Bài đọc: Acts 6:1-7; 1 Pet 2:4-9; Jn 14:1-12.
1/ Bài đọc I: 1 Thời đó, khi số môn đệ thêm đông, thì các tín hữu Do-thái theo văn hoá Hy-lạp kêu trách những tín hữu Do-thái bản xứ, vì trong việc phân phát lương thực hằng ngày, các bà goá trong nhóm họ bị bỏ quên. 2 Bởi thế, Nhóm Mười Hai triệu tập toàn thể các môn đệ và nói: “Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống, là điều không phải.
3 Vậy, thưa anh em, anh em hãy tìm trong cộng đoàn bảy người được tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn ngoan, rồi chúng tôi sẽ cắt đặt họ làm công việc đó. 4 Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa.” 5 Đề nghị trên được mọi người tán thành. Họ chọn ông Tê-pha-nô, một người đầy lòng tin và đầy Thánh Thần, cùng với các ông Phi-líp-phê, Pơ-rô-khô-rô, Ni-ca-no, Ti-môn, Pác-mê-na và ông Ni-cô-la, một người ngoại quê An-ti-ô-khi-a đã theo đạo Do-thái. 6 Họ đưa các ông ra trước mặt các Tông Đồ. Sau khi cầu nguyện, các Tông Đồ đặt tay trên các ông. 7 Lời Thiên Chúa vẫn lan tràn, và tại Giê-ru-sa-lem, số các môn đệ tăng thêm rất nhiều, lại cũng có một đám rất đông các tư tế đón nhận đức tin.
2/ Bài đọc II: 4 Anh em hãy tiến lại gần Đức Ki-tô, viên đá sống động bị người ta loại bỏ, nhưng đã được Thiên Chúa chọn lựa và coi là quý giá.
5 Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi Đền Thờ thiêng liêng, và hãy để Thiên Chúa đặt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Giê-su Ki-tô. 6 Quả thật, có lời Kinh Thánh chép: Này đây Ta đặt tại Xi-on một viên đá quý được lựa chọn, làm đá tảng góc tường: kẻ tin vào đó sẽ không phải thất vọng. 7 Vậy vinh dự cho anh em là những người tin, còn đối với những kẻ không tin, thì viên đá thợ xây loại bỏ đã trở nên đá tảng góc tường, 8 và cũng là viên đá làm cho vấp, tảng đá làm cho ngã. Họ đã vấp ngã vì không tin vào Lời Chúa. Số phận của họ là như vậy.
9 Còn anh em, anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền.
3/ Phúc Âm: 1 Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.
2 Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. 3 Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. 4 Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi.”
5 Ông Tô-ma nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?” 6 Đức Giê-su đáp: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. 7 Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người.”
8 Ông Phi-líp-phê nói: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện.” 9 Đức Giê-su trả lời: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha?” 10 Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. 11 Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm. 12 Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phẩm giá và cùng đích cao trọng của con người
Theo kế hoạch tạo dựng và cứu độ của Thiên Chúa, con người giữ một địa vị quan trọng hơn tất cả mọi loài Thiên Chúa dựng nên (Psa 8:3-6). Để biết cách hành xử cho xứng đáng với phẩm giá cao trọng của mình, con người cần học hỏi để hiểu rõ những mặc khải của Thiên Chúa cho con người. Nếu không chịu học hỏi, con người sẽ hành xử như các loài thú khác, để rồi cũng chết như chúng, và không bao giờ đạt được đích điểm cao trọng mà Thiên Chúa đã tiền định cho con người.
Các bài đọc hôm nay dẫn chứng nhiều chứng minh con người không biết nguồn gốc và đích điểm cao trọng của mình nếu họ không chịu học hỏi những mặc khải của Thiên Chúa. Trong bài đọc I, cộng đoàn tín hữu đầu tiên rất hăng hái trong việc sống chung và để mọi sự làm của chung thuở ban đầu; nhưng chẳng bao lâu, sự tham lam và ghen tị lại tái sinh giữa các bà góa Do-thái và các bà góa Hy-lạp. Các tông đồ được Thánh Thần soi sáng nên biết cách giải quyết rất khôn ngoan. Các ngài đề nghị chính họ tìm 7 phó tế khôn ngoan và thánh thiện giữa họ, để các ngài đặt tay, và họ sẽ trở thành những cộng tác viên với các tông đồ trong việc phục vụ Dân Chúa. Trong bài đọc II, tác giả thư Phêrô I nhấn mạnh đến vận mạng cao cả của các tín hữu. Họ là giống nòi được tuyển chọn, hàng tư tế vương giả, dân thánh của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Ngài. Thiên Chúa đã gọi họ ra khỏi miền u tối để vào nơi đầy ánh sáng huyền diệu. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu mặc khải rất nhiều điều quan trọng cho các tông đồ: Trong nhà Cha Ngài có rất nhiều chỗ ở, Ngài đi là để dọn chỗ cho mọi người, khi đã dọn xong Ngài sẽ đến để mang mọi người với Ngài, mục đích là để Ngài và con người không còn ngăn cách nữa…
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Anh em hãy tìm trong cộng đoàn bảy người được tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn ngoan.
1.1/ Vấn nạn xảy ra trong Giáo Hội sơ khai: Khi thấm nhuần niềm vui Phục Sinh, các tín hữu tin tưởng nơi Thiên Chúa và bỏ mọi sự làm của chung để ai cần thì dùng; nhưng chẳng bao lâu, tính bè phái, ghen tị và tham lam tiếp tục dấy loạn. “Các tín hữu Do-thái theo văn hoá Hy-lạp kêu trách những tín hữu Do-thái bản xứ, vì trong việc phân phát lương thực hằng ngày, các bà goá trong nhóm họ bị bỏ quên.”
Lời than phiền đến tai các tông đồ. Nếu họ không biết cách giải quyết khôn ngoan, cộng đoàn sơ khai sẽ có nguy cơ bị tan rã. Đồng thời, các tông đồ cũng biết họ không đủ khả năng và không có thời giờ làm tất cả mọi việc, và việc rao giảng Lời Thiên Chúa phải đặt lên trên việc ăn uống.
1.2/ Cách giải quyết tốt đẹp: Bởi thế, Nhóm Mười Hai triệu tập toàn thể các môn đệ và nói: “Chúng tôi mà bỏ việc, là điều không phải. Vậy, thưa anh em, anh em hãy tìm trong cộng đoàn bảy người được tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn ngoan, rồi chúng tôi sẽ cắt đặt họ làm công việc đó. Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa.” Đề nghị trên được mọi người tán thành. Họ chọn ông Stephen, Philíp, Prochorus, Nicanor, Timon, Parmenas và Nicolaus. Họ đưa các ông ra trước mặt các Tông Đồ. Sau khi cầu nguyện, các Tông Đồ đặt tay trên các ông.
Vấn nạn được giải quyết. Các tông đồ có thêm 7 cộng sự viên đắc lực. Stephen trở thành vị tử đạo đầu tiên. Philip hăng hái rao giảng mọi nơi. Lời Thiên Chúa vẫn lan tràn, và tại Jerusalem, số các môn đệ tăng thêm rất nhiều, lại cũng có một đám rất đông các tư tế đón nhận đức tin. Nếu các tông đồ sợ bị phân chia quyền hành, cộng đoàn sơ khởi sẽ bị thiệt hại nặng nề và không có cơ hội phát triển.
