Các Bài Suy Niệm Chúa Nhật II Mùa Chay Năm A

chua nhat II mua chay

Con người làm việc là cho một mục đích. Họ biết mục đích càng cao trọng bao nhiêu, thách đố và đau khổ càng lớn lao bấy nhiêu. Làm sao để thuyết phục một người có can đảm bỏ ý riêng của họ, sẵn sàng đương đầu với mọi nguy hiểm, để theo đuổi một mục đích? Có ba cách: Một là hứa hẹn với họ về những hậu quả tương lai mà họ sẽ được hưởng. Cách này chỉ hiệu quả cho những người có uy tín. Hai là cắt nghĩa để họ hiểu sự hợp lý giữa những việc làm hiện tại và hậu quả tương lai. Đây là cách mà con người thường dùng để chinh phục. Ba là cho họ thấy trước những hậu quả đó. Cách này chỉ có thể thực hiện bởi Thiên Chúa, Đấng có quyền trên mọi sự.

Bài đọcGen 12:1-4a; 2 Tim 1:8-10; Mt 17:1-9.

1/ Bài đọc I1 ĐỨC CHÚA phán với ông Áp-ram: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi.

2 Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi. Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng, và ngươi sẽ là một mối phúc lành.

3 Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi; Ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa. Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc.”

4 Ông Áp-ram ra đi, như ĐỨC CHÚA đã phán với ông.

2/ Bài đọc II8 Vậy anh đừng hổ thẹn vì phải làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng hổ thẹn vì tôi, người tù của Chúa; nhưng dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa, anh hãy đồng lao cộng khổ với tôi để loan báo Tin Mừng.

9 Người đã cứu độ và kêu gọi chúng ta vào dân thánh của Người, không phải vì công kia việc nọ chúng ta đã làm, nhưng là do kế hoạch và ân sủng của Người. Ân sủng đó, Người đã ban cho chúng ta từ muôn thuở trong Đức Ki-tô Giê-su,

10 nhưng giờ đây mới được biểu lộ, vì Đấng cứu độ chúng ta là Đức Ki-tô Giê-su đã xuất hiện. Chính Đức Ki-tô đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh bất tử.

3/ Phúc Âm1 Sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em ông Gia-cô-bê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao.

2 Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng.

3 Và bỗng các ông thấy ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người.

4 Bấy giờ ông Phê-rô thưa với Đức Giê-su rằng: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a.” 5 Ông còn đang nói, chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông, và có tiếng từ đám mây phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” 6 Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất.

7 Bấy giờ Đức Giê-su lại gần, chạm vào các ông và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ!”

8 Các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa, chỉ còn một mình Đức Giê-su mà thôi.

9 Đang khi thầy trò từ trên núi xuống, Đức Giê-su truyền cho các ông rằng: “Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy.”


GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Vinh quang chỉ có được nhờ làm theo những gì Thiên Chúa truyền dạy.

Con người làm việc là cho một mục đích. Họ biết mục đích càng cao trọng bao nhiêu, thách đố và đau khổ càng lớn lao bấy nhiêu. Làm sao để thuyết phục một người có can đảm bỏ ý riêng của họ, sẵn sàng đương đầu với mọi nguy hiểm, để theo đuổi một mục đích? Có ba cách: Một là hứa hẹn với họ về những hậu quả tương lai mà họ sẽ được hưởng. Cách này chỉ hiệu quả cho những người có uy tín. Hai là cắt nghĩa để họ hiểu sự hợp lý giữa những việc làm hiện tại và hậu quả tương lai. Đây là cách mà con người thường dùng để chinh phục. Ba là cho họ thấy trước những hậu quả đó. Cách này chỉ có thể thực hiện bởi Thiên Chúa, Đấng có quyền trên mọi sự.

Các bài đọc hôm nay dẫn chứng cả 3 cách đều được dùng trong việc thuyết phục con người, để họ có can đảm làm theo ý muốn của người truyền. Trong bài đọc I, Thiên Chúa hứa với Abram: Ngài sẽ ban cho ông một Đất Hứa, một dòng dõi, và chúc lành bảo vệ ông cũng như dòng dõi của ông, nếu ông có can đảm bỏ quê cha đất tổ để lên đường theo sự hướng dẫn của Ngài. Trong bài đọc II, thánh Phaolô khuyên môn đệ Timothy phải hy sinh tất cả để đồng lao cộng khổ với ngài trong việc rao giảng Tin Mừng, vì lợi ích mà Tin Mừng mang lại: Ông và mọi người được xóa bỏ tội lỗi, được trở nên thánh thiện, và được lãnh nhận ơn cứu độ muôn đời. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu biến hình cho ba môn đệ thân tín thấy trước vinh quang các ông sẽ được hưởng, nếu các ông chấp nhận Cuộc Thương Khó sắp xảy ra và làm theo những gì Ngài dạy bảo.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Nhờ Abram, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc.

1.1/ Những điều Thiên Chúa hứa với Abram: Trước khi Thiên Chúa gọi Abram, ông và gia đình ông đang sống yên ổn tại Urs, một thành phố trù phú nằm chỗ hai con sông lớn Tigris và Euphrates giao nhau, Iraq hiện giờ. Abram chưa hề biết Thiên Chúa, nhưng sớm biết dùng trí khôn và lý luận để tin phải có một Đấng Toàn Năng dựng nên và điều khiển trái đất này, chứ không phải do những vị thần vô tri do tay con người tạo nên mà cha ông buôn bán. Nhờ niềm tin đó, ông dần dần nhận ra Thiên Chúa và phát triển mối liên hệ với Ngài. Trong trình thuật hôm nay, Thiên Chúa hứa với Abram ba điều:

(1) Ngài sẽ ban cho ông một Đất Hứa, vùng đất chảy sữa và mật. Đức Chúa phán với ông Abram: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi.” Lời hứa này chỉ được thực hiện khi Thiên Chúa đưa dòng dõi của ông từ hoàn cảnh nô lệ bên Ai-cập, vượt qua Biển Đỏ, lang thang 40 năm trong sa mạc, trước khi vào đất Canaan. Tuy nhiên, Đất Hứa này cũng chỉ là hình bóng của Nước Trời mà thôi.

(2) Lời hứa ban một dòng dõi đông như sao trên trời và như cát dưới biển. Đức Chúa phán: “Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi. Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng, và ngươi sẽ là một mối phúc lành.” Lời hứa này cũng chỉ được thực hiện sau khi Abram qua đời. Hiện giờ, ông là tổ phụ của tất cả những người theo đạo Do-thái, Công-giáo, và tất cả những người tin vào Đức Kitô (hơn một nửa dân số trên địa cầu).

(3) Lời hứa được Thiên Chúa bảo vệ và chúc lành: “Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi; Ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa. Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc.” Lời hứa này được thực hiện cả trong thời của Abram qua những biến cố như: giao tranh với các vua, giải thoát Sarah vợ ông hai lần… lẫn sau này, khi Thiên Chúa tiếp tục chúc phúc cho dòng dõi của ông: Isaac, Jacob, và các con cháu, nhất là qua biến cố Xuất Hành.

1.2/ Những gì Abram phải hy sinh: Để được hưởng những lời hứa đó, Abram phải tin tưởng và làm tất cả những gì Thiên Chúa truyền. Abram phải lìa xa quê cha đất tổ xứ Urs, họ hàng, và nhà cha ông. Ông phải vượt qua những lo sợ của con người như: ai sẽ săn sóc cha mẹ già, làm gì mà sống, lang thang đây đó rất nguy hiểm vì phải đương đầu với các quyền lực địa phương, bao giờ những gì Thiên Chúa hứa mới được thực hiện… Ông Abram ra đi như Đức Chúa đã phán với ông, vì ông hoàn toàn tin nơi Thiên Chúa. Ngài sẽ chúc lành và bảo vệ ông như lời Ngài đã hứa. Nếu ông sợ hãi, ông sẽ ở lại đất Urs và sẽ không bao giờ được hưởng những gì Thiên Chúa hứa.

2/ Bài đọc II: Anh hãy đồng lao cộng khổ với tôi để loan báo Tin Mừng.

2.1/ Những gì Tin Mừng của Đức Kitô mang lại cho con người: Có 4 điều lợi ích Phaolô liệt kê cho môn đệ Timothy trong trình thuật hôm nay:

(1) Tin Mừng cứu độ được ban cho con người cách nhưng không: Con người được cứu độ và được nhập đoàn hàng ngũ các thánh là hoàn toàn do kế hoạch và ân sủng của Thiên Chúa, chứ không do bất cứ công việc gì của con người làm. Điều này có nghĩa Tin Mừng Cứu Độ là cho mọi người, không chỉ những người Do-thái mà thôi.

(2) Tin Mừng mặc khải cho con người về tình yêu Thiên Chúa: “Ân sủng của Thiên Chúa được ban cho con người từ muôn thuở trong Đức Kitô; nhưng giờ đây mới được biểu lộ, vì Đấng cứu độ chúng ta là Đức Giêsu Kitô đã xuất hiện.” Ân sủng của Thiên Chúa gồm nhiều loại khác nhau, nhưng trọng tâm là Thánh Thần và các ân sủng Ngài ban qua các bí tích.

(3) Tin Mừng ban ơn cứu độ: Điều chính yếu và trên hết của Tin Mừng là về Đấng Cứu Độ của con người là Đức Kitô. Chính Người đã tiêu diệt thần chết qua Cuộc Thương Khó và Phục Sinh, để mang lại sự sống đời đời cho con người. Nếu con người muốn được cứu độ, họ phải tin vào Ngài.

(4) Thiên Chúa dùng Tin Mừng để loan báo ơn cứu độ cho mọi người. Để có thể loan báo Tin Mừng cho tất cả mọi người qua mọi thời đại, Đức Kitô đã có kế hoạch: Ngài muốn Tin Mừng được viết xuống và Ngài sai các môn đệ, những người Ngài đã tuyển chọn để đi rao giảng Tin Mừng.

2.2/ Timothy phải hy sinh mọi sự cho việc rao giảng Tin Mừng: Để được hưởng và để mang lợi ích của Tin Mừng đến mọi người, các nhà rao giảng Tin Mừng cần biết trước những thách đố và đau khổ họ phải chịu.

(1) Rao giảng Tin Mừng sẽ bị người đời ghen ghét: Tin Mừng của Đức Kitô loan báo những điều ngược lại với tiêu chuẩn của người thế gian. Chính Đức Kitô đã cảnh giác các môn đệ: Các con sẽ bị thế gian ghen ghét vì các con không thuộc về nó… Thế gian yêu mến những người giống như nó… Thế gian sẽ yêu mến các con, nếu các con thuộc về nó… Chúng đã ghét Thầy và chúng sẽ ghét các con…

(2) Rao giảng Tin Mừng sẽ bị bắt bớ, tra tấn, tù đày, và có thể bị giết chết. Phaolô viết Thư này cho Timothy khi ông đang bị giam trong ngục tù tại Roma. Những người trong Thượng Hội Đồng của Do-thái truy tố Phaolô, vì ông tiếp tục rao giảng Tin Mừng của Đức Kitô để làm cho mọi người tin vào Ngài. Điều này cũng đã được Đức Kitô loan báo trước cho các môn đệ: “Nếu họ đã bắt bớ Thầy họ cũng sẽ bắt bớ các con.”

(3) Sức mạnh của Thiên Chúa sẽ giúp cho người rao giảng Tin Mừng chiến thắng mọi trở ngại. Tuy phải đương đầu với thử thách và đau khổ, Phaolô vẫn khuyên Timothy: “Vậy anh đừng hổ thẹn vì phải làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng hổ thẹn vì tôi, người tù của Chúa; nhưng dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa, anh hãy đồng lao cộng khổ với tôi để loan báo Tin Mừng.”

3/ Phúc Âm: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.”

3.1/ Tại sao Chúa Giêsu mặc khải vinh quang của Ngài chỉ cho ba môn đệ? Để hiểu mục đích, chúng ta cần hiểu ý nghĩa của các câu này trong nội dung và bối cảnh lịch sử của nó.

+ Sáu ngày sau: là sáu ngày sau lời tuyên xưng của Phêrô vào thần tính của Đức Kitô tại Carsarea Philippi, và sự kiện ông ngăn cản Chúa Giêsu đừng lên Jerusalem để phải đi ngang qua cuộc khổ nạn.

+ Cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu đã gần kề. Hai điều quan trọng Chúa Giêsu muốn các môn đệ nắm vững: (1) Các ông phải biết rõ Ngài là ai. Điều này đã được giải quyết phần nào khi Phêrô đại diện cho các môn đệ tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.” (2) Cách thức Ngài giải phóng nhân loại là qua Cuộc Thương Khó, Tử Nạn, và Phục Sinh. Điều này các tông-đồ chưa nắm vững, đó là lý do Phêrô kéo Chúa Giêsu ra một nơi và ngăn cản Ngài. Như hầu hết người Do-thái đương thời, các ông tin vào một Đấng Thiên Sai uy quyền sẽ dùng quyền năng để chinh phục và thống trị nhân loại. Các ông không thể chấp nhận một Đấng Thiên Sai phải chịu đau khổ và chết trên Thập Giá. Vì thế, Chúa Giêsu muốn đưa ba tông-đồ lên núi để các ông xác tín mối liên hệ của Ngài với Thiên Chúa, con đường khổ nạn Ngài sắp phải đi qua theo Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa, và cho các tông-đồ nhìn thấy vinh quang trước khi phải đương đầu với cuộc khổ nạn của Ngài.

+ Sự hiện diện của Moses và Elijah: Moses tượng trưng cho các Sách Lề Luật vì Thiên Chúa ban Thập Giới và các thánh chỉ qua Moses. Ông được coi là nền tảng của Lề Luật, và biến cố hôm nay chứng tỏ Lề Luật phải hướng về Đức Kitô để được nên trọn vẹn, hoàn hảo. Elijah tượng trưng cho các Sách Ngôn Sứ. Tiên-tri Elijah được coi là ngôn sứ cao trọng nhất trong các ngôn sứ vì những lời rao giảng và uy quyền làm phép lạ, và biến cố hôm nay chứng tỏ Sách Ngôn Sứ phải hướng về Đức Kitô, để tìm thấy sự hoàn hảo của các lời tiên-tri về Đấng Thiên Sai.

+ Họ đàm luận với nhau về điều gì? Căn cứ vào những lời thắc mắc của các tông-đồ bên dưới, chúng ta có thể xác tín, chủ đề của cuộc đàm đạo là: biến cố Thương Khó, Tử Nạn, và Phục Sinh của Chúa Giêsu. Trình thuật của Lucas nói rõ chủ đề của cuộc đàm đạo là biến cố từ biệt sắp xảy ra tại Jerusalem (Lk 9:30-31). Như thế, cả hai: Lề Luật và Ngôn Sứ đều làm chứng và tìm thấy sự hoàn hảo của mình nơi Đức Kitô, nhất là trong Cuộc Thương Khó và Phục Sinh sắp tới của Ngài.

3.2/ Lời truyền của Thiên Chúa Cha: Đây là lần thứ hai Chúa Cha làm chứng cho Đức Kitô là Người Con Một yêu dấu của Ngài; lần đầu xảy ra khi Chúa Giêsu được Gioan Tẩy Giả làm phép rửa tại sông Jordan. “Hãy vâng nghe lời Người” là một lời truyền tối quan trọng cho các môn đệ của Đức Kitô. Đối với các tông-đồ, Thiên Chúa muốn các ông phải vâng nghe những gì Đức Kitô đang mặc khải cho các ông, dù những điều này không phải những gì các ông muốn về Đấng Thiên Sai; nhưng lại là kế hoạch của Thiên Chúa.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Kết quả vinh quang không phải tự nhiên mà có; nhưng là hậu quả của việc làm theo những gì Thiên Chúa dạy bảo.

– Thi hành thánh ý Thiên Chúa đòi con người phải từ bỏ ý riêng mình và sẵn sàng chấp nhận mọi thử thách và đau khổ. Ngài sẽ ban cho chúng ta khôn ngoan và sức mạnh để vượt qua mọi thử thách trong cuộc đời.

Nguồn: https://loi-nhap-the.com/ch-nht-ii-mua-chaya/

Suy Niệm

MỤC LỤC

1.      Người biến đổi hình dạng. 4

2.      Con yêu dấu của Ta. 7

3.      Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 11

4.      Đấng đang biến hình giữa chúng ta. 14

5.      Vững bước trong Đức Tin – Dã Quỳ. 18

6.      Biến hình sáng láng – ViKiNi 21

7.      Biến hình. 23

8.      Biến đổi khi vượt qua chính mình. 25

9.      Tuyệt vời qua từng hành vi 27

10.   Những sự việc bình thường. 31

11.   Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành. 33

12.   Chúa biến hình. 37

13.   Núi Tabor hôm nay. 39

14.   Nghe Lời Chúa – Đến với tha nhân. 41

15.   Đỉnh cao hôm nay – Đỉnh cao ngày mai 44

16.   Nội tâm – Lm. Vũ Đình Tường. 49

17.   Chúa Nhật 2 Mùa Chay. 53

18.   Ơn gọi làm đẹp – Lm. Phạm Quốc Hưng, CSsR.. 56

19.   Đây là con yêu dấu của Ta. 60

20.   Biến đổi 65

21.   Nước Thiên Chúa. 68

22.   Chúa biển đổi và biến đổi để theo Chúa – Anmai 71

23.   Con đường Thập Giá – Con đường vinh quang. 76

24.   Thiên Chúa vẫn còn hiển dung. 78

25.   Chúa hiển dung – Lm. Ignatiô Trần Ngà. 82

26.   Biểu lộ phẩm chất Ki-tô hữu. 85

27.   Vinh quang đích thực. 88

28.   Vinh quang – Lm. Giuse Trần Việt Hùng. 92

29.   Con yêu dấu – Lm. Giuse Trần Việt Hùng. 97

30.   ”Bản tính khó dời” – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền. 103

31.   Hãy biết mình – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền. 106

32.   Hãy nghe Lời Người 109

33.   Chúa Hiển Dung – Radio Veritas Asia. 116

34.   Con đường thập giá con đường vinh quang. 119

35.   Lên núi cao – Lm Giuse Lê Minh Thông. 121

36.   Đức Giêsu – Con đường cứu độ duy nhất 129

37.   Chúa hiển dung bộ mặt nào?. 133

38.   Đường về đỉnh vinh quang. 136

39.   Chúa Nhật 2 Mùa Chay. 142

40.   Chúa Nhật 2 Mùa Chay. 146

41.   Biến đổi giống Chúa mỗi ngày. 150

42.   Biểu lộ chân dung – JM. Lam Thy. 154

43.   Biến hình. 160

44.   Đức Giêsu biến đổi hình dạng. 163

45.   Ý nghĩa đời sống ta là gì? – Achille Degeest. 173

46.   Dõi theo bước Chúa – R. Veritas. 175

47.   Nghe Lời Người – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 179

48.   Chúa tỏ hiện vinh quang. 185

49.   Biến hình – Richard Gutzwiller. 188

50.   Biến hình trên núi Tabor. 192

51.   Con yêu dấu. 196

52.   Khuôn mặt ngời sáng – Thiên Phúc. 199

53.   Vẻ đẹp của phẩm giá con người 202

54.   Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long. 204

55.   Núi vinh quang. 208

56.   Mặt Người chiếu sáng như mặt trời 210

57.   Nhỏ bé và tầm thường. 214

58.   Phêrô. 217

59.   Cõi phúc. 220

60.   Thập giá. 222

61.   Suy niệm của JKN.. 226

62.   Biến hình. 232

63.   Biến hình. 237

64.   Xin cho được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần. 239

65.   Hãy vâng nghe lời ngài 243

66.   Vinh quang Thiên Chúa. 248

67.   Gọi điện thoại trong địa phương. 251

68.   Chúa biến hình – Lm. Thomas Túy, OP. 255

69.   Suy niệm của Đinh ngọc Thiệu. 261

70.   “Dung nhan Đức Giêsu chói lọi như mặt trời”. 265

71.   Suy niệm của JKN 2. 269

72.   Hãy vâng nghe lời Người – Jude Siciliano. 274

73.   Chúa Nhật 2 Mùa Chay. 282

74.   Chú giải của Noel Quession. 299

75.   Chú giải của Fiches Dominicales. 305

76.   Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt 311

77.   Anh em hãy nghe Người 324

78.   Mùa chay đổi mới tâm hồn – Lm. Đan Vinh. 328

79.   Biến đổi theo Thánh Ý Chúa. 340

80.   Sống đức tin – Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng. 347

81.   Chúa Giêsu biến hình. 350

82.   Theo Chúa lên núi tâm linh để được biến hình. 350

83.   Con Yêu Dấu của Ta – Lm Augustine, SJ. 354

84.   Qua Thập Giá để đến vinh quang. 359

1.Người biến đổi hình dạng

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

Trong các hình ảnh người ta vẽ Đức Giêsu, ta thường thấy Ngài có vòng hào quang trên đầu. Thật ra Con Thiên Chúa đã nên giống chúng ta. Ngài mang khuôn mặt bình thường như ta. Chính nơi khuôn mặt này mà ta thấy Thiên Chúa.

“Ai thấy Ta là thấy Cha” (Ga 14,9).

Khuôn mặt con người có thể phản ánh khuôn mặt Thiên Chúa.

Nơi khuôn mặt Đức Giêsu, khuôn mặt như mọi người, ta có thể gặp thấy Thiên Chúa vô hình, Đấng ngàn trùng thánh thiện và vô cùng siêu việt.

Ba môn đệ đã quá quen với khuôn mặt Thầy Giêsu, khuôn mặt dãi dầu mưa nắng vì sứ vụ, khuôn mặt chan chứa mọi thứ tình cảm của con người. Chính vì thế họ ngây ngất hạnh phúc khi thấy khuôn mặt ấy rực sáng vinh quang. Họ muốn dựng lều để ở lại tận hưởng.

Tiếng từ đám mây phán ra như một lời giới thiệu và nhắn nhủ: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người, các ngươi hãy vâng nghe lời Người.”

Thầy Giêsu vừa là Con, vừa là Người Tôi Trung (Is 42,1), vừa là vị ngôn sứ đã từng được Môsê loan báo (Đnl 18,15).

Phêrô không quên được kỷ niệm độc đáo này. Ông viết: “Chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người… Chúng tôi đã nghe thấy tiếng từ trời phán ra khi chúng tôi ở trên núi thánh với Người” (2Pr 1,16-18).

Đức Giêsu được biến hình sau khi chấp nhận cuộc khổ nạn, sau khi thắng được cơn cám dỗ của Phêrô (Mt 16,23), và kiên quyết đi trên con đường Cha muốn.

Biến hình là một bừng sáng ngắn ngủi, bất ngờ, báo trước vinh quang phục sinh sắp đến.

Thân xác Đức Giêsu sẽ được vào vinh quang viên mãn khi thân xác ấy chịu lăng nhục và đóng đinh vì yêu Cha và yêu con người đến tột cùng.

Chúng ta cũng được biến hình, được bừng sáng, nếu chúng ta dám yêu, dám từ bỏ cái tôi ích kỷ, để cái tôi đích thực được lộ ra, trong ngần.

Chúng ta cần có lần lên núi cao, thanh vắng, để nhìn thấy khuôn mặt ngời sáng của Đức Giêsu, nhờ đó chúng ta dễ đón nhận khuôn mặt bình thường của Ngài khi xuống núi, và khuôn mặt khổ đau của Ngài trên thập tự.

Thế giới hôm nay không thấy Chúa biến hình sáng láng, nhưng họ có thể cảm nghiệm được phần nào khi thấy các Kitô hữu có khuôn mặt vui tươi, chan chứa niềm tin, tình thương và hy vọng.

Sám hối là đổi tâm hồn, đổi khuôn mặt để chính tôi và cả Hội Thánh mang một khuôn mặt mới.

Gợi Ý Chia Sẻ

Bạn nghĩ gì về khuôn mặt của bạn, đâu là những điểm sáng và điểm tối? Bạn có dám xin một người khác góp ý về những điểm bạn chưa rõ về bạn không?

Bạn nghĩ gì về khuôn mặt giáo xứ của bạn, nhóm của bạn, gia đình của bạn? Trong mùa chay này, bạn có thể làm gì để khuôn mặt ấy ngời sáng hơn?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con, xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.

Mỗi lần con thấy Chúa, xin biến đổi ánh mắt con.

Mỗi lần con rước Chúa, xin biến đổi môi miệng con.

Mỗi lần con nghe lời Chúa, xin biến đổi tai con.

Xin làm cho khuôn mặt con rạng ngời hơn sau mỗi lần gặp Chúa.

Ước chi mọi người thấy nét tươi tắn của Chúa trong nụ cười của con, thấy sự dịu dàng của Chúa trong lời nói của con.

Thế giới hôm nay không cần những Kitô hữu có bộ mặt chán nản và thất vọng.

Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm cùng đi với Chúa và với tha nhân trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen.

2.Con yêu dấu của Ta

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)

Khi đến miền Xêdarê Philípphê, Đức Giêsu đã nói riêng với các môn đệ

về những gì đang chờ đợi Ngài ở Giêrusalem (Mt 16,21).

Ngài sẽ phải chịu nhiều đau khổ, sẽ bị giết, rồi được trỗi dậy.

Lời Ngài nói làm các ông sững sờ, và Phêrô vội vã can ngăn.

Nhưng Đức Giêsu còn đi xa hơn khi nói về thân phận các môn đệ.

Nếu họ muốn đi theo Thầy, làm môn đệ của Thầy,

họ cũng phải chịu chung số phận với Thầy,

chấp nhận mất cả mạng sống mình vì Thầy (Mt 16,24-26).

Chắc hẳn sau cuộc nói chuyện này, bầu khí khá buồn và căng thẳng.

Bóng tối của cái chết làm mọi sự trở nên nặng nề.

Sáu ngày sau, Đức Giêsu dẫn ba môn đệ thân tín lên ngọn núi cao.

Đó là các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan (Mt 17,1).

Chính ở đây các ông đã có một kinh nghiệm không thể nào quên.

Bao năm sau, Phêrô vẫn nhớ như in điều ông đã thấy:

“chúng tôi đã được chứng kiến vẻ uy phong lẫm liệt của Người.”

Và ông cũng không thể quên điều ông đã nghe:

“ ‘Đây là Con của Ta, người Con Ta yêu dấu, Ta hết lòng quý mến.’

Tiếng đó, chính chúng tôi đã nghe thấy từ trời phán ra,

khi chúng tôi ở với Người trên núi thánh” (2 Pr 1,16-18).

Kinh nghiệm này đã xóa đi phần nào nỗi buồn phiền lo âu,

và đem lại sự ủi an nâng đỡ cho các môn đệ.

Sau biến cố này, các ông hiểu Thầy mình là ai.

Chính Thiên Chúa chứng nhận Thầy là Người Con yêu dấu,

dù Người Con ấy sắp chịu chết như Người Tôi Trung đau khổ (Is 42,1).

Khi thấy Thầy Giêsu chói lòa rực rỡ, nơi khuôn mặt và nơi y phục,

thấy hai ông Môsê và Êlia hiện ra đàm đạo với Thầy,

Phêrô quá đỗi hạnh phúc, chỉ muốn ở lại mãi trên ngọn núi này.

Ông quên rằng cuộc đời Thầy Giêsu gắn liền với những ngọn núi.

Thầy đã ở trên núi để chịu quỷ cám dỗ, đã giảng Bài Giảng trên núi đầu tiên.

Núi là nơi Thầy cầu nguyện và chữa bệnh cho đám đông (Mt 14,23; 15,29).

Hôm nay, Thầy được biến đổi hình dạng trên ngọn núi này,

Nhưng Thầy còn phải lên núi Ô-liu để làm chọn lựa cuối (Mt 26,36-46),

còn phải lên núi Sọ để hiến mạng sống mình (Mt 27,33),

để rồi cuối cùng hiện ra như Đấng phục sinh cho môn đệ trên núi (Mt 28,16).

Sau những giây phút ngất ngây của trải nghiệm thiêng liêng,

ba môn đệ sẽ phải xuống núi cùng với Thầy,

để cùng Thầy sẽ trèo lên những ngọn núi khác (Mt 17,9).

Mùa Chay là thời gian ta cùng lên núi với Thầy Giêsu.

Núi cao làm lòng ta thanh thoát nhẹ nhàng.

Nơi đây ta thấy được khuôn mặt bừng sáng rực rỡ của Thầy Giêsu,

nghe được lời Thiên Chúa Cha nhủ bảo,

và cảm được sự hiện diện của Thiên Chúa bao bọc như đám mây.

Hôm nay, Chúa Giêsu đã phục sinh vinh hiển,

nhân tính của Ngài tỏa sáng, vĩnh viễn và trọn vẹn trên thiên quốc.

Chính khi vâng nghe và sống lời của Chúa Giêsu

mà ta được tham dự vào sự biến đổi sáng láng như Ngài.

Đời kitô hữu gồm nhiều cuộc biến hình, bắt đầu từ ngày được rửa tội.

Chúng ta đã được gọi là con yêu dấu, đã được mang tấm áo trắng tinh,

đã được đặt vào tay ngọn nến sáng.

Làm sao để khuôn mặt của tôi dần dần tỏa sáng như khuôn mặt Chúa?

Làm sao để tôi trở nên hình ảnh trung thực của Đấng đã dựng nên tôi?

CẦU NGUYỆN

Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con,

Xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.

Mỗi lần con thấy Chúa,

xin biến đổi ánh mắt con.

Mỗi lần con rước Chúa,

xin biến đổi môi miệng con.

Mỗi lần con nghe lời Chúa,

xin biến đổi tai con.

Xin làm cho khuôn mặt con ngời sáng hơn

sau mỗi lần gặp Chúa.

Ước chi mọi người thấy nét tươi tắn của Chúa

trong nụ cười của con,

thấy sự dịu dàng của Chúa,

trong lời nói của con.

Thế giới hôm nay không cần những kitô hữu

có bộ mặt chán nản và thất vọng.

Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm

cùng đi với Chúa và với tha nhân

trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen.

3.Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

MẮT ĐỨC TIN, MẮT CỦA TRÁI TIM

Có nhiều điều ta nhìn mà không thấy. Ví dụ: tình yêu, tình bạn, tình mẫu tử. Ta chỉ thấy những dấu hiệu của tình yêu như: sự âu yếm, quà tặng, sự quên mình. Còn chính tình yêu thì ta không thấy. Điều chính yếu thì vô hình. Ta chỉ thấy được bằng trái tim.

Có nhiều điều ta chỉ thấy bề mặt mà không thấy bề sâu. Ví dụ như con người. Khi nhìn một người, ta chỉ thấy diện mạo, hình dáng bên ngoài. Ít khi ta thấy được tâm tư tình cảm của người khác, kể cả những người thân yêu sống kề cận bên ta. Linh hồn người ta không ai thấy bao giờ. Vì linh hồn thiêng liêng. Ta chỉ thấy được bằng đức tin.

Chúa Giêsu xuống thế làm người đã trở nên giống như một người phàm. Người che giấu thần tính vinh quang sáng láng trong một thân xác nghèo hèn, bình thường. Không ai nhận ra thần tính của Người. Ngay cả các môn đệ luôn luôn kề cận bên Người.

Hôm nay, khi Chúa tỏ mình ra các ông chới với ngỡ ngàng. Lòng các ông tràn ngập niềm vui khi nhìn thấy vinh quang của Chúa Giêsu. Thần tính vinh quang phát lộ rực sáng. Và nhân tính được tôn vinh. “Diện mạo Chúa Giêsu chói lọi như mặt trời và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng”.

Thần tính Chúa Giêsu biểu lộ chứng thực Người là Thiên Chúa ẩn mình. Thì ra manh áo đơn sơ của bác thợ mộc che giấu cả một nguồn ánh sáng chói lọi. Tấm thân dân dã nghèo hèn lại là chiếc bình chứa đựng Ngôi Hai Thiên Chúa cao sang.

Ánh sáng thần tính rọi vào nhân tính đem lại cho ta bao niềm hi vọng. Vì nhân tính của Chúa Giêsu gánh lấy cả nhân loại trên mình, nên ánh sáng thần linh cũng soi rọi cả vào chúng ta, vào thế giới tăm tối của tội lỗi, yếu hèn, vào thân xác rã rời mệt mỏi của ta.

Ánh sáng ấy cho tôi hiểu rằng, Thiên Chúa đang ẩn tàng trong vạn vật. Người ở nơi thâm sâu nhất của hữu thể tôi như thánh Augustinô đã cảm nghiệm: “Người ởi bên trong, còn tôi ở bên ngoài”.

Người ẩn tàng trong mọi quan hệ, trong mọi niềm vui, trong mọi tình bạn, trong mọi tình yêu. Bởi vì hạnh phúc là gì nếu không phải đi tìm cái cốt lõi, là nguồn mạch của hạnh phúc, là chính Thiên Chúa hằng sống.

Ánh sáng ấy ngầm nói với tôi rằng: Vinh quang Thiên Chúa như hạt giống đang vùi chôn trong lòng tất cả mọi anh em sống quanh tôi. Vinh quang ấy đang bị che khuất đàng sau những mái tranh thô sơ, những thân thể gầy guộc, những ánh mắt mệt mỏi lờ đờ.

Nhận thức ấy thôi thúc tôi trở về tìm Chúa trong đáy lòng mình. Càng bóc đi lớp vỏ tội lỗi, dung nhan Thiên Chúa càng hiện rõ. Càng chìm sâu vào nội tâm thinh lặng, tôi càng tới gần Chúa.

Nhận thức ấy giúp tôi kính trọng anh em vì anh em là những cung thánh đền thờ nơi Thiên Chúa ngự trị, là những vườn ươm hạt mầm thần linh, là những bình sành chứa đựng kho tàng cao quý.

Như thế, sống Mùa Chay là thực hiện một hành trình nọi tâm: trở về đáy lòng mình để gặp được Chúa.

Ăn chay là đến với anh em bằng thái độ kính trọng, là bảo vệ hạt mầm thần linh đang đâm chồi nảy lộc trong các tâm hồn.

Chương trình hành động trong Mùa Chay là tiếp tay đem ánh sáng thần linh của Chúa Kitô soi chiếu vào những mảnh đời tăm tối, những thân phận hẩm hiu. Sao cho dung nhan nhân loại chói ngời ánh sáng nhân phẩm, ánh sáng văn hoá, ánh sáng lương tâm và ánh sáng thần linh.

Như thế ta đang công tác vào việc biến hình thế giới. Như thế ta đang bước theo chân Chúa Kitô, đưa nhân loại vào hành trình phục sinh.

Lạy Chúa Kitô, xin ban cho con đức tin mạnh mẽ để con nhìn thấy Chúa trong anh em. Xin ban cho con trái tim bén nhạy để con nhìn thấy những thực tại vô hình. Amen.

4.Đấng đang biến hình giữa chúng ta

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)

Chúa nhật trước, Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay, Phụng vụ dẫn chúng ta vào sa mạc để chứng kiến Chúa Giêsu chịu cám dỗ. Chúa nhật hôm nay, chúng ta được mời gọi cùng lên núi để chiêm ngưỡng Chúa Giêsu biến hình. Hai sự kiện diễn tả hai khía cạnh cuộc đời Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể: trong sa mạc, Chúa thể hiện nhân tính của Người: yếu đuối, mỏng giòn, đói khát; trên núi cao, Chúa tỏ ra thiên tính của Người: cao cả, sáng láng, thánh thiện. Hai nhân vật quan trọng của Cựu ước cũng xuất hiện để đàm đạo với Chúa, kèm theo lời chứng của Chúa Cha: “Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy nghe lời Người”.

