điều này: Chẳng bao giờ chúng ta đến với người khác thực sự, nếu không kết hợp thâm sâu với Chúa Kitô.
Đức Cha Helder Camera, Tông Giám Mục Giáo phận Récite ở Braxil, đã chia sẻ kinh nghiệm thống nhất đời sống hoạt động và chiêm niệm của ngài thế này: “Mỗi sáng, tôi được nuôi dưỡng bằng Đức Kitô trong Bí tích Thánh Thể, rồi suốt ngày, tôi gặp gỡ Đức Kitô nơi anh chị em tôi. Cũng một Chúa Giêsu ở trên bàn thờ và ngoài đường phố”. Có lẽ chúng ta dễ quên chân lý này: Hiệp nhất với Chúa Kitô phải đưa đến sự hiệp nhất với anh em. Nói cách khác, hiệp nhất với Chúa Kitô đang hiện diện ẩn dấu nơi anh chị em mình, nhất là nơi những người nghèo đói và bất hạnh (x.Mt 25). Và chúng ta cũng hay quên rằng: Hiệp nhất sự sống phải được thể hiện trong sự hiệp nhất lối sống. Lối sống của Chúa Giêsu Thánh Thể là lối sống của tình yêu tự hiến để cho nhân loại được sống, là phục vụ đến hy sinh mạng sống để làm giá cứu chuộc muôn người.
Được nuôi dưỡng cùng một Bánh Thánh –là Thịt Máu Chúa Giêsu- chúng ta được mời gọi chia sẻ chén cơm hằng ngày cho anh em và dấn thân hoạt động cho một trật tự công bằng, huynh đệ, cho cuộc sống ấm no hạnh phúc của mọi người trên thế giới hôm nay.
Thường thì khi yêu thương ai chúng ta muốn ở gần, kề cận bên người mình thương. Nhiều khi chỉ cần ở bên nhau, nhìn nhau là tâm hồn thấy đủ, chẳng cần phải nói nhiều lời. Có cách gần gũi như giữa bạn hữu thân tình với nhau. Có cách thân mật như giữa vợ chồng gần nhau. Tuy nhiên tất cả đều giới hạn ở chỗ tuy gần nhau, nhưng vẫn chỉ ở bên nhau, ở ngoài nhau mà thôi.
Bằng một sáng kiến tuyệt vời, sáng kiến của một Vị Thiên Chúa, vượt quá mọi suy nghĩ, mọi phương thế của người phàm, Chúa Giêsu bày tỏ tình yêu của người một cách tuyệt đỉnh khi lập Phép Thánh thể, để ở lại với chúng ta, trước khi về trời. Thật vậy, khi nói: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6,56) Chúa Giêsu không chỉ muốn ở gần, mà còn ở trong những người thương mến, khi họ rước Chúa. Mỗi khi rước Mình và Máu Thánh Chúa, chúng ta không biến Chúa thành thịt máu chúng ta, theo cách thông thường chúng ta ăn uống lương thực làm của nuôi thân xác, nhưng Chúa Phục sinh sẽ biến đổi chúng ta một cách nào đó nên giống Chúa, Đấng ba lần thánh, Nguồn hạnh phúc viên mãn, Sự Sống đời đời. Như vậy, khi ban Phép Thánh Thể, Thiên Chúa muốn ban điều trọn hảo cho những người mà Chúa yêu thương. “Yêu nhau là muốn điều tốt cho người mình yêu”, Thánh Tôma Aquinô đã nói như vậy.
Chúa ngự trong tâm hồn những ai rước Chúa với lòng tin tưởng, trông cậy và yêu mến, chẳng những để biến họ nên giống Chúa, mà còn để đem lại hạnh phúc cho họ là sự sống đời đời, vì Chúa chính là Nguồn Sự Sống. “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6,51). Sống hoài, sống mãi, là nỗi khát khao của con người mọi thời. Muốn được sống đời đời thì phải sống với Chúa, sống trong Chúa, sống nhờ Chúa, qua việc rước Chúa. Chúa ở đâu, Chúa cũng muốn người được Chúa yêu thương ở đấy và sự sống đời đời là điều kiện cần thiết để những ai được Chúa yêu thương và yêu thương Chúa được sum họp muôn đời với Thiên Chúa Ba Ngôi.
Phép Thánh Thể là sáng kiến của một tình yêu tuyệt đỉnh mà Chúa dành cho hết mọi người, nếu chúng ta biết tin vào Chúa (Ga 6,35-36) và ăn uống Mình Máu Thánh Chúa (Ga 6,51).
Xin cho chúng con biết đáp trả lòng yêu thương vô bờ của Chúa bằng việc siêng năng dự lễ, viếng Thánh Thể và năng rước lễ một cách sốt sắng. Amen
35.Để đón nhận sự sống đời đời
(Trích trong ‘Cùng đọc Tin Mừng’ của Lm. Trần Ngà)
Mekong là một trong 12 con sông lớn nhất thế giới, với chiều dài 4,800 km, phát xuất từ Tây Tạng, chạy dọc theo suốt chiều dài của tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), qua Myanmar (Miến Điện), Thái Lan, Lào, Cambodge, Việt Nam và cuối cùng hoà nhập với biển Đông, đem lại sự sống cho tôm cá, cho các loài thảo mộc, tưới xanh ruộng đồng, đem lại lương thực cho hàng triệu cư dân thuộc nhiều quốc gia nằm trong lưu vực của nó.
Sự sống thần linh, tức sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi, một sự sống tuyệt vời và miên viễn, cũng tuôn chảy dạt dào và không ngừng không nghỉ như một dòng sông không bao giờ vơi cạn và sự sống ấy được thông ban cho vô vàn tín hữu của Thiên Chúa khắp nơi.
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy cho ta biết Sự Sống thần linh bắt nguồn từ Thiên Chúa Cha [Chúa Cha là Đấng hằng sống”. Ga 6,57] và được thông ban cho Chúa Con cũng như Chúa Thánh Thần, [“Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha.” Ga 6, 57]. Thế là nơi Ba Ngôi, Sự Sống dồi dào sung mãn như nước đầu nguồn của một dòng sông cả.
Như nước sông Mekong không ngưng đọng đầu nguồn nhưng tuôn đổ tràn trề xuống vùng hạ lưu, Sự Sống của Ba Ngôi Thiên Chúa cũng không dừng lại nơi Ba Ngôi nhưng tiếp tục thông ban cho nhân loại.
Nhưng làm sao nhân loại có thể đón nhận được Sự Sống thần linh của Thiên Chúa?
Sở dĩ Chúa Giêsu được tiếp nhận Sự Sống từ Chúa Cha là nhờ Ngài ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Ngài. [Có lần Chúa Giêsu ngỏ lời với Philipphê: “Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao?… Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy” (Ga 14, 10-11)]
Vậy nếu chúng ta muốn được tiếp nhận Sự Sống thần linh từ Chúa Giêsu thông ban, thì chúng ta cũng phải tìm cách ở trong Chúa Giêsu và để cho Chúa Giêsu ở trong chúng ta.
Cách đó thật quá dễ dàng vì chính Chúa Giêsu đã quảng đại mách bảo cho mọi người: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6, 56)
Ngoài ra, theo bài giáo huấn cho các tân tòng tại Giê-ru-sa-lem thì “khi bạn ăn uống Mình và Máu Đức Kitô, bạn nên một với Người, cùng một thân mình, cùng một dòng máu. Như thế, chúng ta trở thành những người mang Đức Kitô, có Mình Máu Người thấm nhập khắp toàn thân” (trích bài đọc Kinh Sách mùa Chay & Phục Sinh, bản dịch của nhóm PVGK trang 456).
Một khi được ở trong Chúa Giêsu, trở nên đồng huyết nhục với Chúa Giêsu thì tất nhiên Sự Sống của Chúa Giêsu (vốn không hề lụi tàn) sẽ được chuyển thông cho người lãnh nhận. Người ấy được mang lấy sự sống bất tử của Thiên Chúa trong chính bản thân mình nên được sống đời đời. Chính vì thế nên Chúa Giêsu mới nói là “ai ăn Thịt và uống Máu tôi sẽ được sống đời đời.” (Ga 6, 54)
Thế là nhờ Bí Tích Thánh Thể, Sự Sống của Ba Ngôi Thiên Chúa đã được khơi dòng: Cội nguồn Sự Sống từ Chúa Cha được thông ban cho Chúa Con và Chúa Thánh Thần từ trước muôn đời, nay được thông ban cho những ai lãnh nhận Mình và Máu thánh Chúa Giêsu.
Thật là ân huệ tuyệt vời, Sự Sống thần linh của Ba Ngôi Thiên Chúa được ban tặng nhưng không cho nhân loại, và khi chúng ta tiếp nhận lấy Mình và Máu thánh Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, chúng ta đang chiếm hữu Sự Sống của Thiên Chúa, Sự Sống đời đời, cho chính mình ngay từ hôm nay.
* * *
Con người sẵn sàng trả giá tiền triệu, tiền tỉ và nếu cần bán cả gia tài để có được thuốc tốt giúp phục hồi sức khoẻ hay chống trả những căn bệnh hiểm nghèo đe doạ mạng sống. Vậy nay Chúa Giêsu biếu không cho chúng ta phương dược trường sinh hoàn toàn miễn phí và rất dễ chiếm hữu, lẽ nào chúng ta lại coi thường.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con đời đời ghi nhớ công cha nghĩa mẹ vì các ngài đã cộng tác với Chúa ban tặng cho chúng ta sự sống tạm bợ đời nầy.
Còn Chúa, không những Chúa thực sự ban cho chúng con sự sống tạm bợ đời nầy mà còn sẵn sàng thông ban cả Sự Sống thần linh đời đời không hề tàn lụi, lẽ nào chúng con vẫn tiếp tục tỏ ra vô ơn với Chúa là Đấng rộng ban cho chúng con ân huệ vô cùng cao quý nầy.
36.Thánh Thể Bí Tích của tình yêu
Chương trình của Thiên Chúa từ đời đời là tạo dựng con người để con người thông hiệp với Ngài. Thuở ban đầu, Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh mình. Ngài thường xuyên đến nói chuyện với hai ông bà nguyên tổ của chúng ta trong tâm tình thân mật. Tuy nhiên ông bà nguyên tổ trong một lúc yếu lòng đã nghe theo lời ma quỷ mà từ khước tình yêu Thiên Chúa đối với mình. Vì muốn đưa con người trở lại tình trạng ơn nghĩa với Người, Người đã hứa ban Đấng Cứu Chuộc và đã ban Mình Máu Chúa Kitô ở lại trong hình Bánh Rượu cho chúng ta được thường xuyên gặp gỡ thân mật với Người.
Để thực hiện công cuộc cứu chuộc, Thiên Chúa đã chọn một dân riêng để chúc phúc và tỏ tình thương của người hầu cứu độ mọi người mọi thời. Đến thời đến buổi,Thiên Chúa đã sai con mình đến làm Emmanuel nghĩa là Thiên Chúa ở với loài người, cho chúng ta thông dự vào tình yêu Chúa Ba Ngôi, nên một với Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. Chúa Giêsu đến trần gian để chúng ta được ở trong Ngài và trở nên con cái Chúa, cho chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha. Ngài đã tiếp tục ở với nhân loại bằng cách trở nên của ăn nuôi sống linh hồn trong Bí tích Thánh thể. Chính Mình Máu Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể là Bánh đem lại sự sống mới.
Thánh Thể là chóp đỉnh của mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa là Bí tích cao trọng nhất vì không chỉ trao ban ân sủng mà trao chính Tác giả của ân sủng, Đấng là Thiên Chúa muôn loài lại trao hiến bản thân phục vụ loài người. Điều này giống như sự điên dại vì yêu thương của người mẹ đối với đứa con lêu lổng: mẹ sẵn sàng cho đi tất cả bản thân miễn sao con mình nhận ra được lòng yêu thương của người mẹ mà cải hoá, sửa đổi nên người. Chúng ta chưa yêu mến Chúa là vì chúng chưa thấy Chúa yêu mình. Thật ra chúng ta chỉ nghe người khác nói Chúa yêu chứ chưa cảm nghiệm tình yêu Chúa trong cầu nguyện, trong cuộc sống hằng ngày nên chưa thực lòng đáp lại, chỉ làm vì nhiệm vụ cho an tâm, miễn không phải sa hoả ngục thôi!
Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể là một sáng kiến táo bạo như không còn phân biệt địa vị Thiên Chúa và thụ tạo thấp hèn. Ngài đã đến làm người nghèo và bị coi như tử tội nữa! Chính Phêrô còn không hiểu được: “Thầy mà lại rửa chân cho con sao?” (Ga 13, 6) hay có lần Phêrô trách Thầy: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy.” (Mt 16, 22). Lúc đó có lẽ các tông đồ còn chưa hiểu Chúa Giêsu là Thiên Chúa nhưng chỉ coi là con người đặc biệt được Thiên Chúa sai đi làm nhiệm vụ Messia giải phóng dân Do thái. Thật quá ngỡ ngàng cho các tông đồ và chúng ta: một vị Thiên Chúa mà làm người chịu khổ hình bởi tay kẻ ác chết rên thánh giá và tiếp tục lấy thịt máu mình nuôi dưỡng cộng đoàn tín hữu.
Thánh thể đòi người tín hữu phải tham dự vào Hy Tế để có niềm vui Phục sinh, được tham dự vào chiến thắng của Ngài trên sự ác và hưởng hạnh phúc cùng với Ngài mai sau. Như vậy Thánh Thể cũng là câu trả lời cho những thắc mắc vì sao con người phải chịu đau khổ. Đau khổ của thánh giá đưa tới niềm vui lớn hơn là cùng được dự phần với Chúa Giêsu trong địa vị làm con Chúa. Khi chúng ta rước lễ, với tâm tình hiệp thông đó, cuộc sống chúng ta sẽ được biến đổi, sẵn sàng đón nhận thánh ý Chúa như Đức Kitô trên thánh giá và bảo đảm sẽ sống lại như Đức Kitô.
37.Mình Máu Thánh Chúa – R. Veritas
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)
Một Mục sư nọ kể lại câu chuyện sau đây:
Hai người lính vào trong một Giáo đường. Họ đứng giữa cộng đoàn đang sốt sắng cầu nguyện, người lính lớn tiếng đe dọa:
Ai không bỏ đạo sẽ bị bắn chết tại chỗ. Ai bỏ đạo thì đứng sang bên phải và được thả về; những người còn lại chuẩn bị để chết vì niềm tin của mình.
Nhưng trong bầu khí hoàn toàn tin tưởng, không ai rời khỏi vị trí mình đang cầu nguyện.
Trước bầu khí thinh lặng và thánh thiêng ấy, hai người lính kia thả súng xuống và nói:
Chúng tôi là những người Kitô, sở dĩ chúng tôi đã hành xử như vừa rồi là vì chúng tôi muốn thử xem có ai là người sẵn sàng chết cho niềm tin của mình không? Và chỉ những người như thế mới đáng được về.
Bài Phúc Âm của Chúa Nhật Lễ Kính Mình Máu Thánh Chúa tra vấn các người Kitô, mỗi người chúng ta có quyết liệt đến mức sẵn sàng chết vì điều mình tin chăng?
Sách Phúc Âm của Gioan đã thuật lại cho độc giả tới màn khá gay cấn. Sau bài Tin Mừng, tác giả cho biết nhiều môn đệ của Chúa Giêsu không ngần ngại nói trắng ra điều họ nghĩ: “Lời này chướng tai quá, ai mà nghe nổi” (Ga 6,60). Kết quả là nhiều môn đệ rút lui không còn tin vào Chúa Giêsu nữa, không còn đồng hành chung với Ngài nữa. Đó là lúc chính Chúa Giêsu đã muốn nhóm Mười Hai phải xác định rõ lập trường về niềm tin của mình: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?”. Chúng ta biết, một bên là Phêrô đã tuyên xưng thay cho các Tông Đồ: “Thưa Thầy, bỏ Thầy chúng con biết đến với ai. Thầy mới có những Lời ban sự sống đời đời”. Và bên kia là Giuđa Iscariô không những bỏ Thầy mà còn phản Thầy nữa.
Toàn bộ chương VI của Phúc Âm thánh Gioan đặt các môn đệ trước thái độ quyết liệt này, các ông đã được thấy Chúa Giêsu làm phép lạ cho bánh hóa ra nhiều (x. Ga 6,1-10), rồi đi trên mặt nước và trong nháy mắt thuyền đã cập bến không cần chèo chống (x. Ga 6,16-21). Rồi cuối bài giảng tại hội đường Capharnaum, ở đó Chúa Giêsu xưng mình là Bánh Hằng Sống (x. Ga 6,26-59). Bài Phúc Âm hôm nay rút từ bài diễn văn của Chúa tại Hội Đường Capharnaum: “Ta là Bánh Hằng Sống từ Trời xuống, ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời và bánh Ta sẽ ban chính là Thịt Ta đây để cho thế gian được sống”.
Chúng ta có còn tin tưởng vững vàng vào Lời Chúa phán hay không?
Ngày 3.5.1999, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã cử hành Thánh Lễ Mình và Máu Thánh Chúa tại đền thờ thánh Gioan Latêranô ở Rôma. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II mong ước tất cả mọi người hiệp ý với Ngài dâng lên Chúa Giêsu Thánh Thể lời nguyện cho hòa bình tại Kosovo và cho tất cả mọi người trên thế giới. Sau đây xin được trích lại bài giảng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong Thánh Lễ Kính Mình Máu Thánh Chúa để chúng ta cùng hiệp ý chia sẻ và mừng kính Lễ Mình Máu Thánh Chúa trong ngày hôm nay.
“Hỡi Sion, hãy dâng lên lời chúc tụng Đấng Cứu Thế”.
Lễ trọng kính Mình Máu Thánh Chúa là ngày Lễ Chúc Tụng và Tạ Ơn. Trong lễ này, dân Kitô hiệp nhau quanh bàn thờ để chiêm ngắm và tôn thờ mầu nhiệm Thánh Thể, nhắc nhớ hy tế Chúa Kitô, Đấng đã ban cho tất cả mọi người ơn cứu độ và sự bình an.
Việc cử hành Thánh Lễ trọng thể và cuộc rước kiệu theo truyền thống, cả hai đều hướng đến một mục tiêu đặc biệt là cầu khẩn tha thiết cho “Hòa Bình”. Trong khi chúng ta tôn thờ Mình Thánh của Đấng là Đầu, là Chúa Giêsu. Làm sao chúng ta không liên đới để trở thành những chi thể của Người đang chịu đau khổ vì chiến tranh?
Phải, thưa anh chị em thân mến,
Những tín hữu Rôma và khách hành hương hôm nay, tất cả chúng ta bắt đầu cầu nguyện chung với nhau cho Hòa Bình. Chúng ta hãy cầu nguyện đặc biêt cho hòa bình tại Kosovo. Ước chi Lời Chúa mà chúng ta vừa nghe soi sáng và hướng dẫn chúng ta.
Trong bài đọc thứ nhất vang lên mệnh lệnh của Chúa: “Con hãy nhớ lại con đường mà Thiên Chúa đã cho con đi qua” (Dnl 8,2). “Con hãy nhớ lại”, đây là mệnh lệnh thứ nhất, không phải lời mời gọi mà là mệnh lệnh Chúa gởi đến dân Ngài trước khi đưa họ vào đất hứa. Thiên Chúa ra lệnh cho họ là đừng quên.
Để có được sự hòa bình của Thiên Chúa hứa ban thì trước hết hãy “đừng quên”, hãy biết sử dụng những kinh nghiệm đã trải qua, kể cả những sai lầm, người ta cũng có thể rút ra một bài học để định hướng tốt hơn cho con đường mình đang đi. Khi nhìn về thế kỷ này và nhìn về ngàn năm sắp kết thúc, làm sao chúng ta không nhớ lại những thử thách khủng khiếp mà nhân loại đã gánh chịu, chúng ta không thể nào quên được, ngược lại chúng ta phải nhớ. Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, giúp chúng ta rút ra những bài học đúng từ những thăng trầm chúng ta trải qua cũng như của những ai đã đi trước chúng ta.
Lịch sử muốn nói đến những khát vọng to lớn là muốn có hòa bình, nhưng cũng nói đến thất vọng mà nhân loại đã phải chịu nữa là “nước mắt và máu”. Chính ngày hôm nay 3.6.1963, cách đây hơn ba mươi năm về trước, Đức Gioan XXIII qua đời. Ngài là vị Giáo Hoàng của “Thông Điệp Hòa Bình Trên Mặt Đất”. Thông Điệp này đã được mọi người đồng thanh ca tụng biết chừng nào, trong đó có nói lên những đường nét chính đích thực cho việc xây dựng hòa bình thế giới. Nhưng biết bao lần trong những năm qua, người ta phải chứng kiến biết bao vụ bùng nổ, gây chiến, bạo lực, chiến tranh trên thế giới. Tuy nhiên, người tín hữu không đầu hàng, người tín hữu biết mình có sức cậy dựa vào sự trợ lực của Thiên Chúa. Về điểm này, những lời của Chúa Giêsu trong bữa Tiệc Ly thật là có ý nghĩa: “Thầy để lại bình an cho các con. Thầy đem lại bình an không như cách thức thế gian đã ban cho” (Ga 14,27).
Ngày hôm nay, chúng ta muốn hiểu thấu những lời này và hiểu cách sâu xa hơn nữa. Trong tinh thần, chúng ta hãy bước vào nhà Tiệc Ly với Chúa Giêsu qua việc Ngài trao ban chính Mình và Máu Ngài dưới hình bánh và rượu mà Ngài đã thực hiện ở Calvariô đang được tái diễn trong nhiệm tích Thánh Thể. Chính trong cách thức này mà Chúa Giêsu trao ban cho chúng ta sự bình an. Sau này Thánh Phaolô đã bình luận: “Người là hòa bình của chúng ta”.
Khi trao ban chính Mình, Chúa Giêsu Kitô trao ban cho chúng ta chính sự bình an. Hòa bình của Chúa không phải là hòa bình của thế gian, nhưng hòa bình của Chúa Kitô là kết quả sự Vượt Qua của Ngài, nghĩa là kết quả của hy tế trong cuộc vượt qua của Ngài.
“Bánh mà Ta ban cho là Thịt Ta để cho thế gian được sống”. Đoạn Phúc Âm chúng ta vừa nghe, những lời này của Chúa Giêsu làm cho chúng ta hiểu thế nào là nguồn mạch của hòa bình đích thực. Chúa Kitô là hòa bình của chúng ta, là Bánh được trao ban cho thế gian để được sống. Đó là Bánh mà Thiên Chúa Cha đã chuẩn bị, ngõ hầu để nhân loại được sống và sống dồi dào: “Thiên Chúa đã không tha Con Một Ngài, nhưng đã trao ban Con Một Ngài” (Ga 3,16), để cứu rỗi tất cả, như là Bánh nuôi sống tất cả.
Ngôn ngữ Chúa Giêsu dùng thật rõ ràng. Để được sống thì không chỉ tin Chúa mà thôi, còn cần phải sống như Chúa, sống bằng sự sống của Chúa. Vì vậy mà Ngôi Lời đã Nhập Thể, chết và sống lại. Người đã ban cho ta Thánh Thần của Ngài, nhờ vậy mà chúng ta biết Thánh Thể, ngõ hầu chúng ta có thể sống nhờ Ngài, như Ngài sống nhờ Chúa Cha (Ga 6,5). Bí tích Thánh Thể là bí tích của hồng ân mà chính Chúa Kitô đã trao ban cho chúng ta, là bí tích của tình thương và hòa bình, là sức sống sung mãn “Bánh Hằng Sống, Bánh ban sức sống”.
Ước gì lễ Kính Mình Máu Thánh Chúa gia tăng đức tin của chúng ta vào Chúa Giêsu, vào Bí Tích Thánh Thể. Chúa Giêsu hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể để ở lại với chúng ta, ban cho chúng ta sự sống đời đời.
Lạy Chúa Giêsu, bước theo Chúa chúng con dấn thân chống lại bạo lực của con người trên con người mà không dùng đến bạo lực. Chúng con cần có sức mạnh của tình thương Chúa, chúng con cần lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa để được sống sự sống của Chúa, để được sức mạnh của Chúa, sức mạnh của tình thương chiến thắng trên bạo lực.