2/ Bài đọc II: Vận mạng cao cả của các tín hữu
2.1/ Tảng đá góc tường: Cụm từ này có nguốn gốc từ Isaiah 8:14; 28:16, và được lặp lại trong Romans 9:33; Ephesians 2:20, và trong trình thuật hôm nay. Tác giả liệt kê 3 công dụng của đá:
(1) Dùng để phá hủy: Ngày xưa không có súng đạn, con người dùng đá tròn làm vũ khí để tiêu hủy căn cứ quân sự của đối phương. Ngày nay, vẫn còn hàng đống những viên đá này gần những căn cứ quân sự cũ bên Do-thái (x/c Isa 8:14).
(2) Dùng làm cho con người vấp ngã: Đá có thể là những chướng ngại làm con người vấp ngã, leo núi mà vấp phải một tảng đá có thể trượt chân rơi xuống vực. Các tác giả ví Đức Kitô như viên đá làm cho người Do-thái bị vấp ngã: “Đối với những kẻ không tin, thì viên đá thợ xây loại bỏ đã trở nên đá tảng góc tường, và cũng là viên đá làm cho vấp, tảng đá làm cho ngã. Họ đã vấp ngã vì không tin vào Lời Chúa. Số phận của họ là như vậy.”
(3) Dùng để xây nhà hay Đền Thờ: Chúa Giêsu chọn Phêrô là Đá để xây Giáo Hội của Ngài (Mt 16:18). Tác giả Phêrô I trích dẫn lời Isaiah 28:16: “Này đây Ta đặt tại Sion một viên đá quý được lựa chọn, làm đá tảng góc tường: kẻ tin vào đó sẽ không phải thất vọng.” “Đức Kitô, viên đá sống động bị người ta loại bỏ, nhưng đã được Thiên Chúa chọn lựa và coi là quý giá.” Tác giả Thư Ephesô gọi Đức Kitô là Đá Tảng Góc Tường của Đền Thờ Thiên Chúa, với nền móng là các ngôn sứ và các tông đồ, còn tất cả các tín hữu là những viên đá của Đền Thờ (Eph 2:20).
2.2/ Anh em là những viên đá sống động: Tác giả khuyên các tín hữu: “Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi Đền Thờ thiêng liêng, và hãy để Thiên Chúa đặt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Giêsu Kitô.”
Tác giả cũng nhấn mạnh đến vận mạng cao cả của các tín hữu. Anh em:
(1) là giống nòi được tuyển chọn: Chữ “genos” có 3 ý nghĩa trong Hy-lạp: con cháu của một dòng giống, những người trong cùng một gia đình, hay giống loại theo động vật hoặc thực vật. Tác giả có ý muốn nói theo nghĩa thứ hai: các tín hữu là những người trong cùng một gia đình với Thiên Chúa, vì họ đã tin vào Đức Kitô.
(2) là hàng tư tế vương giả: Trong Cựu Ước, chỉ có những người trong dòng tộc Aaron (Levi) mới được làm tư tế; nhưng trong Tân Ước, các tín hữu thuộc gia đình Đức Kitô, Ngài là tư tế muôn đời theo phẩm trật Melchisedech. Khi được rửa tội, các tín hữu thành những tư tế phổ quát (để phân biệt tư tế theo thừa tác), họ có bổn phận phải thờ phượng Thiên Chúa.
(3) là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa: Trong Cựu Ước, chỉ có dân Do-thái được chọn làm dân riêng của Thiên Chúa. Khi Đức Kitô tới, tất cả những ai tin vào Đức Kitô đều trở thành dân thánh của Thiên Chúa để loan truyền những kỳ công của Người.
3/ Phúc Âm: Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống.
Có quá nhiều những mặc khải quan trọng của Chúa Giêsu cho chúng ta trong trình thuật hôm nay. Trong khuôn khổ của bài viết chúng ta chỉ có thể vắn tắt; khi nào có cơ hội, chúng ta sẽ khai triển rộng hơn.
(1) Về mục đích đời người và sự ra đi của Chúa Giêsu: Trên Thiên Đàng có đủ chỗ cho tất cả mọi người. Chúa Giêsu sắp sửa từ giã các môn đệ là để dọn chỗ cho các ông. Khi đã dọn xong, Ngài sẽ trở lại để đón các môn đệ về chung sống với Ngài, và đó là cuộc sống hạnh phúc muôn đời của con người bên Thiên Chúa. Con người phải tin tưởng vào những gì Chúa Giêsu nói, và đừng để bất kỳ đau khổ nào xảy ra trong cuộc đời làm con người sợ hãi và thất vọng. Những lời này cũng chứng minh tình yêu vô biên và sự chăm sóc cẩn thận của Thiên Chúa dành cho con người.
(2) “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống”: Câu này có thể chia làm 3 mặc khải quan trọng, chính Chúa Giêsu là:
+ Con đường: Ngài là con đường và mọi người phải qua con đường này để đạt tới Thiên Chúa. Không còn con đường nào khác dẫn tới Thiên Chúa: “Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” Một ví dụ giúp chúng ta dễ hiểu câu này hơn. Khi chúng ta bị lạc đường, chúng ta hỏi người để chỉ đường, họ chỉ dẫn chúng ta đi bao nhiêu thì quẹo trái, quẹo phải…; nghe lời họ, chúng ta lên đường, nhưng rồi lại lạc nữa. Nhưng nếu có người nói với chúng ta: cứ đi theo tôi, tôi sẽ dẫn tới đó. Chúng ta sẽ cảm thấy an tòan hơn. Trên đường đời cũng thế, có quá nhiều con đường làm chúng ta lạc hướng và bất an; nhưng nếu chúng ta nghe lời của Chúa Giêsu: Chính Thầy là đường, và bước theo Ngài, chúng ta sẽ cảm thấy bình an và chắc chắn sẽ đạt đích an toàn.
Con đường có thể được hiểu là toàn bộ những giáo huấn của Ngài.
+ Sự thật: Ngài là chính sự thật. Một người có thể học sự thật của Ngài rồi truyền lại cho người khác, nhưng không ai có thể vỗ ngực tuyên bố “họ là sự thật.” Tất cả những sự thật khác đều phải đối chiếu với sự thật của Chúa Giêsu để đáng được tin cậy.
+ Sự sống: Có nhiều phương diện khác nhau của sự sống như: thể lý, tâm lý, trí tuệ, thiêng liêng, và đời đời. Nếu một người chọn sống theo sự thật của Chúa Giêsu, họ sẽ đạt được sự sống hoàn toàn đầy đủ về mọi phương diện.
(3) Ai thấy Chúa Giêsu là thấy Chúa Cha: Đây là nguồn để chứng minh Thiên Chúa Ba Ngôi. Người Do-thái chỉ tin một Thiên Chúa, và đó là lý do ông Philíp nói: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện.” Chúa Giêsu trả lời rõ ràng cho Philip: Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Chúa Cha và Chúa Giêsu là một. Chúa Giêsu giải thích thêm: “Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm.”