Khi tường thuật sự kiện Chúa biến hình trên núi, thánh Matthêu mở đầu bằng chi tiết “sáu ngày sau”. Vậy, sáu ngày trước đó là sự kiện gì? Đó là lời loan báo cuộc thương khó lần thứ nhất. Đối với các môn đệ, việc Đức Giêsu chịu thương khó là điều không thể chấp nhận được. Vì vậy, Phêrô đã can gián và thậm chí còn trách Người. Sự can gián của Phêrô bị Chúa quở trách là Satan (x. Mt 16 21- 23). Cùng với việc loan báo cuộc thương khó, Đức Giêsu cũng đưa ra những điều kiện cần phải có để trở nên môn đệ của Người, đó là vác thập giá theo Chúa. Như thế, việc Chúa Giêsu biến hình trên núi nhằm mục đích khai trí các môn đệ, để các ông hiểu hơn về thân phận và sứ mạng của Người. Qua sự kiện này, Chúa muốn khẳng định với các ông: dù Người có phải trải qua cuộc thương khó, nhưng Người sẽ chiến thắng sự chết và sẽ trỗi dậy. Ba môn đệ là Phêrô, Gioan và Giacôbê ngỡ ngàng trước việc Chúa Giêsu thay hình đổi dạng, vì lúc đó, các ông được thấy Chúa với một hình dạng hoàn toàn khác so với từ trước tới nay. Sự kiện này làm các ông bàng hoàng và sợ hãi.

Hai nhân vật của Cựu ước hiện ra và đàm đạo với Chúa Giêsu, đó là Môisen và Êlia. Môisen là người dẫn đưa Dân tuyển chọn ra khỏi Ai Cập. Ông cũng là người được Chúa trao bia Giao ước và được người Do Thái tôn kính như tác giả của sách Luật. Êlia là vị ngôn sứ đã luôn “đứng hầu cận trước nhan Chúa hằng sống (x. 1 V 17). Trên núi Carmel, ông đã giúp dân Do Thái từ bỏ việc tôn thờ ngẫu tượng để chỉ một lòng tin vào Thiên Chúa. Ông là biểu tượng cho những người được Thần Khí của Thiên Chúa hướng dẫn và là những người phát ngôn nhân danh Thần Khí. Giống như Chúa Giêsu, cả hai vị này đã ăn chay 40 đêm ngày (x. Xh 24,18; 1 V 19,8). Cả hai vị đều được diễm phúc nhìn thấy Thiên Chúa (x. Xh 33,18-23; 1 V 19,12-13). Qua sự kiện biến hình, Môisen và Êlia đàm đạo với Chúa Giêsu. Họ được chiêm ngắm Con Thiên Chúa, Đấng liên kết hai nhân vật này nơi nhân tính của Người, tức là Người vừa là người ban lề luật, vừa là ngôn sứ. Thánh Máthêu trình bày Chúa Giêsu như Môisen mới. Một số bản văn của Tân ước cũng trình bày Chúa Giêsu như Êlia mới. Người đã liên kết truyền thống lề luật và truyền thống ngôn sứ nơi chính bản thân Người. Bởi lẽ hai truyền thống “lề luật” và “ngôn sứ” là tóm lược toàn bộ Kinh Thánh Cựu ước.

Cùng với chứng từ của Môisen và Êlia, còn có chứng từ khác quan trọng hơn nhiều, đó là lời phán từ trời: “Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy nghe lời Người”. Đức tin Kitô giáo khẳng định: đó là lời của Chúa Cha. Qua lời này, Chúa Cha nói lên tình thương mến của Ngài với Chúa Con, đồng thời nhắc bảo chúng ta: hãy nghe lời Người. Theo Thánh Gioan Thánh giá, Chúa Cha chỉ nói một lời và một lần nơi Chúa Con. Chúa Con là Lời của Chúa Cha. Nơi Chúa Con, có đầy đủ tất cả những gì Chúa Cha muốn ngỏ với nhân loại.  Vì thế, “hãy nghe lời Người” tức là đón nhận những gì Chúa Cha muốn mạc khải qua Chúa Con, nhờ đó, loài người được cứu thoát. “Hãy nghe lời Người”, đó cũng là đón nhận và thực hành giáo huấn của Đức Giêsu.

Phụng vụ hôm nay còn cho chúng ta nghe tường thuật về ơn gọi của Áp-ram, tổ phụ của dân Do Thái. Một lời gọi đơn sơ: “hãy đi đến đất Ta sẽ chỉ cho”. Áp-ram đã vâng lời, đã lên đường. Ông không tính toán, không vặn hỏi, nhưng hoàn toàn phó thác. Ông Áp-ram đã nghe lời Chúa và đã thực thi lời Ngài. Ông đã trở nên mẫu mực cho tất cả những kẻ tin ở mọi thời đại (Bài đọc I).

Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Qua mầu nhiệm Nhập thể, Người trở nên hoàn toàn giống chúng ta – ngoại trừ tội lỗi. Qua mầu nhiệm nhập thể, Người “biến hình” để trở nên giống như người trần thế. Trên núi cao, khi Chúa “biến hình” lại là lúc Chúa trở về tình trạng thiêng thánh nguyên thuỷ. Ngày hôm nay, Chúa Giêsu đang “biến hình” giữa chúng ta. Quả vậy, chúng ta đâu có nhìn thấy Người bằng con mắt thể lý. Chúa hiện diện qua Lời Chúa, qua cộng đoàn cầu nguyện, qua người nghèo khổ và nhất là trong Bí tích Thánh Thể. Chúa đang biến hình trong đời sống của chúng ta. Mùa Chay là thời điểm giúp chúng ta nhận ra Chúa Giêsu đang hiện diện, để chúng ta gặp gỡ Người. Thánh Phaolô nhắc chúng ta hãy nhận ra Đức Giêsu là Con yêu dấu của Chúa Cha. Người là Đấng tiêu diệt thần chết và đang hiện diện giữa chúng ta (Bài đọc II).

Sau khi chứng kiến Chúa Giêsu biến hình, ba môn đệ xuống núi, có Chúa cùng đi. Các ông trở về với đời thường, với tâm trạng được biến đổi và với quan niệm mới mẻ về Đấng Thiên Sai. Sự kiện Chúa biến hình trên núi cũng nhắc chúng ta cần phải biến đổi đời sống, biến đổi hình ảnh của Chúa trong đời và biến đổi nhận định về tha nhân. Hãy nghe lại lời của Chúa Cha: “Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy nghe lời Người”. Lời đầu tiên Chúa Giêsu nói với các môn đệ liền tiếp sau đó là: “Chỗi dậy đi, đừng sợ!”. Hôm nay Chúa vẫn đang nói với chúng ta những điều ấy. Đừng sợ trước thân phận yếu hèn và tội lỗi, hãy trở về với Chúa vì Chúa bao dung nhân từ. Đừng sợ khi giúp đỡ anh chị em bất hạnh cô thế, cô thân, vì Chúa sẽ thưởng cho lòng quảng đại rộng rãi của chúng ta. Đừng sợ trước những bất ổn của cuộc ống do bạo lực, cạnh tranh và chia rẽ, vì Chúa hiện diện giữa cuộc đời. Người là Đấng đang biến hình giữa chúng ta.

5.Vững bước trong Đức Tin – Dã Quỳ

Trong cuộc sống thường ngày, chắc hẳn chúng ta đã gặp những người mà dường như họ được sở hữu một nụ cười rất tươi. Nhìn vào khuôn mặt họ, ta thấy như chiếu lên ánh sáng từ bên trong tâm hồn. Khi tiếp xúc với người khác, họ mang đến một niềm tin tưởng và bình an. Đó là những biểu hiện tự nhiên hay có thể được phát xuất từ niềm vui và sự an bình nội tâm của họ. Thế nhưng, với mỗi người Kitô hữu, chúng ta cần nhìn lại chính mình. Khi mang danh Chúa Kitô, ta đã phản ánh được khuôn mặt của Đấng là nguồn Niềm Vui, Ánh Sáng, Bình An và Tình Yêu trên chính khuôn mặt của ta hay chưa? Và đó cũng là phản chiếu đức tin của ta vào Chúa Kitô.

Mỗi người chúng ta nhiều lúc trong cuộc sống dường như quá đau khổ, quá căng thẳng và cảm thấy như không thể thoát ra khỏi đó được hoặc không thể nắm giữ được tình thế! Chúng ta như đi trong một đường hầm tăm tối, không ổn định vì những biến cố như sụp đổ hôn nhân, mất công việc, tai nạn hay một căn bệnh nan y… Hành trình của ta như đi vào ngõ cụt. Bước đi của ta bị nặng nề vì buồn khổ, giận dữ…!Thế nhưng, ta có thể xác tín rằng không có một cuộc sống nào bị xáo trộn và tan nát nếu như cuộc sống ấy được đụng chạm thực sự vào Chúa Kitô và được biến đổi nhờ Chúa Kitô.

Trong Tin Mừng hôm nay, các môn đệ của Chúa Giêsu được chuẩn bị để sống một kinh nghiệm như thế. Chúa Giêsu sắp đi lên Giêrusalem, ở đó Người sẽ chịu đau khổ và bị giết chết. Đây sẽ là một thử thách lớn cho những ai ở xung quanh Người. Một chút khởi đầu cho biến cố này: Phêrô, Giacôbê và Gioan đi cùng và ở trên núi với Thầy. Ở đó, họ được nhìn thấy vinh quang của Chúa Giêsu. Người tỏa chiếu vẻ rực rỡ nơi thân xác hữu hình mà Người đã mặc lấy như con người. Khuôn mặt Người sáng như mặt trời và y phục trắng như tuyết. Người đã mạc khải cho môn đệ sự vinh quang và cao cả của Tước Vị mà vì sự tự hạ của Người đã ẩn giấu. Ân huệ này sẽ làm cho môn đệ vững vàng hơn trên đường Thánh Giá của Người trong những ngày sắp tới.

Hôm nay, chúng ta hãy dành thời gian để sống cách cá nhân thân tình với Chúa. Chúa Giêsu, Đấng sắp trải qua đau khổ thử thách vào ngày thứ Sáu Thánh, được mang y phục vinh quang Phục Sinh và là Đấng sẽ thay đổi hình dạng thế giới. Chúa cho chúng ta thấy chính mình trong tương lai. Chúng ta, những chi thể của Chúa cũng được hy vọng chia sẻ những vinh dự mà Người đã tỏ hiện vinh quang cho các môn đệ như lời Thánh Phaolô khẳng định “Tôi nghĩ rằng: những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta.”(Rm 8,18)

Giữa những thử thách trong cuộc sống, chúng ta có nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa không? Người hiện hữu trong những tia sáng nhỏ, cũng như trong những lúc tối tăm hơn của cuộc sống. Những biến hình nho nhỏ này nói với chúng ta rằng Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Cho dù những thử thách có thể làm cho chúng ta đau đớn, nhưng với Chúa và trong Chúa, ta sẽ sống và sống sung mãn trong vinh quang với Người “Anh em đã chết và sự sống mới của anh em hiện đang được tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa. Khi Đức Kitô, nguồn sống mới của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người và cùng Người hưởng phúc vinh quang.” (Cl 3,3-4)

Vậy hãy đặt ta vào trong ánh sáng của Chúa Giêsu, bởi vì từ nay chúng ta có một sự đổi mới, một hơi thở thứ hai trong cuộc sống gia đình, nghề nghiệp và cộng đoàn của ta. Để rồi ta có thể hăng hái thưa với Chúa như thánh Phêrô: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay!”(Mt 17,4) Dẫu Thập giá vẫn có đó, nhưng Ánh sáng Tình yêu và Xót thương của Chúa sẽ trợ giúp chúng ta. Ước gì niềm hy vọng này mang lại trong chúng ta ngay lập tức sự can đảm, khởi đầu một sự thay đổi trong đời sống, dám bước ra khỏi những mảng tối cuộc đời và vững bước trong đức tin.

“Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” Lắng nghe Lời Con Yêu Dấu, mở lòng đón nhận lời dạy dỗ của Người trong Tin Mừng và dấn thân thực hành trong cuộc sống sẽ làm cho bước đi của ta vững vàng, khuôn mặt ta rạng rỡ. Lời Chúa là ánh sáng và chúng ta được mời gọi trở nên ánh sáng của Chúa giữa trần gian. Xin cho trái tim nhân hậu, tình yêu thương, lòng bác ái và nhiệt tâm của chúng ta là những phản chiếu ánh sáng của Chúa cho mọi người ta gặp gỡ, nhất là những người đau khổ, tội lỗi và bị bỏ rơi để nhờ đó họ được nâng đỡ, được ơn biến đổi mà trở về với Chúa trong Mùa Chay Thánh này. Giáo Hội, mỗi gia đình Kitô hữu và từng cá nhân hãy mang sứ mệnh là khuôn mặt của Lòng Thương Xót Chúa. Nguyện xin Chúa thổi vào từng lời nói và những hành động để những gì chúng ta biểu lộ đều mang lại sự sống sung mãn của ơn Tha Thứ, của Hy Vọng, của Niềm Vui và Đức Tin.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con đang bước đi theo Chúa. Xin sự hiện diện của tình yêu, ánh sáng và bình an của Chúa giữ gìn chúng con trong những lúc vui cũng như những khi thử thách, giúp chúng con luôn hy vọng và tiến bước trong niềm tin. Amen.

6.Biến hình sáng láng – ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. ViKiNi)

Đức Giêsu biến hình trên núi, truyền thống tin đó là núi Tabor, cách Nazaret độ 9 cây số, nằm trên biên giới ba chi tộc: Issachar, Zabulon và Nephtali. Họ coi Tabor là núi thánh và thường lên đó để tế thần.

Đức Giêsu dẫn các môn đệ lên đó không phải để tế thần hay cắm trại như các hướng đạo sinh. Người lên đó để cho các môn đệ thấy rõ chỉ có Người là Thiên Chúa tối cao, không còn thần linh nào khác.

Trong cảnh trời cao lồng lộng, mây xanh thăm thẳm, Người trầm tư cầu nguyện với Chúa Cha trong tình thân mật thắm thiết. Bỗng toàn thân Người sáng chói rực rỡ, các môn đệ vô cùng kinh ngạc: Họ không thể ngờ được rằng hằng ngày Thầy đi với mình, sống với mình, ăn uống thanh đạm, quần áo thô sơ như mình, lao động cực khổ như mình, sao bây giờ Thầy sáng láng lạ lùng như thế. Hơn nữa, cả Môsê và Elia đến hầu chuyện Thầy. Môsê đã sống cách các ông hơn 1.200 năm, một bậc vĩ nhân của Thiên Chúa đã lãnh đạo giải phóng dân Chúa thoát ách nô lệ Ai cập suốt hơn 500 năm để về đất Hứa. Elia, một đại tiên tri sống trước Phêrô hơn 800 năm, đã giải phóng dân tộc khỏi ách tà thần Baal. Nếu bây giờ dân chúng được thấy Môsê như các ông, họ sẽ ngạc nhiên sung gướng vô cùng, vì các trang sử vẻ vang nhất của dân tộc đã tôn vinh các ngài là đại ân nhân của họ, là đại thánh của Thiên Chúa, là hình bóng Đấng Cứu thế. Đang triền miên say đắm trong cảnh thiên đường đó, tự nhiên Phêrô thốt lên như đứa trẻ: “Lậy Thầy chúng con ơ đây sướng lắm, con xin làm ba lều, Thầy một lều, Môsê một, Elia một”. Mơ ước của Phêrô là ước mơ của mọi người trần mắt thịt, làm sao dám cả gan đòi sớm hưởng thiên đường? Một tiếng nói từ trời đáp lại: “Đây là Con Ta yêu dấu, rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy vâng lời Người”. Nghe thế các ông đã lăn ra chết ngất. Xác phàm thấp hèn yếu đuối chưa có thể chịu đựng nổi hào quang rực rỡ nơi thiên tính của Chúa Giêsu. Họ phải thay da đổi thịt, phải chết đi, mặc lấy con người mới, họ mới xứng đáng hưởng ánh sáng huy hoàng của Đức Giêsu sẽ làm cho họ biến hình rực rỡ mãi mãi.

Muốn đổi mới chỉ có cách duy nhất là “Hãy nghe lời Người”. Abraham dã nghe lời Người bằng mọi giá để biến hình từ kẻ dân ngoại đã trở thành tổ phụ dân Chúa. Môsê đã nghe lời Người, dù là kẻ chạy trốn Pharaon, đã biến hình thành kẻ lãnh đạo, trở lại đòi Pharaon phải thả dân ra cho đi về quê hương. Elia đã nghe lời Người trở thành tiên tri, giải thoát dân khỏi bàn tay man rợ của nữ hoàng thờ thần Baal. Đến lượt Phêrô, Giacôbê, Gioan dù là dân chài, đã biết nghe lời Người, được biến hình thành những tông đồ vĩ đại. Phaolô, kẻ bắt đạo, đã biết nghe lời Người, đã biến hình thành tông đồ cho muôn dân.

Những con người xác phàm đó, đã được biến hình rực rỡ muôn thuở, đang kêu gọi chúng ta, với bất cứ giá nào, dù phải gặp gian nan đau khổ, hãy nghe lời Người, chúng ta mới được biến hình trong vinh quang đời đời.

Lạy Chúa, “ở đây thì sướng lắm”, nhưng muốn được hạnh phúc muôn thuở đó tiên vàn Con Người phải qua đau khổ thì mới tới vinh quang”. Đó là luật ngàn đời cho bất cứ ai muốn được vinh quang chân chính.

7.Biến hình

Chúa Giêsu vừa loan báo cho các môn đệ biết Ngài sẽ lên Giêrusalem. Và tại đây, Ngài sẽ bị giết chết. Cái tin đột ngột này chắc hẳn đã làm cho các ông lo lắng sợ hãi. Chính vì thế Ngài cảm thấy cần phải nâng đỡ tinh thần các ông bằng cách cho họ được nhìn thấy vinh quang của Ngài. Bởi đó, tám ngày sau, Ngài đã đưa ba môn đệ thân tín nhất lên núi cao và biến hình trước mặt các ông. Mặt Ngài chiếu sáng như mặt trời và áo Ngài trở nên trắng như ánh sáng. Lại có Maisen, Elia hiện ra đàm đạo với Ngài.

Đây là một cuộc hiển linh, tương tự như cuộc hiển linh trên núi Sinai. Ở đó, Thiên Chúa đã tỏ vinh quang Ngài cho Maisen và Elia. Hai vị, vào những thời điểm khác nhau, đã được thấy và nghe Chúa, hôm nay cũng hiện diện bên cạnh Chúa. Các ông ngã sấp xuống và rất sợ hãi. Rồi từ đám mây có tiếng phán. Tiếng ấy chúng ta đã từng được nghe bên bờ sông Giođan khi Chúa chịu phép rửa: Đây là Con Ta yêu dấu đẹp lòng Ta mọi đàng. Các ông ngây ngất vì chưa bao giờ được chứng kiến một cảnh tượng như thế. Phêrô lên tiếng nói, nhưng không hiểu là mình đã nói những gì.

Sở dĩ Giáo Hội đặt bài Phúc Âm về sự biến hình vào mùa Chay là để chúng ta thêm tin tưởng vào Chúa, cũng như để chúng ta có những giây phút nghỉ ngơi trước khi xuống núi, trở về với cuộc sống bình thản trên các nẻo đường phẳng lặng hay phủ đầy sóng gió dẫn tới đỉnh Canvê. Chúng ta cần được Chúa đến gần và đụng tới, như đã đến gần và đụng tới các tông đồ, để chúng ta thức tỉnh, để chúng ta biết thánh hoá những đau khổ trên đường đời.

Con đường thương khó của Chúa khởi đầu khi Người biến hình và xuống núi. Rồi đây, Người cũng sẽ biến hình, không còn hình tượng người ta nữa, để dạy cho chúng ta biết phải đi qua con đường thập giá mới đến vinh quang khải hoàn và sống lại.

Mục sư Cullman, là một nhà thần học Tin Lành, đã nói về cuộc khủng hoảng sau Công đồng Vatican II như sau: Cuộc khủng hoảng hiện nay không phải chỉ xảy ra trong Giáo Hội Công giáo. Chính Giáo Hội Tin Lành chúng tôi cũng không thoát khỏi. Một trong những lý do đó là Kitô hữu đã không chấp nhận sự điên dại của thập giá như thánh Phaolô đã dạy. Họ muốn đua đòi khôn ngoan theo kiểu thế gian. Họ tránh né hy sinh, chạy trốn khó nghèo. Họ tìm lời khen, họ muốn được tự do theo ý riêng của họ. Họ muốn bước theo Chúa khi Ngài biến hình trên đỉnh Tabôrê, nhưng dừng lại bên ngoài vườn Cây Dầu, và nhất định không chịu trèo lên đỉnh Canvê.

8.Biến đổi khi vượt qua chính mình

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)

Chúa đã gọi Abram bỏ quê cha đất tổ để đi đến nơi Chúa sẽ chỉ cho. Abram đã thực hiện theo điều Chúa dạy! Phải đặt mình trong hoàn cảnh thời đó, khi con người còn sống theo luật rừng “mạnh được yếu thua” chứ chưa có luật pháp bảo vệ “ai đúng là người thắng”, thì việc bỏ quê cha đất tổ, hàm chứa mình không còn được bảo vệ bởi một tập thể nữa, trở thành đối tượng hay miếng mồi cho bao người ham của. Nếu vậy, Abram thật liều lĩnh và mạo hiểm khi vâng lời Thiên Chúa để đi đến một nơi xa lạ. Thiên Chúa là nhất, và Abram đã vâng phục Thiên Chúa, ra đi theo tiếng gọi của Ngài.

Đức Yêsu đã biến hình, dung mạo Ngài ra khác, và Phêrô bị cuốn hút bởi điều này đến độ không muốn xuống núi nữa. Chúa biến hình chỉ trong giây lát, nhưng qua đó người ta biết:

. Ngài thế nào, chúng ta cũng sẽ như vậy (1Ga.3, 2); nếu chúng ta quảng đại đáp trả lời mời của Chúa như Abram đã đáp trả, chúng ta cũng sẽ được biến đổi, và chúng ta cũng sẽ nên giống Chúa Yêsu.

. Những gì chúng ta biết về cuộc sống mai hậu, không được làm chúng ta quên cuộc sống tại thế này. Chúng ta phải trở về với đời thường, để xây dựng thế giới này, để làm thế giới này đẹp hơn. Khi chúng ta làm như vậy, là chúng ta đang chuẩn bị hành trang để vào Nước Trời, quê thật của chúng ta.

Chúng ta được mời gọi trở nên con Thiên Chúa.

Để trở nên con Thiên Chúa, chúng ta cũng được mời gọi như Abram, hoàn toàn tín thác nơi Thiên Chúa, sẵn sàng phó thác đời mình trong tay quan phòng đầy thương yêu của Ngài. Ơn gọi của chúng ta là nên giống Đức Yêsu. Thân xác mỏng dòn của chúng ta, cũng như thân xác bị đòn vọt và mong manh của Đức Yêsu khi Ngài chịu khổ hình, sẽ được biến đổi như hôm nay chúng ta thấy Đức Yêsu.

Vượt qua chính mình, vác thập giá mình mà theo Đức Yêsu, trở nên giống Đức Yêsu mỗi ngày mỗi hơn. Đó là ơn gọi của chúng ta. Xin cho chúng ta được quảng đại để đáp trả tiếng Chúa trong cuộc sống hằng ngày.

9.Tuyệt vời qua từng hành vi

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)

Thiên Chúa luôn mời gọi mỗi người trở nên người tuyệt vời. Chính những hành vi tuyệt vời làm con người trở nên tuyệt vời. Những hành vi tuyệt vời vẫn luôn có thể xảy ra trong đời mỗi người, và giá trị con người được hình thành bởi những hành vi này.

1. Ra đi trong niềm tin phó thác

Thiên Chúa đã mời gọi Abram bỏ gia đình họ hàng để đi tới miền đất Ngài sẽ chỉ cho. Trong một xã hội chưa có luật lệ, người ta chỉ tựa vào sức mạnh, thì con người chỉ được bảo vệ nhờ vào những người thân quen họ hàng chống lại những kẻ bất lương. Việc cô thân cô thế đi vào vùng đất xa lạ với gia tài của cải và vợ đẹp, là một hành vi vô cùng nguy hiểm, vì như vậy rất dễ bị những kẻ bất lương giết hại nhằm chiếm đoạt của cải và vợ con. Ra đi như vậy, là một hành vi liều lĩnh và dại dột.

Nếu không có niềm tin phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, Abram không thể ra đi như vậy. Thiên Chúa mời gọi Abram kèm với lời hứa. Thiên Chúa hứa sẽ cho Abram thành cha một dân vĩ đại; Ngài sẽ chúc phúc cho Abram; sẽ chúc phúc cho ai chúc phúc cho Abram; đến độ mọi dân tộc dưới trần sẽ nhờ Abram mà được chúc phúc. Tuy vậy, liệu những lời hứa này có đủ bảo đảm để ra đi như vậy không? Phần lớn người Việt Nam đều biết chuyện thằng bờm và phú ông; phú ông là người giầu, khi thằng bờm nghèo xác nghèo xơ, chỉ có cái “quạt mo” (cái quạt làm bằng mo cau); xảy ra một hôm trời nóng, phú ông và thằng bờm gặp nhau; phú ông không có gì để che nắng, vì bị cái nóng nung nấu, phú ông muốn cái quạt mo của thằng bờm; phú ông đề nghị đổi cái quạt mo thằng bờm đang có với “ba bò chín trâu”, với “một ao cá mè”, “một bè gỗ lim”; thằng bờm lắc đầu không chịu, vì nó thấy điều đó quá xa vời, làm sao thành hiện thực; nhưng khi phú ông đề nghị đổi “nắm xôi” ông đang có để lấy cái quạt mo, thì bờm cười (đồng ý). Thiên Chúa hứa với Abram những điều tốt đẹp, những điều tuyệt vời, nhưng liệu có tin được không? Làm sao có thể an toàn trong một hoàn cảnh vô cùng nguy hiểm như vậy? Có gì chắc để trở thành một dân tộc vĩ đại? Có gì chắc mình sẽ là một mối chúc lành? chắc gì có đất! Ai trong chúng ta cũng biết, sau này khi vợ của Abraham là Sara chết, Abraham vẫn chưa có đất nên phải mua đất để chôn vợ; Isaac cũng chôn cha Abraham cùng nơi mà cha ông đã mua đất để chôn mẹ ông.

Abram đã tin vào Thiên Chúa và ra đi. Thái độ tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh và điều kiện, làm Abraham trở thành tuyệt vời, trở thành cha những người tin vào Thiên Chúa. Hành vi tin vào Thiên Chúa, không phải là hành vi duy nhất, một lần trong đời của Abraham. Thiên Chúa luôn luôn đòi hỏi, và Abraham luôn luôn đáp trả lời mời gọi phó thác tất cả cho Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh; chẳng hạn khi có Isaac, Thiên Chúa lại muốn Abraham hiến tế Isaac cho Thiên Chúa, và Abraham cũng sẵn sàng vâng phục. Thái độ luôn tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, làm Abraham luôn luôn tuyệt vời.

2. Được mời gọi nên thánh

Mỗi người được mời gọi nên thánh. Nên thánh, không phải là điều dành riêng cho một số người, nhưng là lời mời cho tất cả mọi người. Mỗi Kitô hữu đều là thánh. Thánh Phaolô trong các thư, Ngài gọi các Kitô hữu là thánh. Thánh, là người thuộc về Thiên Chúa; và mỗi người khi được rửa tội, là đã thuộc về Thiên Chúa, đã là thánh.

Sống theo lời mời gọi yêu thương, là nên thánh. Vì yêu Chúa yêu người, nên tôi tha thứ cho người xúc phạm tới tôi. Vì yêu thương, nên tôi lắng nghe những khốn khổ của người khác. Vì yêu thương, nên tôi giúp đỡ những người cần tôi cách đặc biệt. Vì yêu thương, nên tôi cố gắng làm cuộc đời đẹp hơn bằng nụ cười, bằng lời êm dịu dàng, bằng lời chào hỏi, v.v…

Một vị thánh, là người làm cho người khác hạnh phúc khi sống chung với họ, được gặp gỡ họ, được tiếp xúc với họ. Hãy coi hình ảnh Đức Maria: mẹ luôn là người giúp đỡ những người khốn cùng kêu đến mẹ: Mẹ Hằng Cứu Giúp. Một người là thánh, sẽ làm cho cuộc đời của những người sống chung quanh tươi hơn, vui hơn, dễ sống hơn, đẹp hơn. Một đời sống thánh, là đời sống toả hương và là lời rao giảng về Thiên Chúa tình yêu một cách tuyệt vời.

3. Giây phút biến hình là dấu chỉ thực trạng tuyệt vời tương lai

Đức Yêsu, cả cuộc đời lam lũ, chỉ có giây phút biến hình là huy hoàng. Ngài sinh trong chuồng chiên cừu, sống tại làng quê Nazaret, không được học hành như nhiều người, làm nghề thợ mộc. Khi đi rao giảng, cũng sống nay đây mai đó, rong ruổi từ nơi này tới nơi khác, màn trời chiếu đất, bữa đói bữa no. Khi chết, phải chết trần trụi trên thập giá, phải chôn nhờ vào ngôi mộ của người khác.

Xét về khía cạnh trần thế, Đức Yêsu quá lam lũ và vất vả. Tuy vậy, Đức Yêsu đã sống tự do với tất cả, để chỉ tuỳ thuộc vào Thiên Chúa. Giây phút biến hình trên núi mà Tin Mừng hôm nay cho chúng ta nghe, chỉ là biểu hiện của bao giây phút sống tuyệt vời của Đức Yêsu trong đời sống của Ngài.

Ơn gọi Kitô hữu, là sống và đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa trong cuộc sống hằng ngày, như Abraham đã sống, đã nghe và đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa trong cuộc sống thường ngày của ông. Sống ơn gọi Kitô hữu, là nhiều khi phải chấp nhận thua lỗ và dại dột theo cái nhìn nhân loại. Sống ơn gọi Kitô hữu, là sống như Đức Yêsu, chấp nhận cuộc sống như hoàn cảnh xảy tới cho mình, không oán trách Thiên Chúa và con người; và không chỉ thế, vẫn vươn lên và sống yêu thương từng ngày từng giây phút. Kitô hữu cần có đức tin của Abraham, để chấp nhận và sống thực tại hằng ngày của mình, như Đức Yêsu đã chấp nhận và sống trước. Sống như vậy, mỗi người được biến hình trong từng chọn lựa và hành động của mình. Yêu thương là hành vi tuyệt vời.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Xin bạn liệt kê những giây phút “huy hoàng” trong cuộc đời của Đức Yêsu? Nếu cộng tất cả những thời gian này, nó kéo dài bao nhiêu giờ? Theo bạn, nhiều hay ít?

2. Cuộc đời bạn và cuộc đời Đức Yêsu, nếu được chọn, bạn chọn cuộc đời nào? Tại sao?

3. Yêu thương, dễ hay khó? Tại sao?

10.Những sự việc bình thường

“Này là con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Ngài.”

Vào lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa, Ngài đã được giới thiệu như là Người Con chí ái và là Đấng cứu độ của nhân loại. Tại nơi chịu phép rửa, Chúa Giêsu đã lãnh lấy chức vụ người Tôi Tớ đau khổ, nhưng lại được Thánh Thần hướng dẫn. Còn trong cuộc biến hình hôm nay, Ngài đã được giới thiệu trong tư cách một vị tiên tri mà mọi người phải vâng nghe.

Tiếng bởi trời đã tỏ cho các tông đồ và qua các tông đồ, cho mỗi người chúng ta nhận biết về Đức Kitô. Thế nhưng sau những giây phút bàng hoàng và sợ hãi, các tông đồ chỉ còn thấy Chúa Giêsu trở về với vóc dáng cua một con người bình thường, quang cảnh huy hoàng với Môsê và Elia đã biến mất. Đấng mà các ông vừa mới được chiêm ngưỡng sự vinh quang, Đấng mà các ông vừa mới được kêu gọi vâng phục chính là Chúa Giêsu nhưng trong điều kiện làm người của Ngài.

Chúng ta rất dễ bị lôi cuốn, hấp dẫn bởi những cái ngoạn mục, những cái vượt ra ngoài ranh giới thông thường. Trong Tin Mừng chúng ta thấy ông Phêrô, sau khi được thấy mặt Thầy chiếu sáng như mặt trời và áo Thầy trở nên trắng như ánh sáng, rồi Thầy lại còn đàm đạo cùng Môsê và Elia, đã vội vàng đề nghị: Chúng con được ở đây thì tốt lắm, nếu Thầy muốn, chúng con xin làm ba lều, một thầy Thầy, một cho Môsê và một cho Elia.

Nhưng hiện tại vẫn phải là con đường xuống núi, tiếp tục tiến về Giêrusalem, đối diện với cái chết. Hiện tại chưa phải là lúc dừng lại trong vinh quang. Cuộc sống vẫn phải là cuộc hành trình của niềm tin, của sự gắn bó với Chúa Giêsu, dù rằng Ngài đang tiến đến thập giá. Vinh quang chỉ có thể đến ngang qua đau khổ.

Với sự kiện Chúa biến hình trên núi, các tông đồ như được thêm sức mạnh để cùng đi với Ngài trong đoạn đường còn lại. Nhiều người trong chúng ta rất dễ dàng đón nhận những lời nói của ông thánh này bà thánh nọ phán dạy qua những lần hiện ra ở chỗ này, chỗ khác, như những lời nói đáng tin cậy nhất với những việc lạ lùng kèm theo. Thế nhưng trong chương trình của Chúa, Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta, Ngài đã giảng dạy bằng những hình ảnh hết sức bình thường và quen thuộc, chẳng hạn hình ảnh chim trời, cây vả, mẻ lưới, tiệc cưới… Chính Ngài cũng đã sống những điều ngài giảng dạy một cách thật bình thường, cho dù Ngài đủ khả năng lôi cuốn dân chúng bằng những việc lạ lùng. Chẳng hạn như sau khi làm phép lạ cho bánh hoá nhiều, thì dân chúng muốn tôn Ngài lên làm vua, nhưng Ngài đã dứt khoát từ khước.

Ngày hôm nay, Chúa vẫn tiếp tục nói với chúng ta qua những sự việc thật bình thường của cuộc sống, điều quan trọng là chúng ta có biết lắng nghe và vâng phục thánh ý Ngài hay không?

11.Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành

Ở đời, để thu phục người khác theo mình, người ta thường hứa hẹn nhiều điều tốt đẹp ở đời nay như: tiền bạc, địa vị và danh vọng. Với Đức Giêsu thì khác, Ngài không hứa hẹn những điều tốt đẹp ở đời này, nhưng trái lại Ngài mời gọi những ai muốn theo Ngài thì phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo (x. Mt 16, 24).

Hơn thế nữa, Ngài còn cho biết, chính Ngài cũng phải đi con đường đau khổ: “Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại.” (Mt 16, 21). Trước lời mời gọi từ bỏ mình và vác thập giá, đặc biệt là lời tiên báo về sự đau khổ của Ngài, hầu hết các Tông đồ đều lo lắng, buồn phiền. Thậm chí, Thánh Phêrô còn can ngăn Đức Giêsu không nên dấn thân vào con đường đau khổ: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” (Mt 16, 22). Vì thế, Phêrô đã bị Đức Giêsu quở mắng một cách nặng nề: “Xatan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16, 23). Mặc dầu Đức Giêsu trách mắng Phêrô và không hài lòng về thái độ của các Tông đồ, nhưng trong thâm tâm, Ngài vẫn thông cảm cho “tư tưởng con người” nơi các ông. Ngài muốn tìm cách khác để thuyết phục các ông chấp nhận đau khổ, chấp nhận “tư tưởng của Thiên Chúa.” Chính vì thế, Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết, sáu ngày sau, Ngài đưa ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi và biến hình trước mặt các ông: “Mặt Người chiếu sáng như mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết. Và bỗng các ông thấy ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người” (Mt 17,1-2). Chứng kiến cảnh tượng đó, các ông thích thú vô cùng. Các ông không muốn rời khỏi nơi đó. Thánh Phêrô đã thưa với Đức Giêsu rằng: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Nếu Thầy ưng, chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia” (Mt 17,4).