Lạy Chúa, xin giúp mỗi người chúng con mỗi ngày trở nên giống Chúa hơn, nhờ bí tích Thánh Thể chúng con được lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa, chúng con lãnh nhận sự sống của Chúa trong mình chúng con, xin cho chúng con mỗi ngày trở nên giống Chúa nhiều hơn. Amen.
Nếu đọc lại Phúc Âm, chúng ta sẽ thấy từ việc chuẩn bị đến việc thiết lập và cử hành bí tích Thánh Thể, tất cả đều được diễn ra trong bàu khí của một bữa ăn.
Thực vậy, bữa tiệc thứ nhất đó là đám cưới Cana, tại đây Chúa Giêsu đã làm phép lạ biến nước lã hóa thành rượu ngon. Qua phép lạ này Chúa Giêsu không phải chỉ muốn cứu cho đôi tân khỏi bị bẽ mặt với khách mời vì thiếu rượu, mà còn muốn củng cố niềm tin cho các môn đệ, cũng như chuẩn bị cho các ông đón nhận bữa tiệc ly sau này, khi Ngài biến rượu thành máu thánh Người.
Tiếp đến là phép lạ Chúa Giêsu làm cho bánh hóa nhiều để nuôi dưỡng đám đông trong hoang địa. Qua phép lạ này, Chúa Giêsu đã chính thức hứa ban cho chúng ta thứ của ăn thiêng liêng nuôi sống linh hồn chúng ta:
– Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống, ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì sẽ có sự sống đời đời. Và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại ngày tận thế. (Ga 6,55-56).
Thế nhưng, quan trọng hơn cả phải là bữa tiệc ly, qua đó Chúa Giêsu đã thiết lập Bí tích Thánh Thể vào buổi chiều ngày Thứ năm Tuần Thánh. Phúc âm đã kể lại như sau: Đang khi ngồi ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ và phán:
– Tất cả các con hãy cầm lấy mà ăn, này là mình Ta sẽ bị nộp vì các con.
Cùng một thể thức ấy Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các môn đệ và nói:
– Tất cả hãy cầm lấy mà uống vì này là chén máu Ta, máu giao ước sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội. Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta. (Mt 26,26-29).
Cuối cùng, đó là bữa ăn nơi quán trọ gần làng Emmaus. Sau khi hai môn đệ mời Người vào nghỉ chân, Người đã cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho họ. Và họ đã nhận ra Người đã Phục sinh, đã sống lại. (Lc 24,13-35).
Nhìn vào đời thường, chúng ta thấy, những người cùng ngồi ăn với nhau trong một bàn tiệc trong một bữa cơm, thường có một mẫu số chung nào đó. Mẫu số chung ấy có thể là tình nghĩa gia đình, tình nghĩa bè bạn. Mẫu số chung ấy còn có thể là một niềm vui, một nỗi buồn, hay một công việc cùng làm. Vì thế, bữa ăn trở nên một biểu tượng của tình yêu, của cảm thông, của hợp nhất.
Bàn tiệc Thánh Thể cũng vậy, phải là biểu tượng của yêu thương, của cảm thông, của hợp nhất, như lời thánh Phaolô:
– Chúng ta tuy nhiều, nhưng cùng chia sẻ một tấm bánh và làm nên một thân thể Đức Kitô. (1Cr 10,17)
Vì thế, sống Bí tích Thánh Thể cũng chính là sống yêu thương, sống cảm thông, sống hợp nhất. Chúng ta phải bắt chước cộng đoàn Giêrusalem ở những năm tháng đầu tiên khi Giáo hội còn phôi thai. Từ nghi thức bẻ bánh trở về, họ đã gom góp tài sản riêng làm của chung, rồi phân phối theo nhu cầu của mọi người, đến nỗi dân ngoại đã phải thán phục và kêu lên:
– Kìa xem họ yêu thương nhau biết là chừng nào. (Cv 2,42-46).
Còn chúng ta thì sao? Hằng ngày, hay ít nữa là hàng tuần, chúng ta đều đến nhà thờ tham dự thánh lễ, thế nhưng, trong cuộc đời, chúng ta đã thực sự sống yêu thương, sống cảm thông và sống hiệp nhất với nhau hay chưa?
39.Thánh lễ làm cho chúng ta trở thành anh em
Càng ngày người ta càng nghe câu nói làm tổn thương đến đời sống Kitô hữu: “Tôi là tín hữu nhưng không hành đạo”. Tôi hy vọng rằng tất cả con người bạn nổi lên chống lại cái khẳng định tách rời sự “hành đạo” với “đức tin” này. Nhưng chúng ta hãy xem xét kỹ mối dây liên kết giữa hai điều trên.
Việc chúng ta suy niệm về Bánh Hằng Sống sẽ chỉ cho chúng ta thấy mối liên kết giữa hai phần của cuộc sống Kitô hữu: “Nếu các ngươi không ăn thịt Ta, nếu các ngươi không uống máu Ta, các ngươi sẽ không có sự sống”
Tiếng cốt lõi đó là: sự sống. Người tín hữu không hành đạo rất có ý muốn “sống đức tin” của mình. Và điều này được thể hiện tức khắc do một mối quan tâm chính đáng về tình yêu thương anh em: “Tôi tin vào Chúa Kitô và Tin Mừng của Ngài. Chúa Kitô không đòi hỏi tôi phải đi lễ, Ngài đòi hỏi tôi phải yêu thương”.
Ngài đòi hỏi cả hai việc! Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”, cũng chính là Chúa Giêsu đã báo trước cho chúng ta: “Nếu các con không hiệp thông cùng thịt và máu Ta, các con sẽ không có sự sống. Sự sống này cho phép các con là anh em với nhau như Thầy là anh em với các con”.
Phép Thánh Thể kết hợp chúng ta với cuộc sống của Chúa Kitô đến nỗi chúng ta không dám nghĩ đến điều đó nếu chính Ngài không nói với chúng ta: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì kẻ ấy ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy”. Tôi nghĩ đến một câu rất hay của thánh Cypriano: “Ai chiếm trọn tâm lòng chúng ta kẻ ấy cũng được chúng ta nói đến”. Người ta có thể thêm: người ấy cũng hiện diện trong các cử chỉ của chúng ta, trong cách thức chúng ta yêu thương nữa.
Người tín hữu muốn yêu thương mà “không đi lễ” thì không thấy được rằng họ ít có đức tin bởi vì họ không tin vào một lời nói mạnh mẽ của Chúa Giêsu: “Không ăn Bánh Hằng Sống thì các ngươi sẽ không có sự sống”. Người tin nửa vời này và người không tin có thể rất thương yêu nhau như anh em. Điều này rất thường gặp. Nhưng họ khó và hiếm khi yêu thương “như Chúa Giêsu”. Đối với người không tin, đây là điều bình thường. Đối với người tín hữu thì đây là một sự lệch lạc: muốn là môn đệ của Chúa Giêsu, bắt chước Chúa Giêsu mà không nuôi dưỡng mình bằng sự sống của Ngài.
Tôi biết rõ vấn nạn kinh khủng này: thực ra, người tín hữu hành đạo không bỏ lễ có yêu thương anh em đến thế chăng?
Trước hết, vơ đũa cả nắm là điều không tốt. Có những người tôn sùng Thánh Thể mà sự dễ thương và lòng độ lượng nói lên rất nhiều về “sự sống của Chúa Kitô” nơi họ.
Nhưng vấn đề Thánh Thể –liên quan đến tất cả chúng ta- chính là vấn đề sức sống Thánh Thể của chúng ta. Nhận lãnh sự sống bằng cách ăn Bánh Hằng Sống đòi hỏi một sự chú ý, một sự gắn bó bên trong là những điều thường quá thiếu vắng. Rước lễ dần dần trở nên ma thuật và thói quen, như thể việc di chuyển và giơ hai tay ra là đủ để trở nên một người xin sự sống đầy quyền lực. Không, điều này đòi buộc một niềm tin thức tỉnh nói với chúng ta lúc ấy, là tại sao chúng ta đi rước lễ và chúng ta vừa nhận lãnh thứ lương thực gì. “Một thứ bánh bị bẻ ra vì một thế giới mới”, một cuộc sống bị nghiền nát để chúng ta có thể thoát ra khỏi ích kỷ và kiêu ngạo. Không có cái chết này làm sao chúng ta là anh em với nhau được?
(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)
Kính thưa quý cộng đoàn Phụng vụ! Mỗi khi chúng ta tham dự Thánh lễ, chúng ta được dự phần vào Mầu nhiệm Tử nan – Phục Sinh của Chúa Ki-tô; hơn nữa, chúng ta được tận mắt chứng kiến phép lạ cao quý nhất mà chính Chúa Giê-su Ki-tô thực hiện qua vị thừa tác viên có chức Thánh. Một cách cụ thể, Ngài ẩn thân trong hình bánh nhỏ và giọt rượu đơn sơ để ở lại với chúng ta, trong chúng ta và là thần lương để nuôi dưỡng linh hồn chúng ta. Vì thế, hôm nay cùng với toàn thể Giáo hội, chúng ta cùng cảm tạ Chúa đã ban chính sự sống Ngài cho mỗi người chúng ta, và ước gì chúng ta được trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô mỗi khi lãnh nhận chính Mình Máu Thánh Ngài.
Nếu nhìn lại lịch sử nhân loại, đặc biệt trong lãnh vực tôn giáo-tín ngưỡng, chúng ta có thể nhận ra rằng: không có một vị sáng lập tôn giáo nào dù lâu đời hay hiện đại, dù lớn hay nhỏ, mà can đảm dám trao ban và để lại chính sự sống, sinh mạng của chính mình cho các đồ đệ cả! Và điều này cũng dễ hiểu vì họ cũng chỉ là con người có một cuộc đời, một mạng sống mà thôi; nếu họ hiến mạng sống cho môn sinh thì xem như họ chấp dứt đời sống của họ trên dương gian này! Tuy nhiên, đối với Đấng làm chủ, làm đầu của Hội Thánh Công Giáo là một loại trừ, vì Ngài chính là Thiên Chúa thật và người thật. Vì thế, Ngài không phụ thuộc vào tính hư mất của con người tự nhiên, mà Ngài chiến thắng sự chết và phục sinh từ cõi chết, hơn thế, còn ẩn thân trong hình bánh rượu nhỏ bé, tầm thường để trở nên lương thực thiêng liêng và ở mãi với chúng ta qua bí tích Thánh Thể.
Còn ân sủng nào cao quý hơn nữa! Còn hạnh phúc nào cao trọng hơn nữa! Nào chúng ta hãy đến múc lấy nguồn ơn sủng vô giá này mỗi khi tham dự tích cực vào bàn tiệc Thánh.!Nói theo lời kinh Tantum Ergo (Kinh Chầu Thánh Thể) của Thánh Tô-ma A-qui-nô: “…nếu mắt trần của ta không nhận thấy, thì lấy đức tin bù lại…” Với con mắt đức tin, với ơn của Chúa và việc mở rộng tâm hồn tín thác của mỗi chúng ta thì khi tham dự Thánh lễ, chúng ta nhận ra chính Chúa Giê-su Ki-tô đang chủ tế qua vị linh mục dù tội lỗi, yếu đuối và lỗi lầm với biết bao đam mê xác phàm của một con người được mời gọi trở nên khí cụ bình an của Ngài. Với đôi mắt đức tin và đời sống cầu nguyện thâm sâu, mỗi khi tham dự bí tích Tình Yêu – bí tích Thánh Thể trong Thánh Lễ, chúng ta nghiệm ra: chính Chúa Giê-su Ki-tô là của lễ toàn thiêu, của lễ tinh tuyền và không vương tì vết, đẹp lòng Thiên Chúa Cha. Dưới ánh nhìn của đức tin, chúng ta được lãnh nhận chính sự sống của Chúa Giê-su Ki-tô, lãnh nhận chính Mình và Máu Ngài dưới hình bánh đơn sơ và giọt rượu thơm ngát. Cũng với đức tin, chúng ta không cần đi tìm phép lạ ở đâu cho xa, mà ngay trong Thánh Lễ, chính Chúa Giê-su Ki-tô biến bánh, rượu trở nên Mình Thánh, Máu Thánh làm thần lương nuôi dưỡng chúng ta, làm thần dược chữa trị tâm hồn chúng ta.