(4) Việc lớn hơn nữa là việc nào? Chúa Giêsu bảo đảm cho các môn đệ: “Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha.” Để tìm ra câu trả lời, chúng ta phải xem coi những việc gì các môn đệ có thể làm mà Chúa Giêsu không làm hay chưa làm. Chỉ có một việc là các môn đệ của Chúa Giêsu loan báo Tin Mừng cho mọi người khắp cùng cõi đất. Điều này Chúa Giêsu đã không làm khi còn sống trên dương gian; nhưng Ngài để dành cho các môn đệ và sai các ông làm chuyện đó. Dĩ nhiên, các môn đệ có làm được hay không cũng cần có sự trợ giúp của Ngài, vì “không có Thầy anh em chẳng làm chi được.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta có một địa vị quan trọng trước mặt Thiên Chúa hơn hết mọi loài Ngài dựng nên. Hãy sống đúng với phẩm giá quan trọng của mình để đạt mục đích Thiên Chúa đã tiền định.
– Để hiểu biết phẩm giá quan trọng, chúng ta cần học hỏi và suy niệm những gì Ngài đã mặc khải. Lười biếng không chịu học hỏi sẽ làm cho chúng ta ù lỳ, và bằng lòng cuộc sống của loài vật, và của những thú vui hạ cấp mà thế gian dâng tặng.
Suy Niệm
Ông Philipphê xin với Thầy Giêsu: “Xin cho chúng con thấy Chúa Cha” (Ga 14,8).
Khao khát của ông cũng là khao khát của biết bao người, những người thiện chí không ngừng tìm kiếm Thiên Chúa, Đấng mà họ gọi bằng những tên khác nhau: Đấng Tối Cao, Đấng Tuyệt Đối, Đấng vượt trên mọi danh…
Con người muốn bắc một nhịp cầu với Đấng siêu việt, muốn có cảm nghiệm và tương quan với Tạo Hóa.
Thiên Chúa đã đáp lại khát vọng Ngài gieo nơi lòng người khi cho Con Một Ngài làm người, ở giữa chúng ta.
Nơi Đức Giêsu Kitô, chúng ta gặp được Thiên Chúa, dễ gần, dễ thấy, dễ quen.
Thiên Chúa đâu chỉ ở nơi cao thẳm ngàn trùng, Thiên Chúa hiện diện nơi con người Đức Giêsu khiêm hạ. Giữa Ngài và Thiên Chúa Cha có một gắn bó lạ lùng đến nỗi Đức Giêsu dám nói: “Ai biết Thầy là biết Cha” (14,7) “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (14,9) vì “Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy”(14,10).
Lời nói và việc làm của Đức Giêsu chính là lời nói và việc làm của Thiên Chúa (14,10). Toàn bộ cuộc đời Đức Giêsu được Cha chiếm ngự. Ngài như tấm gương trong suốt, phản chiếu khuôn mặt và trái tim Thiên Chúa, đầy nhân ái và bao dung với hết mọi người.
Làm Kitô hữu là làm người như Đức Giêsu Kitô, là trở nên một Giêsu khác cho con người hôm nay, là ước ao nói được rằng: “Ai biết tôi là biết Đức Kitô, ai thấy tôi là thấy Đức Kitô.”
Như thế cũng là biết và thấy Thiên Chúa.
“Xin cho chúng con thấy Chúa Cha”
Xin dẫn chúng con đến gặp Thiên Chúa Cha.
Đức Giêsu không phải chỉ là người đưa đường dẫn lối; Ngài tự nhận mình là Con Đường, thậm chí là Con Đường độc nhất dẫn đến Cha: “Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (14,6). Mọi con đường cứu độ đều phải đi vào Con Đường Giêsu.
“Thiên Chúa không ban một danh nào khác dưới bầu trời,
để nhờ danh đó mà chúng ta được ơn cứu độ” (Cv 4,12).
Nhân loại được cứu độ nhờ Danh Đức Giêsu, kể cả những ai không biết Ngài – tuy không do lỗi của họ – nhưng đã sống theo những đòi hỏi của lương tâm.
Đức Giêsu đã về với Chúa Cha trong vinh quang phục sinh, sau khi đã sống một đời yêu thương tự hiến. Cuộc đời Đức Giêsu trở thành con đường cho chúng ta đi.
Khi chiêm ngắm Ngài trong Tin Mừng, chúng ta biết mình phải nghĩ gì, nói gì, làm gì.
Khi đi vào Con Đường Giêsu, chúng ta cũng trở nên nẻo đường cho con người hôm nay, nẻo đường dẫn đến Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
1. Người ta thường nói đạo nào cũng như đạo nào, đạo nào cũng dạy ăn ngay ở lành. Còn bạn, tại sao bạn là Kitô hữu? Đức Giêsu có gì đặc biệt khiến bạn chọn theo?
2. Có khi nào bạn thấy mình bị lạc hướng không? Cách sống của Đức Giêsu trong Tin Mừng có khi nào giúp bạn tìm thấy hướng giải quyết không?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, Cha muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý, chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức Giêsu, Con Cha.
Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người chưa nhận biết Đức Giêsu, họ cũng là những người đã được cứu chuộc.
Xin Cha thôi thúc nơi chúng con khát vọng truyền giáo, khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc, niềm vui và bình an của mình cho tha nhân, và khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới.
Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực trước sứ mạng đi đến tận cùng trái đất để loan báo Tin Mừng.
Chúng con chỉ xin đến với những người bạn gần bên, giúp họ quen biết Đức Giêsu và tin vào Ngài, qua đời sống yêu thương cụ thể của chúng con.
Chúng con cũng cầu nguyện cho tất cả những ai đang xả thân lo việc truyền giáo.
Xin Cha cho những cố gắng của chúng con sinh nhiều hoa trái. Amen.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)
SUY NIỆM
Khi Đức Giêsu báo cho các môn đệ biết mình sắp ra đi
thì các ông lập tức rơi vào cơn xao xuyến.
Để làm các ông yên lòng, Ngài cần cho họ biết mình sẽ đi đâu,
Ngài báo cho các ông biết mình sắp về nhà Cha,
nơi Ngài đã ở với Cha từ vĩnh hằng.
Đức Giêsu từ Cha mà đến trần gian, nay lại về với Cha (Ga 13,1).
Đức Giêsu ví thế giới của Thiên Chúa như một ngôi nhà.
Ngôi nhà ấm áp của Cha có đủ chỗ ở cho mọi người.
Đức Giêsu về nhà Cha trước để chuẩn bị cho chúng ta đến sau.
Rồi Ngài còn hứa Ngài sẽ trở lại để đón môn đệ về.
Ước mơ của Ngài là Thầy trò được ở bên nhau mãi mãi (Ga 14,3).
“Lạy Cha, con muốn rằng, con ở đâu,
thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con” (Ga 17,20).
Đức Giêsu muốn đưa các môn đệ về với nhà Cha.
Và Ngài nhận chính mình là Con Đường duy nhất dẫn đến Cha.
“Không ai đến được với Cha nếu không qua Thầy” (Ga 14,6).
Đức Giêsu là Con Đường độc nhất vô nhị, khác với mọi con đường,
vì Ngài là Ngôi Lời làm người, từ trời xuống,
là Con Một Thiên Chúa, là Đấng luôn ở cung lòng Cha (Ga 1,14.18).
Chỉ Đấng từ trời xuống mới biết đường dẫn chúng ta lên trời.
Mọi con đường khác cần được nối kết với Con Đường Giêsu,
để có thể trở thành những nẻo đường cứu độ.
Đức Giêsu suốt đời nói sự thật mà Ngài đã nghe từ Cha,
“Không phải tôi tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha,
Đấng đã sai phái tôi, truyền lệnh cho tôi phải nói gì…” (Ga 12,49-50).