Tuy Thánh Phêrô tha thiết xin Thầy ở lại đó, nhưng Đức Giêsu lại mời gọi các ông xuống núi. Nghĩa là Ngài mời gọi các ông trở về cuộc sống thực tế hằng ngày. Cuộc sống đó sẽ kết hợp cả niềm vui lẫn nỗi buồn. Cuộc sống đó sẽ kết hợp cả hạnh phúc lẫn đau khổ. Cuộc biến hình trong chốc lát nhắc nhở các ông muốn tới vinh quang phải trải qua đau khổ. Đó là con đường Đức Giêsu đã đi. Đó cũng là con đường của các Tông đồ và các kitô hữu qua mọi thời đại phải đi qua. Vì “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình vác thập giá mình mà theo” (Mt 16, 24).

Qua Tin Mừng chúng ta thấy, chỉ có Thánh Phêrô, Giacôbê và Gioan được vinh dự chứng kiến cuộc biến hình của Đức Giêsu. Bởi vì, rồi đây, ba vị sẽ đóng những vai trò quan trọng trong Giáo hội sơ khai: Thánh Phêrô là vị Giáo Hoàng đầu tiên, Ngài đã đổ máu mình ra làm chứng cho Đức Giêsu; Thánh Giacôbê là vị tử đạo tiên khởi trong số các Tông đồ; Thánh Gioan là vị chứng nhân cuối cùng của các Tông đồ. Như thế, cuộc biến hình của Đức Giêsu không những cũng cố đức tin cho ba vị, mà qua đó, ba vị có nhiệm vụ cũng cố đức tin cho các Tông đồ khác và cho các kitô hữu và toàn thể Giáo hội. Bởi vì, khi có niềm tin vững mạnh vào sự Phục Sinh, ba vị, các Tông đồ cũng như các kitô hữu mới can đảm vượt qua được những thử thách, đau khổ trong cuộc sống, nhất là những đau khổ trong sứ vụ loan báo Tin mừng.

Bài đọc II, Thánh Phaolô mời gọi Timôthê rằng: “Hãy đồng lao cộng khổ với tôi vì Tin mừng” (2Tm 1,8b). Thật vậy, để cộng tác trong việc loan báo Tin mừng cần phải chấp nhận hy sinh, đau khổ. Chính Thánh Phaolô đã cho chúng ta thấy kinh nghiệm đau khổ của bản thân Ngài qua thư Côrintô. Ngài kể lại rằng: “Năm lần tôi bị người Dothái đánh bốn mươi roi bớt một; ba lần bị đánh đòn; một lần bị ném đá; ba lần bị đắm tàu; một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi! Tôi còn hơn họ, vì phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em. Tôi còn phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng. Không kể các điều khác, còn có nỗi ray rứt hằng ngày của tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội Thánh!” (2 Cor 11, 24-28).

Không phải chỉ trong thời Tân Ước, mà ngay chính thời Cựu Ước, Thiên Chúa cũng mời gọi con người chấp nhận sự hy sinh và từ bỏ. Bài đọc I, cho chúng ta thấy Thiên Chúa mời gọi ông Abraham từ bỏ quê hương xứ sở để lên đường đi tới nơi Ngài sẽ chỉ cho: “Hãy đi khỏi xứ sở ngươi, khỏi quê quán ngươi, đến đất ta sẽ chỉ cho ngươi”(St 12,1). Từ bỏ nơi đang sống yên ổn để đi đến nơi chưa biết quả là một sự hy sinh to lớn. Nhưng ông Abraham đã vâng lời Thiên Chúa, ông đã chấp nhận từ bỏ quê hương xứ sở, phó thác tương lai cho Chúa, để lên đường đến nơi Thiên Chúa đã định.

Đối với chúng ta ngày hôm nay, mặc dầu mang danh là kitô hữu nhưng có lẽ nhiều lúc chúng ta cũng giống như Phêrô và các Tông đồ xưa, “thích sướng ngại khổ.” Nhiều khi chúng ta khăng khăng đòi hỏi quyền lợi cho mình nhưng lại không muốn chu toàn bổn phận. Chúng ta phấn khởi có mặt trong những ngày vui của Giáo xứ, của đoàn thể này khác, nhưng lại ít dấn thân trong các công việc được giao. Chúng ta mong muốn được hưởng hạnh phúc Thiên Đàng nhưng lại không muốn đi con đường hẹp.

Ước gì mỗi người kitô hữu chúng ta hiểu được ý nghĩa của đau khổ. Để từ đó luôn chấp nhận dấn thân trong việc đi theo Chúa, chu toàn bổn phận người kitô hữu, đặc biệt nhiệm vụ loan báo Tin mừng. Ngõ hầu, chúng ta không chỉ được chiêm ngưỡng vinh quang của Đức Giêsu trong chốc lát mà còn được hưởng trọn vẹn vinh quang của Đức Giêsu trên thiên quốc muôn đời. Amen.

12.Chúa biến hình

Tại sao Chúa Giêsu chỉ mang có ba môn đệ thân tín lên đỉnh Taborê?

Ngay từ đầu đoạn Tin Mừng, thánh Matthêu đã ghi rõ: Chúa Giêsu đem ông Phêrô cùng hai anh em ông Giacôbê và Gioan đi riêng với mình. Đồng thời trong Phúc Âm chúng ta cũng thấy không thiếu gì những trường hợp chỉ có ba ông này được chứng kiến một số hành động của Chúa Giêsu. Ngoài việc làm chứng nhân cho cuộc biến hình, các ông còn được độc quyền đi theo Ngài trong những giây phút hấp hối cuối cùng nơi vườn cây dầu. Độc quyền chứng kiến việc Chúa Giêsu làm cho con gái ông Giairô sống lại. Các ông cũng là những người đã hỏi riêng Chúa Giêsu về những dấu hiệu báo trước ngày sụp đổ của đền thờ.

Có thể nói: Phêrô, Giacôbê và Gioan tượng trưng cho hàng ngũ lãnh đạo trong Gháo Hội. Việc Chúa Giêsu đem những người có nhiệm vụ lãnh đạo Giáo Hội để các ông chứng kiến cho sự biến hình không phải là không có ý nghĩa cho sự sinh hoạt của Giáo Hội ngày hôm nay.

Như chúng ta đã biến vấn đề quyền hành là vấn đề then chốt trong Giáo Hội bởi vì chính Ngài đã xác quyết trước mặt Philatô:

– Nếu từ trên chẳng ban cho ông, thì ông chẳng có quyền hành gì trên tôi.

Thế nhưng quan niệm về quyền hành của Chúa Giêsu hoàn toàn khác biệt với quan niệm về quyền hành của thế gian. Bởi vì theo Ngài, quyền hành là để phục vụ chứ không phải là để hống hách, chèn ép và hưởng thụ:

– Thủ lãnh các dân ngoại thì cai trị và chuyên chế, còn giữa các ngươi thì không được như vậy, ai muốn làm lớn thì hãy trở nên rốt hết và trở nên đầy tớ cho mọi người.

Chính Ngài, trong bữa tiệc ly cũng đã nói với các môn đệ:

– Mặc dầu các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm. Nhưng nếu Ta là Thầy và là Chúa mà còn quỳ gối rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau.

Cũng trong chiều hướng đó mà các vị Giáo hoàng vốn tự xưng mình là “servus servorum”, đầy tớ của các đầy tớ. Ba vị cột trụ của Giáo Hội được chứng kiến việc Chúa biến hình, không phải là để các ông được hưởng một kinh nghiệm lý thú như Phêrô đã tưởng: Lạy Thầy, chúng con ở đây thì thật là hay quá, nhưng là để các ông sau này biết vận dụng quyền hành theo một ý nghĩa mới mà Ngài đã đề ra đó là phục vụ.

Còn chúng ta thì sao? Liệu chúng ta đã đổi mới quan niệm của chúng ta theo quan niệm của Chúa Giêsu hay chưa? Liệu chúng ta đã đổi mới cái nhìn của chúng ta theo cái nhìn của Chúa Giêsu hay chưa? Có nghĩa là chúng ta đã thực thi giới luật yêu thương, đã sống tinh thần phục vụ, đã có được những hành động bác ái an ủi, khích lệ và giúp đỡ những người chung quanh hay chưa?

Bởi vì trong ngày sau hết chúng ta sẽ không bị xét xử về địa vị xã hội, mà sẽ bị xét xử về những hành động bác ái yêu thương mà chúng ta đã làm hay không làm cho những người chung quanh. Có như vậy chúng ta mới xứng đáng được tham dự vào cuộc biến hình vinh quang trong ngày sau hết.

13.Núi Tabor hôm nay

(Suy niệm của ĐGM. Cosma Hoàng Văn Đạt)

Chúa Giêsu dẫn các môn đệ đi Giêrusalem. Trên đường, Chúa lên một ngọn núi để cầu nguyện. Có lẽ đó là núi Tabor ở Galilê. Có ba môn đệ thân tín theo Chúa. Chúa đã hiển dung trước mặt các ông.

Trước núi Tabor, Chúa Giêsu đã từng lên hai ngọn núi khác. Trước hết là Chúa giảng Hiến Chương Nước Trời trên núi quen gọi là núi Bát Phúc. Sau khi cho hoá bánh ra nhiều nuôi dân, họ muốn tôn Chúa làm vua, Chúa đã lên núi cầu nguyện một mình. Sau núi Tabor, Chúa cũng lên hai ngọn núi khác: núi Sọ là nơi Chúa chịu chết trên thập giá và núi Ôliu là nơi Chúa từ biệt các môn đệ mà lên trời. Có thể nói núi Tabor đã được chuẩn bị bằng hai ngọn núi trước và chuẩn bị cho hai ngọn núi sau. Hiển Dung là cao điểm của cuộc đời rao giảng và là khởi điểm của cuộc Vượt Qua.

Người xưa tin rằng Thiên Chúa ở trên trời; núi cao, nên gần trời; vì thế người ta lên núi sẽ dễ gặp Chúa hơn. Tổ phụ Abraham lên núi hiến tế Isaac. Ông Môsê lên núi nhận bia giao ước. Ngôn sứ Êlia lên núi gặp Thiên Chúa. Thực tế là lên núi dễ gặp Chúa hơn thật:

– Thanh vắng, yên tĩnh, xa gia đình, bạn bè, phố chợ;

– Trên cao, thấy rõ công trình của Thiên Chúa trong thiên nhiên hùng vĩ hơn: mặt trời, bầu trời, trăng sao, núi sông, bình minh, hoàng hôn…

– Trên cao, thấy công trình của con người nhỏ bé hơn, vì thế dễ từ bỏ hơn.

Lên núi là điều không dễ, nhưng đem lại cho chúng ta những niềm vui mà chỉ những ai lên núi mới cảm nghiệm được. Hôm nay Chúa Giêsu vẫn mời gọi chúng ta lên núi để chiêm ngắm Chúa hiển dung: ngay bên cạnh chúng ta, Chúa vẫn đang yêu thương người đau khổ, tha thứ cho kẻ tội lỗi, hy sinh cho người mình yêu. Đồng thời Chúa cũng mời gọi chúng ta trở nên núi Tabor mới để Chúa hiển dung. Thánh Phaolô kêu gọi các tín hữu mặc lấy Đức Kitô, trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô. Trong cuộc Vượt Qua, khuôn mặt thể lý của Chúa không còn hình dạng con người, nhưng khuôn mặt của Thiên Chúa tình yêu lại chói sáng trước mắt mọi người trong mọi thời đại.

Một thường dân Nhật Bản được Nhật Hoàng mời vào hoàng cung dùng cơm chung vì đã lấy máu mình vẽ chân dung Nhật Hoàng. Chúa Giêsu lấy máu mình để vẽ chân dung Thiên Chúa và được hưởng vinh quang Phục Sinh. Xin Chúa giúp chúng ta dùng cuộc sống của mình để vẽ chân dung Chúa trong thế giới hôm nay.

14.Nghe Lời Chúa – Đến với tha nhân

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Chúng ta đang từng bước hành trình trong Mùa Chay Thánh, tiến về Tam Nhật Vượt Qua, tưởng niệm Cuộc Khổ Nạn và Cái Chết của Chúa Giêsu, dẫn đến Lễ Phục Sinh, chiến thắng của Chúa Giêsu Kitô trên sự chết. Phụng vụ Chúa II Mùa Chay năm A trình bày cho chúng ta biến cố Chúa Giêsu Biến hình. Ðây là giai đoạn thứ hai trong Mùa Chay: giai đoạn thứ nhất là những cám dỗ trong hoang địa (x.Mt 4, 1-11); giai đoạn thứ II là cuộc Biến hình (x.Mt 17, 1-9). Chúa Giêsu “đã gọi Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông này, và Người đưa các ông tới chỗ riêng biệt trên núi cao. Người biến hình trước mặt các ông” (Mt 17,1). Mặc dù trong phụng vụ có một ngày lễ dành riêng cho sự kiện này (ngày 06 tháng tám), hôm nay chúng ta được mời gọi chiêm ngưỡng cảnh tương tự như một phần không thể thiếu trong Cuộc Khổ Nạn, Cái Chết và Phục Sinh của Chúa Giêsu.

Quả thật, Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu đã gần kề, sáu ngày sau khi từ trên núi xuống, Chúa Giêsu tuyên bố: “Người phải đi lên Giêrusalem và chịu khổ nhiều đau khổ do hàng niên trưởng và các thượng tế cùng ký lục, và bị giết đi, ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16,21).

Nhưng các môn đệ chưa sẵn sàng chứng kiến Chúa của họ, Đấng, luôn thể hiện lòng từ bi đối với người ốm đau bệnh tật, làm cho người phung hủi được lành, kẻ điếc nghe được, người mù thấy được, kẻ què đi được, người chết sống lại, nay “sẽ phải chịu khổ nhiều đau khổ”. Thật, không thể! Không thể hiểu nổi!

Tuy nhiên, bất chấp sự hiểu lầm của họ, Chúa Giêsu biết lý do tại sao Người đi vào thế giới. Người biết mình phải mang lấy tất cả sự yếu đuối và lầm than của nhân loại để thánh hóa họ, cứu họ ra khỏi vòng vây của tội lỗi và sự chết. Người cứu họ bằng cách nào? Thưa, bằng cách chiến thắng sự chết, để sự chết không còn làm gì được con người là hình ảnh của Thiên Chúa nữa.

Đó là lý do tại sao Biến hình là một biểu tượng của ơn cứu rỗi thể hiện nơi thân xác vinh quang Phục Sinh của Chúa Giêsu. Vì thế, khi loan báo cho các môn đệ Cuộc Khổ Nạn của mình, Chúa thấy rõ sự lo lắng trong các tông đồ, và vẻ rực rỡ về thần tính của Chúa. Chúa khẳng định với họ niềm hy vọng và loan báo cho họ niềm vui Phục Sinh, thậm trí, cả lúc Phêrô, Gioan và Giacôbê không biết rõ … phục sinh từ trong cõi chết nghĩa là gì! (x. Mt 17,9). Họ cần phải có thời gian.

Nếu trong Sứ điệp Mùa Chay 2017 năm nay với chủ đề: “Lời Chúa là một hồng ân. Tha nhân là một hồng ân”. Khi trưng dẫn đoạn Tin Mừng Luca (16,19-31), Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta hữu lắng nghe Lời Chúa, để nhận ra và phụng sự Chúa trong tha nhân, nhất là nơi những người nghèo khổ, vì tha nhân là hồng ân. Thì hôm nay, có tiếng Chúa Cha tuyên bố Chúa Giêsu là Con yêu dấu của Ngài và mời gọi chúng ta: “Các ngươi hãy nghe lời Người” (Mt 17,5).

Đúng thật là một hồng ân, bởi có biết bao nhiêu lời chúng ta đã nghe, nhưng hiếm khi nghe được tiếng Chúa Cha. Chúa Cha đã nói với các Tông đồ và qua Giáo hội Chúa nói với chúng ta ngày hôm nay nữa: “Hãy nghe Chúa Giêsu, vì Người là Con yêu dấu của Chúa Cha”. Chúa Giêsu là Hồng Ân vô giá do Chúa Cha tặng ban cho chúng ta. Nay Ngài mời gọi chúng ta tuân giữ Lời Người. Lời Chúa Giêsu ban lại sự sống đời đời há chẳng phải là một hồng ân sao?

Trong tuần này, chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa và cất giữ trong trí. Vì lời ấy không phải là lời của loài người, nhưng là Thiên Chúa Cha, nói với tất cả chúng ta! Lời ấy như một trợ lực để tiến bước trên con đường Mùa Chay. Chúng ta nghe lời Chúa Giêsu nhưng phải bước theo Người. Cũng như các môn đệ, sau khi nghe được lời Chúa Cha ban tặng, các ông không thể cứ ở mãi trên núi, nhưng phải theo Chúa Giêsu xuống núi dõi theo hành trình Thương Khó của Chúa và làm chứng cho Tin Mừng Phục Sinh.

Chúng ta cũng thế, trong Mùa Chay Thánh việc cần phải làm là: ăn chay, cầu nguyện, và bố thí. Ba việc này diễn tả ba chiều kích, ba mối tương quan giữa đương sự với Thiên Chúa và với anh em. Tương quan với Thiên Chúa là cầu nguyện, với tha nhân là bố thí và với chính mình là ăn chay. Ba tương quan này đồng hành với nhau và thể hiện cùng một lúc trong đời sống thường nhật của người kitô hữu. Chúng ta cần đi ra một nơi riêng, leo lên núi trong một nơi thinh lặng, để tìm lại chính mình và lắng nghe tiếng Chúa là hồng ân. Nhưng chúng ta không thể ở lại đó! Cần phải xuống núi gặp gỡ tha nhân. Họ là anh chị em chúng ta đang bị vất vả cơ cực, bệnh tật, bất công, dốt nát, nghèo khổ vật chất và tinh thần đè nặng, để chia sẻ với họ ân thánh đã nhận được vì họ cũng là hồng ân. Ðây là sứ mạng của chúng ta, những người đã chịu phép rửa tội, lắng nghe lời Chúa Giêsu và trao tặng Chúa cho người khác.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin dạy chúng con biết nghe Lời Chúa, chuyên cần tham dự Thánh lễ, nguyện gẫm và sống tình bác ái với tha nhân. Amen.

15.Đỉnh cao hôm nay – Đỉnh cao ngày mai

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật)

Bên kia những thực tại hữu hình

Bản văn của thánh Mát-thêu trình bày một kinh nghiệm thần bí vượt trên những thực tại hữu hình, qua những con người và biểu tượng. Bản văn là một mặc khải về một mầu nhiệm: căn tính của Đức Giêsu.

Nơi chốn: “một nơi riêng”, “một ngọn núi cao”. Đây không phải là một địa điểm cụ thể về địa dư. Có thể lấy làm tiếc vì một truyền thống muôn thời đã muốn xác định về một nơi rõ ràng, bởi vì việc Tin Mừng không nói rõ nơi chốn có thể có nghĩa là mặc khải này sẽ xảy ra ở mọi nơi.

Đàng khác, “ngọn núi cao” luôn luôn là một nơi đặc biệt; tại đó đất dường như nối liền với trời, và cũng tại đó, con người vừa cảm nghiệm được sự bé nhỏ của mình, đổng thời vừa muốn vươn mình tới những chiều kích bao la của vũ trụ.

Thời gian: đã được xác định rõ là 6 ngày sau khi Đức Giêsu báo trước cho các Tông Đổ về cuộc Khổ Nạn. Tuy nhiên, cuộc Hiển Dung còn có ý nghĩa lớn lao hơn: nối kết giữa quá khứ (Môsê + Êlia) và tương lai (Đức Kitô phục sinh). Đây là một thời gian vượt-thời-gian.

Các nhân vật: thái độ của các môn đệ (theo Đức Giêsu, muốn ở lại, sự kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất) cho thấy một sự đảo lộn, một ý thức do một nhận biết không thể diễn tả nổi về thực tại nơi Đức Kitô. Con đường này trở thành con đường của các môn đệ sau khi Đức Kitô phục sinh, đổng thời cũng là con đường của tất cả mọi Kitô hữu.

Một bức tranh để chiêm ngắm

Việc Đức Giêsu biến đổi hình dạng không phải chỉ là một trình thuật để nghe, nhưng còn là một bức tranh để chiêm ngắm, tựa như hình ảnh ngắn ngủi về một thế giới thần thiêng và bí nhiệm, rất gần gũi mà cũng rất xa xăm. Trên dung nhan của con người đang bị bóng tối tử thần đe dọa, đã bừng lên ánh sáng chói lòa của ngày Phục Sinh.

Biến cố Hiển Dung xảy ra sau khi Đức Giêsu báo trước cuộc Khổ Nạn của Người cũng như việc dự phần của các môn đệ: biến cố này nhằm củng cố lòng tin của ba vị tông đổ sẽ có mặt vào những giờ phút cuối cùng của Đức Giêsu tại vườn cây Dầu (Mc 14,33). Thật ra, đây không phải là lần đầu tiên ba vị này được “đi riêng” với Đức Giêsu; ba vị đã từng được chứng kiến việc Đức Giêsu làm cho con gái ông trưởng hội đường sống lại (Mc 5,37).

Tuy vậy, sự kiện này còn có ý nghĩa quan trọng hơn với mỗi vị. Trước hết, với Phêrô, người sẽ được trao quyền lãnh đạo Giáo Hội: từ đây, ông sẽ phải học ý nghĩa đau khổ theo Thiên Chúa và thay thế tư tưởng nhân loại bằng tư tưởng thần linh. Thứ đến, với Gia-cô-bê, vị tử đạo tiên khởi: ông sẽ hân hoan đỗ máu để làm chứng vì ông đã tận mắt nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa. Cuối cùng, với Gio-an, người môn đệ được Đức Giêsu yêu dấu: ông sẽ phải học biết rằng, đau khổ là bằng chứng của tình yêu.

Như vậy, ba vị cột trụ trong sinh hoạt của Giáo Hội thời đầu, nhờ kinh nghiệm sâu xa về vinh quang Thiên Chúa, sẽ làm chứng một cách sống động về Đức Giêsu, Đấng đã đi qua con đường đau khổ để bày tỏ lòng yêu mến và đem lại ơn cứu độ.

Thình lình, các ông đã được chứng kiến Đức Giêsu biến đổi hình dạng. Tác giả đã dùng thuật ngữ khải huyền để mô tả vinh quang Thiên Chúa xuất hiện trên dung nhan Đức Giêsu. Điều đáng nói ở đây là ánh sáng vinh quang mà các môn đệ nhìn thấy nơi Đức Kitô, không phải là điều gì đến từ bên ngoài, nhưng là sự biểu lộ bình thường của vẻ đẹp vẫn gắn liền với “Đấng từ trời xuống”. Do đó, điều gây ngạc nhiên không phải là ánh sáng rạng ngời đó đã bao phủ Đức Giêsu trong chốc lát, nhưng là sự che giấu ánh sáng đó trong những lúc khác. Như vậy, Đức Giêsu đã che giấu vinh quang của Người, và giờ đây, trong một khoảng thời gian ngắn, Người rời bỏ nhân tính để con người có thể chiêm ngắm vinh quang của Người; và nhờ đó, họ nhận ra căn tính đích thực của Đức Giêsu: Con Thiên Chúa.

Đang khi Đức Giêsu bày tỏ Thiên tính của Người, thì Môsê, vị anh hùng của Lề Luật, và Êlia, thủ lãnh các ngôn sứ, đã đến đàm đạo với Người. Sự hiện diện của hai chứng nhân thời Cựu Ước cho thấy tính siêu việt của thời đại cuối cùng, đổng thời loan báo Vị Ngôn Sứ thiên hạ vẫn mong chờ, nay đã xuất hiện.

Ngoài ra, nội dung cuộc đàm đạo giữa Đức Giêsu với Môsê và Êlia không phải là những điều Người đã giảng dạy, nhưng là cuộc Khổ Nạn của Người. Đó chính là nhiệm vụ của Người, Đấng hoàn tất Lề Luật và lời loan báo của các Ngôn sứ. Việc loan báo đã kết thúc, và Đấng phải đến đã đến để thực hiện công cuộc cứu độ.

Cuối cùng, sự hiện diện của Chúa Cha qua đám mây và tiếng nói là một xác nhận rõ ràng và dứt khoát về sứ mệnh của Đức Giêsu.

Ở đây, cũng như trong biến cố phép Rửa, vẫn là sự giới thiệu sâu sắc về Đấng phải đến để thực hiện lời hứa của Thiên Chúa dành cho dân Người. Lời giới thiệu này cho thấy mối hiệp thông sâu xa và bất khả phân ly giữa Chúa Cha và Chúa Con. Tuy thế, lời giới thiệu trong biến cố Hiển Dung còn thêm lệnh truyền “hãy vâng nghe lời Người”. Hãy nghe lời Đức Kitô, hãy đón nhận tất cả những gì Người sẽ thực hiện, cả vinh quang và đau khổ, cả sức mạnh lẫn yếu đuối, cả sự chết lẫn sự phục sinh. Đó là ơn cứu độ.

Hãy rời ngọn núi, tiếp tục con đường

Một tuần lễ trước khi xảy ra biến cố này, Phêrô đã thử tìm một con đường dẫn đến vinh quang mà không có Thập giá. Giờ đây, ông nghĩ rằng việc Hiển Dung có thể là con đường tắt để thực hiện ơn cứu độ. Ông hiểu đôi chút về điều đang xảy ra, có một cái gì đó rất lớn lao, và một lần nữa, ông cố gắng thuyết phục Đức Giêsu đừng đi Giêrusalem, bằng cách xin dựng lều ở trên núi này. Với Đức Giêsu, vinh quang hôm nay chỉ là chốc lát, chỉ là khởi đầu, chỉ là lời báo trước cho vinh quang vĩnh cửu sau cuộc Khổ Nạn. Còn với Phêrô, đây là vinh quang của ơn cứu độ, và ông phải dấn mình vào: ông tưởng rằng không cần có thập giá vẫn có vinh quang. Mãi đến sau này, sau biến cố Phục Sinh, ông mới hiểu rõ và thuật lại toàn bộ sự kiện (xem 2 Pr 1,16-20).

Bởi vậy, trước khi đạt đến vinh quang đích thực, Đức Giêsu phải rời ngọn núi để tiếp tục con đường lên Giêrusalem. Ngài còn phải đến vườn cây Dầu, còn phải lên đồi Gôn-gô-tha. Mặc dù bóng tối của đổi Gôn-gô-tha có che khuất khuôn mặt vinh quang, như là chẳng còn nhìn thấy gì, chẳng còn chi hi vọng; nhưng điều đó chỉ xảy ra trong giây lát, trong một thời gian ngắn. Ánh sáng đã một lần bừng lên thì không phải là điều ảo tưởng, điều đã xảy ra trên núi không phải là giấc mơ. Biến cố Phục Sinh sẽ cho thấy rằng sự sống có thể nảy sinh từ sự chết.

Biến cố Hiển Dung của Đức Giêsu thực là một kinh nghiệm cho tất cả những ai muốn cùng được tham dự vào vinh quang của Người: Chính kinh nghiệm này là chìa khóa, là sức mạnh giúp chúng ta dám chấp nhận những hi sinh, những từ bỏ để càng lúc càng gắn bó hơn với Đức Kitô. Biến cố này thực là một cuộc xuất hành tiến về Đất Hứa, xuyên qua những thử thách. Ai không chấp nhận xuất hành, không cùng đi với Đức Giêsu trên con đường lên Giêrusalem, người ấy sẽ không được tham dự vào vinh quang vĩnh cửu. Mỗi người sẽ có thể có một kinh nghiệm nào đó về Đức Giêsu, nhưng đó chưa phải là tất cả. Đỉnh cao này còn chờ một đỉnh cao nữa.

16.Nội tâm – Lm. Vũ Đình Tường

Việc các tông đồ được nhìn thị kiến trên núi thánh không phải do công sức, tài lực của cá nhân mà chính là ơn Chúa ban.

ĐẶC ÂN

Kinh Thánh ghi rõ Chúa đặc biệt đưa các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo người tới một ngọn núi cao. Chúa chọn các ông lên núi thánh. Đây là một đặc ân Chúa ban không phải do tài sức riêng.

Như thế chúng ta cần nhận biết không phải những gì đang có, những gì đang sở hữu là do tài năng, trí thông minh, sức riêng ta đạt được mà chính là đặc ân Chúa trao cho ta coi sóc. Nói cách khác chúng ta không phải làm chủ những gì chúng ta có, tiền tài, vật chất, trí khôn, sự thông minh, sáng suốt, sắc đẹp, sự sống, thành công, thất bại trên đời và ngay cả con cái, hay người phối ngẫu. Tất cả đều là đặc ân Chúa kí thác, trao ban cho ta quản lí, coi sóc.

Vì là quản lí các ân huệ Chúa ban nên chúng ta cần sống khiêm nhường, mang tâm tình tạ ơn và có trách nhiệm chia sẻ những đặc ân đó với các người kém may mắn hơn và dùng chúng chung dựng xây một thế giới tốt đẹp hơn.

Hiểu như thế chúng ta luôn sống trong tâm tình tạ ơn, những đặc ân Chúa tin tưởng trao vào tay ta coi sóc, bảo vệ và làm cho chúng sinh sôi nảy nở thêm nhiều.

QUẢN LÝ

Người quản lí khôn ngoan luôn nhớ vai trò mình là người quản lí, không phải chủ nhân. Hiểu biết điều này sẽ tránh được rất nhiều đau khổ, âu sầu không cần thiết. Khi Chúa quyết định trao món quà đang có trong tay mình cho người khác coi sóc không nên than trách hoặc phê phán. Kitô hữu luôn nhớ và xác định đúng đắn vai trò quản lí của mình.

Tình cảm tự nhiên con người mất những gì đang có thì đau buồn, nhớ thương. Điều này rất tốt vì tình cảm đó diễn tả tâm tình nối kết, gắn bó, nhớ thương. Không thổ lộ được những tình cảm đó chính là bạc tình, bạc nghĩa, thờ ơ, lãnh đạm. Tuy nhiên cũng không thể mượn cớ buồn sầu, đau khổ để kết án, phê phán vì hành động đó không thuộc phạm vi của người quản lí. Của Chúa, Chúa muốn cho ai tùy í, sao lại ghen tị. Chính Đức Kitô nói điều này trong dụ ngôn thuê làm vườn nho (Mt 20,16).

TẠ ƠN

Tâm tình tạ ơn chân thành đúng đắn phải là Chúa trao ban món quà con mong ước, mơ thích, con xin tạ ơn và hết lòng giữ gìn, bảo vệ. Chúa lấy đi món quà con hết lòng quí mến con xin dâng hiến trong tâm tình tạ ơn vì đã hoàn tất trách nhiệm Chúa trao. Chúa trao ban món quà con không xin, không thích, con cũng xin vâng đón nhận, dù đón nhận trong run sợ, lo âu, ngại ngùng cũng xin nhận với tâm tình phó thác để suy gẫm, tìm học cho biết ý Chúa qua biến cố trong cuộc sống.

Mọi kèn cựa, chèn ép hay tìm cách lung lạc tìm cách chiếm đoạt, hay chối bỏ món quà Chúa trao, dù là điạ vị, danh vọng hay của cải vật chất đều sai. Làm như thế chính là đem đời vào đạo, không phải đem đạo vào đời.

Quà tặng không phản ảnh tình cảm trong tim. Quà tặng là cách diễn tả tình cảm một cách cụ thể con người dành cho nhau. Dùng giá trị quà tặng để đo lòng người dẫn đến sai lầm vì vật biếu tặng không dò được lòng người. Cách cho quan trọng hơn quà tặng và cho vì bác ái, yêu thương quan trọng hơn cách cho.

PHÓ THÁC

Người quản lí khôn ngoan là người luôn sống trong tinh thần phó thác, xác tín, tin tưởng mọi sự đều do Chúa ban nên vui lòng nhận, dù là điều ta ưa thích hay điều ta lo sợ tất cả đều là những món quà Chúa trao cho coi sóc. Có thể giúp ta tốt hơn, có thể Chúa dùng món quà để thánh hoá ta cũng có thể để ta làm vinh danh Chúa. Không nên chê bất cứ món quà nào Chúa trao, dù lớn dù nhỏ bởi vì người trung tín trong việc nhỏ sẽ được trao công việc quan trọng hơn. Việc quan trọng hơn, trách nhiệm nhiều hơn và đau khổ cũng lớn hơn. Xem dụ ngôn nén bạc (Mt 25).

ĐAU KHỔ

Tâm được vui thì lòng được sáng. Tâm vui vì được trong sạch hoá, được thanh tẩy khỏi bụi trần. Nhờ thanh tẩy nên lòng được sáng. Thanh tẩy gắn liền với khổ đau. Không phải đau khổ nào cũng xấu, có những đau khổ tốt lành, cần thiết trong cuộc sống. Đau khổ cần thiết này giúp thanh tẩy tâm hồn, làm cho con người trong sáng hơn, dịu hiền hơn, dễ mến và thương người nhiều hơn. Trên đường xuống núi Đức Kitô dặn các tông đồ hãy giữ im lặng ‘đừng nói cho ai hay thị kiến cho đến khi Con Người từ cõi chết chỗi dậy’. Còn gì đau khổ hơn khi trong lòng rộn rã niềm vui, tràn đầy hoan lạc mà không được chia sẻ, nói ra. Từ bỏ ý riêng để ý Chúa được thực hiện là đau khổ tốt. Từ bỏ những thói quen thực hành từ nhỏ, chấp nhận thay đổi theo đường lối Chúa là đau khổ tốt. Từ bỏ con người cũ sống tinh thần Phúc Âm là đau khổ tốt.

HẠNH PHÚC THẬT

Thông thường người ta thích nhận những món quà ưa thích. Món quà không ưa nếu được trao, coi đó là hình phạt, là sự dữ. Chúa gởi sự khó đến cho thì tôi nhăn nhó trong khi tôi gởi sự khó tới cho anh em tôi lại vui cười. Chúa để sự khó xảy đến cho bạn thì tôi khuyên anh Chúa thử thách anh. Chúa để sự khó xảy đến cho người tôi không ưa tôi nói Chúa phạt nó.

Hạnh phúc triền miên, bình an thực sự với lòng mong ước xảy đến sau khi đã trải qua đau khổ. Theo tinh thần bài Phúc âm hôm nay thì niềm hoan lạc thực sự đến ‘cho đến khi Con Người từ cõi chết sống lại’.

17.Chúa Nhật 2 Mùa Chay

Trong cuộc sống, người ta đã kinh nghiệm được rằng: có nhiều điều ta nhìn mà không thấy. Chẳng hạn như tình yêu, tình bạn, tình mẫu tử. Người ta chỉ thấy những dấu hiệu của tình yêu như: quà tặng, sự âu yếm, sự hy sinh quên mình. Còn chính tình yêu thì ta không thấy. Vì cái chính yếu thì vô hình. Ta chỉ thấy được bằng trái tim. Bên cạnh đó, có nhiều điều ta chỉ thấy bề mặt mà không thấy bề sâu. Ví dụ như con người. Khi nhìn một người, ta chỉ thấy diện mạo, hình dáng bên ngoài. Ít khi ta thấy được tâm tư tình cảm của người khác, kể cả những người thân yêu sống kề cận bên ta. Linh hồn người ta không ai thấy bao giờ. Vì linh hồn thiêng liêng. Ta chỉ thấy được bằng đức tin.