Ôi, con là ai mà được nhận lãnh ơn ích lớn lao như vậy? Ôi, con chẳng xứng đáng được Chúa đến viếng thăm tâm hồn con, nhưng vì tình yêu lớn lao mà Chúa đã dành cho con, mà con được Chúa hạ mình, ẩn thân trong hình bánh rượu đơn sơ bé nhỏ để nuôi sống chúng con! Ước chi mỗi lần rước Mình Máu Thánh Chúa, chúng con được tháp nhập khăng khít với Chúa, được trở nên miệng lưỡi của Ngài, được trở nên tay chân của Ngài, được biến đổi nên giống Ngài hơn để mỗi lời nói chúng con xướng lên đều ích lợi cho anh chị em con, để suy nghĩ của chúng con được trong sạch, luôn theo Thánh ý Ngài, để đôi bàn tay chúng con dám mở ra đón nhận anh chị em dù anh chị em có bất hoà hay xung đột với chúng con, để đôi chân con không do dự tiến bước đến với anh chị em, nhất là những ai đang cần đến sự bình an của Chúa…Và đây cũng chính là sứ mạng của mỗi chúng ta khi tham dự bàn tiệc Thánh Chúa “vì mỗi khi anh (chị) em ăn bánh và uống chén này, anh (chị) em loan truyền việc Chúa chịu chết, cho tới khi Chúa lại đến” (1Cr 11, 26). Mỗi khi được lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa, chúng ta tuyên xưng Mầu nhiệm Vượt Qua – Cuộc Tử nạn và Phục Sinh của Chúa; đồng thời, sống đức tin can trường “…hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (x. Lc 22, 19) cho tới khi Chúa lại đến trong ngày Cánh chung. Hơn nữa, khi chúng ta được tháp nhập vào Mầu nhiệm này, chúng ta cũng được mời gọi cùng với Chúa Ki-tô chết đi những tính hư tật xấu của bản thân, mọi tội lỗi, và được trở nên con người mới, một con người được mặc lấy sự sống hoàn toàn mới mẻ nơi Chúa Ki-tô. Như thế, chúng ta trở nên can đảm lên đường, sẵn sàng ra đi chia san ơn sủng mà chúng ta được lãnh nhận nơi bí tích Thánh Thể như câu chúc và sai đi của chính Chúa qua vị linh mục chủ tế “Thánh Lễ đã xong, chúc anh chị em ra đi bình an”, không đơn giản chỉ là câu chúc ra về bình an sau Thánh lễ, mà là một lời sai đi “ra đi trong bình an, ra đi chia san những gì đã được lãnh nhận nơi bàn tiệc Thánh, ra đi làm chứng cho Chúa Ki-tô Phục Sinh, ra đi sống vui tươi, xứng đáng là một người Ki-tô hữu, ra đi can trường trở nên nhân chứng giữa đời dù đời chẳng như mong ước….”. Đây cũng chính là lời mời chúng ta như trong bài Tin Mừng hôm nay “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời” (Ga 6, 51); hơn nữa, “ai ăn thịt và uống máu tôi thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6, 56). Nói cách khác, chính Chúa sẽ nuôi dưỡng mọi người qua sự hy sinh, bỏ mình, lòng quảng đại chia sẻ, chia san của mỗi người chúng ta. Chúa tự mình dư sức làm những chuyện phi thường, nhưng Ngài đã ra đi, bỏ chính mình, trao ban chính sự sống của Ngài cho chúng ta mà kêu mời chúng ta năng đến với Ngài để lãnh nhận thần lương nuôi hồn, hầu nhiệt thành cộng tác, tham dự vào công cuộc cứu độ, chia san bình an cho mọi người. Vì thế, với sức lực có hạn của mỗi chúng ta mà cộng tác với nhau, với Chúa thì Chúa sẽ biến sức lực ấy trở nên vô hạn và phi thường ngay trong đời sống bình thường qua những con người tầm thường như chúng ta.
Giờ đây, xin mời mọi người hướng về Chúa Giê-su Thánh Thể và cùng nguyện rằng:
Ôi Giê-su, con mến yêu, tôn thờ
Chân thành nép bên Chúa, con nương nhờ
Ngài ẩn thân trong rượu-bánh đơn sơ
Nuôi dưỡng tâm hồn con thơ
Nguyện trở nên nhân chứng suốt đời. Amen!
(trích từ lời bài hát “Ôi Giê-su” của cùng tác giả bài viết này)
Nhân ngày lễ kính Mình và Máu thánh Đức Kitô hôm nay, tôi muốn trình bày về mối liên hệ giữa thánh lễ với cuộc đời mỗi người chúng ta. Mối liên hệ ấy được diễn tả qua hai ý tưởng.
Ý tưởng thứ nhất: cuộc đời chính là một thánh lễ được nối dài.
Thực vậy, có nhiều người trong chúng ta chỉ sống đạo trong nhà thờ, nhưng lại không sống đạo giữa lòng cuộc đời. Tới nhà thờ, họ là những con chiên ngoan. Nhưng khi thánh lễ kết thúc, bước xuống cuộc đời, họ lại vội vã dẹp bỏ niềm tin, như cởi bỏ bộ quần áo đẹp họ mặc vào khi đi tham dự thánh lễ, cất kỹ trong tủ, để hóa kiếp trở thành một loài lang sói bằng những hành động thù oán, bất công và ghen ghét.
Họ tách biệt thánh lễ ra khỏi cuộc đời và trong suốt khoảng thời gian còn lại, họ quên đi mình là người Kitô hữu.
Tôi nghĩ rằng cách sống đạo chỉ hạn hẹp trong bốn bức tường nhà thờ chắc chắn sẽ không thể nào làm đẹp lòng Chúa, bởi vì chính Ngài đã muốn chúng ta phải sống đạo giữa đời. Ngài đòi hỏi chúng ta phải trở nên như men trong bột, như muối trong thức ăn, như ánh sáng trong đêm tối. Nghĩa là tình thần của Phúc âm phải thấm nhiễm vào toàn bộ cuộc sống chúng ta, rồi từ nền tảng ấy, nó dần dần cải tạo cái môi trường xã hội chúng ta đang tiếp xúc.
Khi vị Linh mục nói với chúng ta:
– Lễ đã xong, chúc anh chị em ra về bình an.
Điều ấy không có nghĩa là: thánh lễ đã kết thúc khi cánh cửa nhà thờ khép lại, trái lại còn phải mở ra cho chúng ta một thánh lễ khác nữa, thánh lễ giữa lòng cuộc đời, thánh lễ của chính cuộc sống.
Điều ấy còn muốn nói lên rằng chúng ta phải kéo dài thánh lễ từ nhà thờ đến cuộc sống, phải biến cuộc đời chúng ta trở thành một thành lễ nối dài, phải thực hiện tinh thần thánh lễ trong chính môi trường và hoàn cảnh xã hội. Hay nói một cách khác: điều quan trọng không phải chỉ là phải sống đạo trong nhà thờ, mà còn phải sống đạo trong cuộc đời. Mỗi người chúng ta phải trở nên muối ướp cho xã hội khỏi ươn thối, phải trở nên men làm cho xã hội dậy lên hương thơm thánh thiện, phải trở nên ánh sáng phá tan bóng tối đang bao phủ xã hội. Và như vậy, cuộc đời chính là một thánh lễ được nối dài.
Ý tưởng thứ hai: Dưới một góc độ nào đó, Thánh lễ cũng chính là cuộc đời được kết đọng lại.
Thực vậy, nhiều khi chúng ta đã có quan niệm sai lạc, coi việc đi tham dự thánh lễ như đi xem một vở kịch, một cuốn phim, để rồi có thái độ hoàn toàn thụ động và dửng dưng.
Trong khi đó, thánh lễ đòi hỏi mỗi người tham dự phải có một thái độ tích cực. Chúng ta cùng dâng thánh lễ với vị Linh mục, bởi vì chúng ta cùng sống một tâm tình, cùng dâng một lễ vật là Mình và Máu thánh Đức Kitô.
Ngoài ra, lễ vật riêng tư của mỗi người còn là những lao công vất vả, những khổ đau buồn phiền, những gian nguy thử thách mà chúng ta gặp phải trong cuộc sống. Chúng ta dâng lên cùng với Mình và Máu thánh Đức Kitô, nhờ đó những hy sinh nhỏ bé và tầm thường của chúng ta sẽ có được một giá trị thiêng liêng to lớn, trở nên như một góp phần vào hy lễ thập giá, đồng thời trở nên như những sợi chỉ vàng dệt thành tấm vải cuộc đời của chúng ta.
Như thế, dưới một góc cạnh nào đó, thánh lễ cũng chính là cuộc đời được kết đọng lại. Chúng ta nên nhớ rằng: Thánh lễ trong nhà thờ cần phải được tiếp nối trong cuộc sống thường ngày bằng cách chấp nhận những gian khổ là như thập giá Chúa muốn chúng ta vác lấy, cũng như bằng cách thực thi những hành động bác ái yêu thương, giúp đỡ những người chung quanh. Đồng thời, cuộc sống của chúng ta cũng cần phải được cử hành trong thánh lễ tại nhà thờ bằng cách dâng lên Chúa những thập giá, những hy sinh chúng ta gặp phải.
Và như vậy, có một sự pha trộn, có một sự hòa nhập, có một sự liên hệ mật thiết giữa thánh lễ được cử hành trong nhà thờ với cuộc đời chúng ta đang sống.
Tại Tây Ban Nha có một câu chuyện về cậu bé tên là Marcellino. Mới sinh ra cậu bị người ta quăng trước cửa tu viện, và đã được các tu sĩ đem về nuôi.
Vốn tính hay nghịch ngợm, nên thày đầu bếp không cho cậu leo lên gác. Nhưng vì tò mò, một ngày kia Marcellino lén leo lên, cậu ngạc nhiên thấy một người khổng lồ bị treo trên thập giá. Nghĩ rằng người ấy chắc là đói lắm, nên đêm hôm ấy Marcellino vào bếp ăn cắp bánh mang lên cho ông. Người khổng lồ đưa tay nhận bánh và mỉm cười với cậu.
Từ đó, ngày nào cậu cũng đem bánh cho người ấy. Ngày kia, ông âu yếm ôm lấy cậu bé và hỏi:
– Con thích nhất điều gì trên trần gian này?
Cậu mau mắn thưa:
– Con muốn được gặp mẹ con.
Người ấy liền nói với cậu bé:
– Con sẽ được gặp mẹ con ngay tức khắc nếu con chấp nhận phải chết đi.
Hôm sau các thầy tìm thấy cậu nằm chết như đang ngủ say trong vòng tay thương mến của Chúa Giêsu.
Vì yêu thương mẹ, muốn được ở bên mẹ, mà Marcellino đã bằng lòng chịu chết. Vì yêu thương con người, Đức Giêsu cũng đã sẵn lòng chịu chết để cho con người được sống. Hơn nữa, Người còn có sáng kiến là hiện diện trong Bí tích Thánh Thể, để được ở mãi với con người, để làm của ăn của uống, như lương thực nuôi dưỡng con người trên cuộc hành trình về quê trời. Người đã hứa: “Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời”.
Thánh thể là Bí tích Tình Yêu. Khi mời gọi: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”, Đức Giêsu muốn các Kitô hữu hãy lập lại cái chết tự hiến vì yêu thương của Người, bằng cả cuộc sống dấn thân và trao ban.
Khi lãnh nhận bánh Thánh Thể, người tín hữu ý thức mình đang lãnh nhận tình yêu Chúa. Và như dòng suối ân tình, họ lại tuôn trào tình yêu Chúa sang cho anh em đồng loại.
Khi chia sẻ bàn tiệc Thánh Thể, người tín hữu cũng muốn chia sẻ cơm bánh cho tha nhân, chia sẻ hồng ân của Đức Kitô cho những kẻ đói nghèo, túng thiếu, không nơi nương tựa.