Duy mình Ngài thấy Thiên Chúa, và biết sự thật về Chúa Cha (Ga 1,18),
nên chỉ mình Ngài mới mặc khải được sự thật trọn vẹn về Thiên Chúa.
Mục đích cuộc đời Đức Giêsu là làm chứng cho sự thật (Ga 18,37).
Nơi Ngài, sự thật được tỏa sáng, không bị che khuất bởi cái tôi,
đến nỗi Ngài đã có thể nói: “Chính tôi là Sự Thật” (Ga 14,6).
Đức Giêsu đã trao ban sự sống cho thân xác nhiều người:
cho con trai của viên quan, cho anh bất toại, cho người mù bẩm sinh,
cho Ladarô chết bốn ngày trong mộ (Ga 4,46-54; 5,1-9; 9; 11).
Ngài còn ban Bánh hằng sống, nước hằng sống, ánh sáng ban sự sống.
Ngài nhận mình là mục tử đến để chiên được sống dồi dào (Ga 10,10).
Vì nhận được quyền “có sự sống nơi mình” từ Chúa Cha (Ga 5,26),
Nên Đức Giêsu đã có thể nói: “Chính Tôi là Sự Sống.”
Qua trung gian Đức Giêsu là Con Đường,
chúng ta có thể đến gặp Thiên Chúa Cha.
Hơn thế nữa, chính Ngài là hiện thân của Chúa Cha trên trần gian.
Thiên Chúa Cha là Đấng không ai thấy bao giờ,
không ai sờ chạm được, không ai đến gần được.
Nhưng nơi Đức Giêsu bằng xương bằng thịt,
ta gặp được Thiên Chúa Cha gần gũi, hữu hình và thân thương.
“Ai biết Thầy là biết Chúa Cha, ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.”
Chỉ cần gặp được Đức Giêsu Nadarét, là ta gặp được Đấng ba lần thánh,
Đấng siêu việt trên cõi trời cao.
“Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy” (Ga 14,10.11).
Đây là sự ở trong nhau của Cha và Con, khiến Đức Giêsu có thể nói:
“Tôi và Cha Tôi, chúng tôi là một” (Ga 10,30).
Chỉ mong chúng ta cũng ở lại trong Thiên Chúa Cha như Thầy Giêsu,
để ai thấy chúng ta cũng thấy hình ảnh của Thiên Chúa.
Thánh Gioan nói: “Ai nói rằng mình ở lại trong Thiên Chúa,
thì cũng phải đi như chính Đức Giêsu đã đi” (1 Ga 2,6).
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Sự Thật.
Mỗi ngày trên thế giới,
có bao người dám đứng về phía sự thật,
dám chết để làm chứng cho công lý,
dù họ chưa biết Chúa.
Chúa là Sự Sống.
Có bao người dám hy sinh mạng sống mình,
để chết thay cho người khác,
để bảo vệ người bị áp bức bóc lột,
dù họ chưa biết Chúa.
Chúa là Tình Yêu.
Có bao người thành tâm tìm kiếm Chúa
và đã cố gắng sống theo tiếng lương tâm,
làm những việc công bình, bác ái,
dù họ chưa biết Chúa.
Lạy Chúa Giêsu,
những người đó gần bên chúng con.
Chúng con có bổn phận giới thiệu Chúa cho họ,
Đấng họ đã ở gần, nhưng chưa gọi tên trên môi,
Đấng họ đã thoáng nghe, nhưng chưa hề giáp mặt.
Xin cho chúng con thấy Chúa hoạt động
nơi những anh em không cùng tôn giáo,
thấy nơi các tôn giáo những tia sáng của sự thật,
những hạt giống của Lời mà Chúa đã vãi gieo.
Chúa là Đường duy nhất dẫn đến Chúa Cha.
sau khi được nâng cao trên thánh giá
và tôn vinh trên trời,
Chúa vẫn không ngừng kéo mọi người lên cùng Chúa.
Chúa đã chết cho mọi người,
và muốn cho nhân loại hưởng cùng một ơn cứu độ,
xin đừng để mất một người nào trong chúng con. Amen.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Phụng vụ của mỗi Chúa nhật Phục sinh diễn tả một khía cạnh về sứ mạng của Chúa Giêsu: Chúa nhật thứ nhất, chúng ta cùng với Giáo Hội khẳng định: Đức Giêsu đã trỗi dậy từ cõi chết. Chúa nhật thứ hai, Chúa phục sinh đang hiện diện giữa chúng ta, mặc dù chúng ta không thấy Người. Chúa nhật thứ ba, Đấng Phục sinh đang đồng hành để khơi lên niềm hy vọng nơi những người bi quan, chán chường, cụ thể là hai môn đệ trên đường Emmaus. Chúa nhật thứ bốn, Đấng Phục sinh đang hướng dẫn chúng ta như một mục tử, để đưa chúng ta đến bến bờ của hạnh phúc. Chúa nhật hôm nay, tức là Chúa nhật thứ năm, Đức Giêsu là Đường, là Sự thật và là Sự sống.
Đường, Sự thật, Sự sống. Đó là ba yếu tố quan trọng làm nên căn bản của cuộc sống con người. Ai trong chúng ta cũng phải tìm cho mình một lối đi. Đó là định hướng cho một đời người. Ai trong chúng ta cũng phải sống theo sự thật, vì sự thật giải phóng con người và làm cho con người trở nên quang minh chính đại. Đi ngược lại với sự thật là sự dối trá mưu mô. Ai trong chúng ta cũng cần đến sự sống. Không chỉ sự sống phần xác mà còn sự sống thiêng liêng. Nhờ sự sống thiêng liêng mà chúng ta có tình yêu, hạnh phúc trong cuộc đời. Như thế, Đường, Sự thật và Sự sống làm nên vẻ đẹp của cuộc sống chúng ta và làm cho cuộc đời này có ý nghĩa.
“Thầy là Đường”. Trong lịch sử cũng như trong hiện tại, chưa có ai tuyên bố tự tin như thế. Hình ảnh con đường mang rất nhiều ý nghĩa đối với cuộc sống chúng ta.
Mỗi người, khi bắt đầu biết suy nghĩ, thì đã lo chọn cho mình một con đường, tức là một định hướng cho tương lai. Đó là định hướng về nghề nghiệp, về tình yêu, về phong cách sống, về nơi ăn chốn ở, về các mối quan hệ. Khi xác định được một con đường, họ cứ thế mà bước theo. Những chuyên viên tâm lý kết luận rằng, ở độ tuổi từ 25 đến 30 là lúc một người trẻ phải xác định được hướng đi cho tương lai cuộc đời. Nếu ở tuổi 30, tức tuổi “tam thập nhi lập” mà không trả lời được hỏi: đâu là định hướng tương lai của đời bạn? thì người đó khó mà có một tương lai tốt đẹp. Người ở tuổi 30 mà không chủ động chọn cho mình một định hướng, thì sẽ rơi vào lối mòn, bỏ mặc cho cuộc sống đưa đẩy về một tương lai vô định.
Con đường nào cũng có một đích điểm. Con đường Giêsu dẫn chúng ta đến với Chúa Cha. “Lòng anh em đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thày…. thày đi để dọn chỗ cho anh em”. Chúa Giêsu đã “đến đích” của con đường, tức là đến với Chúa Cha. Người đi trước để dọn chỗ cho chúng ta trong nhà Cha trên trời. Đích điểm của con đường này, cũng là đích điểm của cuộc đời người tín hữu, đó là hạnh phúc viên mãn nơi Ba Ngôi Thiên Chúa.