Hẳn thật, Đức Giêsu xuống thế làm người đã trở nên giống như một người phàm, được mấy người nhận ra đó là Con Thiên Chúa đâu. Người che giấu thần tính vinh quang sáng láng trong một thân xác nghèo hèn, bình thường. Không ai nhận ra Thiên tính của Người, ngay cả các môn đệ luôn luôn kề cận bên Người.

Hôm nay thánh sử Matthêô cho chúng ta thấy, khi Chúa tỏ mình ra, ba Tông Đồ thân tín quá ngỡ ngàng. Lòng các ông tràn ngập niềm vui khi nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu. Thần tính vinh quang biểu lộ rọi sáng vào nhân tính được tôn vinh. “Diện mạo Đức Giêsu chói lọi như mặt trời và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng”.

Thần tính Đức Giêsu biểu lộ chứng thực Người là Thiên Chúa ẩn mình. Thì ra con của bác thợ mộc che giấu cả một nguồn ánh sáng chói lọi. Người nghèo hèn này lại là Ngôi Hai Thiên Chúa cao sang. Nhờ ánh sáng vinh quang trên núi Tabore của Đức Giêsu giúp ta nghiệm ra:

Ánh sáng Thần tính chiếu soi nơi nhân tính đem lại cho ta niềm hy vọng. Vì nhân tính của Đức Giêsu gánh lấy cả nhân loại trên mình, nên ánh sáng thần linh cũng chiếu soi cả vào con người chúng ta, ánh sáng ấy chiếu vào cái thế giới tăm tối của tội lỗi, yếu hèn, của chúng ta. Mặt khác, Ánh sáng ấy cho chúng ta hiểu rằng, Người ẩn tàng trong mọi quan hệ, trong mọi niềm vui, trong mọi tình bạn, trong mọi tình yêu. Bởi vì hạnh phúc là gì nếu không phải đi tìm cái cốt lõi, là nguồn mạch của hạnh phúc, là chính Thiên Chúa hằng sống. Hơn nữa, Ánh sáng ấy nói với chúng ta rằng: Vinh quang Thiên Chúa như hạt giống đang vùi chôn trong lòng tất cả mọi anh em sống quanh tôi. Vinh quang ấy đang bị che khuất đàng sau những mái tranh thô sơ, những thân thể gầy guộc, những ánh mắt mệt mỏi lờ đờ.

Nhận thức ấy thôi thúc chúng ta trở về tìm Chúa trong đáy lòng mình. Trong con người của mình, chúng ta càng vứt bỏ tội lỗi, dung nhan Thiên Chúa càng hiện rõ. Càng chìm sâu vào nội tâm thinh lặng, chúng ta càng tới gần Chúa. Bên cạnh đó, nhận thức ấy còn giúp chúng ta sẵn sàng kính trọng tha nhân vì tah nhân là những đền thờ cho Thiên Chúa ngự trị, là những bình sành chứa đựng kho tàng cao quý. Như thế, sống Mùa Chay chính là hành trình nội tâm: trở về đáy lòng mình để gặp được Chúa.

Mùa chay giúp chúng ta trở về nội tâm mình. Mùa chay giúp chúng ta có nhiều cơ hội làm hoà với Thiên Chúa và Tha nhân, nhưng chính trước đó chính mình giải hoà bản thân mình. Mùa Chay có nhiều cơ hội giúp ta thi hành điều Chúa muốn như ăn chay, bố thí và cầu nguyện. Chúng ta hãy xem kỹ lại việc ăn chay của mình, nếu ăn chay chính là đến với anh em bằng thái độ kính trọng và yêu thương thì đó là điều mà Chúa mong muốn. Ngoài ra, ta đến với tha nhân bằng cách hết sức có thể, có thể ta đến với những mảnh đời kém may mắn, vào những mảnh đời tăm tối, những thân phận hẩm hiu. Chúng ta hãy làm sao cho dung nhan nhân loại chói ngời ánh sáng nhân phẩm, ánh sáng văn hoá, ánh sáng lương tâm và ánh sáng thần linh. Như thế ta là chúng ta đang cộng tác vào việc biến hình thế giới. Như thế ta đang bước theo chân Đức Kitô, đưa nhân loại vào hành trình vượt qua sự chết và dần đang đi vào phục sinh.

Lạy Đức Kitô, xin ban cho chúng con đức tin mạnh mẽ để chúng con có khả năng nhìn thấy Chúa trong tha nhân. Xin ban cho chúng con trái tim bén nhạy để chúng con biết yêu mến những thực tại vô hình. Amen.

18.Ơn gọi làm đẹp – Lm. Phạm Quốc Hưng, CSsR

“Ngài đã biến hình trước mặt họ, mặt Ngài sáng láng như mặt trời, áo Ngài nên trắng phau như ánh sáng”.

Tự bản chất con người ai cũng muốn trở nên xinh đẹp; thích tìm kiếm và nhìn ngắm những cảnh đẹp; thích những vật hay những người thuộc về mình cũng đẹp; thích được người ta chiêm ngưỡng vì mình đẹp; và vì thế tìm mọi cách để làm đẹp cho mình và những vật hay những người thuộc về mình.

Người ta đã đầu tư biết bao tiền của, công sức, tài năng và thời giờ để phục vụ nhu cầu làm đẹp và khiếu thẩm mỹ của con người. Sự hiện diện của các ngành thẩm mỹ, du lịch, hội họa, điêu khắc, phim ảnh và kiến trúc đã nói lên lòng khát khao vẻ đẹp nơi con người.

Phải chăng lòng khát khao vẻ đẹp ấy nơi con người cùng với những cố gắng làm đẹp của họ chính là một ơn gọi căn bản gắn liền với bản chất con người?

Tin Mừng hôm nay thuật về việc Chúa Giêsu biến hình trên núi trước mặt ba môn đệ thân tín nhất của Người, và vẻ đẹp của Người đã khiến họ đã ngẩn ngơ chiêm ngắm. Qua cuộc biến hình này, Chúa Giêsu không những tỏ cho chúng ta thấy vẻ đẹp tuyệt vời của Người nhưng còn khơi dậy nơi chúng ta hy vọng sẽ được trở nên xinh đẹp như chính Người.

Nói cách khác, qua biến cố biến hình nầy Chúa Giêsu đã khơi dậy “ơn gọi làm đẹp” trong tâm hồn mỗi người chúng ta.

Điều đáng tiếc là chúng ta bị ảnh hưởng của quan niệm thế gian nên thường dừng lại ở việc tìm kiếm và ngưỡng mộ cái đẹp tự nhiên, cái đẹp bị giới hạn trong phương diện vật chất thể lý chóng qua, mà không thiết tha tìm kiếm và chiêm ngưỡng cái đẹp siêu nhiên, cái đẹp của tâm hồn, cái đẹp của nhân đức, cái đẹp thần thiêng của ơn thánh, cái đẹp sẽ tồn tại mãi mãi. Chính cái đẹp thần thiêng sung mãn ấy là cái đẹp mà Chúa Giêsu muốn mời gọi chúng ta chiêm ngưỡng và kiếm tìm qua cuộc biến hình trên núi của Người.

Vì được dựng nên giống hình ảnh Chúa, con nguời được chia sẻ cái đẹp của chính Chúa, Cái Đẹp Tuyệt Đối. Tội lỗi-tội tổ tông và tội riêng ta-đã làm lệch lạc và lu mờ hình ảnh Thiên Chúa nơi mỗi người chúng ta. Lòng khát khao những nét đẹp trong thế giới tự nhiên nơi chúng ta phải là dấu chỉ của lòng khát khao tìm kiếm và chiêm ngưỡng Thiên Chúa và được chia sẻ Cái Đẹp Tuyệt Đối của chính Người.

Chúa Giêsu xuống thế làm người để cứu chuộc chúng ta, nghĩa là để giúp chúng ta khôi phục lại hình ảnh tuyệt mỹ của Thiên Chúa nơi linh hồn chúng ta. Khi biến hình trên núi, Chúa Giêsu đã cho các môn đệ nhận biết Người chính là “phản ảnh của vinh quang, là ẩn tượng” của Thiên Chúa (Heb 1:3).

Cũng theo thánh Phaolô, mỗi người chúng ta cũng được Thiên Chúa kêu gọi để “nên đồng hình đồng dạng với hình ảnh Con của Người, để Ngài nên trưởng tử giữa một đoàn em đông đúc” (Rom 8:29); nghĩa là ta được mời gọi để trở nên xinh đẹp tuyệt vời như chính Chúa Giêsu.

Cuộc biến hình của Chúa Giêsu là sự chuẩn bị của Người dành cho các môn đệ. Nhờ đó, họ có thể chấp nhận cuộc khổ nạn và cái chết đau thương của Người trên thập tự mà không vấp phạm. Điều này cũng giống như việc các bác sĩ thẩm mỹ chỉnh hình cho các bệnh nhân xem hình vẽ dung mạo xinh đẹp mà họ sẽ có sau khi chữa trị, để họ dễ chấp nhận những tốn kém hay đớn đau phiền toái của quá trình điều trị.

Trong Chúa Giêsu và nhờ cuộc tử nạn và phục sinh của Người, tất cả nhân loại chúng ta đã tìm được phương thức lột xác và chỉnh hình để xóa bỏ dung mạo xấu xa ghê tởm vì tội loi và khôi phục lại vẻ đẹp siêu việt tuyệt vời của hình ảnh Thiên Chúa nơi linh hồn chúng ta.

Đó là Tin mừng mà Giáo hội muốn công bố cho mọi người qua mọi thời đại.

Bài trích sách Sáng Thế trong phụng vụ hôm nay nói đến việc Abraham được Chúa kêu gọi để từ bỏ quê hương để đi đến miền đất mới Chúa hứa ban với bao phúc lộc, và ông đã ra đi. Qua việc đón nhận niềm tin Công giáo và bí tích Rửa tội, chúng ta đã chấp nhận đi ra khỏi giới hạn của sự khao khát và kiếm tìm những cái đẹp thuần túy vật thể và tự nhiên, để bắt đầu theo chân Chúa Giêsu kiếm tìm, chiêm ngưỡng và thông dự vào vẻ đẹp siêu nhiên thần thiêng của chính Thiên Chúa.

Thánh Phaolô trong thư gửi Timôtê trong bài đọc 2 của Phụng vụ hôm nay cũng đã kêu gọi Timôtê “hãy chung phần cam khổ vì Tin mừng dựa vào quyền năng của Thiên Chúa, Đấng cứu thoát ta, và đã ra thánh triệu kêu gọi ta, không chiếu theo các việc ta làm, nhưng là chiếu theo chính dự định và ân sủng Người đã ban cho ta trong Đức Kitô Giêsu, từ trước đời đời hằng có, và nay đã cho hiển hiện nhờ cuộc Hiển linh của Cứu Chúa chúng ta, Đức Kitô Giêsu, Đấng đã hủy diệt sự chết và chiếu sáng ra sự sống, và sự bất hoại, nhờ Tin Mừng” (1 Tim 1: 8b-10).

Giáo Hội muốn dùng chính những lời này trong Mùa Chay để kêu gọi chúng ta chấp nhận và nỗ lực thực thi những đòi hỏi của Tin mừng để được lột xác biến hình hầu có được vẻ đẹp siêu việt vĩnh hằng của chính Chúa Giêsu.

Trong xã hội hôm nay rất nhiều người chấp nhận tốn kém, kỷ luật và phiền toái như kiêng ăn, uống thuốc, tập thể dục thể thao hay giải phẫu để có được vẻ đẹp mau qua chóng tàn của thân xác. Chẳng lẽ người tín hữu chúng ta lại không dám quyết tâm sống trọn vẹn ơn gọi Kitô hữu của mình, “ơn gọi làm đẹp” tâm linh sao?

Lạy Mẹ Maria là Mẹ Tuyệt Mỹ, xin Mẹ giúp chúng con luôn khao khát say mê chiêm ngưỡng vẻ đẹp thần linh của Chúa Giêsu Con Mẹ. Xin Mẹ dạy chúng con biết chấp nhận và thánh hoá mọi đau khổ trong cuộc sống để Chúa biến đổi chúng con nên “đồng hình đồng dạng” như hình ảnh tuyệt vời của chính Người. Amen.

19.Đây là con yêu dấu của Ta

(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)

Các tông đồ không ngừng ngạc nhiên về Thầy của họ. Hằng ngày họ vẫn sống với Thầy, nghe Thầy giảng dạy, thân tình và bình thường, nhưng hôm nay, họ khám phá ra nơi Thầy của họ một chiều kích bất ngờ và thật thú vị.

Ngài dẫn ba người Ngài chọn lên núi với Thầy. Ba người này sẽ có mặt trong vườn cây dầu, và sẽ chứng kiến một chiều kích khác nữa của Ngài, là con người thống khổ tột độ, van xin họ thức với Thầy một giờ.

Thầy trò lên núi cao, vắng lặng, xa tất cả mọi người, xa những ồn ào của những ngày bị đám đông bao vây. Và trong nơi thanh vắng đó, họ khám phá ra Thầy trong khuôn mặt tuyệt vời: dung nhan Người chói lọi như mặt trời… Họ được đưa vào trong một thế giới khác, thế giới của riêng Thầy, của vinh quang khôn tả của Người Con Một, đầy ân sủng và chân lý.

Chúng ta tin Chúa, nhưng chưa bao giờ chúng ta khám phá được khuôn mặt thật của Ngài. Chúng ta chỉ nhìn thấy những dấu hiệu, và chỉ biết Ngài sơ sài, nông cạn. Làm sao khám phá ra khuôn mặt thật của Thầy?

Chúng ta hãy lên núi cao, nơi vắng lặng, nơi mà chỉ có riêng một mình Thầy với ta. Núi cao hôm nay của chúng ta không phải là ngọn núi nào, mà trong một nơi không còn tiếng ồn ào náo nhiệt của tivi, điện thoại, con người, công việc… Một góc nhà thờ, một bờ sông, một căn phòng im lặng… Chúng ta sẽ thấy được dung nhan Ngài. Ngài sẽ tỏ cho chúng ta thấy khuôn mặt đáng yêu của Ngài. Ngài sẽ nói với chúng ta như đã nói với tiên tri Hôsê: “Ta sẽ quyến rũ nó, đưa nó vào sa mạc, để cùng nó thổ lộ tâm tình… Ta sẽ lập với ngươi một hôn ước vĩnh cửu… Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong công minh chính trực, trong ân tình và xót thương; Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong tín thành, và ngươi sẽ được biết Đức Chúa”. (Biết ở đây có nghĩa là yêu).

Có những lời nào ngọt ngào hơn nữa không? Có những lời nào đầy ắp tình yêu như thế không?

Đó là khuôn mặt thật của Chúa chúng ta, Thiên Chúa Tình Yêu. Chúng ta cần khám phá ra khuôn mặt đáng yêu đó, chúng ta mới nếm được sự êm dịu ngọt ngào của Thiên Chúa. Đức tin của chúng ta sẽ ấm lên trong ta. Chúng ta sẽ thấy muốn ở lại với Ngài mãi, như Phêrô: “Thưa Thầy, ở đây thật tuyệt vời! Xin Thầy cho chúng con dựng ba lều…” Chúng ta muốn nếm được sự êm dịu đó không? Hãy can đảm đi vào vắng lặng, chỉ chú tâm đến một mình Chúa thôi.

Phêrô, khi khám phá khuôn mặt vinh quang của Chúa, ông đã muốn ở lại với Thầy mãi, không muốn trở về với cuộc sống hằng ngày nữa. Ông muốn kéo dài, vui hưởng hạnh phúc với Thầy mãi. Ông đã sống những giây phút tuyệt dịu với Thầy, ông không còn muốn điều gì khác. Nhưng đây chỉ là một dấu chỉ, một nếm trước mà thôi. Còn nhiều việc phải làm, còn nhiều giai đoạn phải trải qua. Thị kiến đã hết, bây giờ phải xuống núi, phải bước vào giai đoạn quyết liệt: “Con Người sẽ bị nộp, sẽ chết… và ngày thứ ba, sống lại”.

Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể vẫn đang rất gần chúng ta, nhưng chúng ta quá xa Ngài. Hãy đến, hãy ở lại với Ngài như Ngài vẫn nài nỉ chúng ta: “Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”. Thiên Chúa phải nài nỉ chúng ta như thế sao? Có cái gì mà Ngài không làm để chứng tỏ tình thương của Ngài, nhưng chúng ta có chú ý đến Ngài đâu! Chúng ta chạy theo đủ các thứ thần tượng trần thế: minh tinh màn bạc, siêu sao bóng đá, ca sĩ ăn khách… Ngài là ai đối với chúng ta?

Các thánh đã say mê Chúa Giêsu, quỳ lâu giờ dưới chân Chúa, thâu đêm như Cha Charles de Foucauld và rất nhiều thánh khác. Sao chúng ta không thử ở lại với Chúa một vài phút sau khi ăn lấy Chúa? Sao chúng ta không mang Chúa vào cuộc sống, làm việc với Chúa, lao động với Chúa, phục vụ mọi người với Chúa. Biết bao nhiêu cách để gần gũi với Ngài.

Có lẽ chúng ta nói rằng, các tông đồ được diễm phúc hơn chúng ta, được thấy Ngài, còn chúng ta, chúng ta chỉ thấy dấu hiệu. Phải, nếu chúng ta chỉ thấy dấu hiệu, thì cũng đủ để chúng ta thấy Ngài. Nhưng chúng ta có ở lại với Ngài đâu! Chúng ta bận bịu đến nỗi không còn một giây phút nào để ở với Ngài. Chúng ta đủ lý do để từ chối Ngài. Chỉ vì chúng ta không yêu Ngài. Những người yêu nhau không bao giờ cảm thấy đủ thời giờ ở bên nhau. Đối với họ, thời giờ sao quá nhanh. Còn chúng ta, chúng ta cứ thấy thời gian quá dài khi đến với Chúa. Tình yêu của chúng ta là như thế sao? Những người yêu nhau , dù bận bịu thế nào, cũng tìm cách liên lạc với nhau. Vắng là nhớ là thương. Họ tìm mọi cách để gặp nhau, để chuyện trò, không cách này thì cách khác, phải nói với nhau cái gì đó… nhắn tin, điện thoại, thư từ… Một tiếng nói yêu thương thôi cũng đủ. Chúa Giêsu, bất cứ lúc nào cũng có thể gặp được, không cần điện thoại hay một phương tiện nào, sao chúng ta không tìm cách liên lạc với Ngài? Sao chúng ta không nói với Ngài những tiếng nói yêu thương? Ngài xa lạ lắm sao?

Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể vẫn là Chúa Giêsu trên đỉnh núi, vẫn là Chúa Giêsu sáng chói như mặt trời, vẫn là Chúa Giêsu được Chúa Cha công nhận: “Này là Con yêu dấu của Ta, các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Chúng ta tưởng hôm nay, Ngài chỉ là tấm bánh nhỏ thôi sao? Ngài vẫn là Đấng tràn đầy ân sủng, tràn đầy chân lý. Ngài vẫn là Đấng đã yêu thương chúng ta đến nỗi trở nên một tấm bánh nhỏ vì chúng ta, để nuôi dưỡng những con người li ti nhỏ hèn là chúng ta, thế mà chúng ta đã đối xử tệ với Ngài, không chú ý đến Ngài, và vô tình lạnh nhạt một cách có thể nói là tàn nhẫn. Chúng ta có đạo không? Chúng ta có tin không? Chúng ta hà tiện một tiếng nói, một ánh nhìn sao?

Trên đỉnh núi đó, Môsê và Êlia xuất hiện, đàm đạo với Ngài. Hai tổ phụ quan trọng đó đại diện cho Lề Luật và tiên tri đã đến, điều đó chứng tỏ Chúa Giêsu gồm tóm nơi Ngài cả hai nền tảng của Cựu Ước. Ngài kiện toàn Lề Luật và thực hiện những gì các tiên tri đã báo trước. Ngài là điểm quy tụ của cả hai dòng lịch sử, Ngài là trung tâm của mọi hồng ân, của ơn cứu rỗi. Vì thế Chúa Cha đã bảo chúng ta: “Hãy lắng nghe lời Ngài”.

Chúng ta có nghe lời Người Con Yêu Dấu của Chúa không? Nghe như thế nào? Nghe với tất cả tình yêu hay lơ đảng, chán buồn?

Lời Chúa là ánh sáng. Hãy để cho ánh sáng thần linh đó rọi chiếu vào trong u tối của chúng ta, cuộc sống chúng ta sẽ trở nên rực sáng niềm vui và can đảm. Ngài đã tỏ vinh quang phục sinh trước khi Ngài bước vào cuộc tử nạn tăm tối, nhờ đó, khi nhục nhã phủ đầy, các tông đồ mới nhận ra khuôn mặt đau thương của Ngài, Đấng xóa tội trần gian, người đầy tớ của Thiên Chúa, chết cho muôn người, mà tiên tri Isaia đã báo trước. Vì thế, khi xuống núi, Ngài căn dặn các môn đệ, đừng nói cho ai biết về thị kiến kẻo gây hiểu lầm. vì giờ của Ngài chưa đến.

Hôm nay, tham dự vào hiến tế này, chúng ta hãy nhìn vào Chúa Giêsu với cái nhìn của các tông đồ trên đỉnh núi, một cái nhìn say mê, và hãy ước mong sống với Ngài mãi mãi, dù cuộc sống chúng ta không dễ dàng, dù mọi sự đều trở nên thập giá. Hãy như Phêrô, xin cất ba lều để chúng ta không tách rời Ngài ra khỏi cuộc sống trần gian của chúng ta. Liên kết bền chặt với Ngài vì chính Ngài đã liên kết chúng ta trước.

20.Biến đổi

Cuộc sống của con người và vũ trụ vạn vật là một sự biến đổi liên lỉ. Có những biến đổi tích cực nhưng cũng có những biến đổi tiêu cực. Những biến đổi tích cực là khi con người hay sự vật chuyển từ một tình trạng xấu sang một tình trạng tốt hơn do nỗ lực của chính bản thân con người hay do trợ lực từ bên ngoài (Ơn Chúa, tha nhân, vũ trụ vạn vật, những biến cố…) Điển hình cho sự biến đổi này có thể kể đến hình ảnh của một Giakêu, của Phaolô, của các Tông đồ sau ngày lễ Ngũ tuần… Nhưng cũng có những biến đổi mang tính tiêu cực khi con người chọn lựa cho mình một thái độ sống ích kỷ, tham lam và kiêu căng. Khi đó, họ đang chuyển từ một tình trạng tốt sang một tình trạng xấu. Đó là hình ảnh của một vua Saul – vị vua đầu tiên của Israel, của một Giuđa Iscariot…Những cuộc biến đổi thật cần thiết biết bao trong cuộc sống dương thế của con người, nhưng phải là những cuộc biến đổi tích cực. Khi con người không còn biến đổi nữa thì có thể nói là họ đã chết rồi, hay có sống cũng chỉ là một sự hiện hữu vô hồn và không có ích gì cho chính mình cũng như cho người khác.

Bài đọc một hôm nay tường thuật cho chúng ta về việc Ápraham nghe theo tiếng Chúa gọi để ra đi đến một miền đất mà Ông không hề biết trước đó. Ông đang ở trong một quá trình biến đổi, nói đúng hơn là ông đang được biến đổi. Bởi lẽ tác nhân biến đổi cuộc đời của ông chính là Thiên Chúa, nên cuộc đời của ôn g và tương lai của ông thật huy hoàng và vững chắc.

Tin mừng hôm nay cũng tường thuật cho chúng ta nghe về việc Chúa Giêsu biến đổi dung mạo của Ngài trên núi trước mặt ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan. Cuộc biến đổi mà Ngài đang thực hiện mang một ý nghĩa tích cực, tiên báo vinh quang phục sinh huy hoàng sau khi Ngài chu toàn thánh ý của Chúa Cha trong chương trình cứu chuộc con người sự biến đổi tuyệt vời này làm cho các môn đệ ngây ngất trước vẻ đẹp của một Thiên Chúa vốn là Chân, Thiện, Mỹ.

Cuộc biến đổi tích cực nào cũng đòi buộc con người phải hy sinh, phải công tác vào phần của mình một cách chủ động vào trong đó. Như hạt lúa muốn trở thành cây lúa thì phải chấp nhận một sự biến đổi âm thầm trong đau đớn vì sự mục nát và thối đi của mình. Vinh quang phục sinh và phần thưởng trọng đại trên thiên quốc cũng dành cho những ai biết hy sinh quên mình, biến chấp nhận được biến đổi và thanh lọc bởi Lời của Chúa và giáo huấn của Hội thánh.

Biết trước sự yếu đuối và nhát đảm của các môn đệ, Đức Giêsu đã cho các ông thấy và chiêm ngấm trước vinh quang của Ngài, vinh quang mà Ngài sẽ lấy lại sau khi đi vào cuộc tử nạn nhằm cứu chuộc con người khỏi vòng nô lệ của tội lỗi. Vinh quang đó cũng sẽ dành cho các môn đệ và cho tất cả chúng ta nếu chúng ta tích cực và chủ động góp phần vào chương trình cứu chuộc mà Thiên Chúa đã và đang thực hiện vì con người và cho con người.

Chúa Giêsu biến đổi dung nhan của Ngài trước nhằm biểu lộ vinh quang vốn có của Ngài trước mặt các môn đệ và cũng là nhằm biến đổi các môn đệ để các ông trở nên can đảm hơn tin tưởng hơn và biết tín thác hơn vào Thiên Chúa.

Chúng ta đang sống trong những ngày Chay thánh. Giáo hội tha thiết mời gọi chúng ta hãy làm một cuộc biến đổi tích cực cho cuộc đời của mình. Nếu chúng ta đang ở trong một tình trạng xấu hay một tình trạng tội lỗi, chúng ta hãy can đảm và mạnh dạn biến đổi và cầu xin ơn được biến đổi để cuộc đời của chúng ta được nhẹ nhàng thư thái và đảm bảo cho tương lai của chúng ta được huy hoàng như tổ phụ Abraham của chúng ta. Hay nếu chúng ta đang ở trong một tình trạng không có gì tệ hại cho lắm, thì chúng ta cũng cần làm một cuộc biến đổi tích cực để có một tình trạng tốt hơn, và tiếp nhận một sức sống tốt hơn. Hãy làm cho cuộc đời của chúng ta trở thành một dòng sông không ngừng chảy về Biển cả và tiếp nhận nguồn nước sạch tinh từ Biển cả là chính Thiên Chúa của chúng ta.

21.Nước Thiên Chúa

Trong sách giáo lý Tân Định, tôi vẫn còn nhớ như in câu hỏi: Ta sống ở đời này để làm gì? Thưa ta sống ở đời này để nhận biết, tôn thờ Chúa là Đấng Tạo Hoá đã dựng nên ta, và để sau này ta được hưởng hạnh phúc với Ngài trên thiên đàng đời đời. Đúng thế! Mục đích đời sống của người kitô hữu là để được hưởng hạnh phúc đời đời trên thiên đàng với Thiên Chúa.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, thuật lại cuộc biến hình uy nghi của Chúa Giêsu trên núi trước mặt ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan. Chúa Giêsu đã tỏ cho ba môn đệ thân tín thấy thiên tính của Ngài: Một Vị Ngôi Hai Thiên Chúa vinh hiển sáng ngời “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng” và ba ông đã cảm nếm được hạnh phúc trong chốc lát. Phêrô đã thốt lên: “Chúng con ở đây thật là hay!” Cảnh Chúa Giêsu biến hình có thể hiểu được đó là hình ảnh của Nước Thiên Chúa được thể hiện ra trong chốc lát cho ba môn đệ thân tín để các ông vững tin hơn; đồng thời cũng để cho nhân loại và cho chúng ta có một vài khái niệm về Nước Thiên Chúa, mà chúng ta thường gọi là Thiên Đàng. Vậy qua đây, chúng ta cùng nhau nhận ra một vài nét đặc trưng của Nước Thiên Chúa:

1. Nét đặc trưng thứ nhất: đó là Nước Thiên Chúa vượt ra ngoài không gian – thời gian mà con người đang sống. Không có sự phân biệt tách rời quá khứ, hiện tại và tương lai. Bởi vì, qua bài tường thuật, chúng ta thấy Êlia và Môsê là những người thuộc thế hệ xa xôi trong quá khứ đã cùng hiện diện với Phêrô, Giacôbê và Gioan là những người sống trong thế hệ hiện tại lúc bấy giờ. Và hình ảnh Chúa Giêsu sáng láng rực rỡ, biểu hiện cho cảnh tượng hiển vinh trong tương lai. Ở trần gian, con người thường đau khổ vì chịu sự chi phối của thời gian và không gian, phải ly cách với quá khứ, ly cách với ông bà tổ tiên, với nơi này chốn nọ. Còn ở trong Nước Thiên Chúa, không có sự ly cách đó nữa; cũng không còn phải sống trong không gian đầy dẫy những tai ương, bệnh tật và âu lo.

2. Nét đặc trưng thứ hai: đó là con người trong Nước Thiên Chúa rất là xinh đẹp. Mátthêu tả rằng: “Mặt Ngài sáng chói như mặt trời, áo Ngài trắng tinh như ánh sáng”, thánh Máccô thì nói: “Áo Ngài nên rạng ngời, trắng tinh đến nỗi thợ giặt trần gian không tài nào giặt được trắng như thế”. Còn dáng vẻ của Êlia và Môsê thì thánh Luca nói: “Êlia và Môsê hiện ra sáng láng hiển vinh”. Rõ ràng con người trần gian không thể nào đẹp sánh bằng con người trong Nước Thiên Chúa.

3. Nét đặc trưng thứ ba: đó là được hạnh phúc tròn đầy. Mặc dù, hiện tượng Chúa biến hình chỉ xãy ra trong chốc lát nhưng đã khiến Phêrô thích thú ngây ngất và đã thốt lên: “Lạy Ngài, chúng con ở đây thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho Môsê và một cho Êlia”.

Nước Thiên Chúa được hé mở cách thoáng qua cho ba môn đệ trong cuộc biến hình của Chúa Giêsu trên núi Tabor, hẳn cũng xứng đáng cho con người mong mỏi, ước ao và kiếm tìm, và thật là xứng đáng để chúng ta hy sinh vứt bỏ những bám víu ở trần gian như tiền tài, danh vọng, địa vị để đổi lấy Nước Thiên Chúa, như lời dạy của Chúa Giêsu “Trước hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33).

Trong bài đọc một, ông Abraham đã vứt bỏ đằng sau lưng những gì là thân thiết như quê hương xứ sở, bà con láng giềng, bỏ lại ruộng đất, nhà cửa để đi theo tiếng mời gọi của Thiên Chúa. Ông đã tin vào lời Thiên Chúa hứa và ông đã lên đường đến xứ sở mà Thiên Chúa sẽ chỉ cho, để rồi ông chỉ còn tôn thờ một mình Thiên Chúa Giavê mà thôi. Và ông đã trở thành tổ phụ của những ai tin vào Thiên Chúa, ông đã chiếm được một phần gia nghiệp trong Nước Thiên Chúa.

Vậy chúng ta cũng hãy mạnh dạn tiến bước như tổ phụ Abraham, và đáp lại lời mời gọi của Chúa trong mùa chay thánh này, là hãy sám hối, thay đổi đời sống quay trở về với Thiên Chúa, hãy chọn Chúa là gia nghiệp, và Chúa là sự chọn lựa số một trong đời sống của chúng. Khi chọn Chúa là số một, đôi lúc sẽ làm chúng ta phải chùn bước, thậm chí ngã lòng nữa, lúc đó, chúng ta hãy nhớ rằng: 1/ Đức Kitô sáng láng của núi Tabor cũng chính là Đức Kitô thấm đẫm mồ hôi máu trong vườn cây dầu. 2/ Đức Kitô rực rỡ của núi Tabor cũng là Đức Kitô vác thập giá ngã lên ngã xuống nhiều lần trên đường đến núi sọ. 3/ Đức Kitô vinh quang của núi Tabor cũng chính là Đức Kitô treo trên thập giá ở đỉnh núi sọ.

Với vinh quang của Chúa biến hình, ước gì trong mùa chay thánh này, chúng ta có một sự chọn lựa dứt khoát: Chúa là gia nghiệp của chúng ta. Và như thế, chắc chắn phần thưởng Chúa dành cho chúng ta ở trên Thiên Đàng là điều hiển nhiên. Amen.

22.Chúa biển đổi và biến đổi để theo Chúa – Anmai

Thiên Chúa chọn mỗi người, mỗi dân tộc mỗi cách; Thiên Chúa gọi mỗi người mỗi dân tộc mỗi cách cách tùy theo Thánh ý của Ngài. Ngài gọi, Ngài chọn để cho cho người ấy, dân tộc ấy trở thành con cái, trở thành dân riêng để thừa hưởng sản nghiệp của Ngài.

Hôm nay, qua sách Sáng Thế, chúng ta được nghe trình thuật Thiên Chúa đã chọn và gọi Áp-ram. Quả thật là một lối chọn, lối gọi sốc vì lẽ Thiên Chúa bảo Áp-ram lên đường đi theo lời Chúa chỉ vẽ. Sốc vì lẽ đang sống nơi quê cha đất tổ an bình nhưng giờ phải ra đi. Đứng trước lời mời gọi ấy Áp-ram cũng hết sức đắn đo vì không biết rằng mình đi như vậy không biết cuộc đời, tương lai mình sẽ đi về đâu. Tin vào lời Chúa, Áp-ram đã lên đường. Thiên Chúa hứa sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho Áp-ram và nguyền rủa những ai nguyền rủa Áp-ram.

Nếu chúng ta tiếp tục đọc lại lịch sử Israel và đọc lại cuộc đời của Áp-ram thì thử thách lên đường đi đến xứ sở khác chỉ là một trong những muôn vàn thử thách của Thiên Chúa thôi. Chắc chúng ta không thể nào quên được thử thách cay nghiệt nhất trong cuộc đời Áp-ram đó là việc sát tế đứa con trai duy nhất, đứa con trai đầu lòng mà ông bà có trong khi tuổi già hết sức mong manh khi có con. Thế nhưng, vẫn một niềm tín thác vào Thiên Chúa, Áp-ram đã hiến tế luôn cục cưng I-sa-ác. Sau thử thách ấy, Thiên Chúa đã đổi tên ông thành Áp-ra-ham và cho ông luôn cả một cái tên là “cha của những kẻ tin”.

Thế đấy! Áp-ra-ham đã xác tín và đã tin vào Thiên Chúa. Áp-ra-ham lên đường và lên đường dẫu rằng không biết mình đi đâu và đời mình sẽ ra sao.

Khi Áp-ra-ham tin theo Chúa, đi theo Chúa thì cuộc đời của ông hoàn toàn thay đổi. Ông không còn sống cho mình nữa nhưng ông sống cho Thiên Chúa, trong Thiên Chúa và với Thiên Chúa.

Ngày hôm nay, qua trình thuật của Matthêu, chúng ta cũng được thấy được sự biến đổi, được thay đổi khi bước theo Chúa.

Các môn đệ, chẳng ai biết Chúa Giêsu là ai cả, chỉ là những ngư phủ hết sức bình thường, đang vá lưới bên bờ biển và sau khi nghe tiếng gọi của Chúa các ông đã bỏ cha mẹ, vợ con và đi theo Chúa. Thật ra mà nói, quyết định của các ông là quyết định liều. Cuộc sống đang ấm êm bên cha, bên mẹ, bên gia đình, bên vợ bên con bỗng dưng đi theo cái con người mà ngay cả “chim có hang – chồn có tổ” còn Con Người không có chỗ tựa đầu. Bấp bênh chưa từng có, mông lung hết sức tưởng tượng.