Chính khi nhận lãnh Thánh Thể để rồi chia sẻ trao ban, người tín hữu lại nhận được sự sống trường sinh và niềm vui lại tràn ngập tâm hồn.
Vì thế, sống Bí tích Thánh Thể chính là sống yêu thương, sống Bí tích Thánh Thể là sống cho và vì Đức Kitô, sống Bí tích Thánh Thể là sống như Đức Kitô đã sống và đã hiến trao cách quảng đại cho tha nhân.
Người tín hữu không lãnh nhận bánh Thánh Thể để cất giữ cho riêng mình, nhưng là để biến con người mình thành lương thực nuôi dưỡng anh em.
Việc chia nhau một tấm bánh nhắc nhở chúng ta sống là phải chia sẻ và trao ban, sống là yêu thương và hy sinh cho nhau.
Trong thánh lễ bế mạc Đại hội Thánh Thể Quốc tế lần thứ 45, Đức Thánh Cha kêu gọi: “Chúng ta rước Mình Thánh Chúa Kitô mà đồng thời lại sống xa lạ với những người đang đói khát, kẻ bị bóc lột, tù đày hay đau yếu”.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, khi chúng con sống yêu thương là chúng con đang làm chứng rằng: Chúa chính là sức sống mãnh liệt của chúng con.
Xin cho chúng con khi lãnh nhận bánh Thánh Thể cũng đón nhận được sức sống mới của Chúa, để chúng con ra đi làm chứng cho tình yêu Chúa trong cuộc sống chúng con.
*****
Vào lúc 7 giờ chiều ngày 26/05/2005, ĐTC Benedictô XVI đã long trọng cử hành Thánh Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô tại quảng trường trước mặt Đền Thờ Thánh Gioan Lateranô.
Sau thánh lễ ĐTC chủ sự cuộc Rước Kiệu Mình Thánh Chúa. Cuộc rước kiệu được bắt đầu từ Đền Thờ Thánh Gioan Laterano, đi dọc theo các đường phố, đến Đền Thờ Đức Bà Cả.
Năm nay (10/2004-10/2005) là năm Thánh Thể, bởi vậy ngày Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô có một ý nghĩa rất đặc biệt. Trước ngày lễ một ngày, trong buổi tiếp kiến chung thứ Tư hằng tuần, ngày 25/05/2005, ĐTC đã mời gọi các tín hữu hăng hái tham dự thánh lễ này. Trước đó không lâu, Đức Hồng Y Camillo Ruini, tổng đại diện của ĐTC cai quản Giáo Phận Rôma, cũng đã thông báo cho các tín hữu và mời gọi mọi người chuẩn bị tâm hồn để tham dự Lễ mình Máu Thánh Chúa Kitô trong năm Thánh Thể này. Ngài cũng mời gọi các thiếu nhi đã được rước lễ lần đầu trong dịp đầu năm nay (2005), hãy mặc đồng phục màu trắng, và cùng với phụ huynh và các giáo lý viên tới tham dự lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô.
Đức Hồng Y Ruini cũng mời gọi các cư dân, các nhà thờ, các tu viện, học đường, ở dọc theo những con đường mà cuộc Rước Kiệu Mình Thánh Chúa sẽ đi qua, hãy đặc biệt trang hoàng đẹp đẽ để đón chào Cuộc Rước Kiệu Mình Thánh Chúa.
Trước khi cử hành cuộc rước kiệu Mình Thánh Chúa, ĐTC nói rằng, các tín hữu hy vọng “các đường phố của chúng ta sẽ là những đường phố của Chúa Giêsu”.
Trong bài giảng, ĐTC đã so sánh những diễn tiến trong ngày Thứ Năm Tuần Thánh, là khi Giáo Hội “đồng hành với Chúa Giêsu đang đơn độc tiến bước trên Đường Thập Giá”, với những diễn tiến của Cuộc rước kiệu Mình Thánh Chúa hôm nay, là khi Giáo Hội thể hiện cách cụ thể mệnh lệnh rao giảng Tin Mừng của Chúa Phục Sinh.
ĐTC nói tiếp: “Chúng ta mang Chúa Giêsu, hiện diện trong hình Bánh, đi khắp trên các đường phố của chúng ta. Chúng ta phó thác những đường phố, những ngôi nhà, tất cả cuộc sống của chúng ta, trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Ước gì những đường phố của chúng ta sẽ là những đường phố của Chúa Giêsu! ước gì những ngôi nhà của chúng ta sẽ là những ngôi nhà dành cho Chúa Giêsu! Nguyện xin Chúa Giêsu luôn hiện diện trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta!”
“Qua cuộc rước kiệu này, chúng ta hãy đặt trước ánh mắt Chúa Giêsu, tất cả những khổ đau của những bệnh nhân; những nỗi cô đơn của những người trẻ và của những người già; những cám dỗ, những nỗi lo lắng trong cuộc sống của chúng ta.”
Cuối cùng ĐTC nói: “Cuộc rước kiệu này có ý nghĩa chúc lành cho thành phố của chúng ta. Đức Kitô, trong ngôi vị là Con Người, đang ban phúc lành của Thiên Chúa cho thế giới của chúng ta.”
Trong suốt cuộc rước kiệu, ĐTC quỳ gối trước một bàn thờ nhỏ có đặt Hào Quang Mình Thánh Chúa, với những đèn điện chiếu sáng, trên một chiếc xe mui trần màu trắng. Mọi người nghiêm trang đi bộ theo đoàn kiệu vừa hát Thánh ca vừa sốt sắng cầu nguyện
Thánh Gioan đã định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu”. Quả thật, Thiên Chúa luôn yêu thương con người và yêu họ đến cùng, dù cho con người có bất trung hay chưa nhận ra được tình yêu đó. Bí tích Thánh Thể là sáng kiến độc đáo và tuyệt vời của Thiên Chúa để Ngài có thể được sống bên những người mà Ngài yêu mến. Đức Giêsu Kitô đã hứa: “Này đây, Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Bí tích Thánh Thể là biểu lộ tình yêu vô thuỷ vô chung và tuyệt vời ấy: yêu đến cùng.
Với Bí tích Thánh Thể, không những con người được hưởng nhờ Thần lương để nuôi sống linh hồn mình mà cả vật chất bất động cũng được nâng lên, cả công lao của con người cũng được thánh hiến. Vật chất trở thành biểu tượng cho sự hiện diện thần linh. Như thế, vật chất có chỗ trong thế giới của Thiên Chúa.
Ta hãy nhớ lại ý hướng và ước muốn lạ lùng của Đức Giêsu của Chúa Giêsu khi Ngài lập Bí tích Thánh Thể: “Trước lễ Vượt Qua, Đức Giêsu biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1). Như thế đã đủ cho chúng ta cảm nghiệm được tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta và giúp chúng ta nhận ra được chương trình của Ngài dành cho tạo vật. Thiên Chúa luôn nhất quán trong mọi hành động của Ngài. Thiên Chúa không làm việc nửa vời, không yêu nửa chừng, không làm việc tuỳ hứng, nhưng Ngài làm việc gì thì Ngài làm đến nơi đến chốn. Tình yêu thuộc về bản tính của Thiên Chúa. Tình yêu của Thiên Chúa là tình yêu toàn năng. Ngài làm mọi sự chỉ vì yêu.
Một câu chuyện cảm động được kể lại từ chính một bà mẹ và đứa con 4 tuổi của bà được cứu sống sau một trận động đất ở Ac-mê-ni vào tháng 12 năm 1987. Người mẹ đó là bà Susanna. Bà nói: “Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết, nhưng tôi muốn cho con tôi được sống”. Trong trận động đất kinh khủng ấy, hàng ngàn người bị vùi lấp dưới đống gạch trong đó có hai mẹ con bà Susanna nhưng bà và con bà được may mắn còn sống sót. Cô con gái 4 tuổi của bà đòi uống nước. Nhưng tìm đâu ra nước cho nó uống khi hai mẹ con không có lối ra? Tình mẫu tử đã gợi cho bà một ý nghĩ táo bạo. Bà đã rạch cho ngón tay của mình chảy máu để cho con mút. Đứa bé đã đỡ khát nhờ máu của người mẹ và nó đã sống cho đến khi hai mẹ con được cứu sống.
Câu chuyện cảm động trên giúp chúng ta hiểu được phần nào về Bí tích Thánh Thể. Đức Giêsu đã tự nguyện chịu chết để cho chúng ta được sống. Ngài chấp nhận chịu đổ máu qua cái chết Thập giá để cứu sống chúng ta. Ngài muốn Máu của Ngài trở nên thức uống cho chúng ta.
Bí tích Mình và Máu Thánh Chúa là một trong những Bí tích cao quí nhất của người Kitô hữu, nhưng cũng là Bí tích gây nhiều thắc mắc nhất cho con người ở mọi thời. Những người ngoài Kitô giáo không thể nào hiểu nổi và chắc cũng không thể nào tin nổi tấm bánh mỏng manh và không mùi vị đó lại là Mình Thánh Chúa Giêsu, và chén rượu ấy là Máu của Chúa. Đây là mầu nhiệm đức tin không dễ gì giải thích cho người ngoài. Còn chúng ta, những người đã tin vào Thiên Chúa là Đấng sáng tạo nên mọi sự, chúng ta hãy vững tin vào Chúa. Bởi lẽ, từ hư không mà Chúa còn làm ra mọi sự, thì huống chi là từ một tấm bánh, Chúa lại không thể dùng nó để hoá nên Thân Thể Ngài cho chúng ta được sao?
Thánh Phaxicô Assisi đã nói rằng: “Khi chúng ta rước lễ, thì không phải chúng ta rước lấy Chúa Giêsu mà chính là Chúa Thánh Thần trong chúng ta rước lấy Người”. Xin Chúa Thánh Thần biến đổi lòng trí chúng ta để chúng ta hết lòng tin kính và mến yêu Chúa Giêsu Thánh Thể, để nhờ lòng tin yêu ấy, chúng ta sẽ được sống nhờ Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm Gioan Phan Tiến Dũng)
Anh chị em thân mến! Cách đây hơn một năm, tôi có chuyến về quê thăm bà con ngoài Nghệ An, những người thân trong dòng tộc, vì lòng mến-hiếu khách, ai cũng muốn mời tôi đến nhà thăm và dùng cơm, ai cũng muốn mời tôi tới nhà dùng chút gì đó, để cùng nói chuyện và dùng bữa; khi thăm họ hàng nhà nào cũng đều thiết đãi tôi nhiều những món ngon, vì đây là dịp để tạo nên tình thân, sự gắn kết và nói lên lòng thương mến. Thật vậy, qua bữa ăn và các thức ăn, đồ uống mà chúng ta hưởng dùng, tình yêu thương được chia sẻ, sự quan tâm đến với khách mời được nối kết và gắn bó hơn. Hôm nay lễ Mình Máu Thánh Chúa, qua các bài đọc lời Chúa, Thiên Chúa cũng đang mời gọi để thiết đãi, Thiên Chúa đang nuôi dưỡng, Thiên Chúa chăm sóc cho dân của Người không phải với của ăn thức uống bình thường, không phải chỉ một hai hôm, nhưng chính là “Thần lương, Thần dược từ trời” ban tặng mỗi ngày và mãi mãi. Tại sao Thiên Chúa lại thiết đãi cho chúng ta như vậy? Chỉ vì Thiên Chúa yêu thương ta, vì Ngài muốn hiến trao chính Mình Máu Thánh của Ngài để làm lương thực nuôi sống cho chúng ta.
Bài đọc 1– sách Đệ Nhị Luật nhắc lại cho dân biết, suốt 40 năm trong sa mạc, dân chúng đứng trước tình huống vất vả thiếu thốn, đói và khát luôn là mối quan tâm của dân. Thiên Chúa đã quan phòng, thương ban thức ăn cho dân; không những Chúa nuôi họ bằng manna và chim cút mà Chúa còn hướng dẫn, dạy dỗ họ qua các ngôn sứ và thủ lĩnh. Các ngôn sứ là người thay mặt Chúa để tuyên sấm sứ điệp của Chúa cho dân. Điều quan trọng mà Thiên Chúa muốn là gì, khi Ngài yêu thương chăm sóc họ như vậy? Đó là phải tuân giữ những huấn lệnh và Thánh ý của Chúa để họ được sống hạnh phúc. Thế nhưng, như chúng ta biết, với thân phận là con người yếu đuối, tội lỗi, dân chúng đã không biết bao nhiêu lần vấp ngã, biết bao lần họ đã quay ngược chống lại Thiên Chúa, loại Chúa ra khỏi cuộc sống của họ.