Con đường nào cũng nhiều thử thách gian nan. Người đi trên con đường có tên Giêsu phải chấp nhận qua cửa hẹp. Quả vậy, cửa rộng thênh thang thì dẫn tới hư hỏng. Chẳng có chiến thắng nào mà lại không trải qua đau khổ. Chẳng có vành nguyệt quế nào mà không qua tập luyện dày công. Con đường Giêsu cũng là con đường thập giá. Tuy vậy, thập giá không phải là chặng cuối của con đường. Chặng cuối của con đường là Phục sinh. Đi trên con đường Giêsu là chấp nhận những đề nghị của Người. với xác tín “qua thập giá tới phục sinh, qua đau khổ tới hạnh phúc”. Trong hành trình theo Chúa, có những khó khăn, hạn chế và ràng buộc. Tuy vậy, như “lửa thử vàng, gian nan thử đức”, những ràng buộc ấy giúp con người trưởng thành và tôi luyện để kiên trung vững vàng hơn.
Trong một cuộc hành trình, người bi quan chỉ nhận ra những vất vả gian nan; người lạc quan lại cảm nhận hạnh phúc dâng trào, vì mỗi bước đi là đang thu ngắn khoảng cách và gần tới đích. Hành trình theo Chúa cũng là hành trình Đức tin và hành trình cuộc đời. Chúa Phục sinh đang đồng hành với chúng ta trong cuộc hành trình này. Câu chuyện hai môn đệ trên đường Emmaus đã minh chứng cho chúng ta: vào lúc bi quan chán nản và đau thương nhất, Chúa đến để cùng đi và nâng đỡ chúng ta. Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy nhận ra Đức Giêsu là lý tưởng của chúng ta. Như viên đá bị thợ xây loại bỏ, Chúa Giêsu đã trở nên đá góc tường, là phiến đã chịu lực, đỡ nâng tòa nhà và bảo đảm cho sự vững chắc của tòa nhà ấy. Vì thế, hãy nhận ra vinh dự tuyệt vời mà Chúa ban cho chúng ta qua Bí tích Thanh tẩy. Bởi lẽ nhờ Bí tích này mà chúng ta được gọi là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa. Những khái niệm này thật lớn lao vĩ đại, làm cho chúng ta – những con người trần mắt thịt – trở nên như những thần linh (Bài đọc II).
Nhờ sự hiện diện của Đấng Phục sinh, số người tin Chúa không ngừng tăng trưởng. Giáo Hội từ thời sơ khai ấy cho đến hôm nay, vẫn đang cố gắng thể hiện hình ảnh của Đấng Phục sinh giữa đời (Bài đọc I). Không chỉ bảy người được trao sứ vụ phục vụ bàn (sau này được gọi là Phó tế), nhưng mỗi tín hữu đều được trao vinh dự loan báo Đức Giêsu.
“Lòng anh em đừng xao xuyến”. Chúa nói với chúng ta như thế, trong lúc chúng ta đang hoang mang hoảng sợ vì đại dịch COVID-19. Quả thật, nếu vững tin vào Chúa thì còn có gì làm chúng ta lo sợ. Hãy vững tin vào Chúa. Hãy tìm một lối đi dẫn đưa tới bến bờ hạnh phúc. Lối đi ấy có tên là Giêsu. Người là Đấng Cứu độ chúng ta.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Trong những ngày lễ lớn, người ta thấy từng đoàn người lũ lượt kéo nhau đến nhà thờ. Họ thuộc mọi thành phần: già trẻ lớn bé, không phân biệt giai cấp, chủng tộc. Họ đến nhà thờ từ muôn nẻo đường: từ xa lộ tối tân trong những nơi phồn hoa đô thị, đến những con đường mòn sỏi đá, gập ghềnh, quanh co, chạy qua những thung lũng, núi đồi hay trên những lối đi thôn dã lầy lội trơn trượt. Dù đi trên những con đường khác nhau cũng đều dẫn tới con đường duy nhất là con đường Giêsu, để về nhà Chúa Cha.
“Nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở”, nhà Cha Thầy rộng lớn không biên giới, được xây trên đá tảng kiên cố, bền vững là chính Đức Giêsu Kitô Phục sinh (1Pr. 2, 4). Nhà Cha Thầy không phải là nhà Davit, không ai được chiếm hữu cho một dòng họ sang trọng nào, cho một dân riêng nào. Nhà Cha Thầy rộng mở cho mọi tầng lớp nhân dân, cho mọi dân tộc, không phân biệt giầu nghèo, sang hèn, nô lệ hay tự do, khỏe mạnh hay tàng tật. Nhà Cha Thầy không thu hẹp vào phần đất nào, ranh giới nào, dù Samari hay Giuđa, Do thái hay Hy lạp. Nhà Cha Thầy rộng dài, cao sâu, lan tràn mọi lãnh thổ, thấm tận vào lòng mọi dân tộc.
Xưa Giêrôbôam và Rôbôam đã chia rẽ nhau thống trị nhà Israel và Giuđa, chúng đã lợi dụng Thiên Chúa để củng cố ngai vàng của mình, Thiên Chúa đã phán với Giêrôbôam: “Này tế đàn của ngươi sẽ vỡ tan tành, tàn tro tế lễ của ngươi sẽ đổ xuống (1V. 13, 3). Phần nhà Giuđa, sau này Đức Giêsu cũng phải khóc thương Giêrusalem vì “đã biến nhà Cha Thầy thành chợ búa, hang trộm cướp để trục lợi” (Ga. 2, 16; Lc. 19, 39-46 và 21, 5).
Con người lúc nào cũng mang đầy tham vọng, lợi dụng nhà Cha Thầy để mưu cầu danh vọng cá nhân, dòng họ, xứ sở, địa phương mình. Vì thế “những kiến trúc vĩ đại hào nhoáng của loài người sẽ bị thay thế” (Mc. 13, 1-4). Đức Giêsu sẽ xây lại một Đền thờ mới cho Cha Người, đó là chính thân thể Người từ cõi chết sống lại (Ga. 2, 19-22). Từ Đền thờ mới này Êgiêkiel đã được thị kiến: “Tôi đã thấy nước từ bên phải Đền thờ chảy ra, và nước ấy chảy đến những ai thì tất cả đều được sạch và được sống” (Êz. 47, 8-9). Đó chính là “trời mới, đất mới, Giêrusalem mới, là nhà Thiên Chúa ở với dân Người, Người là Thiên Chúa ở cùng họ. Người sẽ lau sạch nước mắt chúng sinh. Chết sẽ không còn nữa, phiền muộn, kêu gào, khổ nhọc sẽ không có nữa, vì điều cũ đã qua rồi (Kh. 21, 3-4).
Nhà Cha Thầy cũng là đền thờ Chúa Thánh Thần dược xây bằng những viên đá sống động do chính Thiên Chúa tuyển chọn, là những người tin Đức Kitô. Người làm cho họ thành một dân thánh, dân tư tế dâng lên những lễ vật đẹp lòng Cha và đi loan truyền công trình vĩ đại của Cha Thầy (Bài đọc II).