Quen nhau, ở với nhau một thời gian và rồi hôm nay Chúa Giêsu “mời” bốn môn đệ thân tín đi theo Ngài. Hôm nay không phải lang thang đây đó ở bờ biển này, đồng bằng kia mà hôm nay lại đi lên núi. Bảo đi thì đi chứ có biết gì đâu vì đi theo Thầy là lẽ hết sức bình thường. Thế nhưng, hôm nay lại là một ngày hết sức đặc biệt. Như Matthêu thuật lại, chúng ta thấy hôm nay Chúa Giêsu cho các môn đệ thân tín thấy vinh quang của Ngài, Chúa Giêsu tỏ mình cho các môn đệ thấy về mình: “Sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em ông Gia-cô-bê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. Và bỗng các ông thấy ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người. Bấy giờ ông Phê-rô thưa với Đức Giê-su rằng: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a.” Ông còn đang nói, chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông, và có tiếng từ đám mây phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!”

Thật kinh khủng! Mọi ngày thì thầy Giêsu của mình hết sức bình thường nhưng hôm nay dung mạo bỗng khác, y phục khác và có cả Mô-sê và Ê-li-a hiện ra để đàm đạo nữa. Một cảnh tượng không thể tưởng tượng được và trong cái vinh quang ấy Phêrô đã nhanh nhảu nói với Chúa Giêsu để ông dựng lều cho Thầy mình ở đây để ông cùng các môn đệ chiêm ngưỡng cái vinh quang tuyệt vời này.

Sau biến cố hết sức đặc biệt này, Thầy và trò xuống núi, trở về với cái đời thường loan báo Tin Mừng. Chúa Giêsu hé lộ cho các môn đệ thấy về con người thật của mình, hé cho các môn đệ thấy vinh quang thật của mình.

Trong hành trình theo Chúa, trong hành trình loan báo Tin mừng, vốn dĩ mang trong mình là phận người mỏng dòn yếu đuối, ắt hẳn các môn đệ cũng ngã lên té xuống vì đức tin mỏng dòn non yếu. Thế nhưng, được ở gần Chúa Giêsu, được ở bên Chúa Giêsu và đặc biệt qua Thánh Thể và qua Phục Sinh các môn đệ ở trong Chúa Giêsu nữa. Ở bên, ở trong để rồi cuộc đời của các môn đệ khác với những người không tin. Cuộc đời các môn đệ khác với những người không tin. Dù gặp khó khăn, dù gặp thử thách nhưng các môn đệ đã lấp lánh, đã chiếu sáng cuộc đời của các Ngài ở giữa vòm trời đen tối như Thánh Phaolô mời gọi “Anh em hãy chiếu sáng như những vì sao giữa thế gian”.

Chiếu sáng giữa thế gian như Phaolô mời gọi không phải là tẩm xăng vào người để đốt cho người sáng lên để mọi người được thấy! Chiếu sáng giữa thế gian không phải là mua dầu, mua đèn gắn vào trong người để mình tỏa sáng cho thế gian. Chiếu sáng giữa thế gian có nghĩa là chiếu tỏa ánh sáng của Chúa Giêsu, ánh sáng của Tin mừng ở giữa cuộc đời này.

Ánh sáng mà Chúa Giêsu muốn, mà Thánh Phalô mời gọi còn phảng phất trong I-sa-i-a chương 58. Chúng ta đọc I-sa-i-a chương 58 sẽ gặp tâm tình như thế này:

Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao:

mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc,

trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm?

Chẳng phải là chia cơm cho người đói,

rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ;

thấy ai mình trần thì cho áo che thân,

không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục?

Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông,

vết thương ngươi sẽ mau lành.

Đức công chính ngươi sẽ mở đường phía trước,

vinh quang Đức Chúa bao bọc phía sau ngươi.

Bấy giờ, ngươi kêu lên, Đức Chúa sẽ nhận lời,

ngươi cầu cứu, Người liền đáp lại: “Có Ta đây! “

Nếu ngươi loại khỏi nơi ngươi ở

gông cùm, cử chỉ đe doạ và lời nói hại người,

nếu ngươi nhường miếng ăn cho kẻ đói,

làm thoả lòng người bị hạ nhục,

thì ánh sáng ngươi sẽ chiếu toả trong bóng tối,

và tối tăm của ngươi chẳng khác nào chính ngọ. (Is 58, 6-10)

Thế đấy! Những lời mời trên đây của I-sa-i-a cho chúng ta biết thế nào là ánh sáng của những ai mang trong mình danh Kitô hữu.

Chúng ta đang sống trong mùa Chay Thánh, I-sa-i-a vừa nhắc cho chúng ta cách ăn chay mà Thiên Chúa ưa thích, mà Thiên Chúa mời gọi: rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ;thấy ai mình trần thì cho áo che thân,không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục?Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông…

Xin cho chúng ta biết bắt chước như Áp-ra-ham biến đổi cuộc đời khi bước theo Chúa, xin cho chúng ta cũng biết bắt chước như các môn đệ cũng biến đổi con người hèn kém của mình để bước theo Chúa.

23.Con đường Thập Giá – Con đường vinh quang

Tuần trước chúng ta đã cùng với Chúa Giêsu lên núi để chịu ma quỷ cám dỗ. Ðáng tiếc cho ma quỷ là nó không làm gì được Chúa Giêsu. Chỉ vì Người một mực chọn và làm theo lời dạy của Chúa Cha. Chúa Nhật hôm nay chúng ta tiếp tục cùng ba môn đệ theo Chúa Giêsu lên núi. Nếu như tuần trước chúng ta thấy Chúa Giêsu có vẻ yếu đuối bao nhiêu thì hôm nay Người trở nên mạnh mẽ oai quyền bấy nhiêu. Chúa Giêsu đã trở về tình trạng vinh quang của Người: “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng” (Mt 17, 2b).

Với vinh quang này, ba môn đệ cảm thấy rất thích nên Phêrô đã không ngần ngại thưa: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay!” (Mt 17, 4b). Liền sau đó là tiếng Chúa Cha từ đám mây phán: “Ðây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” (Mt 17, 5b). Chúa Cha rất hài lòng về Chúa Giêsu. Vì Người đã vui lòng đón nhận con đường mà Chúa Cha đã vạch sẵn cho. Con đường ấy chính là con đường thập giá. Cũng chính con đường thập giá ấy mới là con đường vinh quang đích thật. Và rồi Chúa Cha cũng muốn mời gọi ba môn đệ và tất cả chúng ta hãy đi theo con đường Thập giá cùng với của Thầy mình.

Chúa Giêsu cũng là Thiên Chúa thật nên vinh quang mà chúng ta chiêm ngưỡng là điều bình thường. Ðiều đáng nói là vì thương và vì muốn đem lại ơn cứu độ cho con người chúng ta, nên Chúa Giêsu đã đón nhận con đường thập giá ấy. Chúng ta thấy không bao giờ Chúa Giêsu kêu gọi người ta làm gì mà chính Người đã không làm trước. Chẳng hạn khi Người kêu gọi hãy tha thứ thì chính Người cũng đã tha thứ cho những kẻ đã bắt bớ, đã sỉ nhục mình: “Lạy Cha xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”. (Lc 23, 34. Cho nên, nếu Chúa Giêsu đã đi con đường thập giá thì những ai muốn theo Người không thể đi đường khác được. “Ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ chính mình vác thập giá mình mà theo Thầy” (Mt 16, 24).

Vậy đâu là con đường thập giá. Ðó là con đường từ bỏ những ý riêng của mình mà sống theo thánh ý Chúa Cha. Bài đọc 1 cho thấy ông Abram được Thiên Chúa mời gọi: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi” (St 12, 1b). Thật là một lời mời gọi hết sức vô lý theo cái nhìn của chúng ta. Tuy nhiên, ông đã vâng lời Chúa để ra đi mà không một lời phàn nàn. Nhờ đó mà ông đã trở thành Tổ phụ của nhiều dân tộc.

Hằng ngày trong cuộc sống chắc chắn có rất nhiều điều trái ý nhưng nếu biết đó là thánh ý Chúa Cha, chúng ta hãy tin tưởng mà bước đi. Bước đi như thế là chúng ta đang đi theo Chúa Giêsu – vị Thầy Chí Thánh của chúng ta. Bước theo con đường thập giá cũng chính là con đường vinh quang.

24.Thiên Chúa vẫn còn hiển dung

(Trích từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)

Nếu bạn là một người từ hành tinh khác vừa mới đáp xuống địa cầu lần đầu tiên, ắt bạn sẽ thấy trái đất nầy quá đỗi nhiệm mầu: ngay cả mỗi chiếc lá, mỗi chiếc vỏ sò, mỗi cánh bướm, mỗi bông hoa… đều có một sắc thái riêng, một vẻ đẹp riêng thật quyến rủ, thật nhiệm mầu và bạn cảm thấy tâm hồn ngây ngất vì vẻ đẹp lạ lùng của chúng.

Thế nhưng trong thực tế, không mấy ai có thể cảm nhận được vẻ đẹp nhiệm mầu của những tạo vật như thế. Tại sao?

Vì mỗi lần nhìn vào những sự vật chung quanh, chúng ta không nhìn chúng bằng cặp mắt đầy ngạc nhiên của trẻ thơ, bằng ánh mắt của người mới thấy sự vật lần đầu; chúng ta không nhìn chúng y như chúng là, nhưng chúng ta để cho những hình ảnh ta có về chúng (vốn có sẵn trong tâm trí ta) phóng hiện ra bên ngoài và bao phủ lên những vật đó.

Thế là vạn vật chung quanh ta trở thành cũ rích và nhàm chán, vẻ đẹp tinh khôi nhiệm mầu của chúng đã bị hình ảnh ta có về chúng phóng rọi ra che phủ nên không còn hiển dung ra được nữa. Một trong những nổ lực của thiền nhân là thanh tẩy cái nhìn mang tính chủ quan của mình về ngoại giới để có thể cảm nhận được vạn vật đúng với bản chất của nó. Lúc đó, sự kỳ diệu của thế giới sẽ hiện nguyên hình.

Trong cuốn sách The Golden String, văn sĩ người Anh Bede Griffiths mô tả lại một khám phá diệu kỳ của ông khi còn là một cậu học sinh.

Một buổi chiều hè, Bede Griffiths ung dung thư thái dạo chơi ở bìa rừng. Trong lúc thơ thẩn một mình bỗng dưng cậu nhận ra tiếng hót líu lo của đàn chim trên tàng cây mới tuyệt vời làm sao! Cậu rất ngạc nhiên vì từ hồi nào đến giờ chưa bao giờ được nghe chúng hót hay đến thế.

Đang lúc tiếp tục bước tới, cậu gặp thấy những đoá hoa của những bụi táo gai như đang mỉm cười niềm nở chào đón cậu trông dễ thương lạ lùng và đang toả hương trong gió. Bede cũng rất ngạc nhiên vì từ trước tới nay cậu đã từng thấy những bông hoa như thế nở rộ cả trăm lần mà không hề nhận ra vẻ đẹp tinh khôi và hương thơm dịu dàng của chúng.

Sau cùng cậu tìm đến một nơi yên tĩnh, đứng tựa vào thân cây, lặng ngắm vầng kim ô đang dần dần chìm xuống sau rặng núi lam cuối chân trời. Bỗng chốc cậu cảm thấy trời đất vô cùng huyền diệu và bất giác cậu nghiêng mình quì gối xuống biểu lộ một niềm cảm xúc rất thánh thiêng: cậu vừa trải nghiệm được sự hiện diện rất nhiệm mầu của Thiên Chúa trong tạo vật của Ngài.

* * *

Theo Tin Mừng Matthêu được trích đọc hôm nay, chiều hôm ấy trên núi cao, ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê cũng có những trải nghiệm tuyệt vời về Chúa Giêsu. Cũng vẫn là Chúa Giêsu bằng xương bằng thịt mà các ông vẫn thường gặp gỡ tiếp xúc hằng ngày, nhưng lần nầy, các ông lại nhìn thấy Ngài dưới một dung mạo mới: thật sáng ngời, thật hấp dẫn và đầy uy nghi, lại có cả Môi-sê và tiên tri Êlia hiện ra đàm đạo với Ngài.

Lòng đầy hoan lạc, các ông không muốn cho giây phút mầu nhiệm đó trôi đi. Các ông muốn níu kéo khoảnh khắc thần tiên ấy lại nên Phêrô thay mặt anh em thưa với Chúa Giêsu: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia.”

* * *

Hôm nay, Thiên Chúa vẫn hiển dung dưới thiên hình vạn trạng nhưng vì đôi mắt chúng ta bị che phủ nên không nhận ra Ngài.

* Vinh quang của Thiên Chúa vẫn được hiển dung (được tỏ bày) trong các tạo vật của Ngài, qua bầu trời lung linh ánh sao đêm hay những áng mây rực rỡ ban ngày, qua những cánh đồng, những khe suối và rừng cây, qua tiếng chim ca, qua bông hoa đang nở, qua mọi tạo vật chung quanh…

Vua Đavít cảm nhận được vinh quang ấy rạng ngời lên trong vũ trụ nên đã thốt lên:

“Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa.

Không trung loan báo việc tay Người làm” (Tv 19, 2)

* Tình yêu của Thiên Chúa được hiển dung (được tỏ bày) rõ nét nơi tình thương chan chứa của người cha ngày đêm lao nhọc vì con, qua sự hi sinh miệt mài của người mẹ, vắt kiệt sức mình để chăm lo cho đàn con khôn lớn…

* Mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa cũng được hiển dung nơi các gia đình đấm ấm thuận hoà, chan chứa yêu thương hiệp nhất.

* Và đặc biệt, Thiên Chúa vẫn hiển dung rạng ngời nơi những anh chị em cùng sống với ta, nhưng tiếc thay, chúng ta không cảm nhận được, nên bỏ lơ, nên thờ ơ và không còn muốn dựng lều chung sống với những hiện thân của Chúa chung quanh chúng ta.

Thông thường, chúng ta nhìn đời, nhìn người qua cặp kính màu đen nên chúng ta chỉ thấy được khía cạnh u tối của người đời. Xin Chúa thanh tẩy nhãn quan chúng ta để có thể nhận ra mọi người là hiện thân của Thiên Chúa, là chi thể của Chúa Giêsu.

Ba môn đệ nhận ra Thiên Chúa hiển dung nơi thân phận người phàm của Đức Giêsu thì chúng ta cũng xin Chúa cho chúng ta được nhận ra Chúa hiển dung nơi những anh chị em đang sống chung quanh, nhờ đó, chúng ta sẽ cảm nhận được hạnh phúc chan hoà vì được sống cùng, sống bên nhau và có thể nói như thánh Phêrô xưa: chúng con được ở chung với nhau nơi đây thì thật là hạnh phúc. (Mt 17,4)

25.Chúa hiển dung – Lm. Ignatiô Trần Ngà

Người đời thường mang hai bộ mặt: mặt thật và mặt nạ. Khi mặt nạ rơi xuống, bộ mặt thật sẽ hiển dung (biểu lộ ra bên ngoài).

Khi nhập thể làm người, Chúa Giêsu mang dung mạo con người, mang bản tính và khuôn mặt con người, hoàn toàn trở nên giống như con người, ngoại trừ tội lỗi. Vì thế, người đồng hương Na-da-rét gọi Người là “Bác thợ” (Mác-cô 6,3) hay “con Bác thợ Giu-se, con bà Maria” (Lc 4, 22. Mt 13, 55)

Hầu hết người Do-thái đồng thời với Chúa Giêsu chỉ nhìn thấy khuôn mặt nhân loại của Chúa Giêsu mà thôi nên cho rằng Người chỉ là người phàm. Họ trách Chúa Giêsu lộng ngôn khi Người tỏ ra Người là Con Thiên Chúa. “Ông là người phàm mà tự xưng mình là Con Thiên Chúa.”

Nhưng ngoài bản tính nhân loại, Chúa Giêsu còn có bản tính Thiên Chúa.

Khi Chúa Giêsu hiển dung

Trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ biết Người sẽ lên Giê-ru-sa-lem để hiến thân chịu chết. Lời tiên báo nầy làm cho tinh thần các môn đồ bấn loạn.

Để củng cố tinh thần sa sút của các ông, nhằm giúp các ông vượt qua thử thách đau thương sắp đến và bền chí theo mình đến cùng, Chúa Giêsu bộc lộ cho ba môn đệ thân tín thấy chân tướng của Người: Người là Đấng uy nghi sáng láng, là Con yêu dấu của Chúa Cha. Sự kiện nầy được thánh sử Mat-thêu thuật lại như sau: “Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan … tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. Và bỗng các ông thấy ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người.” … “Chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông, và có tiếng từ đám mây phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!”

Dung mạo Thiên Chúa được hiển dung nơi Đức Giêsu Na-da-rét trên ngọn núi cao đã làm cho tâm hồn ba môn đệ ngất ngây trong niềm hạnh phúc vô biên. Vì thế, Phêrô muốn sống mãi giờ khắc tuyệt vời ấy và không muốn rời bỏ khung cảnh thần tiên đó. Ông đề nghị dựng lều ở lại lâu dài trên núi: “Bấy giờ ông Phêrô thưa với Đức Giêsu rằng: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia.”

Sự hiển dung của Chúa Giêsu trước mặt ba môn đệ đã khiến cho tâm hồn các vị tràn ngập niềm vui và hạnh phúc; còn khi chúng ta hiển dung, để lộ chân tướng, để lộ khuôn mặt thật của ta ra thì người khác sẽ cảm thấy thế nào?

Khi chúng ta hiển dung

Jiddu Krishnamurti, người Ấn-độ (1895- 1986) là một tác giả và nhà diễn thuyết nổi tiếng về các vấn đề triết học và tinh thần, cho rằng, trong mỗi con người có ba “nhân vật” đang chung sống:

Một là “tôi-là”. Đây là con người thật của tôi, chân tướng của tôi. Ví dụ: bản chất tôi (tôi-là) là người tham lam, ích kỷ, lười biếng…)

Hai là “Tôi-muốn-là”. Đây không phải là bản chất con người tôi, nhưng là con người mà tôi mong muốn trở thành. Ví dụ: Tôi hiện là người tham lam, ích kỷ, lười biếng nhưng tôi muốn sống như là người quảng đại, vị tha, năng động…

Ba là “Tôi-tưởng-tôi-là”. Đây cũng không phải là bản chất con người tôi, nhưng là ảo tưởng tôi có về mình. Ví dụ: Một số kinh sư và Pha-ri-sêu thời Chúa Giêsu thực chất là người tham lam dối trá, nhưng cứ tưởng mình là người công chính đạo đức.

Đây chính là cái mặt nạ đẹp mà tôi đeo lên để che đậy khuôn mặt thật u ám của mình. Từ lâu nay tôi tưởng tôi là người đàng hoàng, đạo đức, mẫu mực… Tôi nhập vai khá tốt nên những người mới tiếp xúc đều tưởng tôi là người đạo đức chân chính và ngay cả bản thân tôi cũng tưởng mình như vậy. Nhưng đến một lúc nào đó, ở một nơi nào đó, tôi vô tình đánh rơi mặt nạ khỏi khuôn mặt mình; lúc bấy giờ tôi mới “hiển dung”, mới hiện nguyên hình là một tên đạo đức giả.

Bài học từ Lời Chúa

Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay mời gọi tôi nhìn thật sâu vào đáy lòng mình, nhìn xuyên qua vai diễn mà tôi đang đóng – vai “tôi-tưởng-tôi-là ” – để nhận ra bản chất con người tôi (tôi-là) thật là khả ố. Từ đó, tôi mới tự thấy xấu hổ về mình. Từ đó tôi mới quyết tâm cải thiện cuộc đời, tô điểm dung nhan, trau dồi cho mình những phẩm chất cao đẹp.

Nhờ thế, khi phải “hiển dung” (tức là bộc lộ chân tướng) trước mặt người khác (dù muốn hay không việc nầy cũng phải xảy ra), chân dung tôi không đến nỗi u ám, xám xịt, mốc meo… nhưng có được một chút sáng ngời, phần nào giống như chân dung chói lọi của Chúa Giêsu khi Người hiển dung trên núi với ba môn đệ năm xưa.

26.Biểu lộ phẩm chất Ki-tô hữu

(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)

Khi đến thăm Thái Lan, du khách thường tìm đến đền thờ Wat Traimit tại Bangkok để chiêm ngắm bức tượng Phật đang ở tư thế ngồi cao đến 3 mét, được đúc bằng vàng nguyên khối, nặng đến 5 tấn rưỡi!

Theo sử sách ghi lại thì bức tượng này được đúc vào khoảng từ thế kỷ 13 đến 15. Trong thời chiến tranh nổ ra giữa Thái Lan và Miến Điện, người Thái sợ bức tượng vàng quý báu này lọt vào tay người Miến nên đã trát bê tông bao bọc tượng, che giấu khối vàng bên trong nhằm đánh lừa quân địch. Thế là những thế hệ người Thái sau này cứ tưởng đây chỉ là bức tượng bê tông tầm thường nên có thời bức tượng này bị đặt vào nơi bất xứng và bị lãng quên.

Vào năm 1955, bức tượng được di dời đến một ngôi đền mới, trong khi vận chuyển, một số giây thừng ràng quanh tượng bị đứt làm cho tượng ngã lăn xuống đất, lớp bê tông bọc tượng bị nứt ra, cho thấy ánh vàng lấp lánh bên trong. Thế là nhờ sự cố không may này, người ta phát hiện được đây là bức tượng vàng nguyên khối tuyệt đẹp và vô cùng quý báu đã bị che phủ bằng bê tông suốt hàng trăm năm qua.

Từ đó, bức tượng Phật vàng được rất nhiều Phật tử chiêm bái, được du khách khắp nơi thăm viếng, được xem là báu vật của Thái Lan.

Trong 33 năm sống ở dương gian, Chúa Giê-su cũng gặp hoàn cảnh tương tự. Mặc dù Ngài vốn là Thiên Chúa toàn năng uy quyền vinh hiển, nhưng Ngài đã mặc lấy thân xác người phàm, xác thịt phàm trần đã che phủ thần tính vinh hiển của Ngài, vì thế Ngài bị người đời xem thường.

Thế rồi qua biến cố hiển dung trên núi được thánh Mát-thêu thuật lại trong Tin mừng hôm nay (Mt 17, 1-9), thần tính của Chúa Giê-su được biểu lộ, nên ba môn đệ thân tín là Phê-rô, Gia-cô-bê và Gioan mới thấy được sự sáng láng vinh hiển của Ngài, mới biết được Ngài là Con chí ái của Thiên Chúa Cha.

Hôm nay, Ki-tô hữu chúng ta cũng gặp hoàn cảnh tương tự.

Mặc dù chúng ta là chi thể của Chúa Giê-su, là đền thờ của Chúa Thánh Thần, có giá trị cao quý hơn bất cứ kho tàng hay báu vật nào trên thế gian.

Tuy nhiên, sự cao quý tốt đẹp này có thể bị bao bọc bởi một “lớp bê tông”, tựa như bức tượng Phật vàng ở Thái Lan, làm cho chúng ta bị mất giá trị trước mặt người đời.

Nơi người này, lớp “bê tông” bao bọc có thể là tính kiêu căng, tự phụ, tham lam, ích kỷ… Nơi người khác là lòng ghen ghét, hận thù… Những “lớp bê tông” này làm cho người ta trở nên tầm thường, xấu xa, mất giá…

Tiếc thay, những “lớp bê tông” này rất cứng chắc, bám chặt vào người ta và khó lòng phá vỡ được.

Sở dĩ nhiều người không phá nổi những “lớp bê tông” này, không chừa bỏ được những thói hư tật xấu bao quanh mình, là vì những lý do sau đây:

Thứ nhất, không tự biết mình.

Con người có mắt nhìn ra mà không có mắt nhìn vào. Khuôn mặt duy nhất trên đời mà chúng ta không thể thấy trực diện, đó là khuôn mặt của chính ta. Người ta thấy rõ nốt ruồi nhỏ bằng hạt tấm trên khuôn mặt người khác; trong khi cả một vết dơ lớn như đồng tiền trên mặt mình thì lại không thấy.

Mà vì không nhìn thấy được những tì vết của mình, những thói hư tật xấu của mình nên người ta không thể lột bỏ chúng được, cũng như ta không thấy khuôn mặt mình dơ thì ta không cần rửa mặt, không thấy tay mình bẩn thì không cần rửa tay.

Ngoài ra, khi có ai đó chỉ cho thấy những khiếm khuyết, những lầm lỗi của bản thân mình, thì người được chỉ lỗi cảm thấy bị tổn thương, bị xúc phạm… nên đâm ra tức tối, căm giận người chỉ lỗi cho mình. Vì thế, không ai còn dám chỉ lỗi cho và người ta cứ mang tật xấu suốt đời.

Thứ hai, tính xấu bám chặt vào bản thân ta như da bọc thân.

Những “lớp bê tông” này bám chặt vào bản thân chúng ta, trở thành như da thịt của chúng ta nên không dễ gì lột bỏ đi được. Có một số người đã mang tính kiêu căng thì kiêu căng cho đến chết; mang tính tham lam, ích kỷ… thì cũng sẽ mang chúng xuống mồ. Chính vì thế mà xưa nay người ta thường nói: “Cái nết đánh chết không chừa.”

Thế là phẩm chất cao cả của người Ki-tô hữu bị những nết xấu bao bọc, che phủ như bê tông che phủ bức tượng vàng, khiến cho họ bị người khác xem thường và chê trách.

Lạy Chúa Giê-su,

Xưa kia trên núi cao, Chúa để cho thiên tính của Chúa biểu lộ ra, xuyên qua nhân tính phàm trần, để cho ba môn đệ thân tín được thấy chân dung đích thực của Chúa.

Xin Chúa cũng giúp chúng con lột bỏ “lớp bê tông” thói hư tật xấu đang bao bọc chúng con, để dung mạo người con Thiên Chúa nơi chúng con cũng được tỏ ra trước mặt mọi người.

27.Vinh quang đích thực

(Suy niệm của Lm. JB. Lê Ngọc Dũng)

Đức Giêsu biến hình trên núi Tabor cho ba môn đệ là Phêrô, Gioan và Giacôbê được thấy vinh quang sáng láng của Ngài. Aó Ngài trắng tinh như tuyết; mặt Ngài sáng chói như mặt trời. Chứng kiến cảnh tượng đó các tông đồ ngây ngất hạnh phúc (x. Mt 17,1-9).

Danh dự, vinh quang là điều thường ai cũng mong được. Danh dự vinh quang đôi khi còn được đặt cao hơn cả lợi lộc, hơn cả miếng cơm manh áo. Tục ngữ Việt Nam, có câu “Một miếng giữa làng bằng sàng xó bếp”. Hẳn là chúng ta cảm thấy hạnh phúc vui sướng khi có được danh dự, vinh quang.

Đức Giêsu tỏ mình vinh quang để làm gì? Phải chăng Ngài cũng thích danh dự vinh quang như con người chúng ta?

Có người tưởng như vậy, vì đã từng được nghe sách Thánh nói trên trời các thiên thần hằng ca tụng Thiên Chúa, hằng tung hô ngài là “Thánh, Thánh, Thánh”. Ở trần thế này, chúng ta được dạy rằng phải ca tụng Thiên Chúa, hãy làm vinh danh Ngài và để rồi chúng ta cũng được vinh quang với Ngài trên thiên đàng.

Vậy phải chăng Chúa Giêsu cũng muốn tỏ vinh quang kiểu như con người chúng ta, khi Ngài biến hình trên núi?

Chắc chắn là Chúa Giêsu không muốn tỏ vinh quang như kiểu con người chúng ta. Tuy nhiên, ta có thể hỏi, kiểu tỏ vinh quang của Ngài phải chăng là để chứng tỏ mình là đấng thánh, đấng thần thiêng, có đủ quyền năng, đầy cao sang, để rồi các tông đồ luôn trung thành theo Ngài?

Nếu chỉ như vậy thì xem ra Đức Giêsu đã bị thất bại nặng nề, vì các tông đồ đã không trung thành gần ngay sau đó. Ở vườn Cây Dầu, khi Đức Giêsu bị bắt, các môn đệ bỏ trốn hết! Phêrô, người đứng đầu nhóm, chối Chúa đến ba lần!

Vậy thì việc biến hình trên núi Tabor của Chúa Giêsu có ý nghĩa như thế nào?

Chìa khóa để hiểu, chính là lời dạy của Chúa Giêsu: “Các con không được nói với ai thị kiến này cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại” (Mt 17,9). Chúa Giêsu đã cấm các môn đệ loan truyền vinh quang của Ngài cho tới khi Ngài từ cõi chết sống lại. Điều này hàm ý rằng: Nếu loan truyền sớm trước đó, thì sẽ bị hiểu lầm. Vinh quang của Thiên Chúa sẽ bị hiểu lầm như kiểu vinh quang thế gian.

Như thế vinh quang đích thực của Chúa Giêsu liên hệ mật thiết với sự chết và sống lại của Ngài.

Để hiểu rõ hơn chúng ta cùng quay trở về bài Tin Mừng tuần trước: Chúa Giêsu chịu ma quỷ cám dỗ. Ma quỷ đã nói: “Nếu ông là con Thiên Chúa, thì hãy biến đá thành bánh đi … Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy nhảy từ nóc đền thờ xuống đi.” (x. Mt 4,1-11).

Đức Giêsu đã không tỏ mình ra là Con Thiên Chúa theo kiểu ma quỷ nói. Điều này có nghĩa là, Ngài đã không bày tỏ vinh quang bằng cách phô trương thanh thế, biểu dương quyền lực. Đức Giêsu đã từ chối chước cám dỗ đó. Nhưng Người sẽ tỏ mình ra là Con Thiên Chúa trong Mầu nhiệm Khổ nạn và Phục sinh. Chính thập giá mới là nơi Ngài tỏ cho nhân loại biết mình là Con Thiên Chúa. Chỉ có cái chết của Con Thiên Chúa mới thắng nổi sự chết, và nhờ đó chúng ta được vượt qua sự chết. Cái vinh quang thật sự của Thiên Chúa là sự cứu thoát chúng ta. Có thể nói đó là vinh quang cứu độ, vinh quang cứu giúp chúng ta khỏi tội lỗi và khỏi sự chết muôn đời.

Chính cái vinh quang mà Ngài tỏ cho ba môn đệ được thấy, sẽ chỉ đạt được trong Mầu nhiệm Thập giá. Qua sự biến hình, Ngài muốn cho các  ông đừng có ảo tưởng về một vinh quang trần thế, nghĩa là mơ ước rằng Ngài sẽ làm vua cai trị Israel và các ông sẽ được như những ông quan lớn, cao sang, có nhiều quyền lực. Đồng thời, Ngài cũng chuẩn bị cho các ông khỏi chán nản thất vọng sau này, khi đi rao giảng, bị bắt, bị lên án và chịu tử đạo.

Vì vậy, qua việc biến hình, Chúa Giêsu dạy cho các Tông đồ và các Kitô hữu rằng, vinh quang đích thực không là con đường của danh giá, của quyền lực, nhưng phải là con đường của hy sinh đau khổ vì yêu thương, yêu cho đến cùng, cho dù có chết vì yêu.

Ở trong tập nhật ký của Charles de Foucaul, người ta đọc thấy câu này:

“Tôi muốn lập một tu hội tiểu đệ và tiểu muội của Đức Giêsu trên khắp thế giới.”

Năm năm sau đó, người ta cũng lại đọc thấy câu này, nhưng có dài thêm một ít: “Tôi muốn lập một tu hội tiểu đệ và tiểu muội của Đức Giêsu trên khắp thế giới bằng sự hy sinh cầu nguyện.” Ngài đã thêm dòng chữ: “bằng sự hy sinh cầu nguyện.”

Và mười năm sau, người ta lại đọc thấy câu đó, nhưng dài hơn một chút nữa:

“Tôi muốn lập một tu hội tiểu đệ và tiểu muội của Đức Giêsu trên khắp thế giới bằng sự hy sinh và cầu nguyện và bằng cái chết của tôi.” Ngài đã thêm dòng chữ: “và bằng cái chết của tôi”.

Và đúng như thế! Charles de Foucaul đã bị một kẻ cuồng tín đâm chết. Sau đó tu hội tiểu đệ tiểu muội đã nổi tiếng, phát triển nhanh, hầu như có mặt khắp nơi trên thế giới.

Con đường vinh quang qua đau khổ và cái chết của Đức Giêsu ban đầu đã bị các Tông đồ chối từ, nhưng sau này trở thành con đường cho chính các Tông đồ đã đi. Các ngài đã hy sinh, hy sinh ngay cả chính mạng sống mình để loan báo tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Tiếp theo sau các Tông đồ biết bao nhiêu thế hệ cha ông chúng ta cũng đã đi con đường vinh quang đích thực đó. Các ngài đã trở nên thánh. Cách riêng là các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Còn chúng ta chúng ta sẽ đi con đường vinh quang nào?

28.Vinh quang – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Để chuẩn bị chương trình cứu độ loài người, Thiên Chúa đã chọn ông Abram làm tổ phụ một dân tộc. Vào thời điểm đó, ông Abram và bà Sara còn hiếm muộn, vì tuổi đã cao mà chưa có con nối dòng. Thiên Chúa đã ban lời hứa: Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân lớn, Ta sẽ ban phúc cho ngươi, cùng làm vinh danh ngươi, ngươi sẽ được diễm phúc (Stk 12, 2). Tổ phụ đã bước đi trong niềm tin phó thác và một lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Theo lệnh Chúa, ông bà đã rời quê hương xứ sở đi đến miền đất Chúa hứa. Ông Abram đã trải qua biết bao thử thách thăng trầm. Ông vâng lệnh Chúa một cách vô điều kiện, ngay cả khi Thiên Chúa muốn ông hiến dâng đứa con trai độc nhất làm hy tế. Qua sự trung tín, Abram đã được Thiên Chúa đổi tên thành Abraham. Abraham trở nên tổ phụ của tất cả những người có niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất. Ông đã được Thiên Chúa đoái hoài ban cho có con đàn, cháu đống nối dòng trải qua muôn thế hệ từ đời nọ tới đời kia.

Dân tộc Do-thái thuộc dòng dõi của tổ phụ Abraham. Một dân tộc đã được Chúa yêu thương chăm sóc dẫn đường, nhưng cũng là một dân phải chịu nhiều sự đắng cay, khổ đau và thăng trầm nhất trong lịch sử nhân loại. Khoảng năm 1300 B.C., dòng dõi con cháu của tổ phụ Abraham đã rời nước Ai-cập để tiến vào Miền Đất Hứa. Năm 996 trước Công Nguyên, Vua Đavid đã chiếm hữu thành Giêrusalem và đặt làm thủ đô của vương quốc. Con của vua Đavid là vua Salômôn đã xây dựng Đền Thờ đầu tiên năm 950 B.C. để kính thờ Thiên Chúa. Năm 586 B.C., Đền thờ Giêrusalem đã bị phá hủy bởi Vua Nebuchadezzar và dân chúng đã phải chịu cảnh lưu đầy tại Babylon. Năm 515 B.C., con dân được trở về quê hương xứ sở để xây dựng lại Đền Thờ lần thứ hai. Khi Chúa Giêsu xuất hiện rao giảng Tin Mừng, Ngài đã tiên báo về sự sụp đổ của đền thờ Giêrusalem. Vào năm 70 A.D., Đền Thờ Giêrusalem đã bị tàn phá bình địa bởi Hoàng đế Titô và chỉ còn để lại bức tường than khóc ô nhục cho tới nay.