Bài đọc 2 – Thiên Chúa không bao giờ loại con người ra khỏi tình yêu của Ngài, mặc dù con người tội lỗi, yếu đuối, và phản bội. Ngài yêu thương đến nỗi ban chính “giá máu của Đức Kitô”, “Giá máu” đã đổ ra để rửa sạch tội lỗi và ban ơn tha thứ cho những ai hoán cải quay về và tin vào Ngài. “Giá máu” của Chúa Giêsu chính là thần dược, là của uống ban ơn cứu độ. Chính thân thể nhiệm mầu của Đức Giêsu Kitô giờ đây được diễn tả cách hoàn hảo nơi tấm bánh và chén rượu dùng làm của ăn, thức uống; Của ăn, thức uống này làm gắn kết cuộc đời của chúng ta với Chúa Giêsu và Thiên Chúa; gắn kết cuộc sống của chúng ta với anh chị em để trở nên một trong Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô.
Anh chị em thân mến, Tin mừng hôm nay chính Chúa Giêsu khẳng định: “Ta là bánh – bánh hằng sống – bánh ban sự sống đời đời – bánh tặng ban từ Trời – Bánh chính là Thịt Ta ban cho thế gian để có sự sống”. Chúng ta càng được xác tín, vì đây chính là lời của Chúa Giêsu, lời của con Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật nói với và trao ban cho chúng ta. Ai tin, đến và lãnh nhận thì sẽ được ơn cứu độ. Nhưng điều quan trọng ở đây là: 1. Chúng ta có đến với Chúa với lòng tin, đến để lãnh nhận ơn ban cách nhưng không của Chúa hay không? 2. Chúng ta đến với Chúa nơi bàn tiệc Thánh Thể với tâm tình và thái độ cũng như sự chuẩn bị của chúng ta như thế nào?
Câu hỏi được đặt ra, tại sao tôi phải đi lễ? Vì khỏi phạm tội trọng, tội bỏ lễ Chúa Nhật? vì cha mẹ, vì vợ buộc đi, bắt tôi đi?… với những thái độ tiêu cực thì sẽ trả lời như vậy. Nhưng với thái độ tích cực trong tâm tình con thảo thì: vì tôi đến để cảm tạ Chúa, đến để chúc tụng tôn vinh Chúa, đến để đón nhận hồng ân, ơn phúc từ trời của Chúa ban. Hồng ân, ơn phúc ấy chính là Mình Máu Thánh Chúa Giêsu món quà vô cùng cao quý Thiên Chúa hiến thân trao ban.
Hãy đến với Chúa với lòng yêu mến, yêu mến Thánh Lễ, yêu mến Bí tích Thánh Thể, vì nhờ sức mạnh của thần lương này chúng ta sẽ có đủ sức mà sống trọn vẹn với ân huệ tuyệt vời của Chúa ban và sống tốt ơn gọi làm con cái Chúa, sống yêu thương hiệp nhất với anh chị em.
Lạy Chúa trước tình yêu và ơn ban của Chúa chúng con xin hết tình thờ lạy, vì Chúa ngự trong Phép Thánh, để nuôi hồn con tháng ngày. Xin cho chúng con biết hằng sùng kính, sống và rao truyền ơn Thánh Chúa cho anh chị em. Amen.
Một số anh chị em dự tòng sau khi được học hỏi về sự cao quí, về tầm quan trọng và về sự cần thiết của thánh lễ cũng như của bí tích Thánh Thể đã đưa ra câu hỏi: Nếu thánh lễ và mầu nhiệm Thánh thể cao quí và cần thiết cho đời sống thiêng liêng như vậy, thì tại sao nhiều người Công giáo lại không đi dâng lễ, hay nếu có đi thì lại ngồi ở ngoài hút thuốc, nói chuyện, chơi giỡn và hầu như không bao giờ rước Mình Thánh Chúa?
Một câu hỏi quả là gây nhức nhối và rất đáng để những người mang danh là Kitô hữu phải suy nghĩ. Có lẽ ta khó có thể tìm được một lý do nào chính đáng để trả lời cho thắc mắc này ngoài việc nhận thực rằng; do yếu kém về giáo lý, do thiếu hiểu biết về Chúa, về những gì Người đã dạy và đã làm, do thiếu ý thức về những sự thánh thiêng, do thiếu trưởng thành trong đời sống đạo nên mới xảy ra những trường hợp như vậy. Vì những cái thiếu kể trên nên nhiều người đã không thấy được sự cao quí và tầm quan trọng của việc dâng lễ và việc rước Thánh Thể. Những người này coi việc đi dâng lễ ngày Chúa nhật chỉ là một khoản luật phải giữ để khỏi có tội, để khỏi bị phạt mà thôi. Họ không ý thức rằng thánh lễ và Thánh thể là những điểm hẹn để họ gặp gỡ Thiên Chúa là Cha của mình. Họ cũng không biết rằng đây là cơ hội rất quí báu để có thể kín múc lấy nguồn sự sống, nguồn ân sủng cần thiết cho cuộc đời.
Thánh lễ và bí tích Thánh Thể không do Hội thánh, không do bất cứ ai bịa đặt ra, nhưng là do chính Chúa Kitô thiết lập. Thánh lễ ngày nay tái diễn và làm sống lại thánh lễ Chúa Kitô đã dâng khi xưa trên thánh giá để tiếp tục chuyển thông ơn cứu rỗi cho mọi người, mọi thời và mọi nơi. Và Thánh Thể chính là lương thực nuôi sống linh hồn ta trong hành trình làm người, cũng là hành trình đi về quê hương trên trời. Chúa Giêsu đã nói đi nói lại nhiều lần: “Thịt tôi thật là của ăn, máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì sẽ được sống đời đời”. Ngay cả khi Người biết rõ ràng rằng: Nếu Người nói ra những điều ấy, người ta sẽ không tin, sẽ nhạo cười và sẽ bỏ đi, Người vẫn cứ nói. Điều đó cho thấy vấn đề Chúa Giêsu nói ra quan trọng và cần thiết như thế nào.
Con người không chỉ có thân xác nhưng còn có linh hồn. Và mục đích của đời sống làm người không chỉ là sự no đủ cơm áo phần xác mà còn là sự no đủ của đời sống tâm linh nữa: “Người ta sống không chỉ bởi bánh”.
Thiết tưởng mỗi người chúng ta đang hiện diện nơi đây đều có dư khả năng để nhận thức điều này. Vấn đề còn lại là thái độ của chúng ta đối với thánh lễ và Thánh Thể như thế nào mà thôi.
(Suy niệm của JB. Lê Ngọc Dũng)
Trong lịch sử Giáo Hội, Bí Tích Thánh Thể đôi khi được chứng thực bằng những phép lạ. Trong những phép lạ đó, cũng có những trường hợp là Bí Tích Thánh Thể nuôi dưỡng cả phần thân xác con người. Louis Lateau, một nguời Bỉ được in năm dấu thánh vào năm 1868. Từ nhỏ, cô đã bị đau yếu, ít ăn uống, nhất là sau khi được in năm dấu thánh, cô chỉ còn được ăn chút ít, mỗi ngày một mẫu bánh nhỏ. Và kể từ năm 1871 trở đi, cô không ăn uống được gì, chỉ còn rước lễ hàng ngày, trong suốt bảy năm.
Những trường hợp khác tương tự cũng đã xảy ra trong thời gian gần đây. Trong số những người đó, có Têrêsa Niu-man và Matta Robin đã không ăn uống trong nhiều chục năm. Họ chỉ rước lễ mỗi ngày. Như thế, Thánh thể vốn là của ăn thiêng liêng đôi khi trở nên một ơn lạ nuôi sống cả phần thân xác.
Tuy nhiên khi Chúa Giêsu nói đến bánh hằng sống, Ngài không có ý nhắc đến cuộc sống thể lý mà Ngài có ý nói đến sự sống thiêng liêng, sự sống đơì đời trong tình yêu và hạnh phúc với Thiên Chúa.
Thực ra, cái mà chúng ta gọi là sự sống, trong lãnh vực tự nhiên ở đời này, chẳng đáng gọi là sự sống. Trong Tin Mừng thánh Gioan, Chúa Giêsu muốn sửa sai quan niệm của chúng ta về sự sống và sự chết. Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa ban cho ông bà tổ Ađam và Evà cả hai sự sống ấy. Chẳng những đời sống thể lý mà còn đời sống siêu nhiên nữa. Đó là sự sống thân ái kết hiệp với Thiên Chúa.
Một đời sống thể lý mà thôi thì chẳng đáng được gọi là sự sống theo ý nghĩa sâu sắc của nó. Cái chết thể lý, chẳng đáng gọi là chết, Chúa Giêsu gọi nó là giấc ngũ. Trong câu chuyện Chúa Giêsu chữa cho cô bé con ông Zairô sống lại. Khi Chúa Giêsu đến nhà ông thì cô bé vừa chết và thấy người ta khóc lóc xôn xao, Chúa Giêsu liền nói: “Hãy lui ra, cô bé không chết. Nó ngũ đó thôi” (Mt 9,24).
Về cái chết của Lazarô cũng vậy, Chúa Giêsu nói với các Tông đồ: “Lazarô người bạn của chúng ta đã nghĩ yên. Ta phải đánh thức dậy” (Ga 11,11).
Thánh Phaolô sau này cũng quan niệm cái chết thể lý như một giấc ngũ.
Vậy đối với Đức Giêsu cái chết thực sự đó là con người sống tách biệt với Thiên Chúa. Khi con người có được đời sống thần thiêng của Thiên Chúa, đó mới thực sự là sống.
Sự sống này chính Đức Giêsu thông ban cho ta, Ngài nói: “Bánh hằng sống từ trời xuống, chính là Ta! Ai ăn bánh này, thì sẽ được sống đời đời” (Ga 6,51).
Bánh hằng sống mà Chúa Giêsu nói đến có hai nghĩa:
Trước hết, đó là đạo lý của Ngài, là Lời Ngài. Chúng ta tiếp nhận bánh Lời Ngài, hay nói cách khác, là tham dự vào bàn tiệc Lời Chúa, bằng cách tin vào Ngài và sống Lời Ngài. Chúa Giêsu nói: “Phàm ai nghe và học hỏi nơi Cha thì đến với Ta. Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời. Bánh sự sống chính là Ta.” (Ga 6,45).
Theo nghĩa thứ hai, Bánh hằng sống chính là sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể.
Chỉ một khi con người tin vào chính Chúa Giêsu và tiếp nhận Mình và Máu của Ngài trong bí tích Thánh Thể, con người mới sống được đời sống Thiên Chúa.
Khi mẹ Têrêsa Calcutta sang Liên Xô, để xin lập chi nhánh của dòng, mẹ xin cho có được một linh mục. Cho dù rất khó khăn trong một nước xã hội chủ nghĩa, mẹ vẫn kiên trì xin cho bằng được có một linh mục để dâng Thánh lễ mỗi sáng cho các nữ tu. Mẹ Têrêsa giải thích lý do: Sở dĩ các nữ tu có đủ tinh thần và nghị lực để mỗi ngày đem đến cho những người nghèo khổ sự an ủi, phục vụ và yêu thương, đó là nhờ Mình Thánh Chúa mà họ rước mỗi ngày.
Chúa nói: “Ai ăn thịt và uống máu Ta, thì ở lại trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy” (Ga 6,56).
Giáo huấn đó của Chúa Giêsu diễn tả một sự liên kết hổ tương quan trọng. Ngài đến sống trong lòng kẻ tiếp rước Ngài. Điều đó đúng, nhưng nói thế cũng chưa đủ. Chúa còn nói thêm “Ai tiếp rước Ngài thì ở lại trong ngài”. Điều này có nghĩa là: ai tiếp rước Ngài thì có khả năng trở nên giống Ngài. Khi chúng ta ăn một bát cơm, của ăn ấy được biến hoá để trở nên thịt và máu của ta. Ở đây thì ngược lại: Khi chúng ta ăn uống Mình và Máu Chúa Giêsu, thì chính Mình Máu Chúa lại biến đổi chúng ta và làm cho chúng ta trở nên chi thể Chúa Kitô.