Vậy nhà Cha Thầy vừa là Đền thờ sống động của Thánh Thần vừa là Thân thể Phục sinh vinh quang của Thầy có những chi thể được gắn bó, được sống lại với Thầy, vừa là trời mới đất mới của Cha Thầy ngự trị. Cho nên con đường về nhà Cha Thầy cũng chính là Thầy: “Thầy là Đường”, đường dẫn về nhà Cha Thầy, vì “Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy”.
Lạy Cha, Cha đã thương yêu chúng con quá bội, đã cho Con Cha là đường dẫn tới Cha, đã cử Con Cha là kiến trúc sư xây dựng nhà Cha cho chúng con, đã trao mọi quyền năng cho Con Cha, để Người dọn chỗ cho chúng con, để Người đem chúng con về với Cha hằng sống, trong tình thương yêu chúng con muôn đời.
Lòng các con đừng xao xuyến.
Mặc dù Chúa Giêsu đã khuyên chúng ta như thế, nhưng nhìn vào đời sống chúng ta cảm thấy có rất nhiều băn khoăn lo lắng. Trước hết chúng ta băn khoăn lo lắng về tiền bạc. Phải lo cho mình, cho gia đình mình có đủ những phương tiện sinh sống, phải tiết kiệm phòng khi nghèo túng, tai ương bệnh hoạn. Đó là sự khôn ngoan của người biết lo xa. Tuy nhiên không nên lo lắng thái quá, vì trời sinh voi sinh cỏ. Chim trời không gieo không gặt mà chẳng con nào bị chết đói, hoa cỏ đồng nội không dệt không may, mà áo cẩm bào của Salomon vẫn chẳng thế nào sánh nổi. Hơn nữa, lời Chúa còn đem lại cho chúng ta niềm an ủi và khích lệ: Hãy tìm kiếm Nước Trời trước đã còn mọi sự khác Chúa sẽ ban cho sau.
Tiếp đến chúng ta băn khoăn lo lắng về địa vị và danh vọng. Khi chưa có địa vị, chúng ta bon chen tìm đủ mọi cách để tìm kiếm cho mình chỗ đứng ngoài xã hội. Khi đã có rồi, chúng ta lo gây phe cánh, để duy trì chức vị đó. Nhưng chúng ta nên nhớ danh vọng chính là của đồng lần thiên hạ tiêu chung, nay thuộc về ta và mai thuộc về người. Hơn nữa, như lời Chúa đã phán: Ai đong đấu nào thì sẽ được đong lại bằng đấu ấy. Gieo gió thì gặt bão. Một khi đã có những hành vi tội ác, thì lương tâm sẽ bị cắn rứt, và công lý sẽ lên án phạt.
Nhưng có lẽ cái làm cho chúng ta băn khoăn lo lắng nhất chính là sự chết. Thực vậy, đã là người thì ai cũng phải chết. Cái chết ở trước mặt người già và ở sau lưng người trẻ. Nếu như thế thì băn khoăn lo lắng mà làm chi. Thực sự, chúng ta không lo mình sẽ phải chết, nhưng lo về những điều xảy ra sau khi chết, chẳng hạn như sợ bị Chúa phán xét, sợ hậu quả không hay do đời sống tội lỗi và bê bối. Đây mới là nỗi băn khoăn và lo lắng chính đáng. Tuy nhiên, để khỏi băn khoăn lo lắng thì ngay từ giờ, chúng ta hãy sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương.
Szécheny người Hung Gia Lợi và là một nhân vật nổi danh. Ngày kia ông đang tắm trên bờ biển thì thình lình bị sóng cuốn đi. Ông ra sức bơi, hai tay chống cự nhưng sóng gió cứ đẩy ông vào chỗ nước xoáy. Trong lúc thất vọng và tưởng rằng mình sẽ bị cuốn trôi, ông nghĩ rằng mình mới xưng tội và rước lễ, và ông cảm thấy an tâm ra sức chống đỡ và sau cùng đã thoát nạn.
Trái lại biết bao người tội lỗi, không giục lòng ăn năn, đã thực sự hoảng sợ khi tử thần đến gõ và đã chết một cách bàng hoàng kinh hãi. Hãy tin tưởng vào Chúa bằng cách khử trừ tội lỗi, thực hiện bác ái yêu thương, nhờ đó mà cuộc đời chúng ta sẽ không còn băn khoăn lo lắng.
Đầu tháng hai năm 1990, báo chí đã làm cho nổi tiếng một con đường ở ngoại ô thành phố Saigon. Con đường ấy, một đầu là biểu ngữ giăng ngang khai trương phòng vật lý trị liệu, một kiểu mãi dâm trá hình. Còn đầu kia là sừng sững một khách sạn mini sang trọng, làm nhà riêng của ông giám đốc Xacogiva, người đã từng biển thủ công quỹ. Con đường ấy chợt nổi tiếng vì những vụ tai tiếng.
Thế nhưng, đã 20 thế kỷ trôi qua, trong Giáo Hội chúng ta biết có một con đường luôn nổi tiếng. Con đường ấy mở ra bằng một tình thương và kết thúc bằng một hạnh phúc. Con đường ấy trải dài bằng tin yêu để vươn lên tới sự sống bất diệt. Con đường ấy thắp sáng niềm hy vọng và dẫn tới quê hương Nước Trời. Con đường dẫn tới vĩnh cửu. Đó là con đường mang tên Giêsu.
Thực vậy, qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Ngài đã trả lời cho Tôma: Thầy là đường là sự thật và là sự sống. Qua đó, chúng ta thấy: chỉ có một con đường duy nhất được mở ra cho ơn cứu độ. Và con đường ấy chính là Ngài.
Trước hết, Ngài là đường chân lý, một chân lý sống động, làm tiêu chuẩn hướng dẫn cho mọi cuộc đời. Đường chân lý ấy, không phải là một mớ những tín điều, những sự phải tin, nhưng là toàn thể cuộc sống của Ngài, từ tư tưởng cho đến lời nói và việc làm. Tất cả đều hướng tới chân trời cứu độ. Nhưng không phải ai cũng nhận ra con đường này, bởi vì trong phiên toà xet xử, Philatô cũng đã hỏi: Sự thật là gì? và Chúa Giêsu đã không trả lời bởi vì sự thật chính là Ngài đang đứng đó.
Tiếp đến, Ngài là đường sự sống bởi vì Ngài là nguồn phát sinh mọi sự sống tự nhiên cũng như siêu nhiên. Sự sống phần xác trong công trình tạo dựng, cũng như sự sống phần hồn trong công trình cứu chuộc. Ngài đã chết để mọi người được sống và Ngài đã sống lại để mãi mãi mở ra một con đường dẫn vào cõi sống vĩnh cửu. Sự sống vật chất một ngày nào đó sẽ tan biến, nhưng sự sống mà Ngài trao ban sẽ là một sự sống trường tồn bất diệt. Chính vì thế mà chúng ta thường kết thúc lời cầu nguyện bằng câu: Người hằng sống và hiển trị cùng Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.
Sau cùng, Ngài là con đường dẫn tới nhà Cha, dẫn tới quê hương Nước Trời, bởi vì Chúa Cha và Ngài không thể tách lìa nhau. Chúa Cha ẩn mình trong Chúa Con và Chúa Con ẩn mình trong Chúa Cha. Vẫn là một tự ngàn xưa và mãi mãi là một đến muôn thuở muôn đời. Vì thế con đường mang tên Giêsu, tất nhiên sẽ dẫn tới địa chỉ Nhà Cha và ngược lại, muốn đến nhà Cha thì phải đi trên con đường Giêsu. Có nghĩa là muốn được bước vào quê hương Nước Trời, chúng ta phải thực thi những điều Đức Kitô truyền dạy.