Trải qua 20 thế kỷ, dân tộc Do-thái chịu trăm ngàn thách đố dưới sự chiếm đóng và đô hộ của nhiều quốc gia. Dân chúng phải đi tản mác khắp nơi trên thế giới. Mãi tới năm 1948, Nước Do-thái mới được công nhận là một nước độc lập và tự trị. Giêrusalem trở thành thủ đô của nước Do-thái (State of Israel). Và nhờ sự qủa cảm dũng lực của thần dân Do-thía từ khắp mọi nơi trên thế giới, năm 1967, họ đã mở cuộc chiến tranh tấn công 6 ngày vào các nước lân bang của Israel, đã nới rộng và tái chiếm nhiều phần đất của tổ tiên thuở xưa. Gần 2 ngàn năm lưu lạc, giờ đây, dân tộc Do-thái đã chính thức được sống trên phần đất mà các tổ phụ đã dựng xây. Miền đất đã ghi dấu tất cả những giai đoạn thăng trầm qua thời các tổ phụ, các quan án, các vua, các tiên tri và hình thành lịch sử Ơn Cứu Độ. Chính trên miền đất này, Chúa Giêsu đã xuất hiện rao giảng Tin mừng cứu độ. Một ngày kia, Chúa đã đưa ba môn đệ lên núi Taborê và biến hình vinh quang trước mặt các ông. Thiên Chúa vẫn đoái thương con dân mà Người đã chọn: Ta sẽ ban phúc cho ai chúc phúc ngươi, và chúc dữ cho ai chúc dữ ngươi. Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ nhờ ngươi mà được diễm phúc” (Stk 12, 3).

Tất cả những lời giảng dạy uy quyền cùng với những phép lạ kèm theo đã chứng thật Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Chúa đã hạ mình nhập thể mặc lấy thân xác loài người để cư ngụ giữa chúng ta. Chúa biến hình là trở về tình trạng nguyên thủy của Đấng là trung gian vạn vật. Chúa đã muốn mạc khải bản tính Thiên Chúa cho các môn đệ. Người đã tỏ hiện vinh quang cao cả đích thực: Người biến hình trước mặt các ông: mặt Người chiếu sáng như mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết (Mt 17, 2). Chúa biến hình là để củng cố niềm tin và khai mở mầu nhiệm về sự sống vĩnh cửu cho các tông đồ. Nhưng rồi Chúa Giêsu không dừng lại trong sự biến hình vinh quang sáng láng, Ngài còn phải xuống núi dấn thân hoàn tất con đường thánh giá khổ đau để cứu độ nhân loại. Đây chỉ là một khoảnh khắc hé mở một niềm hy vọng vinh phúc bất diệt.

Cùng hiện diện với Chúa Giêsu, có ông Môisen và tiên tri Êlia và ba tông đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê đi theo Chúa. Phêrô sung sướng chìm đắm trong nguồn ân sủng cõi thiên đã muốn lưu lại trong cảnh giới thần tiên: Lúc ông còn đang nói, thì có một đám mây sáng bao phủ các Ngài, và có tiếng từ trong đám mây phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người” (Mt 17, 5). Thiên Chúa Cha đã chứng nhận sứ mệnh cao cả của Chúa Giêsu Cứu Thế. Kinh nghiệm trên núi Taborê là nguồn hy vọng sáng ngời cho các tông đồ và cho chúng ta còn đang lữ hành dưới thế. Chúa Giêsu sẽ dẫn chúng ta qua con đường thập giá tới vinh quang. Chúng ta không thể đi con đường tắt để đạt được triều thiên vinh thắng. Các tông đồ đã xác tín con đường đi theo Chúa.

Trong Mùa Chay Thánh, chúng ta có cơ hội trở về nguồn để suy gẫm sứ vụ của Chúa Kitô. Ngài đã từng bước trải nghiệm những cám dỗ, những đau khổ và vinh quang. Con đường mòn Chúa đã đi loan báo tin mừng không đơn giản dễ dàng. Cụ thể, Chúa đã phải trèo dốc, vượt đồi, lên non và với đôi chân trần rảo khắp các làng mạc và thành thị. Chúa không chỉ giảng dạy nơi Hội Đường, nhưng đã dong duổi khắp chốn qui tụ từng nhóm nhỏ mời gọi sám hối đổi đời, dậy dỗ sự thật về nước trời và chữa lành bệnh hoạn tật nguyền cả thân xác và tâm hồn. Trong ba năm giảng dạy, Chúa đã thi hành sứ vụ từ Galilê, miền Nazareth, qua ngả Samaria và xuống Giuđêa, trọng tâm là Giêrusalem. Khoảng cách từ Bắc xuống Nam rất xa xôi và núi non hiểm trở. Chúa đã tận dụng mọi cơ hội để cải hóa lòng người và uốn nắn trái tim của họ trong tình yêu.

Thánh Phaolô trong thơ gởi cho Timôthêô đã mời gọi sự cộng tác loan truyền tin mừng cứu độ: Con thân mến, con hãy đồng lao cộng tác với Cha vì Tin Mừng, nhờ quyền lực của Thiên Chúa, (2Tm 1, 8). Phaolô tự nhận là đứa con đẻ non trong ân sủng cứu độ của Chúa, nhưng ông đã hết mình truyền rao chân lý mà ông đã lãnh nhận từ chính Chúa Kitô phục sinh. Cho dù đối diện với sự khó khăn, bị xua trừ, bắt bớ, đánh đập, tù đầy và ngay cả sự chết, Phaolô vẫn một niềm tin tưởng và cậy trông vào sự sống trường sinh và vinh quang bất diệt mà Chúa Kitô sẽ thưởng ban. Tin mừng cứu độ đã được tiếp tục truyền rao đến khắp cùng bờ cõi, những ai tin vào Chúa Kitô thì sẽ được lãnh ơn cứu độ.

Chúa Kitô đã đến trần gian và đã hoàn tất sứ vụ của Ngài. Ngài đã chiến thắng sự dữ và thần chết. Lời Tin Mừng của Chúa có uy lực giải thoát và dẫn đường chúng ta bước vào miền đất trường sinh. Chúng ta không còn phải tìm kiếm đâu xa, nhưng hãy trở về múc tận nguồn ơn cứu độ trong niềm tin vào Chúa Kitô, vào Thánh Kinh và đời sống Bí tích của Giáo Hội. Tin mừng sẽ giải thoát và dẫn dắt chúng ta tới vinh quang sáng ngời. Thánh Phaolô viết: Nhưng bây giờ mới tỏ bày bằng sự xuất hiện của Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc chúng ta, Người đã dùng Tin Mừng tiêu diệt sự chết và chiếu soi sự sống, và sự không hư nát được tỏ rạng (2Tm 1, 10). Sự biến hình của Chúa Giêsu là dấu chứng kỳ diệu và là niềm hy vọng tuyệt đối cho mọi kẻ còn đang lữ hành giữa biển đời ô trọc này.

Lạy Chúa, vinh quang của Chúa chói lòa. Chúa là ánh sáng chiếu dọi vào thế gian u tối. Xin cho chúng con biết dõi theo ánh sáng của Chúa để tìm về nguồn an lạc và nguồn sống vinh phúc trường sinh.

29.Con yêu dấu – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể đã được tỏa sáng trên đỉnh núi. Chúa Giêsu biến hình, mặt Người chiếu sáng như mặt trời. Chúa Giêsu tỏ mình: Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian.”(Ga. 9,5). Đây là hình ảnh Con Thiên Chúa thật. Thánh Matthêo đã diễn tả sự biến hình một cách ngắn gọn nhưng đã nói lên được ý nghĩa và sứ mệnh cứu độ của Chúa Giêsu. Từ khi Chúa Giêsu hạ sinh làm người, Chúa đã xuất hiện trước công chúng một cách âm thầm như mọi người trong tất cả mọi sinh hoạt. Chúa chấp nhận sự phát triển tiệm tiến trong thời gian và không gian tự nhiên.Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Hai, là Ngôi Lời, là Con Thiên Chúa và là Con yêu dấu của Chúa Cha. Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời, Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa. Ngôi Lời là Con Thiên Chúa (Ga. 1,1). Khi Ngôi Lời xuống trần, thiên thần đồng thanh ca tụng: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.” (Lc.2,14). Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa bởi Gioan tại sông Giođan: Lại có tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con.”(Mc. 1,11). Chúa Giêsu biến hình trên núi có tiếng Chúa Cha phán: “Đây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người” (Mt.17,5). Sau khi sống lại từ cõi chết, Chúa Giêsu tiếp tục hiện diện với các tông đồ qua nhiều cách và luôn chúc bình an cho các ông: “Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giêsu đứng giữa các ông và bảo: “Bình an cho anh em!” (Lc. 24,36). Chúng ta nhận thấy hình ảnh xuyên suốt qua cuộc đời Chúa Cứu Thế. Ngài là Con Thiên Chúa đến đem bình an cho nhân loại.

Chúa đã chia sẻ cuộc sống với con người một cách cụ thể. Chúa lao động để kiếm miếng cơm manh áo như mọi người. Hằng ngày, Chúa muốn học biết và trải qua những kinh nghiệm của đời thường. Chúa quan sát mọi việc trong nhà ngoài ngõ. Khi ra giảng đạo, Chúa dùng tất cả những câu truyện cụ thể kinh nghiệm trong đời sống. Chúa lấy tất cả những ví dụ dễ hiểu để truyền rao chân lý Nước Trời. Chúa dùng các tỉ dụ, ngụ ngôn, dụ ngôn hay câu truyện rất thật đi đôi với cuộc sống nơi vùng quê thôn dã. Chúa rành rẽ những phương thức gieo trồng, nấu nướng, ép nho và ủ rượu. Chúa học biết cách xử dụng muối ướp, men trong đấu bột, đèn để trên giá và mang đèn phải mang dầu theo.

Chúa lôi cuốn quần chúng lại gần qua lời giảng dậy đơn sơ, thẳng thắn và đầy uy quyền. Chúa không dùng những triết thuyết cao siêu, trừu tượng hay lý thuyết khô khan khó hiểu. Lời Chúa thật giản dị và cụ thể dành cho mọi tầng lớp. Ai nghe cũng có thể hiểu được ý nghĩa, trừ những người nhắm mắt và bịt tai không muốn lắng nghe. Từ những người chài lưới thất học quê mùa đến những thầy thông luật cũng đã thấm nhuần đạo lý của Chúa. Lời của Chúa thật trong sáng và có sức thuyết phục sâu đậm.

Chúa còn thực hiện rất nhiều phép lạ để chữa lành nọi thứ bệnh họan tật nguyền, cho kẻ mù được thấy, kẻ điếc được nghe, người câm nói được, người què đi được, xua đuổi tà thần, hóa bánh ra nhiều để nuôi dân, truyền sóng biển im lặng, mẻ cá đầy tràn và cho kẻ chết sống lại… Đây là những phép lạ tỏ uy quyền của Chúa trên vạn vật. Chúa biến hình một sự kiện vĩ đại trong lịch sử cứu độ, Chúa tỏ mình cho các môn đệ thân tín. Chúa biến hình trở lại nguyên dạng đã có từ nguyên thủy. Một mầu nhiệm nhập thể không ai hiểu thấu. Chúa mặc lấy xác phàm với thân phận của con người giới hạn trong thời gian và không gian. Chính Ngài đã tự nguyện tước bỏ vinh quang và chấp nhận thân phận tôi đòi: Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự (Ph. 2,8)

Chúa Giêsu có hai bản tính: bản tính Thiên Chúa và bản tính loài người. Một Thiên Chúa thật trong thân xác phàm nhân. Chính Thiên Chúa đó bị người đời khinh bỉ, tẩy chay, xua đuổi, chối từ, đánh đập, khặc nhổ trên mặt, nhạo cười, đội mạo gai, vác thánh giá, bị con người tội lỗi xét xử và kết án tử hình. Chính những con người đã từng chịu ơn đã giơ tay xin tha cho Baraba và giết Giêsu. Giết Con Thiên Chúa.

Chúa Giêsu là mặt trời công chính và là ánh sáng thế gian. Chúa Giêsu lại nói với người Do-thái: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.”(Ga. 8,12). Thiên Chúa cao cả sáng chói như mặt trời vậy mà bị con người vô tâm xô đẩy vùi dập, đánh đập tàn nhẫn, máu me dính bết châu thân, nhịn đói nhịn khát, bị đóng đinh chân tay vào thánh giá và bị treo lên lơ lửng cho chết dần. Ngài chính là Thiên Chúa. Con người phàm hèn mà dám giết chết Thiên Chúa trong xác phàm.

Tiếng từ trời cao: Đây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người (Mt.17,5). Loài người đã giết người Con yêu dấu của Thiên Chúa Cha. Ngày nay nhiều người vẫn tiếp tục hùa nhau giết Con của Thiên Chúa và loại trừ Ngài ra khỏi đời sống. Người Con đó bị xét xử như một tội nhân và được xếp vào hàng các tội nhân đem đi xử tử. Người Con đẹp lòng Thiên Chúa Cha đã hy sinh mạng sống để cứu độ chúng sinh. Chúng ta suy gẫm và chăm chú nhìn hình ảnh người Con yêu dấu chết giang tay trên thập giá. Qua hơn hai ngàn năm, Ngài vẫn tiếp tục bị người đời tẩy chay, khinh bỉ và xua đuổi. Không phải người ta xua đuổi loại trừ một ông Giêsu nào đó, mà là đang loại trừ chính Con Một Thiên Chúa.

Con Ta yêu dấu chiếu sáng như mặt trời và áo Ngài trắng như tuyết. Chúa Giêsu là ánh sáng chiếu dọi vào đêm tối, nhưng bóng tối không tiếp nhận ánh sáng: Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối và bóng tối đã không diệt được ánh sáng (Ga. 1,5). Nhìn thấy ánh sáng chói lòa, các môn đệ sợ hãi và ngã sấp mình xuống đất. Ánh sáng của Chúa Kitô soi dọi thấu tận tâm can của các tông đồ, các ngài thốt lên rằng: Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm (Mt. 17,4). Thật sung sướng khi được ở bên Chúa.

Hình ảnh Chúa Giêsu biến hình trên núi đã hé mở một chút vinh quang của Ngài cho các tông đồ. Sự vinh quang luôn hiện diện trong Ngài qua lời giảng dậy, qua các phép lạ và qua chính con người của Ngài. Chúa Giêsu sẽ trở lại với vinh 59

quang đích thực khi Ngài hoàn tất công trình cứu độ qua con đường thập giá. Chúa Giêsu đã đổ tới giọt máu cuối cùng trong thân phận con người. Tình yêu trọn vẹn hiến dâng Chúa Cha để đền bù tội lỗi của chúng ta. Ngài yêu chúng ta tới cùng: Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình (Ga. 15,13).

Chúng ta được cứu chuộc bằng giá máu của Con Thiên Chúa. Chúa Con đã hiến tế một lần là đủ để đền tội thay cho cả thế giới. Chúng ta hưởng nhờ ơn cứu độ mang lại nguồn sống. Chỉ nơi Đức Kitô chúng ta sẽ có sự sáng và sự sống: Ở nơi Người là sự sống và sự sống là ánh sáng cho nhân loại (Ga. 1,4). Chúa Giêsu biến hình mặc khải cho chúng ta về vinh quang ngày sau mà chúng ta hy vọng sẽ được chung hưởng ánh sáng ngàn thu với Ngài.

Trong cuộc lữ hành thế gian còn nhiều bóng tối che phủ và còn nhiều thử thách mà chúng ta phải vượt qua. Đừng khi nào chúng ta chán nản bỏ cuộc. Hãy nhớ rằng con đường Chúa đã đi qua là con đường thập giá. Phải đi qua đau khổ mới tới vinh quang. Nhiều lần Chúa Giêsu đã nhắc nhở chúng ta: Thầy đây, đừng sợ. Chúng ta hãy khẩn khoản xin với Chúa như thánh Phêrô: Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và khi bắt đầu chìm, ông la lên: “Thưa Ngài, xin cứu con với! (Mt. 14, 30).

Sau khi biến hình sáng chói, Chúa Giêsu và các tông đồ phải đi xuống núi và trở về cuộc sống thực tế hằng ngày. Chúa Giêsu không muốn đi theo con đường tắt dễ dàng. Ngài muốn đi trọn con đường và sứ mệnh mà Cha đã trao phó. Sứ mệnh cứu độ không chỉ qua sự giảng dạy và thực hành các phép lạ, nhưng là chấp nhận đau khổ và cái chết. Không có một hy lễ nào cao trọng hơn hy tế của Chúa Giêsu trên thập giá. Con Thiên Chúa đã đi đến cùng tận trong tất cả mọi trạng huống của cuộc đời. Từ khi Chúa hạ thân nghèo hèn trong máng cỏ cho tới lúc thân trần treo trên thập giá. Không có một con người nào dám bươc xuống thẳm sâu như Chúa. Chúa đã bước xuống và cứu con người lên.

Chúng ta không thể đi con đường tắt để đến ơn cứu độ. Chúng ta hãy cố gắng sống tốt từng phút giây mà Chúa đã ban. Hoàn tất tốt giây phút hiện tại trong yêu thương tha thứ và chia sẻ bác ái. Hãy ngước nhìn lên thập giá của Chúa để tìm nguồn ủi an và gắn kết yêu thương. Chúa sẽ dẫn chúng ta đến nguồn ơn cứu độ. Chúng ta biết rằng phải qua thánh giá mới đạt tới vinh quang.

Đây chính là hồng ân cứu độ. Đây chính là tình yêu! Chúa đã chết vì yêu! Chúa đã chết vì tội lỗi chúng con. Chúng con dâng lời ngợi khen, cảm tạ và tán tụng danh Chúa đến muôn ngàn đời.

30.”Bản tính khó dời” – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Tiếng đứa em lanh lảnh nói: Chị hai sao lại bỏ anh rể?

+ Vì anh ấy cờ bạc, rượu chè nên chị không chịu được.

+ Nhưng anh ấy đã có tật cờ bạc, rượu chè trước khi lấy chị mà.

+ Vì chị tưởng là thời gian anh ấy sẽ biến đổi, ai ngờ càng ngày càng tệ hơn!

Người xưa thường có câu: “Bản tính khó dời”, “chứng nào tật ấy” đều nói lên tính cách của một con người khó mà thay đổi được. Thay đổi một thói quen của con người thì có thể, nhưng rất khó lòng thay đổi bản tính một khi đã ăn sâu trong con người của họ.

Thói hay chửi của Chí Phèo là một điển hình. Chí Phèo đã được Nam Cao phác họa như một tên vô lại, tối ngày say sỉn, chỉ làm được một việc duy nhất là chửi khống và ăn vạ. Về tài chửi của hắn, Nam Cao tả: Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu chửi Trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ: “Chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Ồ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất!

Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế thì có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? A ha! Phải đấy, hắn cứ thế mà chửi, hắn chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo! Hắn nghiến răng vào mà chửi cái đứa đã đẻ ra Chí Phèo.

Xem ra ở đời ai cũng có tật xấu. Ai cũng có điều phải sửa, vì “nhân chi sơ tính bản thiện”, nhưng thời gian đã biến chúng ta ra xấu xa bởi biết bao thói hư tật xấu. Sự khôn ngoan nhắc nhở chúng ta phải cố gắng biến mình trở lại hình ảnh ban đầu, đừng ngoan cố sống trong tội lỗi, hãy sửa mình nên hoàn thiện theo hình ảnh của Chúa. Một hình ảnh tinh tuyền không để dục vọng làm chủ. Một hình ảnh trong sáng không để vẩn đục bằng những thói hư tật xấu.

Hôm nay, Chúa biến hình trở về với căn tính Thiên Chúa của Ngài. Phê-rô đã ngây ngất khi chiêm ngắm dung nhan thật của Thầy Giêsu. Phê-rô cùng các môn đệ càng thêm xác tín về Thiên tính trong con người của Thầy Giêsu. Phê-rô cảm thấy toại nguyện và chỉ còn mong muốn một điều duy nhất là được ở bên Chúa mãi mãi.

Sứ điệp ngày lễ Chúa hiển dung như nhắc nhở chúng ta nhớ mình là họa ảnh của Thiên Chúa. Con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, thế nên con người phải giữ mãi vẻ đẹp tinh tuyền của phẩm giá con người. Nếu có những đam mê tật xấu làm chúng ta biến chất thì đây là dịp Chúa nhắc nhở chúng ta phải biến hình mỗi ngày trở về với căn tính của chúng ta là hình ảnh của Chúa? Là hình ảnh của Chúa thì không thể làm tôi cho ma quỷ? Là hình ảnh của Chúa thì không thể để cho dục vọng lôi kéo chúng ta làm điều xấu? Là hình ảnh của Chúa chúng ta phải luôn hướng về sự thiện, luôn có những ước mơ thanh cao, luôn sống vị tha và phục vụ mọi người.

Tiếc rằng, con người hôm nay đã để mình biến chất trong dòng đời lắm cám dỗ bon chen. Nhiều người đã bán rẻ phẩm giá làm người để đổi lấy chút danh lợi thú trần gian. Nhiều người đã không chỉ biến chất mà còn biến dạng khi lao mình tìm kiếm và thỏa mãn dục vọng đến nỗi xem thường luân thường đạo lý làm người. Đôi khi còn vì danh lợi thú mà làm hại đồng loại, mà gây nên biết bao đau thương cho nhân thế.

Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết mình là hình ảnh của Thiên Chúa thật tốt đẹp biết bao, để biết trân trọng, gìn giữ nét đẹp đó trong cuộc sống của mình. Đồng thời cũng biết trân trọng vẻ đẹp ấy nơi tha nhân qua đời sống bác ái, vị tha. Xin Chúa giúp chúng ta biết biến đổi mình mỗi ngày trở nên giống Chúa hơn trong suy nghĩ và hành động hầu xứng đáng là con cái Thiên Chúa. Amen.

31.Hãy biết mình – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Cái quý nhất của con người là được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa. Cái hạnh phúc lớn nhất của con người là gìn giữ nét đẹp cao qúy đó nơi phẩm giá làm người của mình. Và điều cần thiết nhất để có một cuộc sống tốt với mọi người là nhận ra tha nhân cũng chính là hình ảnh của Thiên Chúa.

Thế nhưng, nhiều người đã phủ nhận điều cao qúy nơi phẩm giá làm người của mình. Họ không tin rằng có Thiên Chúa. Họ chối từ sự sống thần linh mà Thiên Chúa đã ban cho con người. Từ đó người ta cũng không lo gìn giữ cái đẹp của phẩm giá làm người của mình. Họ chỉ thấy con người là một loài vật có ăn có uống. Thế giới của họ là một thế giới mạnh thắng, yếu thua, và “cá lớn nuốt cá bé”. Họ không nhận ra sự liên đới giữa người với người đều là hình ảnh Thiên Chúa, cần phải tôn trọng và sống tốt với nhau. Con người đã tự khước từ phẩm giá cao qúy là hình ảnh Thiên Chúa nên cũng dễ dàng từ khước nhau và đầy đoạ lẫn nhau. Thế giới vẫn đầy những bất công và hận thù. Con người vẫn vì những tham sân si mà làm hại lẫn nhau.

Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Ngày xưa thỏ và sư tử sống gần nhau, nhưng sư tử rất kiêu ngạo, vẫn cho mình là to khoẻ nên xem thường loài thỏ. Sư tử thường mắng thỏ và doạ nạt thỏ suốt ngày. Thỏ tức mình không chịu nổi mới nghĩ ra cách báo thù.

Một lần kia nó nói với sư tử rằng:

– Thưa ông anh, em vừa gặp một thằng to lớn và trông giống anh lắm. Nó bảo em rằng: “Trên đời này nó chưa sợ ai, và cũng chưa ai dám đối mặt với nó”. Thằng cha này không coi ai ra gì cả!

Sư tử tức giận và bảo rằng:

– “Thế mày có nhắc đến tên tao không?”

Thỏ trả lời:

– Sao lại không? Em vừa nhắc đến tên anh thì nó lồng lộng lên và bảo rằng anh chỉ đáng đàn em nó thôi.

Sư tử càng tức điên người lên và hỏi:

– Nó ở đâu? dẫn tao đến ngay.

Thỏ liền dẫn sư tử ra sau núi, và chỉ một cái giếng ở đàng xa và bảo: Đấy, nó ở trong đó đấy!

Sư tử đi lại gần giếng vẻ mặt căm tức nhìn xuống đáy giếng. Quả thực, nó trông thấy ngay một tên, với cặp mắt giận dữ đang trừng trừng nhìn nó. Sư tử rống lên một tiếng, tên kia cũng rống lên một tiếng. Sư tử xù lông cổ lên tên kia cũng xù lông cổ lên. Sư tử nhe nanh múa vuốt đe doạ, tên kia cũng hăm dọa lại. Sư tử căm tức đến tột độ dồn hết sức mình nhảy phốc xuống giếng để cho thằng khốn nạn kia một trận. Thế là, con sư tử ngạo mạn tự huỷ diệt đời mình dưới giếng sâu…

Thất bại của sư tử là không nhận ra mình nên đã lao vào cắn xé chính hình ảnh của mình. Sư tử chỉ muốn nhất. Sư tử chỉ muốn làm bá chủ nên sẵn sàng loại trừ tất cả các đối thủ có nguy cơ nguy hại đến vị trí số 1 của mình.

Nếu con người của mọi thời đại biết nhìn nhận mình là hình ảnh của Thiên Chúa và mọi người là anh em với nhau, sẽ có những cách hành xử tốt với nhau hơn. Nếu con người nhận ra hình ảnh Chúa nơi tha nhân, chắc chắn sẽ không đối xử tàn bạo với nhau. Nhưng tiếc thay, nhiều người chỉ muốn làm chúa sơn lâm nên lao đầu vào cắn xé đồng loại, hành hạ đồng loại của mình và sẵn sàng làm đủ trò để loại trừ đồng loại. Chồng đánh đập vợ. Cha mẹ đánh đập con cái. Anh em đầy đoạ nhau. Hàng xóm láng giềng đáng lẽ “tối lửa tắt đèn có nhau”, nhưng lại “bới lông tìm vết” và làm hại lẫn nhau.

Hôm nay, lễ Chúa hiển dung nghĩa là Chúa tỏ hiện đúng dung nhan thật của Ngài. Một dung nhan thánh thiện rạng ngời mà bấy lâu nay nhân tính đã che phủ thiên tính của Ngài. Một dung nhan tinh tuyền của một vì Thiên Chúa là Thánh, ngàn trùng chí thánh đến nỗi cả ba môn đệ đều ngây ngất vì được chiêm ngắm dung nhan thật của Thầy Giêsu. Ba môn đệ đã cúi mình kính phục trước dung nhan thật của Chúa Giêsu. Đó chính là sứ điệp mà mùa chay đang mời gọi chúng ta: hãy tỏ hiện dung nhan thật của chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa ra lời nói và việc làm của mình. Hãy thể hiện sự thánh thiện của hình ảnh Thiên Chúa nơi chính mình để anh em được chiêm ngưỡng. Hãy biểu lộ lối sống “nhân chi sơ tính bản thiện” của phẩm giá làm ngừơi để anh em được hạnh phúc khi sống với chúng ta.

Mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy tìm lại hình ảnh ban đầu của tạo dựng. Hãy gạn đục khơi trong để hình ảnh của Chúa luôn tỏ hiện ra nơi bản thân của chúng ta. Hãy tìm lại hình ảnh tinh tuyền ban đầu của mình, một hình ảnh chưa bị lòng ham muốn danh lợi thú làm hoen ố, mới thấy phẩm giá cao đẹp của con người thật cao qúy hơn muôn loài. Có ý thức được sự cao qúy nơi phẩm giá làm người mới biết trân trọng và gìn giữ cho mình và cho anh em. Phẩm giá con người cao qúy hơn mọi danh lợi thú trần gian, thế nên đừng bao giờ vì một chút bổng lộc trần gian, một chút vui sướng mau qua mà đánh mất phẩm giá của mình và làm tổn thương đến phẩm giá của tha nhân.

Xin Chúa giúp chúng ta can đảm tẩy rửa những bợn nhơ tội lỗi làm hoen ố lương tri, và xin Chúa thêm ơn trợ giúp để chúng ta luôn gìn giữ nét đẹp nơi phẩm giá làm người của mình và của tha nhân. Amen.

32.Hãy nghe Lời Người

(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh)

“Đây là Con yêu dấu của Ta, Người đẹp lòng Ta. Hãy nghe Người”

Biến Cố Biến Hình: Vai trò trong Phụng Vụ Mùa Chay

Chúa Nhật mở màn cho cho Mùa Chay, chúng ta thấy Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô ở biến cố Người theo Thần Linh thúc đẩy vào hoang địa để chịu ma quỉ cám dỗ sau khi đã ăn chay 40 đêm ngày. Chúa Nhật Thứ Hai của Mùa Chay tuần này chúng ta thấy Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô ở một biến cố hoàn toàn ngược lại với biến cố tuần trước, đó là biến cố Người biến hình trên núi cao trước mắt ba môn đệ của Người.

Việc Giáo Hội sắp xếp cho hai biến cố của Chúa Giêsu hoàn toàn trái ngược này liền với nhau như vậy, bị cám dỗ trước, tỏ vinh quang sau, cho chúng ta thấy gì, nếu không phải, trước hết, Giáo Hội muốn chứng thực niềm xác tín của mình là “Con Thiên Chúa xuất hiện là để phá hủy công việc của ma quỉ” (1Jn 3:8), và sau nữa, Giáo Hội cũng muốn cho con cái mình thấy được ý nghĩa đích thực và mục tiêu cao cả của chay tịnh, của từ bỏ: ý nghĩa đích thực của chay tịnh, của từ bỏ ở ngay lời Chúa Giêsu dùng đoạn Kinh Thánh Cựu Ước (Nhị Luật 8:3) bịt miệng Satan, đó là “con người không sống nguyên bởi bánh”, và mục tiêu cao cả đó là nhờ thế con người chẳng những không sa chước cám dỗ mà còn có thể “sống bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra”, một mục tiêu cũng rất hợp với tiếng nói phát ra từ trời trong biến cố biến hình trên núi của Chúa Giêsu hôm nay, đó là lời: “Hãy lắng nghe Người”.

Chắc chắn Chúa Giêsu cũng có mục đích như Giáo Hội đối với con cái mình như thế. Bởi vì, Phúc Âm Thánh Mathêu cho biết, Chúa Giêsu đã biến hình “sáu ngày sau” (Mt 17:1) khi Người tiết lộ cho các tông đồ biết một mầu nhiệm vô cùng mầu nhiệm đối với tâm trí loài người của các vị bấy giờ, đó là Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người, qua lời tiên báo tiên khởi của Người về Biến Cố Vượt Qua này (x Mt 16:21), một lời tiên báo Vượt Qua tiên khởi kinh hoàng và khủng khiếp đến độ đã làm cho vị trưởng tông đồ đoàn, vừa được Người tuyên dương và tín nhiệm trao trọng trách vô cùng quan trọng đến phần rỗi đời đời của các linh hồn, đột nhiên trở thành “Satan” trước con mắt của Người!

Bởi thế, qua biến cố biến hình hôm nay, Chúa Giêsu như muốn củng cố đức tin của các vị vốn đặt nơi Người, một đức tin mà có lần chính quí vị đã phải thú nhận là vẫn còn yếu kém nên đã tự động ngỏ ý xin Thày “hãy tăng thêm đức tin cho chúng con” (Lk 17:5). Qua biến cố biến hình này, Người như muốn nói cùng các vị rằng, cho dù Thày có bị khổ nạn và tử giá vô cùng hèn hạ, đớn đau và nhục nhã trước mặt loài người đi nữa, theo thân phận của một Đấng Thiên Sai, thế nhưng, vì Thày cũng chính là Con Thiên Chúa, nên không một sự gì trên đời này có thể làm chủ được Thày. Trái lại, tất cả mọi sự trần gian, tầm thường hay thấp hèn sẽ được biến đổi thành cao sang và vinh hiển nơi Thày: “dung nhan Người chói sáng như mặt trời, áo Người rạng ngời như ánh sáng”, kể cả “tội lỗi cùng với sự chết đã đột nhập thế gian” (Rm 5:12) cũng sẽ bị tan biến đi như bóng tối trước ánh sáng, khi Thày phục sinh từ trong cõi chết. Thật vậy, biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi, được Phúc Âm tường thuật hôm nay, sau sáu ngày từ hôm Người bắt đầu tuyên bố về Cuộc Vượt Qua của Người, chính là lời tiên báo duy nhất và hùng hồn nhất về Cuộc Phục Sinh vinh hiển của Người. Đó là lý do bài Phúc Âm hôm nay đã được hết thúc bằng câu Chúa Giêsu căn dặn ba vị tông đồ về biến cố biến hình liên quan đến cuộc phục sinh sau này của Người: “Các con đừng nói với bất cứ ai về thị kiến này cho đến khi Con Người phục sinh từ trong cõi chết”.

Biến Cố Biến Hình: Tác dụng thần linh nơi niềm tin Mầu Nhiệm Phục Sinh

Phần các vị tông đồ đã được chứng kiến thấy Thày mình biến hình trên núi như vậy, tức đã được Người củng cố cho đức tin như thế, các vị cảm thấy đức tin của mình hình như mạnh hơn, đến nỗi, hai anh em Giêbêđê là Giacôbê và Gioan, hai nhân vật có mặt nơi biến cố biến hình của Thày, sau này, lúc nghe Thày tiên báo về Cuộc Vượt Qua của Người lần thứ ba (x Mt 20:17-19), đã dám khẳng định với Thày là hai vị “có thể uống được chén Thày uống” (Mt 20:22). Nhất là riêng Phêrô, nhân vật thú nhận mình đã có mặt trong biến cố biến hình này (x 2Pt 1:18) còn gân hơn nữa, khi nghe Thày báo trước sự kiện có một người trong Nhóm 12 của mình sẽ phản nộp Người, liền cương quyết với Thày: “Cho dù tất cả có mọi người có lung lay niềm tin nơi Thày, vĩnh viễn con sẽ không bao giờ” (Mt 26:33), thậm chí còn dứt khoát thề thốt với Người: “Cho dù có chết với Thày, con cũng không chối bỏ Thày” (Mt 26:35). Chính trong khi nói lên những lời hết sức thật tình và chí tình này, những lời nếu so sánh với những gì mâu thuẫn xẩy ra sau đó, Phêrô quả thực “không biết mình nói gì”, như được Phúc Âm Thánh Luca mở ngoặc ghi nhận những gì thánh nhân nói trong biến cố biến hình, về cảm nhận vui sướng của thánh nhân bấy giờ, cũng như về việc thánh nhân tự nguyện xây ba lều cho cả Thày lẫn Moisen và Elia (x Lk 9:33).

Thế nhưng, Mầu Nhiệm Vượt Qua siêu việt và khủng khiếp biết bao trước tâm trí của loài người, thậm chí với cả thành phần đã được trực tiếp phần nào nghe, thấy và sờ được sự thật (x 1Jn 1:1-2) trước khi sự thật hoàn toàn tỏ hiện sau Cuộc Vượt Qua. Bởi thế, vừa giáp trận, quí vị đã bật ngửa ra ngay, đã ngã sấp mặt xuống đất liền, chẳng khác gì như đã xẩy ra nơi đám thủ hạ của Hội Đồng Do Thái sai phái đến bắt Chúa Giêsu sau khi vừa nghe thấy sự thật, tức vừa nghe thấy Người tuyên bố “Chính Ta đây” (Jn 18:6). Vị trưởng tông đồ đoàn là Phêrô đã không ngã sấp xuống đất vỡ hết cả mặt mũi hay sao, khi công nhiên trắng trợn và phũ phàng chối bỏ Thày mình ba lần đúng như lời Thày báo trước (x Mt 26:69-75).