Nói một cách nào đó, Thiên Chúa đã làm người, đã trở nên của ăn và của uống cho con người, để con người trở thành Thiên Chúa, nghĩa là, để con người đón nhận tính Thánh Thiêng của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu thừa biết rằng chúng ta rất cần cơm bánh vật chất để cho thân xác sống. Nhưng chúng ta không phải chỉ có sự sống thể lý đó mà còn có đời sống thần linh của Thiên Chúa. Xin Chúa cho chúng ta được tham dự thiết thực vào bàn tiệc Lời Chúa để sự sống của Thiên Chúa trong ta được lớn lên và đồng thời tham dự vào bàn tiệc Thánh Thể với hết lòng tin tưởng, để sự sống Thiên Chúa vững bền trong chúng ta.
Một hôm, người ta hỏi một em bé chín tuổi mới được rước lễ lần đầu: “Đâu là sự khác biệt giữa cây thánh giá và Mình Thánh Chúa?”. Em bé ấy đã trả lời rất hay và rất đúng rằng: “Trên cây thánh giá, người ta thấy Chúa Giêsu. Nhưng Ngài không có ở đó. Còn trong bánh Thánh, người ta không thấy Ngài, nhưng Ngài ở trong đó”. Đúng vậy, về phép Thánh Thể người ta không thể nhìn bằng con mắt xác thịt, mà chỉ có thể nhìn bằng con mắt đức tin, bởi vì đây là một mầu nhiệm đức tin, nhưng đây cũng là một mầu nhiệm của tình yêu thương. Chúng ta hãy tìm hiểu nhân ngày lễ trọng kính Mình Máu Thánh Chúa hôm nay. Trong bữa tiệc ly, bữa tiệc cuối cùng của Chúa Giêsu với các môn đệ vào chiều ngày thứ năm tuần thánh, Chúa đã làm một việc rất quan trọng, đó là biến bánh miến thành thịt Ngài và biến rượu nho thành máu Ngài, đồng thời Chúa truyền cho các môn đệ hãy làm như vậy để tưởng nhớ đến Ngài. Như vậy, bữa tiệc ly này đã trở thành thánh lễ đầu tiên do chính Chúa Giêsu, là linh mục tối cao, cử hành, và việc biến bánh rượu trở nên Mình Máu Ngài là bí tích Thánh Thể do Chúa thiết lập và Chúa muốn sự kiện cao quí này, tức là thánh lễ, được tiếp diễn luôn mãi qua các môn đệ của Ngài.
Vì thế, trong thánh lễ, khi linh mục lặp lại những lời của Chúa Giêsu: “Này là Mình Thầy”, này là chén Máu Thầy”, tức thì bánh không còn là bánh, rượu không còn là rượu nữa, nhưng là Mình và Máu Chúa Giêsu. Dĩ nhiên đây là một chân lý cao siêu, vượt quá sự hiểu biết của trí khôn loài người. Bởi vì trước và sau khi linh mục đọc lời truyền phép, chúng ta có nhìn xem, đụng chạm tới hay nếm một tấm bánh chưa truyền phép và một hình bánh đã truyền phép, chúng ta chẳng thấy có gì khác nhau, hay là có đưa vào phòng thí nghiệm để phân chất, chúng ta vẫn thấy như thường về phẩm chất, khối lượng và hình thức. Tuy nhiên, theo đức tin, thì lại khác xa nhau một trời một vực: một đàng là Mình Máu Thánh Chúa Giêsu, một đàng là tấm bánh nhỏ bé, tầm thường. Chính vì thế, sau truyền phép, linh mục lớn tiếng công bố: Đây là màu nhiệm đức tin.
Đúng vậy, Thánh thể là một bí tích đức tin. Nhưng cũng còn là bí tính tình yêu. Tại sao vậy? Thánh Gioan tông đồ đã viết: Chúa Giêsu đã yêu thương các môn đệ của Ngài và đã yêu thương họ đến cùng. Yêu thương đến cùng có nghĩa là yêu thương đến tột bực. Tột bực tình yêu của Chúa Giêsu ở đây là việc lập phép Thánh Thể, để từ nay Ngài trở thành nơi gặp gỡ tình yêu giữa Ngài với chúng ta và giữa chúng ta với nhau.
Sau hết, Thánh Thể còn là bí tích của sự chia sẻ. Chúng ta biết: Chúa Giêsu đã lập bí tích Thánh Thể trong bầu khí thân tình của một bữa ăn từ giã. Tấm bánh Chúa đã cầm và phân chia cho các môn đệ cũng như chén rượu Ngài đã trao cho các môn đệ là để họ cùng ăn cùng uống trong tình huynh đệ, và chính việc chia sẻ này đã được Chúa dùng như dấu chỉ để các môn đệ làm mà nhớ đến Ngài. Cũng vậy, ý thức chia sẻ đòi buộc mỗi người chúng ta không được đóng khung những buổi cử hành Thánh Thể bên trong nhà thờ, nhưng phải sống mầu nhiệm Thánh Thể, mầu nhiệm yêu thương ngay trong cuộc sống hằng ngày. Chúng ta cũng không thể cử hành Thánh Thể một cách trung thực nếu chúng ta sống dửng dưng ích kỷ, không quan tâm đến những anh chị em chung quanh. Nếu chúng ta nghèo của cải vật chất, chúng ta hãy chia sẻ, hãy cho nhau tình thương, sự thông cảm, vị tha, bác ái dưới mọi hình thức với hết mọi người.
Bí tích Thánh thể cao quí biết bao và đem lại ơn ích biết bao nhiêu. Thế mà nhiều người vẫn còn thờ ơ hoặc chưa yêu mến cho thật đầy đủ. Được bao nhiêu người rước lễ, có người chỉ rước lễ một năm một lần. Nhiều người rước lễ không nên, hoặc không chuẩn bị đầy đủ hoặc không cám ơn đàng hoàng. Đến nhà thờ là gặp Chúa, tâm sự với Chúa, thế mà có những thái độ bất kính: nói chuyện riêng, có những cử chỉ bất kính. Chúng ta hãy xin Chúa tha thứ và cố gắng sống tốt đẹp hơn.
48.Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô
(Suy niệm của Lm. Phêrô Nguyễn Xuân Hòa)
Sau đây là tâm trạng của hai hoàn cảnh khác nhau, một của vị linh mục và một của giáo dân, để giúp chúng ta thấy sự khao khát và sự biến đổi từ Nhiệm tích Thánh Thể:
– Có một thương gia Công giáo người Đức đã đến đảo Green Land, miền Bắc cực vào thời đạo Công giáo còn bị cấm hoạt động ở đây. Vì công việc làm ăn, ông phải ở lại đảo suốt mùa Giáng Sinh. Được biết ông là người Công giáo, một gia đình ở đó, đã mời ông đến nhà để cầu nguyện cùng với họ trong đêm Giáng Sinh. Trong đêm tối lạnh buốt, họ quây quần quanh một chiếc bàn nhỏ và cùng nhau cầu nguyện.
Sau lời chào chúc, họ đọc, nghe Kinh Thánh và một vài lời nguyện, ông lão kéo ngăn bàn và lấy ra một hộp nhỏ. Trong hộp, có một khăn Thánh đã vàng úa theo thời gian. Vừa nâng chiếc khăn Thánh lên, ông lão vừa run run, vừa bày tỏ: “Cách đây 50 năm, Thánh Lễ Giáng Sinh cuối cùng trên mảnh đất này đã được dâng trên chiếc khăn Thánh mà tôi đang cầm. Lúc đó, tôi là một chú giúp lễ và chiếc khăn này là vật duy nhất còn lại khi ngôi Thánh Đường bị thiêu rụi. Mình Máu Thánh Chúa Giêsu đã ngự trên chiếc khăn này”. Sau khi nghe những lời ấy, tất cả mọi người quì gối và cầu nguyện trong tiếng nghẹn ngào: “Lạy Chúa, xin cho chúng con được tự do. Xin gởi các Linh mục đến để chúng con được phúc có lễ Chúa Giáng Sinh, để chúng con được dự phần vào Mình Máu Chúa.” Mọi người lúc đó, chẳng một ai cầm được nước mắt. Đôi mắt của người thương gia Đức đã rơi lệ chẳng biết từ lúc nào. Lòng ông cảm động, bùi ngùi với tràn đầy ước muốn, tha thiết được rước Thánh Thể. Một sự khao khát mà trước đây ông chưa hề có, cho dù ông vẫn đến Nhà Thờ dự lễ mỗi ngày.
– Và đây là trang nhật ký của một Linh mục:“… Đức Giêsu và Hội Thánh bấy giờ xuất hiện với tôi như một cái gì thật khô cứng, sự khô cứng của những khái niệm Thần học, những bổn phận “phải” làm hơn là một tình yêu thiết tha tung cánh… Rồi chẳng biết từ đâu, triết đông và Phật giáo len lỏi vào tâm hồn tôi, phất phơ nhẹ nhàng nhưng nó lại có sức giật tung những gì mòn mỏi trong lòng tôi. Tôi nằng nặc đòi nhà dòng cho tôi được ra ở một mình trên núi, sống với nắng, với gió mưa, với đói khát, và với cả sợ hãi nữa. Nhưng mỗi lần tôi để tâm suy, trí niệm thì vấn đề Đức Giêsu lại vang lên, đeo bám mãi. Sau một năm, tôi hết phép. Với thân tàn ma dại, tôi thua cuộc, lại mò về nhà dòng hoàn toàn tay trắng! Nhưng Chúa Giê- su cứ đeo bám tôi mãi. Một năm trời nổi loạn, thất bại đã trôi qua và kể như trắng tay, tôi được bề trên gọi làm… Linh mục. Hoang mang và sợ hãi, tâm hồn rối bời, tan nát, tôi vào ngồi bất động trong Nhà Nguyện trầm lặng nhưng lòng như bị đay nghiến, như một mất mát đòi tôi đền bù.
Trước khi làm Linh mục vài hôm, một đêm tôi thử tiến lên đứng sát Nhà Chầu. Có cái gì đó hơn là một cảm giác, hơn là một sự rung động, phủ chụp lấy toàn bộ cuộc đời và con người tôi. Ngay từ giây phút đó, tôi hiểu rằng, cho dù có là hòn đá, hòn sỏi, dù tôi có là con người bê bết lấm bùn, thân tàn ma dại, dù đã làm hỏng cuộc đời, thì Đức Giêsu vẫn gọi và chọn tôi. Việc đó làm cho tâm hồn tôi bừng sáng lên huy hoàng. Và tôi gọi Ngài là Chúa, Cứu Chúa cuộc đời của tôi…”
Thưa Cộng đoàn.
Có thể phần đông chúng ta hoặc chính mình, có khi nào cảm giác trống vắng phải xa lâu Thánh Thể mà có sự khao khát là lùng như thế? Hơn nữa, vì quá quen thuộc, chúng ta chẳng lưu tâm nhiều, thậm chí, còn cảm thấy nhàm chán hoặc làm cho xong, chiếu lệ.