Con tàu ra khơi thì gặp phải giông bão. Gió to và sóng lớn. Mọi hành khách đều hốt hoảng. Chỉ một mình em nhỏ vẫn bình tĩnh ngồi chơi nơi xó góc. Người ta hỏi em tại sao thì em trả lời: Làm sao tôi có thể sợ hãi đang khi ba tôi là người điều khiển con tàu. Cũng thế trong một cuộc động đất, người ta thấy một bà già hăng say giúp đỡ các nạn nhân, mặc dù nhà cửa của bà cũng đã bị sụp đổ. Người ta hỏi bà tại sao lại không lo lắng sợ hãi, thì bà trả lời: Thiên Chúa quyền năng. Người làm được mọi sự và Ngài luôn lo liệu cho tôi những sự tốt đẹp nhất.
Từ hai mẩu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay với lời khuyên nhủ của Chúa: Các con đừng xao xuyến. Băn khoăn xao xuyến là một cái gì đụng đến trái tim, là phần sâu thẳm nhất của con người. Có ai trong chúng ta đã không từng bị băn khoăn, xao xuyến và lo lắng?
Các môn đệ đã xao xuyến khi các ông được nghe biết về sự phản bội của Giuđa, về sự chối bỏ của Phêrô, về cái chết gần kề của Chúa Giêsu. Những biến cố kinh hoàng này đã ảnh hưởng đến đời sống các ông, phá vỡ những gì các ông đã xây dựng, đã vun trồng. Phải xa cách Thầy, phải đương đầu với một thế gian thù nghịch, tất cả những điều ấy đã làm cho các ông lo lắng và xao xuyến.
Không phải chỉ các môn đệ mới lo lắng và xao xuyến, mà chính Chúa Giêsu cũng đã nhiều lần lâm vào một hoàn cảnh như thế. Ngài đã xao xuyến khi thấy Maria và những người Do Thái khóc nức nở bên nấm mồ Lagiarô. Ngài đã xao xuyến khi thấy giờ Ngài được tôn vinh qua đau khổ và cái chết đã đến: Giờ đây, tâm hồn Thầy xao xuyến, Thầy biết nói gì. Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. Ngài đã xao xuyến khi loan báo về việc phản bội của một người môn đệ.
Như thế, Chúa Giêsu không phải là một con người sắt đá, hay đã tôi luyện cho mình một thái độ vô cảm trước những nỗi đau của bản thân và của người khác. Trái lại, Ngài cũng có một trái tim như chúng ta. Và trái tim ấy cũng đã thổn thức và xót thương, cũng đã lo lắng và xao xuyến. Vì thế, Ngài rất hiểu và cảm thông với chúng ta.
Xao xuyến và băn khoăn là một tâm trạng bình thường, đó không phải là một tội, nếu nó không đưa chúng ta đến chỗ sợ hãi mà bỏ cuộc, không chu toàn thánh ý Chúa. Trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu cũng đã băn khoăn lo lắng, nhưng Ngài đã vượt thắng những băn khoăn lo lắng ấy, Ngài đã can đảm chấp nhận thập giá, không lùi bước trước khổ đau và hiểm nguy.
Chúng ta không xin cho mình tránh khỏi mọi xao xuyến nhưng dạy chúng ta vượt qua những xao xuyến ấy bằng niềm tin: Lòng các con đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Chính niềm tin sẽ đem lại cho chúng ta sự bình an. Thực vậy, hiểm nguy vẫn còn đó, khổ đau vẫn còn đó, nhưng chúng ta luôn an tâm vì biết rằng quyền năng và tình thương của Chúa còn lớn hơn mọi sóng gió như muốn nhận chìm con người và cuộc đời chúng ta.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Theo nguồn tin của Tổ Chức Khí Tượng Thế Giới (WMO: World Meteorological Organization) nói hôm Thứ Năm (27/01/2011). Các lớp băng ở Bắc Cực tan thêm và bởi thời tiết cực đoan khiến trái đất này đang nóng dần lên. Có một số khác lại cho rằng trái đất đang lạnh đi, ngày 06/01/2014 cơn bão Hercules đi qua khu vực phía bắc Mỹ khiến nhiệt độ nơi này xuống thấp kỷ lục trong vòng 20 năm -31 độ C ở Chicago, thậm chí đến – 60 độ C tại một số thành phố làm 13 người chết, gần 3.000 chuyến bay bị hủy. Ngày 7/1, 50 bang nước Mỹ đều có nhiệt độ dưới 0 độ C vào một thời điểm. Ngay tại Sapa, Việt Nam có tuyết phủ nhiều ngày.
Số khác trung dung hơn, cho rằng nhiệt độ Trái đất đang thay đổi nóng lạnh, đột ngột bất thường, từ mức lạnh gần như thấp nhất chuyển sang mức nóng đỉnh điểm chưa từng thấy trong lịch sử suốt gần 100 năm qua.
Tóm lại, sự sống trên mặt đất của con người và mọi sinh vật đang bị đe dọa, và người ta đi tìm một hành tinh xanh khác dễ sống hơn.
Về phương diện con người, nạn phá thai đã lến tới mức báo động chưa từng thấy trong lịch sử loài người. Mỗi năm chỉ riêng Việt Nam đã có gần 3 triệu ca phá thai. Có nghĩa là mỗi ngày có khoảng 8 ngàn ca phá thai. Thứ nhất Sài Gòn, kế đến là Hà Nội, Huế, Cần Thơ… Duy trì sự sống là một yếu tố căn bản cho sự tồn tại của một dân tộc, ấy vậy mà họ đang tiêu hủy sự sống con người.
Con người đã dùng vũ khí sinh học giết người hàng loạt để hủy diệt nhau. Có những chuyện chưa từng nghe thì nay đã thấy, như “Bất hiếu với cha mẹ nơi cửa tử bệnh viện” gây nỗi xót xa, tức giận trong cộng đồng, nghĩa là mẹ ốm có thể chữa được, 8 người con cãi nhau rồi quyết định mang mẹ về chờ chết. Hay cả năm người con đồng ý với án tử hình bố. Một vài dẫn chứng cụ thể trên cho thấy Trái đất này, con người ngay nay thật khó sống và khó yêu.
– Những ngày hè thật là nóng, phiến quân IS đã làm thế giới lo sợ, nay cộng thêm khủng hoảng quan hệ Liên – Triều, khiến người ta lo âu về chiến tranh thế giới có thể xảy ra.
Trái đất và con người đang như thế, lời Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng: “Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy ” (Ga 14, 1). Tại sao Chúa Giêsu nói những lời ấy? Thưa là vì trước sự ra đi sắp đến của Người đã làm cho các môn đệ cảm thấy bất an. Các ông lo cho chính mình, sợ bị bỏ rơi, phải sống cô đơn, và bằng một lời hứa Chúa Giêsu nâng đỡ các ông: ” Thầy đi để dọn chỗ cho các con ” (Ga 14, 2), và sau đó ” Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó ” (Gn 14,2-3). Qua thánh Tôma, các tông đồ đáp lại lời trấn an của Chúa Giêsu như sau: “: ” Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi? ” (Ga 14, 5). Nhân định nầy rất đúng, và Chúa Giêsu đã không tránh né câu hỏi đi kèm theo đó. Câu trả lời của Chúa Giêsu qua bao thế kỷ vẫn còn giá trị như là ánh sáng rõ ràng cho bao thế hệ tiếp đến: “” Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy “(Ga 14, 6).