Tuy nhiên, không phải vì ba vị tông đồ được chứng kiến biến cố biến hình Thày muốn dùng để kiên vững đức tin cho các vị này, song các vị vẫn thuộc vào thành phần, như Phúc Âm Marcô cho biết, sau khi Chúa Giêsu bị bắt thì “tất cả mọi người liền bỏ Người mà tẩu thoát” (Mk 14:50), là các vị ấy đã làm cho biến cố biến hình hoàn toàn bị mất đi công dụng thần linh của mình. Bởi vì, biến cố biến hình chẳng những có tác dụng củng cố đức tin cho các vị ngay lúc bấy giờ, mà còn có tác dụng hình thành đức tin cho các vị sau này nữa, ở chỗ, các vị dễ tin vào Thày hơn, khi các vị thực sự chứng kiến thấy Thày mình đã hoàn toàn “biến hình” vinh hiển hiện ra với các vị sau khi sống lại từ trong cõi chết. Biến cố biến hình quả thực là một trong những cách sống động nhất và hiển nhiên nhất Chúa Giêsu muốn dùng để thực hiện chủ đích của Người trong việc hình thành đức tin cho các môn đệ, hay trong việc tăng thêm đức tin một cách hiệu nghiệm cho thành phần muốn đi theo Người, thành phần sẽ là những chứng nhân tiên khởi của Người, một chủ đích được Người cho các vị biết trong Bữa Tiệc Ly: “Thày nói với các con điều này bây giờ trước khi nó xẩy ra, để khi nó xẩy ra thì các con mới tin Là Thày” (Jn 13:19; Lk 24:44): “Thày là Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16:16).

Biến cố biến hình: với vai trò của Đấng Thiên Sai và phần rỗi loài người

Biến cố biến hình chẳng những là việc Chúa Giêsu muốn dùng để tỏ mình ra cho các môn đệ của Người, mà còn là một chứng từ chính Thiên Chúa muốn thực hiện để làm cho các vị tin vào Đấng Ngài sai nữa. Đó là lý do Phúc Âm Nhất Lãm thuật lại hiện tượng có tiếng từ trời tuyên nhận Đấng Thiên Sai của Ngài trước mặt các vị và truyền cho các vị huấn dụ của Ngài: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Đấng đẹp lòng Ta. Hãy lắng nghe Người”. Trong biến cố biến hình của Đấng Ngài sai, để chứng thực cho ba người môn đệ thân tín nhất của Người biết Người chính là Đấng Thiên Sai, Thiên Chúa cũng đã cho các vị thấy cả hai nhân vật tiêu biểu quan trọng trong Cựu Ước là Moisen (tiêu biểu cho lề luật) và Elia (tiêu biểu cho tiên tri) nữa. Bởi vì, với Cuộc Vượt Qua của mình, Chúa Giêsu đã chứng thực mình là Đấng Thiên Sai, tức “là Đấng phải đến” (Mt 11:3), Đấng đã sống và làm trọn vẹn tất cả những gì Thiên Chúa là Đấng sai Người đã dự định và đã tỏ ra cho dân Ngài biết trong “lề luật Moisen và các tiên tri (tiêu biểu nhất là Elia) cùng thánh vịnh (Đavít cũng đóng vai trò tiên tri nơi một số câu thánh vịnh)” (Lk 24:44, xem cả câu 27).

Về những lần hay những việc Thiên Chúa muốn thực hiện để chứng tỏ Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai của Ngài, theo các Phúc Âm thuật lại, có ba lần thứ tự như sau: Lần thứ nhất khi Chúa Giêsu lãnh nhận phép rửa của Gioan Tẩy Giả ở sông Dược Đăng, lần thứ hai khi Chúa Giêsu biến hình trên núi, và lần thứ ba sau khi Chúa Giêsu đã vinh hiển vào thành Giêrusalem. Cả ba lần Thiên Chúa đều thực hiện cùng một cách việc chứng nhận của Ngài về Đấng Ngài sai, đó là bằng một tiếng phát ra từ trời. Tuy nhiên, tiếng phán ra từ trời của Thiên Chúa để chứng nhận Chúa Giêsu quả thực là Đấng Thiên Sai lần thứ nhất chỉ nói riêng với Chúa Giêsu (x Mk 1:11; Lk 3:22; Mt 3:16-17), lần thứ hai với các môn đệ (x Mt 17:5), và lần thứ ba với chung dân chúng, gồm cả dân Do Thái lẫn dân ngoại Hy Lạp, (xem Jn 12:28).

Riêng về lần thứ ba của tiếng phán từ trời này, căn cứ vào lời Chúa Giêsu nói với dân chúng bấy giờ: “Tiếng này không phán ra vì Tôi mà là vì quí vị đó” (Jn 12:30), chúng ta thấy Thiên Chúa quả thực chứng nhận Đấng Thiên Sai của mình trước mặt con người trần gian vậy. Làm như thế không phải là vì Thiên Chúa cần đến con người mà là để làm lợi ích cho phần rỗi của họ, cho đức tin của họ mà thôi, đúng như lời Đấng Thiên Sai của Ngài đã khẳng định với đám dân tìm kiếm Người sau khi được Người hóa bánh ra nhiều để họ được ăn uống no nê: “Đây là việc làm của Thiên Chúa, đó là làm cho quí vị tin vào Đấng Ngài sai” (Jn 6:29).

Tuy chủ ý của tiếng phán từ trời là chứng nhận Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai, Đấng thực sự đã làm đúng như những gì Người đã khẳng định với dân Do Thái: “Tôi từ trời xuống không phải để làm theo ý mình mà là ý Đấng đã sai” (Jn 6:38), nhưng tiếng phát ra từ trời này tự mình cũng đã gây ra một tác dụng khủng khiếp, đó là làm cho người nghe phải hoảng sợ. Điển hình là trong biến cố biến hình được Phúc Âm Thánh Mathêu hôm nay thuật lại và cho biết tình hình sau tiếng phán này là “Khi các vị nghe thấy tiếng nói này liền hoảng sợ ngã xuống đất”. Cũng thế trong lần thứ ba, Phúc Âm Thánh Gioan cho biết: “Khi đám đông nghe tiếng này họ nói là tiếng sấm”, có nghĩa là họ có thể đã bị giật mình và run sợ. Chỉ có lần thứ nhất khi tiếng từ trời phán ra với Chúa Giêsu thì không có gì xẩy ra, không phải vì Người có nội tâm thâm hậu, mà vì Người chính là Đấng Thiên Sai, là Con Thiên Chúa, là chính Lời Thiên Chúa muốn nói với loài người (x Heb 1:2), Lời mà tiếng phán từ trời hôm nay muốn thành phần chứng nhân tiên khởi được chứng kiến biến cố biến hình “Hãy lắng nghe”.

Vấn đề thực hành sống đạo: Chúa Giêsu biến hình trên núi trước mặt ba môn đệ là việc cả Người cũng như Cha của Người muốn thực hiện để chứng thực Người là Đấng Thiên Sai, là Chân Lý, nhờ đó, thành phần môn đệ đã được Người tuyển gọi, cũng như đã tự nguyện bỏ mọi sự để dấn thân theo Người, được yên tâm và kiên trì theo Người cho đến cùng (x Jn 21:18-19). Và chính khi Kitô hữu chúng ta theo Người cho tới cùng như thế, ngay trên trần gian này, nếu “Chúa Giêsu được tỏ hiện nơi thân xác của chúng ta” (2Cor 4:10), chúng ta thực sự đã được “biến hình” một cách mầu nhiệm. Ở chỗ, càng ngày chúng ta càng phản ánh Đấng” là ánh sáng thế gian” (Jn 8:12), tức càng trở thành những chứng nhân đích thực và sống động của Người, cho tới khi Người lại đến để hoàn toàn và vĩnh viễn biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta để nó được thực sự trở nên giống như thân xác hiển vinh của Người (x Phil 3:21).

33.Chúa Hiển Dung – Radio Veritas Asia

(Trích từ ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Trong phụng vụ Chúa Nhật thứ hai Mùa Chay này, Giáo Hội cho chúng ta chia sẻ phần nào tâm tư của Chúa Giêsu và ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê, là những người đã được Chúa Giêsu kêu gọi đầu tiên và cũng là những người được Chúa Giêsu đem theo vào vườn Giệtsêmani để cầu nguyện trước khi Ngài bước vào cuộc Thương Khó. Với tâm hồn tinh tế ưu ái, Chúa Giêsu biết rõ tâm tính của các học trò mình, Người biết họ vốn là những ngư phủ chất phác, nhiệt tình nhưng khá bộp chộp. Họ hăng say đi theo Người, hết lòng cộng tác vào sứ mệnh của Người, nhưng cũng từng có những phản ứng nóng nảy, bộc phát. Trong các câu chuyện kể của Tin Mừng, chúng ta thấy không ít lần Simon Phêrô nhanh nhẩu thay mặt các đồng bạn trả lời câu hỏi của Chúa Giêsu, cho dù các lời ấy có thể làm Thầy mình buồn lòng. Thậm chí, trong một lần cản ngăn Chúa Giêsu về việc Người sẽ tự nguyện lên Giêrusalem để chịu khổ hình, và Phêrô lúc đó đã bị Chúa Giêsu quở trách nặng lời như sau: “Satan, lui lại đàng sau Thầy, con cản lối Thầy, vì tư tưởng của con không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà của loài người”. Còn hai ông Gioan và Giacôbê thì cũng bộp chộp không kém, vì tính nóng nảy, hai ông đã được Chúa Giêsu đặt biệt hiệu là con của thiên lôi. Hai ông đã bị Chúa Giêsu khiển trách vì đã muốn cho lửa từ trời xuống thiêu hủy những người Samari không chịu tiếp đón Người. Vì biết rõ tâm tính của các ông, nên sau khi tiên báo lần thứ nhất về cuộc Thương Khó của mình, Chúa Giêsu đã đem riêng các ông theo Người lên núi cầu nguyện và cho các ông chứng kiến vinh quang của Người. Ngay cả trong bài Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe đọc hôm nay, ba ông vẫn còn nguyên vẹn tính chất phác của mình, nên khi Chúa Giêsu chuyên tâm cầu nguyện thì các ông lại vô tư nằm ngủ, và Chúa Giêsu vẫn để cho các ông ngủ say. Khi các ông bừng tỉnh thì một khung cảnh huy hoàng đã bao trùm lấy các ông, các ông được chiêm ngưỡng Chúa Giêsu trong vẻ vinh quang sáng lạn của Người; có ông Môsê và ông Êlia xuất hiên để làm chứng rằng Người là Đấng Thiên Sai mà Kinh Thánh đã loan báo. Quá kinh ngạc vì cảnh tượng huy hoàng trước mắt, Phêrô đã nói như trong cơn mê sảng, kế đó ông lại được đám mây biểu hiện sự có mặt của Thiên Chúa bao trùm và được nghe tiếng Chúa Cha xác nhận Chúa Giêsu là Con Yêu Dấu của Ngài.

Khi nghe đoạn kể lại Chúa Giêsu tỏ mình vinh hiển trên đây, chúng ta thấy mình ngây ngất, choáng ngợp trước cảnh tượng thánh thiêng huy hoàng ấy, chúng ta khâm phục các môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê, vì các ông đã được chiêm ngắm vinh quang của Chúa Giêsu. Nhìn lại mình, chúng ta thấy đời sống đức tin của chúng ta sao mà nhạt nhẽo. Chúng ta tin rằng Chúa Giêsu đã phục sinh vinh hiển, nhưng dường như Người ở tận trên thiên cung xa vời. Còn chúng ta thì cứ loay hoay mãi với những chuyện đời thường nơi chốn trần gian này. Tâm trạng của chúng ta cứ buồn buồn sao ấy. Thật ra, chúng ta không chỉ quẩn quanh với những thăng trầm thế sự mà thôi. Hiện giờ, Chúa Giêsu cũng quan tâm đến mỗi người chúng ta, như Người đã từng quan tâm đến các môn đệ như Phêrô, Gioan và Giacôbê ngày xưa. Người biết rõ tâm tính của mỗi người chúng ta với những ưu điểm và khuyết điểm của từng cá nhân, bằng những cách thế khác nhau. Qua những sự kiện và những dấu chỉ khác nhau, Người cũng cho chúng ta chia sẻ những giây phút vinh quang, hoan lạc của Người, để tỏ lộ cho chúng ta đại cuộc cứu độ của Người và giúp chúng ta vững bước trên đường sống đạo. Nếu chúng ta không nhận ra những lúc Người tỏ mình như thế, có thể vì chúng ta chưa đủ bén nhạy trong đời sống đức tin, hoặc vì chúng ta không nghĩ rằng mình được Chúa Giêsu ưu ái quan tâm đến thế.

Quả thật, Chúa Kitô Phục Sinh vẫn thường xuyên đến với mỗi người chúng ta dù không rực rỡ ánh hào quang như lúc tỏ lộ cho ba môn đệ ngày xưa, nhưng vẫn đủ để tạo ra những dấu ấn có sức củng cố đức tin của chúng ta. Đại thi hào Tagore đã viết về điều này trong tác phẩm “Lời Dâng” như sau:

“Anh không nghe thấy ư?

Bước chân Người thầm lặng

Người tới, tới và luôn luôn thường tới

Người tới, tới và luôn luôn thường tới

Hàng giờ, hàng đêm, hàng ngày, hàng thời đại, anh ơi”.

Lạy Chúa Giêsu, trong cuộc sống đời thường của con, Chúa dùng muôn vàn phương cách để tỏ lộ cho con vinh quang của Ngài, nhưng nhiều lúc con chẳng nhận ra. Xin Chúa ban cho con đôi mắt biết rộng mở, đôi tai biết lắng nghe và tâm hồn biết thinh lặng để nhận ra Chúa. Xin cho con biết lưu giữ những kỷ niệm về những lần con gặp Chúa để mỗi khi gặp cơn sóng gió trong đời, con hồi tưởng lại những kỷ niệm tuyệt vời ấy mà vững tâm sống đạo.

34.Con đường thập giá con đường vinh quang

Tuần trước chúng ta đã cùng với Chúa Giêsu lên núi để chịu ma quỷ cám dỗ. Đáng tiếc cho ma quỷ là nó không làm gì được Chúa Giêsu. Chỉ vì Người một mực chọn và làm theo lời dạy của Chúa Cha. Chúa Nhật hôm nay chúng ta tiếp tục cùng ba môn đệ theo Chúa Giêsu lên núi. Nếu như tuần trước chúng ta thấy Chúa Giêsu có vẻ yếu đuối bao nhiêu thì hôm nay Người trở nên mạnh mẽ oai quyền bấy nhiêu. Chúa Giêsu đã trở về tình trạng vinh quang của Người: “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng” (Mt 17, 2b).

Với vinh quang này, ba môn đệ cảm thấy rất thích nên Phêrô đã không ngần ngại thưa: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay!” (Mt 17, 4b). Liền sau đó là tiếng Chúa Cha từ đám mây phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” (Mt 17, 5b). Chúa Cha rất hài lòng về Chúa Giêsu. Vì Người đã vui lòng đón nhận con đường mà Chúa Cha đã vạch sẵn cho. Con đường ấy chính là con đường thập giá. Cũng chính con đường thập giá ấy mới là con đường vinh quang đích thật. Và rồi Chúa Cha cũng muốn mời gọi ba môn đệ và tất cả chúng ta hãy đi theo con đường Thập giá cùng với của Thầy mình.

Chúa Giêsu cũng là Thiên Chúa thật nên vinh quang mà chúng ta chiêm ngưỡng là điều bình thường. Điều đáng nói là vì thương và vì muốn đem lại ơn cứu độ cho con người chúng ta, nên Chúa Giêsu đã đón nhận con đường thập giá ấy. Chúng ta thấy không bao giờ Chúa Giêsu kêu gọi người ta làm gì mà chính Người đã không làm trước. Chẳng hạn khi Người kêu gọi hãy tha thứ thì chính Người cũng đã tha thứ cho những kẻ đã bắt bớ, đã sỉ nhục mình: “Lạy Cha xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”. (Lc 23, 34. Cho nên, nếu Chúa Giêsu đã đi con đường thập giá thì những ai muốn theo Người không thể đi đường khác được. “Ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ chính mình vác thập giá mình mà theo Thầy” (Mt 16, 24).

Vậy đâu là con đường thập giá. Đó là con đường từ bỏ những ý riêng của mình mà sống theo thánh ý Chúa Cha. Bài đọc 1 cho thấy ông Abram được Thiên Chúa mời gọi: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi” (St 12, 1b). Thật là một lời mời gọi hết sức vô lý theo cái nhìn của chúng ta. Tuy nhiên, ông đã vâng lời Chúa để ra đi mà không một lời phàn nàn. Nhờ đó mà ông đã trở thành Tổ phụ của nhiều dân tộc.

Hằng ngày trong cuộc sống chắc chắn có rất nhiều điều trái ý nhưng nếu biết đó là thánh ý Chúa Cha, chúng ta hãy tin tưởng mà bước đi. Bước đi như thế là chúng ta đang đi theo Chúa Giêsu – vị Thầy Chí Thánh của chúng ta. Bước theo con đường thập giá cũng chính là con đường vinh quang.

35.Lên núi cao – Lm Giuse Lê Minh Thông

LÊN NÚI CAO ĐỂ THẤY CÁI KHÔNG THỂ MÔ TẢ, ĐỂ NGHE LỜI PHÁT RA TỪ ĐÁM MÂY.

Dẫn nhập

Bài Tin Mừng “Biến đổi hình dạng ở trên núi” (Mt 16,1-9) nằm giữa hai lần Đức Giêsu báo trước Thương Khó – Phục Sinh: Lần thứ nhất ở Mt 16,21-23 và thứ hai ở Mt 17,22-23. Chúng ta vẫn quen gọi: “Ba lần Đức Giêsu báo trước cuộc Thương Khó”, nhưng trong cả ba lần Đức Giêsu đều nói tới biến cố Phục Sinh bằng một câu ngắn ngủi: “Ngày thứ ba, Người sẽ trỗi dậy” (Mt 16,21; 17,23; 20,19).

Có lẽ nói ngắn quá nên các môn đệ trong bản văn cũng như cộng đoàn Mátthêu cuối thế kỷ I và cả độc giả ngày nay không để ý, hay xem nhẹ ba lần báo trước sự Phục Sinh. Vì thế, trình thuật Đức Giêsu được biến đổi hình dạng (Mt 17,1-9) nhằm làm lộ ra vinh quang tiềm ẩn nơi Đức Giêsu và nhất là mặc khải cho các môn đệ và cho độc giả biết Đức Giêsu là ai và chúng ta phải làm gì.

Trình thuật Đức Giêsu được biến đổi hình dạng và tiếng phát ra từ đám mây vẽ lên một bức tranh tuyệt đẹp có một không hai trong sách Tin Mừng với những hình ảnh và ngôn từ rất đặc biệt. Có thể tìm hiểu đoạn Tin Mừng Mt 17,1-9 qua ba mục:

1) Tách rời khỏi thế giới thường ngày, thế giới khả giác.

2) Chiêm ngưỡng thế giới của Thiên Chúa bằng mắt.

3) Lắng nghe mặc khải của Thiên Chúa bằng tai.

1) Tách rời khỏi thế giới thường ngày, thế giới khả giác.

Trình thuật bắt đầu bằng sự tách biệt với đời thường về thời gian, về không gian và về con người: “Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông Giacôbê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao” (Mt 17,1).

a) Yếu tố thời gian là “sáu ngày sau”, đánh dấu sự phân cách với những gì đã xảy ra trước đó một tuần. Người kể chuyện không nói gì về sáu ngày này, như thể sáu ngày im lặng không kể gì cả để làm cho biến cố xảy ra trên núi cao trở thành một trong những đỉnh cao của sách Tin Mừng.

b) Trình thuật nói đến tách biệt về nơi chốn. Ba môn đệ được tách riêng ra một nơi và được đưa lên một ngọn núi cao. Đó là núi nào? Bản văn không nói rõ. Độc giả không nên tìm cách đặt tên, vì bản văn nói đến một nơi tượng trưng, núi cao là nơi Thiên Chúa bày tỏ và gặp gỡ con người. Bản văn cố tình không cho biết núi nào để đưa độc giả ra khỏi những gì là bình thường. Cần ra khỏi khỏi thế giới thường ngày, thế giới khả giác để có thể hiểu được một biến cố vượt ra ngoài thời gian và không gian bình thường. Nơi chốn không rõ, thời gian cũng bị vượt khỏi giới hạn, cụ thể trong trình thuật là những nhân vật sống cách nhau hàng thế kỷ như Môsê, Êlia và Đức Giêsu lại có thể đàm đạo với nhau.

(Trình thuật không nói rõ nơi nào, nhưng truyền thống Hội Thánh cần một nơi để ghi nhớ biến cố này. Núi Ta-bo ở Ga-li-lê đã được chọn, đây là một ngọn núi riêng biệt, chung quanh không có đồi núi, nên có thể thấy từ xa. Hiện nay có một ngôi thánh đường trên đỉnh núi và khách hành hương đến để sống và suy niệm về biến cố này).

c) Tách biệt về con người, vì chỉ có ba môn đệ được chọn: “Phêrô, Giacôbê và Gioan”. Đây là Nhóm thu nhỏ của Nhóm Mười Hai, đại diện cho tất cả các môn đệ khác. Sự tách biệt này là dấu hiệu văn chương báo trước một biến cố quan trọng, nhưng chưa phải là lúc phổ biến rộng rãi cho mọi người. Tuy nhiên, những gì ba môn đệ này đã thấy và đã nghe là để rao giảng cho mọi người qua mọi thời đại được biết. Thực vậy, nhờ trình thuật, chính độc giả cũng được tách riêng ra, được thấy và được nghe những gì ba môn đệ ngày xưa đã nghe, đã thấy.

Sau khi được tách biệt khỏi thời gian và không gian bình thường, những gì xảy ra trên núi thuộc về một thế giới khác. Đó là thế giới của Thiên Chúa, thế giới không còn khoảng cách thời gian và không gian, thế giới mà ngôn ngữ không thể diễn tả được. Trong khoảng khắc thần linh đó, mặc khải của Thiên Chúa được tỏ bày qua thị giác (để thấy) và qua thính giác (để nghe).

2) Chiêm ngưỡng thế giới của Thiên Chúa bằng mắt

Trước hết, Đức Giêsu không tự mình biến đổi hình dạng mà “Người được biến đổi hình dạng” (metamorphôthê). Động từ Hy Lạp metamorphôthê ở dạng thụ động và tác nhân được hiểu là Thiên Chúa (passif divin). Chính Thiên Chúa làm cho Đức Giêsu được biến đổi hình dạng.

Sự biến đổi này không chỉ là biến đổi khuôn mặt. Tiếng Pháp quen dùng động từ transfigurer có nghĩa là thay đổi (trans) khuôn mặt (figure). Từ figure có nghĩa đầu tiên là mặt. Trong khi động từ Hy Lạp metamorphoô, tiếng Pháp chuyển âm: métamorphoser, có nghĩa là biến đổi, biến hoá (méta) toàn thân, từ trong bản chất (morphoser). Tiếng Việt có thể dùng cụm từ “biến đổi hình dạng”.

Đức Giêsu được biến đổi hình dạng trước mặt ba môn đệ. Nghĩa là ba môn đệ được chứng kiến sự kiện nhưng họ đã thấy gì? Người thuật chuyện kể: “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng.” Nếu dung nhan Đức Giêsu chói lọi như mặt trời thì làm sao các môn đệ có thể nhìn mà không bị mù mắt. Nếu y phục của Đức Giêsu trở nên trắng tinh như ánh sáng thì làm sao các môn đệ có thể thấy được, vì không ai thấy được ánh sáng mà chỉ có thể thấy sự phản chiếu của ánh sáng nơi sự vật mà thôi.

Thực ra, đây là cách diễn tả những thực tại thần linh bằng thứ ngôn ngữ thị kiến của sách Khải Huyền. Ba môn đệ đang đối diện với thế giới của Thiên Chúa, đối diện với những thực tại thuộc về Thiên Chúa, đối diện với vinh quang của Thiên Chúa, nên ngôn ngữ loài người hoàn toàn bất lực. Ngôn ngữ loài người không mô tả được, chỉ vì điều xảy ra không có trong kinh nghiệm cuộc sống thường ngày của con người.

Bằng ngôn ngữ, sách Khải Huyền chỉ có thể mô tả những thị kiến về thế giới thần linh bằng các từ: “như”, “giống như”, “tựa như”… còn điều trông thấy thì không thể mô tả được. Chẳng hạn Gioan mô tả thị kiến ở Kh 4,2-3: “Lập tức tôi xuất thần. Kìa một cái ngai đặt ở trên trời và có một Đấng ngự trên ngai. Đấng ngự đó trông giống như ngọc thạch và xích não. Chung quanh ngai có cầu vồng trông giống như bích ngọc”. Kh 4,6 viết: “Trước ngai có cái gì như biển trong vắt tựa pha lê.” “Trông giống như…”, “như…” còn thực sự thế nào thì không mô tả được.

Có thể nói, trên núi cao, giữa trời và đất, ba môn đệ được thấy “thị kiến” về Đức Giêsu trong thế giới của Thiên Chúa, chỉ có thể mô tả bằng so sánh “như”: “Chói lọi như mặt trời”, “trắng tinh như ánh sáng”, nghĩa là dung nhan của Đức Giêsu không phải là mặt trời, và y phục của Người cũng chẳng phải là ánh sáng, chỉ là “như”, “giống như” mà thôi.

Trong thế giới thần linh ấy, các nhân vật sống cách nhau hàng thế kỷ có thể ngồi lại đàm đạo với nhau. Theo Kinh Thánh, Môsê dẫn dân Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập vào thế kỷ XIII TCN, Êlia là ngôn sứ dưới thời vua A-kháp, thế kỷ VIII TCN và Đức Giêsu thế kỷ I SCN.

Nội dung đàm đạo không được kể ra, nhưng điều chắc chắn là có trao đổi giữa các nhân vật. Trong thế giới trên cao, điều nhấn mạnh là tương quan giữa người sống và người đã khuất, là nối kết giữa các thế hệ với nhau, như thể khoảng cách thời gian không còn nữa. Ba môn đệ là chứng nhân cuộc đàm đạo nhưng nội dung lại vượt ra ngoài sự nắm bắt của người phàm.

Lời Phêrô nói với Đức Giêsu: “Thưa Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia” (17,4). Lời đề nghị này vừa cho thấy các môn đệ muốn kéo dài thị kiến vì biến cố quá hay, quá tốt, quá đẹp, vừa có nét hài hước vì Phêrô đề nghị làm ba lều cho Đức Giêsu, Môsê và Êlia như thể những nhân vật đã khuất như Môsê và Êlia không thuộc về thế giới này lại cần lều để ở, còn ba môn đệ là người phàm lại không cần lều.

3) Lắng nghe mặc khải của Thiên Chúa bằng tai

Mặc khải bằng thị kiến kết thúc với sự lên tiếng của con người, cụ thể là Phêrô, và chuyển sang hình thức mặc khải thứ hai: “Tiếng nói từ đám mây”: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người.” (17,5).

Từ kinh nghiệm thị kiến, thấy bằng mắt, chuyển sang mặc khải bằng lời qua tiếng phát ra. Các môn đệ chỉ có thể lãnh hội được nội dung bằng cách “nghe”. Tiếng phát ra từ đám mây không phải là tiếng con người, tiếng này có nguồn gốc từ trời và bí ẩn. Lối hành văn phù hợp với bối cảnh của biến cố trình bày mặc khải của Thiên Chúa.

Cách thứ nhất, mặc khải bằng thị kiến là vén bức màn lên (mạc khải) để soi sáng những gì còn ẩn dấu (mặc khải). Cách thứ hai là mặc khải bằng lời, hàm ẩn sự lắng nghe để hiểu, ở đây lắng nghe theo nghĩa đón nhận, cho dù chưa hiểu trọn vẹn ý nghĩa của lời mặc khải. Trong trình thuật biến hình, có cả hai cách mặc khải, nhằm giúp ba môn đệ và độc giả hiểu được Đức Giêsu là ai.

Lời phát ra từ đám mây (17,5), nhắc lại tiếng phát ra từ trời sau khi Đức Giêsu chịu phép rửa ở đầu sách Tin Mừng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3,17). Mt 17,5 có thêm hai yếu tố mới: (1) “Hãy vâng nghe lời Người”, dịch sát: “Hãy nghe Người (akouete autou)”, (2) Tiếng phát ra từ đám mây nói trực tiếp với ba môn đệ và qua đó nói với độc giả qua mọi thời đại về căn tính của Đức Giêsu và tương quan của Người với Thiên Chúa Cha. Lời nói từ đám mây gồm một lời giới thiệu: “Đây là Con yêu dấu của Ta” và một mệnh lệnh: “Các người hãy nghe Người.”

Khi gọi ai là Con (huios) thì người ấy là Cha, như thế lời phát ra muốn các môn đệ và độc giả biết Đức Giêsu có tương quan “Cha – Con” với Thiên Chúa, Đức Giêsu chính là Con Thiên Chúa. Mệnh lệnh nói với ba môn đệ và cho độc giả: “Hãy nghe Người” là một khẳng định quan trọng nói lên sự thay đổi lớn trong tương quan giữa Thiên Chúa và con người, như thể Chúa Cha tự xoá mình trước Đức Giêsu là Con yêu dấu của Người.

Thực vậy, trước khi Đức Giêsu xuất hiện, Thiên Chúa phán với dân và dân nghe lời Người. Khi Đức Giêsu xuất hiện, Chúa Cha dặn các môn đệ: Hãy nghe lời Đức Giêsu. Như thế, tương quan “Thiên Chúa / dân” trong Cựu Ước trở thành tương quan “Đức Giêsu / môn đệ” trong Tân Ước, và đây là ý muốn của Chúa Cha.

Nghe lời Đức Giêsu là nghe tất cả những gì Người nói và dạy. Đặc biệt đón nhận lời loan báo Thương Khó và Phục Sinh đã được loan báo trước đó và Người sẽ báo trước thêm hai lần nữa để nhấn mạnh biến cố nền tảng và nghịch lý này. Như thế, biến cố trên núi cao không phải là một biến cố tách rời khỏi các trình thuật khác. Ngược lại, lời mời gọi “nghe lời Đức Giêsu”, nối kết biến cố trên núi cao với toàn bộ giáo huấn của Đức Giêsu trong sách Tin Mừng.

Đối diện với thế giới của Thiên Chúa và vinh quang của Người, các môn đệ đã “kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất” (17,5). Chính Đức Giêsu đã đưa các ông trở lại đời thường bằng cách chạm vào các ông và nói: “Chỗi dậy đi, đừng sợ”, các ông ngước mắt lên và mọi chuyện lại trở về thực tế. Nhưng biến cố ấy, những gì đã thấy, những lời đã nghe, sẽ không bao giờ rời khỏi các ông.

Kết luận

Giữa hai lần báo trước biến cố Thương Khó và Phục Sinh, Đức Giêsu đưa ba môn đệ ra khỏi đời thường để bước vào thế giới của Thiên Chúa. Ở đó những điều xảy ra nhằm mặc khải căn tính của Đức Giêsu. Biến cố trên núi cao báo trước sự Phục Sinh của Đức Giêsu vì Người có nguồn gốc thần linh, Người có Cha là Thiên Chúa, Người là Con và được Chúa Cha yêu thương. Chính Chúa Cha ra lệnh cho các môn đệ lắng nghe giáo huấn của Đức Giêsu.

Trình thuật Đức Giêsu được biến đổi hình dạng trên núi cao và lời phát ra từ đám mây là những tia sáng mạnh mẽ như ánh sáng mặt trời, có khả năng soi sáng cho cuộc đời của độc giả mọi nơi mọi thời đang bước đi trong đêm tối, đang sống trong khó khăn thử thách của cuộc sống, đang nghi ngờ về căn tính của Đức Giêsu và chưa biết rõ Người là ai. Có thể nói, biến cố trên núi cao là hình ảnh của biến cố Phục Sinh, trước khi biến cố Thương Khó xảy ra. Đây là niềm hy vọng lớn lao cho ba môn đệ và cho độc giả.

Đọc xong trình thuật, liệu độc giả, là tất cả chúng ta, có thực sự sống biến cố xảy ra trên núi như ba môn đệ hay không?

Liệu độc giả có cùng với các môn đệ tách ra khỏi đời thường để ngây ngất trước vẻ đẹp của thế giới trên cao hay không?

Liệu độc giả mọi nơi mọi thời có nghe được tiếng phát từ trời để biết Đức Giêsu là ai (là Con Thiên Chúa) và biết phải làm gì (Nghe Đức Giêsu) hay không?

Ước gì mặc khải ngắn ngủi trong bản văn bằng thị kiến để thấy, và bằng lời để nghe có khả năng gây ấn tượng lâu dài và trở thành một lời mời gọi tin và vững tin vào Đức Giêsu trong hoàn cảnh khó khăn, thử thách.

Mong sao mệnh lệnh “Hãy nghe Người” là lời thúc đẩy chúng ta đến với Tin Mừng, đọc Tin Mừng để nhận ra lời của Đức Giêsu là Lời sự sống, Lời đem lại ý nghĩa cho cuộc đời này.

36.Đức Giêsu – Con đường cứu độ duy nhất

(Suy niệm của Lm. Bùi Quang Tuấn)

“Ngước mắt lên, các ông thấy chẳng còn ai, trừ ai một mình Chúa Giêsu” (Mt 17:8).

Trong cuốn sách tựa đề “Gương Hiếu Thảo”, tác giả Phan Như Huyên có thuật lại gương chí hiếu của Công Chúa An Thường như sau: An Thường là con gái thứ tư của vua Minh Mạng. Nàng rất thông minh và thảo hiếu. Năm lên 9 tuổi, mẹ của công chúa bị bịnh. Lúc đó vào dịp lễ Vạn Thọ, các hoàng tử công chúa đều được triệu vào cung để chúc tuổi vua cha. Nhà vua cho các hoàng tử được ăn thịt dê. An Thường chỉ ngậm thịt trong miệng chứ không nuốt. Vua thấy lạ mới hỏi nguyên do, cô trả lời: “Con nghe nói thịt dê bổ lắm, nên con ngậm về cho mẹ đang bị bịnh ăn cho mau khỏe”. Nghe vậy, vua cảm động quá, mới truyền đem khay lấy thêm thịt để An Thường đưa về cho Mẹ. Đến khi Vua Minh Mạng chết, nàng để tang ba năm, sống bên lăng cha cho trọn đạo hiếu.

Khi đề cập đến đạo hiếu trong văn hoá Việt Nam, Đức TGM Stephanô Nguyễn Như Thể của TGP Huế tại Thượng Hội Đồng Giám Mục Á Châu, đã phát biểu: Người Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm của Khổng giáo, Lão giáo, Phật giáo. Cả ba tôn giáo đó đều cho lòng hiếu thảo là nhân đức căn bản của gia đình và xã hội. Việc sốt sắng tôn kính và phục vụ cha mẹ khi còn sống cũng như lúc qua đời là một bổn phận ưu tiên. Luân lý và văn minh đều tùy thuộc vào bổn phận này.

Có lẽ trong những quốc gia mà đạo hiếu bám rễ sâu vào lòng người như Việt Nam, Trung Quốc, Thái Lan, Ấn Độ…, nơi mà “tứ đại đồng đường”, ba bốn đời vẫn ở chung nhau dưới một mái nhà, thì việc rao giảng hay đón nhận Kitô giáo sẽ không phải là một chuyện dễ dàng. Tại sao thế?

Lý do là vì nhiều người cảm thấy băn khoăn muốn phải kháng khi nghe Đức Giêsu nói: “Ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình thì không thể làm môn đệ của Ta” (Lc 14:26).

Vấn đề được đặt ra là: “Trên thế gian này có gì cao đẹp cho bằng tình cảm cha mẹ con cái, vợ chồng, anh em, và có gì quí giá cho bằng sự sống, ấy thế mà Đức Giêsu nào đó lại bảo người ta phải hy sinh từ bỏ để có thế gắn bó với Ngài. Thử hỏi Đức Giêsu là ai mà đòi hỏi người ta một việc làm quá đáng như vậy? Phải chăng Đức Giêsu đang dạy con người sống bất hiếu?”