– Đọc lại trong Kinh Thánh, chúng ta sẽ biết rõ hơn sự sống của Thiên Chúa đã trao cho nhân loại và ngay cả Con Thiên Chúa cũng không chối từ:
Đối với những người đã đi theo Chúa vào sa mạc, và những người đang đói khát, Thiên Chúa đã ban cho họ bánh ăn hằng ngày, nhờ đó, đã làm thỏa mãn được cơn đói thể lý của họ. Còn với người phong cùi, thân thể đang bị héo tàn, Đức Giêsu đã ban tấm bánh có ý nghĩa là chữa lành bệnh tật. Đối với người phụ nữ đang ở tại giếng Gia-cóp, người đã ban cho bà tấm bánh của lòng tử tế, và do đó, đã làm thỏa mãn lòng khao khát được chấp thuận. Đối với những người tội lỗi, Người đã ban cho họ tấm bánh của ơn tha thứ, do đó, đã làm thỏa mãn lòng khao khát được cứu độ. Đối với những người bị khước từ và ruồng bỏ, bằng cách hòa hợp với họ, cùng ăn uống với họ, Người đã ban cho họ tấm bánh của tình thân hữu. Do đó, Người đã làm thỏa mãn lòng khao khát được thấy mình có giá trị. Người góa phụ thành Na-im đã chôn cất đứa con trai duy nhất, kể cả chị em Mát-ta và Maria khóc thương em trai La-da-rô vừa mới chết, Người đã ban cho họ tấm bánh của lòng thương xót và chứng tỏ cho họ biết, ngay cả trong sự chết, con người vẫn có thể được Thiên Chúa cứu giúp. Đối với Gia-kêu, một tên thu thuế giàu có, đã chiếm lấy bánh từ bàn ăn của người nghèo, Người đã đánh thức nơi anh ta một niềm khao khát của một đời sống ý nghĩa hơn, đã hướng dẫn anh biết chia sẻ cho người nghèo, một cách làm giàu của niềm tin. Với kẻ trộm bên cạnh mình, Người đã ban cho anh tấm bánh của yêu thương, tha thứ, giúp anh giải thoát khỏi bối rối và tạo nên sự bình an trong tâm hồn…
Đức Giêsu đã chia sẻ chính sự sống của Người cho con người qua nhiều cách khác nhau và dưới nhiều hình thức phong phú, trước khi ban cho con người bản thân mình như là thức ăn và nước uống trong bữa Tiệc Ly để gọi mời con người đón rước.
Trong Thánh Thể, mỗi người được nuôi dưỡng tư tưởng, tâm hồn và ý chí của mình. Trong đó, mỗi người cảm nhận sự hiện diện kéo dài của Chúa Ki-tô với chính mình. Người không hiện diện với tư cách như một ký ức, mơ hồ của một con người đã sống trong quá khứ, nhưng là một sự hiện diện hiện tại để ban sự sống biến đổi con người của ta.
Chúa Giêsu không chỉ dâng Thánh Lễ trong Nhà Thờ, mà Người còn dâng Thánh Lễ cả cuộc đời. Người không dâng một lễ vật nào, nhưng là dâng chính bản thân mình. Người không chỉ bẻ một tấm bánh mà còn bẻ chính thân mình để ban cho muôn người. Việc Chúa Giêsu làm, khiến chúng ta phải nghĩ suy? Hơn nữa, nếu thiếu việc cử hành ngoài Nhà Thờ, ngoài cuộc đời thì những nghi lễ trong Nhà Thờ sẽ trở thành một mớ công thức và dễ dàng xa rời thực tế.
Xin Chúa Thánh Thể ban cho chúng con thêm niềm tin vững vàng, một niềm yêu mến Thánh Thể để mỗi người chúng con có đủ can đảm chịu được theo gương Chúa, biết khiêm tốn sống yêu thương, hiến mình cho Chúa và phục vụ vui tươi cho anh chị em.
Là con người, chúng ta không thể chỉ sống bằng cơm bánh. Chúng ta còn phải chịu đựng nhiều kiểu đói khát. Chúng ta hãy mở Tin mừng, để hiểu về những loại tấm bánh khác nhau, mà Đức Giêsu đã ban cho nhân loại, từ đó, Người đang làm thỏa mãn nhiều khao khát của họ.
Đối với những người đã đi theo Chúa vào sa mạc, và những người đang đói khát, Người đã ban cho họ bánh ăn hằng ngày, nhờ đó, đã làm thỏa mãn được cơn đói về thể lý của họ.
Đối với những người phong cùi mà thân thể đang bị héo mòn, Người đã ban cho họ tấm bánh duy nhất có ý nghĩa quan trọng đối với họ – đó là được chữa lành bệnh tật.
Đối với người phụ nữ đang ở một mình tại giếng Giacóp, Người đã ban cho bà tấm bánh của lòng ân cần tử tế, và do đó, đã làm thỏa mãn lòng khao khát được chấp nhận.
Đối với những người tội lỗi, Người đã ban cho họ tấm bánh của ơn tha thứ, do đó, đã làm thỏa mãn lòng khao khát được cứu độ.
Đối với những người bị khước từ và ruồng bỏ, bằng cách hòa hợp với họ, cùng ăn uống với họ. Người đã ban cho họ tấm bánh của tình thân hữu, do đó, đã làm thỏa mãn lòng khao khát được cảm thấy mình có giá trị.
Đối với người góa phụ thành Naim, một người đã chôn cất đứa con trai duy nhất, và đối với Marta và Maria, là những người chị vừa mới chôn cất em trai họ là Lagiarô, Người đã ban cho họ tấm bánh của lòng thương xót, và đã chứng tỏ cho họ thấy rằng ngay cả trong cái chết, chúng ta vẫn có thể được Thiên Chúa cứu giúp.
Đối với Giakêu, một người thu thuế giàu có, đã tước đoạt bánh từ bàn ăn của người nghèo, Người đã bắt đầu bằng cách tự để cho Người được mời vào bàn ăn của ông ta. Sau đó, Người đã đánh thức nơi ông ta một niềm khao khát được có một đời sống tốt đẹp hơn, Người đã giúp ông ta biết chia sẻ cho người nghèo tiền bạc bất chính của mình.
Đối với kẻ trộm chết bên cạnh mình, Người đã ban cho anh ta tấm bánh của sự hòa giải với Thiên Chúa, do đó, Người đã ban lại bình an cho tâm hồn bị bối rối của anh ta. Nhưng thật đáng ngạc nhiên, có một người lại khước từ tấm bánh Đức Giêsu ban.
Có một thanh niên giàu có, được Người ban cho tấm bánh của đời sống ngay chính, nhưng đã từ chối, vì anh ta không muốn từ bỏ những của cải của mình.
Có những ký lục và Pharisêu được Người ban cho không chỉ một lần, mà nhiều lần, tấm bánh của sự hoán cải, nhưng họ đã từ chối dù chỉ một mẫu bánh.
Có những người dân thành Giêrusalem mà Người yêu dấu, trong những dòng nước mắt, Người đã ban cho tấm bánh của sự bình an, nhưng họ đã từ chối, và hậu quả là thành phố của họ bị phá hủy.
Có một ông quan Philatô, mà Người ban cho tấm bánh của sự thật, nhưng ông ta không hề thèm khát muốn ăn, vì nó đặt địa vị của ông ta vào tình trạng rủi ro.
Đức Giêsu đã chia sẻ chính Người cho mọi người, bằng nhiều cách thức khác nhau, và dưới nhiều hình thức khác nhau, trước khi ban cho họ bản thân mình như là thức ăn và nước uống, trong bữa Tiệc Ly.
Đức Giêsu nuôi dưỡng chúng ta bằng rất nhiều cách đặc biệt trong Phép Thánh Thể. Chỉ khi nào chúng ta đánh mất ý nghĩa sự hiện diện của Đức Kitô trong tất cả mọi mặt, thì sự hiện diện của Người trong Phép thánh Thể trở nên một vấn đề. Những người có ý thức sâu xa về sự hiện diện của Thiên Chúa trong toàn bộ tạo vật, thì sẽ không gặp khó khăn gì lớn, trong việc tin tưởng rằng Người đang hiện diện bằng một cách thức rất đặc biệt trong Phép Thánh Thể.
Chỉ duy nhất Thiên Chúa là Đấng thỏa mãn được những khao khát và mong mỏi của tâm hồn chúng ta, vì chỉ một mình Người có thể ban cho chúng ta tấm bánh sự sống đời đời. Đây là tấm bánh mà chúng ta được đón nhận trong Phép Thánh Thể. Nếu không có tấm bánh đó, chúng ta sẽ không có sức mạnh để đi theo Đức Kitô.
Trong suốt những năm từ 1984 đến 1986, Ethiopie đã phải chịu đựng một nạn đói khủng khiếp. Đức Hồng y Hume ở Westminster kể lại một sự kiện đã xảy ra, khi ngài thăm viếng Ethiopie giữa thời kỳ nạn đói. Một trong những nơi mà ngài thăm viếng là một trại định cư nằm trên các sườn đồi, tại đó, dân chúng đang chờ đợi thực phẩm không chắc sẽ được gửi tới. Đức Hồng Y đã được chở đến đó bằng trực thăng. Ngay khi ngài vừa mới bước ra khỏi trực thăng, thì có một bé trai, khoảng độ 10 tuổi, chạy đến và nắm bàn tay của ngài. Cháu bé không mặc quần áo gì cả, chỉ đóng một cái khố nhỏ mà thôi. Suốt thời gian mà Đức Hồng Y có mặt ở đó, cháu bé này không hề buông tay mình ra khỏi bàn tay của ngài. Trong khi Đức Hồng y và bé trai này đi bên nhau, cháu bé có hai cử chỉ: cháu dùng một bàn tay chỉ vào miệng của mình, còn bàn tay kia vẫn nắm chặt bàn tay Đức Hồng Y, và ép sát bàn tay ngài lên má của mình. Sau này, Đức Hồng Y đã nói: “Đây là một đứa trẻ mồ côi, đã bị mất hết cha mẹ vì nạn đói. Tuy nhiên, bằng hai cử chỉ đơn giản đó, cháu bé đã chứng tỏ hai nhu cầu đói khát căn bản của con người. Bằng cử chỉ đầu tiên, cháu bé đã cho tôi thấy cơn đói ăn của mình, và bằng cử chỉ kia, cháu đã nói lên nhu cầu được yêu thương. Không bao giờ tôi quên được sự kiện đó, và cho đến hôm nay, tôi vẫn thắc mắc không biết cháu bé đó còn sống không. Tôi còn nhớ là khi bước lên trực thăng, cháu cứ đứng nhìn tôi bằng một cái nhìn đầy trách móc”.
Bài đọc hôm nay nói: “Con người không chỉ sống bằng cơm bánh, nhưng còn bằng mọi lời từ miệng Thiên Chúa phán ra”. Đức Giêsu đã trích dẫn những lời này, trong khi Người bị cám dỗ ở trong sa mạc.
Chúng ta cần có cơm bánh hàng ngày. Đó là nhu cầu đầu tiên và cơ bản nhất của con người. Nhưng chúng ta còn cần nhiều hơn thế nữa. Cơm bánh chỉ nuôi dưỡng chúng ta phân nửa mà thôi – đó là về mặt thể lý. Nhưng chúng ta còn có mặt tinh thần nữa. Tinh thần cũng kêu gào đòi được nuôi dưỡng. Ngay cả đứa trẻ đang chết đói trên đây cũng đã nhận ra điều đó. Trong Phép Thánh Thể, chúng ta được nuôi dưỡng bằng lương thực là lời của Thiên Chúa, lời hằng sống có tác động an ủi, hướng dẫn, truyền cảm hứng, và thử thách chúng ta. Và trong sự hiệp thông Thần Thánh, chúng ta được nuôi dưỡng bằng lương thực là sự sống đời đời.Trong bữa tiệc Thánh Thể, chúng ta có lương thực nuôi dưỡng tư tưởng, tâm hồn và tinh thần của mình. Ở đây, chúng ta cảm nghiệm được sự hiện diện kéo dài của Đức Kitô với chúng ta. Người không hiện diện với tư cách như là một ký ức mơ hồ của một con người đã sống từ trước đây rất lâu, nhưng là một sự hiện diện đích thực, ban sự sống làm biến đổi chúng ta. Bằng cách đón nhận lương thực là Phép Thánh Thể, chúng ta được nuôi dưỡng, và giống như Đức Kitô, chúng ta cũng có khả năng nuôi dưỡng cả những người khác nữa.
Tin cùng chuyên mục:
Dự án Nhà Mẹ Lavang-Fatima và đại lễ khánh thành và làm phép tượng đài Đức Mẹ Lavang-Fatima do Đức Tổng Giám mục Giuse Nguyễn Năng chủ tế
Ngôn ngữ của tình yêu
Sứ điệp của Đức Thánh Cha nhân Ngày Thế giới Truyền giáo 2023
Thứ tư tuần XXVI thường niên, Thánh Phaxicô Assisi: Không có gì quí hơn là Thập Giá của Đức Kitô