Điều cần xác minh trước hết, ấy là Chúa Giêsu không hề dạy người ta bất hiếu hay bất nghĩa. Ngài đã từng nhắc đi nhắc lại điều răn thứ 4 là giới răn dạy người ta thảo kính với mẹ cha. Khi một chàng thanh niên đến hỏi Chúa Giêsu làm thế nào để được hạnh phúc đời đời, câu trả lời của Ngài đã có phần: “ngươi phải thảo kính cha mẹ”. Ngay khi trên thập giá, trước lúc tắt hơi, Ngài vẫn quan tâm đến Mẹ Maria và lo liệu để Gioan đón Mẹ về nhà chăm nom. Thế nên không thể nào nói Chúa Giêsu bất hiếu hay dạy người ta sống bất hiếu được.

Vậy thì làm sao để lý giải được câu nói trên đây của Chúa Giêsu?

Thật ra có gì khó hiểu đâu nếu như có những con người đã vì một đất nước trần thế, một đất nước nay còn mai mất, nay vào tay chế độ này mai vào tay chế độ khác, mà họ còn dám dấn thân và hy sinh cha mẹ anh em cùng sự sống, thì với một đất nước vĩnh hằng, một đất nước được thống trị bởi Đức Giêsu, vua tình yêu và chân lý, thì có gì là khó hiểu khi có những con người dám liều bỏ hết tất cả để đi theo vị vua đó và xây dựng đất nước đó.

Mấy ai lại không biết một Thomas More dám bỏ vua Henry VIII, chấp nhận xa vợ con, và cuối cùng là mất mạng sống để bênh vực cho chân lý trung tín yêu thương, một vợ một chồng, mà Vua Giêsu đã truyền dạy.

Mấy ai lại không biết một Giêrađô Majella trốn nhà ra đi sau khi ghi vội cho mẹ mấy lời: “Mẹ ở nhà con đi làm thánh”. Hay một Charles Cornay đã can đảm bước qua mình song thân, lên đường đi rao truyền chân lý Nước Trời cho Việt Nam, chấp nhận biết bao khốn khó nghèo khổ, và rồi cuối cùng chấp nhận cái chết lăng trì vì con người có tên Giêsu.

Nhưng không phải là ai cũng hiểu rõ được bản chất thực sự của Đức Giêsu để dám bước theo Ngài cách can đảm và quyết liệt. Lắm khi người ta lại cho Ngài chỉ giống như một hiền triết, hay một vĩ nhân, hoặc một nhà sáng lập tôn giáo nào đó. Nhưng một hiền triết, một vĩ nhân, hay một người sáng lập tôn giáo như Đức Khổng, hay Đức Lão, hoặc Đức Phật, thì cũng chỉ là những con người nói về yêu thương và dạy về chân lý, khuyên bảo chúng sinh làm lành lánh dữ, chứ các ngài không là yêu thương, hay là chân lý. Nhưng Đức Giêsu thì trái lại, Ngài là yêu thương, là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống. Quan trọng là chỗ đó! (ĐC Fulton J. Sheen).

Thế thì, một khi nhận thức và xác tín Đức Giêsu chính là chân lý soi sáng đường đi cho con người, là tình yêu đưa đến một sự sống phong phú tràn đầy, thì việc bước theo Ngài, làm môn đệ của Ngài sẽ là bước đi tất yếu cho những ai muốn sống sự thật, muốn sống yêu thương, và muốn trở nên con người toàn vẹn. Ngoài Đức Giêsu Kitô, sẽ không còn ai có thể lấp đầy khát vọng đó.

“Ngước mắt lên, các ông thấy chẳng còn ai, chỉ trừ một mình Chúa Giêsu”. Hai nhà đại tiên tri và lãnh đạo tôn giáo là Êlia và Môisen biến mất. “Chỉ còn một mình Chúa Giêsu”. Theo nhận định của một nhà chú giải: rồi đây “mọi chủ thuyết triết học, mọi ý thức hệ vang bóng một thời rồi cũng sẽ bị lãng quên”. Các tinh hoa của mọi nẻo đường cũng chỉ qui về một mối trong Đức Giêsu, Đấng là Đường duy nhất dẫn đến Chân Thiện Mỹ của muôn vật muôn loài.

Thật chí lý thay niềm xác tín của Giáo hội: “Không có ơn Cứu Độ ngoài Đức Giêsu”.

37.Chúa hiển dung bộ mặt nào?

(Suy niệm của Lm Gioan Nguyễn Văn Ty)

Tôi được biết: trong phụng vụ của Giáo Hội Đông Phương thì biến cố hiển dung (‘sự hóa thân’ theo như cách nói của họ) chiếm vị trí hàng đầu, và được coi là sự kiện thâu tóm tất cả mạc khải Tân ước. Xét cho cùng tôi thấy họ không sai chút nào, vì Hiển Dung với tất cả sự hoành tráng của nó (bao bì) phải gói ghém trong đó một thực tế (sản phẩm) có tầm mức quan trọng vượt bậc. Hiển Dung chắc chắn không phải là biến cố vinh quang hào nhoáng nhằm che đậy một thực tại đau đớn là cuộc khổ nạn, như nhiều khi chúng ta được nghe giải thích: Chúa biến hình để củng cố các tông đồ khỏi vấp ngã vì cuộc khổ nạn ê chề. Nếu đúng là như thế thì việc biến hình đã thất bại, vì trong thực tế, các tông đồ nói chung, cách riêng Phêrô – một trong ba chứng nhân trực tiếp, đã vấp ngã. Hiển dung không nhằm mục đích che đậy bất cứ một thực tế đau thương nào, ngược lại nó phải làm lộ rõ nội dung vinh quang đích thực của Thập Giá

Theo lối suy nghĩ tự nhiên của định luật nhân-quả, người ta luôn có khuynh hướng tách vinh quang ra khỏi đau khổ: đau khổ chỉ là tiền đề, là điều kiện để đạt tới vinh quang. ‘Per crucem ad lucem’, người ta thường quan niệm thế, phải qua thập giá đau thương mới tới được vinh quang phục sinh. Nói như thế thì tự nó Thập giá không bao giờ là vinh quang, vinh quang chỉ lộ diện như một phần thưởng sau thập giá, trong ánh sáng phục sinh. Thông thường người ta quan niệm, thập giá chỉ là phương tiện chứ không thể là mục tiêu, tương tự như đau khổ là con đường dẫn tới thành công. Do đó người ta chỉ có thể ôm ấp vinh quang phục sinh chứ không thể yêu thích thập giá, và diện mạo cũng như sức mạnh đích thực của Thiên Chúa chỉ tỏ hiện trong ánh sáng Phục sinh chứ không thể trong đau khổ thập giá.

Ngược hẳn với lối suy nghĩ trên, các thánh sử, khi mô tả biến cố Hiển Dung, đều cho thấy vinh quang Thiên Chúa tỏ rõ nơi biến cố Thập Giá. Hai ông Êlia và Môsê, hiện thân tột đỉnh của mạc khải Cựu Ước, hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu “về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem” (Lc 9,31). Để thấu hiểu biến cố hiển dung thì phải lồng nó trong cuộc khổ nạn – phục sinh của Đức Giêsu. “Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết chỗi dậy”. Theo tác giả Gio-an thì chính cái chết tự hiến (chứ không phải Phục sinh) mới được Đức Giêsu coi như mục tiêu chính của mạc khải Người, là ‘giờ của Người’, là sự tôn vinh’ của Thiên Chúa Cha và của chính Người nữa (xem Ga 12,20-33). Chỉ có Đức Giêsu của hiển dung – thập giá mới được Chúa Cha từ trời giới thiệu: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!”

Hiểu được vinh quang Thiên Chúa nằm trong chính thập giá quả là điều khó. Ngay cả Phêrô cũng còn lâu mới chấp nhận nổi điều này (xem Mc 8,31-33). Điều đó cho thấy chiêm ngắm và tin vững chắc vào một Thiên Chúa giầu lòng từ nhân và hay thương xót không phải là dễ. Chấp nhận một Thiên Chúa oai hùng và công thẳng còn dễ hơn nhiều. Các tôn giáo đều muốn tôn vinh Thiên Chúa và ca ngợi sự uy nghi cao cả của Ngài mà không bị bóng thập giá phủ mờ. Trong khi đó Đức Giêsu, bằng trọn cuộc sống trần thể, và nhất là qua cái chết thập giá, chỉ muốn hé mở một điều duy nhất: vinh quang vĩ đại nhất của Thiên Chúa, và yếu tính đặc sắc nhất của Ngài chính là tự hiến và cứu độ, là tha thứ và xót thương. Thập giá là mạc khải toàn diện nhất về Thiên Chúa, đồng thời cũng biểu lộ tột cùng vinh quang tình yêu của Ngài.

Vì vậy đối với Kitô hữu chúng ta, mùa chay phải là thời gian của Hiển Dung. Hình như Hội Thánh muốn nhắc nhở chúng ta điều đó: đây chính là thời gian mời gọi mọi Kitô hữu hãy say sưa chiêm ngắm thập giá, để phát hiện ra vinh quang và quyền lực lớn lao nhất của Thiên Chúa, một thứ quyền lực không hề tạo sợ hãi, nhưng chất đầy vui mừng và hy vọng đích thực của Tin Mừng. Trung tâm của mùa chay phải là Thập giá, nhưng không phải thứ thập giá thuần khổ đau và chết chóc, mà là Thập giá ánh lên vinh quang của tình yêu trao hiến và cứu độ của Thiên Chúa là Cha nhân lành. Hoặc tôi chiêm ngắm vinh quang Thiên Chúa như thế, hoặc như Phêrô, tôi chối bỏ vinh quang Thập Giá, để đáng bị Đức Giêsu sua đuổi như Sa-tan, tức là kẻ phản nghịch chối bỏ vinh quang tình yêu tha thứ của Thiên Chúa.

Mùa chay vì thế không chỉ là thời gian hãm dẹp, nhưng phải là dịp để khám phá và củng cố niềm tin. Tôi có ý thức điều đó không?

Lạy Chúa, khi mời gọi con vác thập giá theo chân Chúa là Chúa muốn dành cho con vinh dự được tham gia vào vinh quang vĩ đại nhất của Chúa. Xin cho con, một Kitô hữu và Linh mục của Chúa, không còn coi Thập Giá là biểu hiện của khổ nhục và đau đớn, nhưng đã trở thành biểu tượng của tình yêu vinh quang. Chính vì thập giá hiển dung cho con diện mạo yêu thương tự hiến của Chúa mà con xin được say mê Thánh Giá. Xin cho Thánh Giá từ nay trở thành gia nghiệp duy nhất của đời con. A-men

38.Đường về đỉnh vinh quang

(Suy niệm của Lm Antôn Nguyễn Văn Tiếng)

Đây là một câu chuyện xưa có tên “Người kế vị”, nội dung như thế này: Ở ngôi chùa kia có vị cao tăng với nhiều đồ đệ đông đến hàng trăm người. Cũng như mọi người bình thường, vị cao tăng biết rõ ràng quy luật “sinh, tử” của Tạo Hóa là không có ngoại lệ. Nay tuổi cao, sức yếu, vị cao tăng muốn tìm một người kế vị mình. Ngặt nỗi, người kế vị chỉ có một, còn đồ đệ thì rất nhiều. Vị cao tăng nghĩ là một kế và tiến hành lựa chọn người kế vị.

Cứ khoảng vài ba ngày, vị cao tăng tự đem giấu một món đồ vật và phàn nàn với đồ đệ rằng nơi đây có trộm cắp.

Ít lâu sau, vị cao tăng bỗng la lên: Trộm! Trộm! Có kẻ trộm!

Nghe tiếng thầy kêu, dù đang ngon giấc, các đồ đệ đều bật dậy, vội chạy tới. A là một đồ đệ rất siêng năng, nhanh nhẹn, tháo vát, luôn quí trọng thầy, thương yêu sẵn sàng giúp đỡ bạn, có uy tín vào bậc nhất trong các đồ đệ của vị cao tăng. A chạy đến trước tiên, hy vọng sẽ giúp thầy tìm bắt kẻ trộm, bảo vệ tài sản.

Thấy A, vị cao tăng vội túm lấy áo của A và nói lớn: Bắt được kẻ trộm rồi.

Trước đông đảo các môn đệ, vị cao tăng tuyên bố:

A là kẻ trộm vừa bắt được và đuổi A đi.

Bị thầy đuổi, không một lời thanh minh, không một lời oán thán, A nhẫn nhục ra đi.

Ba ngày sau, A trở lại Chùa, quỳ trước vị cao tăng và nói: “Thưa thầy, con ngộ (giác ngộ – nhận thức) được rồi”.

Vị cao tăng đỡ A dậy, trong lòng cảm thấy rất vui vì đã lựa chọn được người kế vị xứng đáng đúng như lòng muốn.

ĐƯỜNG VỀ ĐỈNH VINH QUANG.

“Vinh quang trên đỉnh núi” hôm nay, mà truyền thuyết cho là núi Ta-bo, duy nhất chỉ xảy ra một lần cho đến khi Chúa Kitô hoàn tất Chương trình Cứu Độ.

Đức Giêsu biến hình rực rỡ cùng với sự xuất hiện của hai nhân vật Cựu Ước, cho thấy tính cách xác thật và chắc chắn của cuộc hành trình mà Đức Giêsu sẽ thực hiện trên trần thế: Con đường Thương Khó và Phục Sinh.

Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bổng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa. Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Ê-lia. Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem. (Lc. 9,29-31).

Trong cuộc biến hình này, có hình ảnh Đức Giêsu vinh quang, và ẩn chứa hình ảnh Đức Giêsu chịu ô nhục: cuộc xuất hành mà Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem.

Trong thoáng chốc, Phêrô – luôn là đại diện cho các môn đệ – “nhận biết” được Đức Kitô vinh quang, vì Người là con Thiên Chúa, như ông từng tuyên xưng “Thầy là Đức Kitô, con Thiên Chúa hằng sống”, nhưng ông không thể “nhận biết” được Đức Kitô ô nhục, mà ngay sau cuộc biến hình này, Đức Kitô sẽ bước vào con đường đó: con đường Thập Giá.

Xin Chúa thương, đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy! (Mt. 16,22).

Đức Kitô biến hình trước mặt những môn đệ gần gũi Chúa nhất, để các ông vững tin vào Đức Kitô, vào Chân Lý, vào con đường mà các ông đang đi. “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống”.

Niềm tin vào Chúa Giêsu có đó, nhưng bước đi vững vàng trong cuộc hành trình Đức Tin không luôn luôn dễ dàng. Mỗi người phải biến đổi để trở nên “đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô trong cái chết của Người” (Pl.3,10).

Sự biến đổi ấy đòi hỏi mọi người phải “thông phần những đau khổ của Người”, bằng sự sám hối, sự điều chỉnh, sự hoán cải sâu xa cuộc đời mình.

Không trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô trong cái chết của Người, thì không thể “đồng hình dồng dạng với Người” trong vinh quang được.

NHỮNG THỬ THÁCH

Trước đông đảo các môn đệ, vị cao tăng tuyên bố:

A là kẻ trộm vừa bắt được và đuổi A đi.

Bị thầy đuổi, không một lời thanh minh, không một lời oán thán, A nhẫn nhục ra đi.

Ba ngày sau, A trở lại Chùa, quỳ trước vị cao tăng và nói: “Thưa thầy, con ngộ (giác ngộ – nhận thức) được rồi”.

Vị cao tăng đỡ A dậy, trong lòng cảm thấy rất vui vì đã lựa chọn được người kế vị xứng đáng đúng như lòng muốn.

Điều gì đã diễn ra trong lòng của đồ đệ A? Đó là những giờ phút độc thoại, chiến đấu, lắng nghe nội tâm, đối diện với chính mình.

Một vị “chân tu”, không thể nào hành động vô lý như vậy. Thế thì, đằng sau hành động bất thường này, thầy có ý dạy điều gì? Đồ đệ A phải nâng tâm hồn lên để suy gẫm được điều đó, để ngộ được điều đó. Nếu không, lòng tự ái bùng lên, danh dự bị thương tổn, đồ đệ A không thể nhận ra tình thương của thầy mình. Có thể tất cả đã đổ vỡ!

Phêrô và các môn đệ đã biết Chúa là ai. Thiên Chúa không thể phản bội. Lời Ngài không sai, dù một chấm, một phẩy. Hình ảnh Chúa Giêsu biến hình khẳng định cho các môn đệ sự vinh quang mà Thiên Chúa hứa ban là chắc chắn.

Chúa thành tín trong mọi lời Chúa phán, đầy yêu thương trong mọi việc Chúa làm. (Tv.144, 13).

Đó là sự xác tín căn bản. Đó là Đức Tin của chúng ta. Từ sự xác tín đó, niềm tin đó, chúng ta tiến bước theo Chúa. Phó thác trong hy vọng và hạnh phúc.

Thưa anh em, tôi không nghĩ mình đã chiếm được rồi. Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi những chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước. Tôi chạy thẳng tới đích, để chiếm được phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa đã dành cho những kẻ được Người kêu gọi trong Đức Giêsu Kitô. (Pl.3,13-14).

Để tiến bước mạnh mẽ, để “lao mình về phía trước”, để “chạy thẳng tới đích”, đòi hỏi sự chiến đấu nội tâm anh dũng, đè bẹp “cái tôi” hẹp hòi, “chết đi con người cũ”, đó là “thập giá của đời ta”.

Nếu con người chỉ suy nghĩ và hành động theo ý riêng, theo bản năng, theo dục vọng, theo khát vọng thấp hèn, hạn hẹp, nhất thời, trước mắt, con người không thể bước vào lối hẹp, không thể đi vào con đường Thập Giá! Điều ấy, đồng nghĩa với việc con người thuộc về thế giới của Sa-tan.

“Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người!” (Mt.16,23).

Không phải chúng ta đòi hỏi có một Thiên Chúa như lòng chúng ta mong ước, mà chúng ta muốn được trở nên một con người như lòng Thiên Chúa mong ước.

Vì sự sống là từ Thiên Chúa.

Nên con người phải được biến đổi, và biến đổi hoàn hảo đến mức hoàn toàn thuộc về Chúa, là của Chúa, là chính Chúa hiện diện trong ta.

Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà chính Chúa Kitô sống trong tôi. (Gl.2,20).

Sự biến đổi này, không phải chỉ là “nhận biết” Thiên Chúa, “ngộ” được Thiên Chúa, mà biến đổi thành chính Thiên Chúa, “thông phần vào bản tính Thiên Chúa” (2Pr.1,4).

Người đã trở nên giống chúng ta, để chúng ta trở nên như Người (Thánh Irénée).

Sự biến đổi ấy, cuối cùng chính là Phục Sinh cùng Đức Kitô. Được về miền Sáng láng và vinh hiển, vinh quang và vinh dự cùng với Ngài cho đến muôn đời.

Anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền (1Pr. 2,9)

THỰC TẾ HÔM NAY

Chúa Giêsu đã biến hình sáng láng trên núi. Những môn đệ thân yêu của Chúa Giêsu đã chứng kiến giây phút vinh quang của Chúa Giêsu. Giây phút mà ngay lúc đó, sẽ không có gì có thể lay chuyển niềm tin của các môn đệ.

Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người! (Mt.17,5).

Nhưng Chúa Giêsu đã đưa các môn đệ xuống núi. Ánh vinh quang đã tắt, cuộc sống đời thường đã trở lại trước mắt. “Đỉnh vinh quang” không một sớm một chiều mà có được để tận hưởng dài lâu. Đường Đến Đỉnh Vinh Quang còn nhiều chông gai thử thách. Người đi còn gặp nhiều gian khổ. Có những người bỏ cuộc. Có những người lạc hướng. Có những người chọn bến bờ khác.

Nghe rồi, nhiều môn đệ của Người liền nói: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga.6,60).

Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với người nữa. (Ga.6,66).

Phải biến đổi con người mình tận gốc rễ để đến bến bờ sự sống vĩnh hằng. Phải biến đổi đến mức tự hủy diệt mình đi mới “sống lại” một cuộc đời mới, sự sống mới.

Nếu hạt lúa mì gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. (Ga.12,23-28).

Lạy Chúa,

Xin cho con luôn biết cố gắng vươn lên,

từng giây phút đổi thay đời mình,

đến gần sự thiện hảo hơn,

để con được hưởng vinh quang đời đời,

trong Tình Yêu của Chúa. Amen.

39.Chúa Nhật 2 Mùa Chay

(Suy niệm của Cao Nhất Huy)

BƯỚC VÀO HÀNH TRÌNH THẬP GIÁ CÙNG VỚI CHÚA GIÊSU

Tin mừng Mt 17: 1-9: Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ba môn đệ thân tín nhất lên núi Thabor để tỏ vinh quang của Ngài cho các ông…

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ba môn đệ thân tín nhất lên núi Thabor để tỏ vinh quang của Ngài cho các ông. Từ trên núi cao, Phêrô, Giacôbê, Gioan đã nhận ra được con người và sứ mệnh của Chúa Giêsu. Con người của Chúa Giêsu là người tôi trung đau khổ như Isaia đã loan báo, sứ mệnh của Chúa Giêsu là hoàn tất con đường thập giá.

Vì thế, xét theo mạch văn của đoạn Tin Mừng hôm nay, thì cuộc Biến hình của Chúa Giêsu có mục đích cho các môn đồ ưu ái thấy trước Vinh quang của ngày sau hết, vinh quang này đang tập trung trong con người Giêsu đang sống thường ngày với họ. Thiên Chúa phán với các môn đồ đầy sợ hãi rằng họ phải nghe lời và cùng đi theo Chúa Giêsu trên đường đẫn tới Giêrusalem, tiến đến vinh quang bằng thập giá.

Tiếp đến, chúng ta thấy 3 môn đệ của Chúa đã say trong vinh quang và muốn ở lại trong vinh quang đó nên nói rằng: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a” (Mt 17, 4). Thế nhưng, tiếng của Thiên Chúa Cha đã phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” (Mt 17, 5). Chúa muốn nói với chúng ta rằng: Vinh quang không thể tự mà có, cũng không ai sống mãi trong vinh quang được, vinh quang phải được kín múc ra từ trong thập giá và được nuôi dưỡng nó trong thập giá. Vì thế, để có được vinh quang thì hãy vâng nghe theo lời của Chúa Giêsu. Đó là bước theo con đường của Chúa Giêsu, con đường đi lên Giêrusalem để đón nhận thập giá.

Hình ảnh đó, cho chúng ta nghiệm thấy rằng, muốn tìm thấy được hạnh phúc thì con người phải chấp nhận bước vào những khó khăn và thử thách thì mới tìm thấy hạnh phúc, và hạnh phúc đó cũng phải tiếp tục được nuôi dưỡng trong những thử thách và thậm chí là đau khổ.

Chúa Giêsu, Ngài là Thiên Chúa, nghĩa là Ngài có đủ quyền năng để bỏ qua đau khổ của thập giá để tới thẳng vinh quang, nhưng Ngài lại không làm như vậy, Ngài ôm lấy đau khổ của thập giá vào mình để thanh luyện nó, biến đổi nó thành vinh quang vĩnh cửu. Và qua đó, Ngài muốn cho con người nhận ra rằng, không ai ngồi không mà có được hạnh phúc, không ai không chịu cực khổ mà có thể đạt được hạnh phúc, không ai bỏ qua được đau khổ trên bước đường đời mà có thể đến được vinh quang hạnh phúc được, cũng không có con đường tắt nào có thể đến thẳng vinh quang và hạnh phúc. Nghĩa là, hạnh phúc luôn phải đánh đổi bằng một hành trình gian khổ và thậm chí là đau khổ nữa. Điều này không cần phải chứng minh bằng những chứng cứ nào hết, nhưng chính mỗi người chúng ta, mỗi kinh nghiệm đời sống của chúng ta là những chứng cứ hữu hiệu nhất cho điều khẳng định trên.

Điều đó cũng khẳng định, nếu ai trong cuộc đời này chối bỏ hay bỏ cuộc trước thập giá là những đau khổ và thất vọng thì chắc chắn chúng ta không thể nào đạt tới vinh quang được. Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ trong Tin Mừng rằng: “Hãy trỗi dậy, Đừng Sợ!” (Mt 17, 7). Bởi vì Ngài biết, các môn đệ sợ phải đối diện với hành trình thập giá, hay đúng hơn là các môn đệ chưa thực sự nhận ra rằng thập giá chính là con đường duy nhất dẫn tới vinh quang và hạnh phúc vĩnh cửu. Điều đó ta thấy rõ ràng khi nhìn vào hình ảnh Phêrô ngăn cản không cho Chúa lên Giêrusalem (Mc 8,31-33)

Đôi khi trong hành trình đời sống đức tin, chúng ta sợ hãi khi đối diện với những khó khăn của cuộc sống xã hội, cuộc sống gia đình. Chúa ban cho chúng ta mỗi người một ơn gọi đặc biệt và riêng biệt, chính sự đặc biệt và riêng biệt đó lại trao ban cho chúng ta mỗi người một thánh giá đặc biệt và riêng biệt, không ai giống ai, nhưng đều là thánh giá Chúa gửi đến để chúng ta có thể vác trên vai cùng theo Chúa lên Giêrusalem mà tìm đến vinh quang của hạnh phúc bất diệt: “ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá và theo Thầy” (Mt 16, 24).

Tuy nhiên, khi đối diện với thánh giá Chúa trao, chúng ta thường sợ hãi và muốn trốn tránh. Ngày nay trong cuộc sống, rất nhiều các gia đình, vì sự khác biệt giữa vợ – chồng, con cái, và các thành viên trong gia đình không chấp nhận được những khác biệt đó khiến cho gia đình ngày càng trở nên nặng nề, rồi đến một lúc khi sự nặng nề đó trở nên quá sức thì gia đình tan vỡ. Chúng ta nên nhớ rằng, hành trình thập giá là một hành trình của sự biến tận căn. Biến đổi để trở nên phù hợp với vinh quang bất diệt. Trong cuộc sống gia đình cũng vậy, thập giá của mỗi thành viên là sự biến đổi chính mình để nên phù hợp hơn với gia đình đặc biệt và riêng biệt của mình, chứ không mong người khác biến đổi theo ý mình.

Ta thấy hình ảnh của chú chim đại bàng, một loài chim được mệnh danh là chúa tể bầu trời, nhưng còn được biết đến như một loài động vật thông minh và sẵn sàng đối đầu với thử thách. Điều đó được thể hiện rõ nhất qua cách chúng đối đầu với mỗi cơn bão.

Không như tất cả mọi loài đều chạy trốn cơn bão, Đại bàng sẽ bay lên đỉnh núi thật cao đứng chờ. Và khi cơn bão ập đến, Đại bàng sẽ tận dụng sức mạnh của cơn bão để đưa đôi cánh của mình bay thật cao lên bầu trời. Đối với Đại bàng, cơn bão không hề là một điềm dữ. Nó là đòn bẩy, là cơ hội để củng cố thêm quyền lực thống trị bầu trời cho Đại bàng.

Hầu hết những ai biết về câu chuyện của Đại bàng đều khâm phục bản tính kiên cường, trí thông minh và sức sống mãnh liệt của nó. Có lẽ chính những thử thách khắc nghiệt ấy đã rèn giũa nó trở thành một loài mạnh mẽ và đáng nể như ngày hôm nay. Hơn bất cứ điều gì, cuộc sống và cách Đại bàng đối đầu với khó khăn chính là nguồn cảm hứng cho tất cả các loài, kể cả loài người chúng ta.

Chúng ta thì thế nào? Khi đối diện với khó khăn, chúng ta có sẵn sàng đương đầu không hay chúng ta tìm cách chạy trốn nó?

Nhìn vào hình ảnh cuộc đời của Chúa Giêsu, đặc biệt là hành trình thập giá của Ngài, cũng như công trình tạo dựng của Ngài qua hình ảnh chim đại bàng, chúng ta tự xét lại chính mình, xem chúng ta đã thực sự bước vào hành trình thập giá của Chúa Giêsu qua đời sống thường ngày của chúng ta chưa?

Xin Thiên Chúa giúp mỗi người chúng ta luôn biết can đảm đối diện với khó khăc của cuộc sống, nhất là cuộc sống gia đình, nhờ đó chúng ta có đủ sức mạnh và sự can đảm để vượt qua những khó khăc đó mà cùng với Chúa Giêsu tiến đến vinh quang bất diệt. Amen.

40.Chúa Nhật 2 Mùa Chay

(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

DÕI THEO BƯỚC CHÚA TRÊN MỌI NẺO ĐƯỜNG ĐỂ ĐẾN VINH QUANG

Trong truyền thống Thánh Kinh núi cao thường được xem như là nơi gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người. Chẳng hạn, Môsê đã được kêu mời lên núi Sinai để gặp gỡ Thiên Chúa và đón nhận lề luật cho Dân Chúa. Êlia đã ròng rã 40 đêm ngày lên núi Horeb để gặp Chúa. Êlisê cũng lên núi Carmel để gặp Chúa. Và Chúa Giêsu cũng khởi sự đời công khai bằng 40 đêm ngày chay tịnh trên núi cao, rồi trong ba năm sứ vụ, Ngài vẫn thường lặng lẽ một mình lên núi để cầu nguyện cùng Cha Ngài.

Trong Tin Mừng hôm này, Chúa Giêsu đã đưa ba môn đệ thân tín nhất lên núi Tabor để tỏ vinh quang của Ngài cho các ông. Từ trên núi cao, qua thị kiến Chúa Giêsu biến hình, ông Phêrô, Giacôbê, Gioan đã thấy thần tính và nhân tính của Đức Giêsu. Thần tình được biểu lộ nơi dung nhan của Chúa Giêsu chói lọi như mặt trời, đầy vinh quang, quyền lực. Y phục trắng tinh như ánh sáng: biểu tượng sự trong sáng, sự quang minh chính đại cực độ, hoàn toàn không lầm lỗi, không khiếm khuyết. Còn nhân tính của Ngài được biểu lộ qua việc sau khi Chúa biến hình các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa, chỉ còn một mình Đức Giê-su mà thôi, con người bằng xương thịt đang ở bên các ông như mọi ngày và nhân tính của Chúa Giêsu biểu lộ rõ nết khi khi thầy trò từ trên núi xuống, Đức Giê-su nói về cuộc chịu nạn, chịu chết và ba ngày sống lại. Cho nên, về thiên tính, Chúa Cha phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người! “Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất”. Còn nhân tính thì xảy ra sau khi Phêrô tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Lời tuyên xưng này lại gắn liền với lời Chúa Giêsu loan báo cuộc Thương Khó của Ngài và kèm theo lời mời gọi: “anh em hãy bỏ mình, vác thập giá đi theo Thầy” (Mt 16,24). Vậy là đúng vào lúc các môn đệ đã nhận ra Chúa Giêsu là Đức Kitô, là Đấng Cứu Thế, thì trước mắt các ông hình ảnh một Đấng Cứu Thế oai hùng lẫm liệt, để rồi bắt đầu tan biến, để hiện ra một Đấng Cứu Thế đau khổ, bị đày đọa, bị khai trừ, bị giết chết. Hình ảnh đó thật là khó hiểu đối với các môn đệ, vì lòng tin của các ông còn mộc mạc, phàm tục. Cho nên, chẳng lạ gì, Phêrô đã lên tiếng khuyên can Chúa Giêsu đừng đi theo con đường đau khổ đó làm gì. Nhưng thật không may cho ông, vì Chúa Giêsu cứ khăng khăng một mực, lại còn quay sang mắng ông: “Satan, cút đi!”.

Chúa hiển dung sáng láng hôm nay vào những ngày trong Mùa Chay nhằm muốn đưa chúng ta lên núi, hé mở cho chúng ta chiêm ngưỡng một chút vinh quang phục sinh của Chúa Giêsu, để chúng ta thêm tin tưởng vào Ngài, để chúng ta có những giây phút nghỉ ngơi lấy sức trước khi xuống núi, trở về với cuộc sống bình thản trên các nẻo đường phẳng lặng hay đầy sóng gió đưa đến núi Can-vê. Chúng ta cần được Chúa đến gần, đưa tay đón nhận người, rước Ngài vào trong cuộc đời chúng ta để Ngài thức tỉnh chúng ta giúp chúng ta biết chuẩn bị sẵn sàng đón nhận mà vui sống với mọi gian nan đau khổ trên đường đời rồi sẽ đến đỉnh vinh quang chiến thắng tất cả như Thánh Phaolô xác quyết: “Đây là lời đáng tin cậy: Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người” (2Tm 2,11-12). Còn Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Chúa Giêsu Kitô đã yêu thương chúng ta cho đến chết trên Thập Giá sẽ luôn ở bên chúng ta. Ngài luôn ân cần nói với chúng ta: Hãy can đảm lên! Các con không vác Thánh Giá một mình, Ta mang nó với các con. Ta đã vượt qua cái chết để mang đến cho các con sự sống của tin yêu hy vọng” (ĐGH Phanxicô). Vì vậy,  niềm tự hào của chúng ta là Thánh Giá Chúa tôi. Niềm tự hào của chúng ta là vác Thánh Giá đi lên mỗi ngày trong hy vọng niềm tin sáng tươi, không hoang mang lo âu nhưng vui mừng hiên ngang tiến lên vì đường thập tự giá là đường vinh phúc. Qua bao nhiêu thương đau, tình yêu Chúa là lẽ sống chúng ta đi không có gì sợ lo đắn đo vì có Chúa bước đi cùng chúng ta.

Con đường Thương Khó của Chúa khởi đầu từ khi Ngài xuống núi, Ngài đã chọn và đã đi đến đồi Canvê và đến đỉnh vinh quang. Rồi đây, Ngài cũng sẽ biến hình “không còn hình tượng người ta nữa”, để dạy chúng ta biết phải đi qua con đường thập giá mới đến vinh quang khải hoàn sống lại. Trong ngôn ngữ La-tinh, người ta chơi chữ: “Per crucem ad lucem”, nghĩa là “qua thập giá đến ánh sáng”. Qua Thứ Sáu Tử Nạn mới đến Chúa Nhật Phục Sinh. Đường thánh giá không dừng lại ở nấm mồ, nhưng mở ra trong niềm vui tưng bừng của ngày Chúa sống lại.

Trong cuộc hành trình đức tin của chúng ta, cũng có những giây phút chúng ta được đưa lên núi cao để gặp Chúa, núi cao của Thánh lễ, núi cao của những giờ phút dành cho việc cầu nguyện. Nhưng chúng ta không lên núi để ở đó mãi, mà là để trở lại với cuộc đời với muôn thử thách, đắng cay, với những gặp gỡ từng ngày. Chấp nhận cuộc sống với tinh thần lạc quan, chấp nhận chiến đấu mà không buông xuôi bỏ cuộc, sống như thể là tiếp tục con đường Chúa Giêsu đã đi qua. Chấp nhận những người anh em chúng ta gặp gỡ trên đường đi, chấp nhận những khác biệt, những bất toàn của người anh em cùng đồng hành, sống như thể là dõi bước theo đường Chúa đã đi qua.

Xin ánh sáng Dung Nhan của Chúa Giêsu Kitô luôn dẫn bước chúng ta trên đường đời, để chúng ta biết đón nhận và sống trọn từng phút giây cuộc sống. Xin ánh sáng Dung Nhan của Chúa Giêsu Kitô chiếu dọi và hướng dẫn cuộc hành trình đức tin của chúng ta được tiếp tục dõi bước theo dấu chân của Ngài trên mọi nẻo đường dù có bình yên hay gian nan thử thách đau khổ để dành lấy vinh quang chiến thắng tội tội, đạt đến sự thánh thiện, bình an và hạnh phúc trong cuộc sống hôm nay và mãi mãi. Amen.