“Chỗ” mà Chúa Giêsu ra đi để chuẩn bị, là ở nơi “nhà Cha”; ở đó, người môn đệ sẽ có thể được sống đời đời với Thầy mình, và tham dự vào niềm vui của Người. Tuy nhiên, để đạt đến mục tiêu nầy, thì chỉ có một đường mà thôi: đó là Chúa Kitô, là Ðấng mà người môn đệ phải từ từ đồng hóa chính mình theo đó. Sự thánh thiện thật sự hệ tại ở điểm nầy: đó là không phải người Kitô sống, nhưng Chúa Kitô sống trong người đó (x. Gal 2,20). Ðây là đích điểm cao cả, được đi kèm với một lời hứa cũng hết sức khích lệ: ” Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha”(Ga 14,12).
Chúng ta lắng nghe những lời trên của Chúa Giêsu: ” Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy…” Thử hỏi, cuộc sống của chúng ta sẽ ra như thế nào, nếu vô thần, nếu người kitô hữu không thực hành và liên lỉ sống đức tin, được củng cố bởi Ðức Cậy hướng về Trời Cao, nơi con người có thể gặp Chúa Kitô? “Thầy đi để dọn chỗ cho các con … để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó ” (Ga 14, 2).
Vậy, đừng xao xuyến lo âu vì những bất ổn của địa cầu, của tình anh em hữu nghị đổi thay, hay lòng người thay lòng đổi dạ. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Chúa Đức Giêsu Kitô. Hãy phó thác hoàn toàn cho Chúa, như trẻ nhỏ trong vòng tay của nguời Mẹ. Vì thế giới này là tạm bợ, con người là thay đổi, không phải là chổ nương thân. Chỉ trong Thiên Chúa chúng ta mới tìm được nguồn vui tột đỉnh của tâm hồn. Ước chi lời khuyên của Chúa Giêsu hôm nay thấm nhập vào trong tâm trí chúng ta, như là nguồn mạch của hòa bình, sự thanh thản và niềm an vui. Nếu Chúa Giêsu Kitô là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, chúng ta còn lo sợ hãi gì? Tại sao không tin tưởng vào Thiên Chúa, là Cha Đức Giêsu, Cha chúng ta và tin vào Đức Giêsu, Chúa chúng ta?
Còn hạnh phúc nào hơn khi có Thiên Chúa là sức mạnh thiêng liêng giúp chúng ta không bị gục ngã dưới sức nặng của khổ nhọc, của tuyệt vọng và buồn phiền…
Xin Mẹ Maria giúp chúng ta chăm chú nhìn lên Thiên Chúa Cha. Xin Mẹ hãy nắm tay hướng dẫn và thôi thúc chúng ta luôn vững tin vào Chúa như Mẹ. Amen.
9.Đường Giêsu – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Băn khoăn về nguồn cội con người, thắc mắc về ý nghĩa cuộc đời, thao thức truy tìm cứu cánh của đời người đã tiếp nối bằng bao thế kỷ mà không có được câu trả lời thoả đáng. Con người bơ vơ giữa ngã ba không biết phải đi về đâu. Khi xuống trần, Chúa Giêsu đã cho ta biết nguồn cội của Người là Đức Chúa Cha, ý nghĩa đời Người là thi hành thánh ý Chúa Cha, và cùng đích đời Người là trở về với Chúa Cha. Muốn về với Đức Chúa Cha, ta phải theo một con đường. Đường ấy có tên là GIÊSU. Đường này chắc chắn an toàn đi đến nơi về đến chốn vì Chúa Giêsu là người mở đường. Người chính là con đường và Người là tâm điểm của đích tới.
Chúa Giêsu là người mở đường.
Đi đâu cũng cần có đường. Không con đường nào tự nhiên có. Phải có người mở đường.
Có người mở ra những con đường vật chất, nhờ có óc phiêu lưu mạo hiểm, có tầm nhìn bao quát, có óc tính toán thực tế.
Có người mở ra những con đường suy tư triết học, sáng tác nghệ thuật, nhờ trí tuệ thông minh xuất chúng, có tư duy sáng tạo, có trực giác bén nhạy, có trí tưởng tượng phong phú.
Nhưng không ai có thể mở con đường lên trời. Đường lên trời hoàn toàn vượt khả năng con người. Phải có Đấng, ấy là Chúa Giêsu, Người đã đến từ Đức Chúa Cha, nay Người trở về cùng Đức Chúa Cha. Người lại hứa dọn chỗ cho ta trong Nhà Cha. Với những thông tin như thế, Người đã cho ta biết Trời chính là Nhà Cha. Quê Trời trở thành Quê Cha. Nước Trời trở thành một cõi đi về thân thương của con người. Con đường đi về ấy, chính Chúa Giêsu đã mở.
Chúa Giêsu là đường.
Không chỉ là người mở đường. Chúa Giêsu chính là con đường. Để về Nhà Cha, ta không chỉ đi theo, đi với mà còn phải đi trong Người. Không chỉ đi trong đường lối, trong tinh thần, nhưng trong chính bản thân Người. Như cành nho gắn liền với thân nho và sống bằng sự sống của thân nho. Như bánh rượu tan hoà vào trong máu thịt trở nên thành phần của bản thân ta. Như bản tính Thiên Chúa kết hợp với bản tính loài người trong bản thân Người. Đi trong Người để ta ở trong Người như Người ở trong Chúa Cha. Đi trong Người để ta mang hình ảnh của Người, để ai thấy ta cũng như thấy Người, như “Ai thấy Thầy là thấy Cha Thầy”.
Chúa Giêsu là đích tới của con đường.
Đi trong Chúa Giêsu là một hành trình dài. Đi suốt cả đời chưa chắc đã tới.
Để đi trong Chúa Giêsu ta phải từ bỏ hết những gì của bản thân mình, kết hiệp trọn vẹn với Người, cũng như Người đã từ bỏ ý riêng để hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha, để trở nên một với Chúa Cha.
Khi đã hoàn toàn từ bỏ hết ý riêng và trở nên một với Người cũng là lúc ta đạt tới đích điểm, là lúc ta gặp được Chúa Cha, là lúc ta ở trong Nhà Cha, là lúc ta đạt tới Quê Hương yêu dấu trên trời.
Lạy Chúa Giêsu là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, xin cho con biết đi trong con đường của Người.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Bạn hãy thử tìm ra những đặc điểm của con đường Giêsu (Vd: hiền lành, khiêm nhường…)
2) Bạn còn xa hay đã gần con đường Giêsu?
3) Bạn có mong đi trọn vẹn trong con đường Giêsu không? Nếu muốn, bạn cần những điều kiện nào nữa?
10.Thầy là Đường, Sự Thật và Sự Sống
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.)
Con người đi về đâu? Con người tìm kiếm điều gì?
Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy (Ga. 14, 3)
Con người trong cơn khủng hoảng, hoang mang không biết mình đi về đâu, cuộc đời mình có ý nghĩa gì! Đây là một khủng hoảng cũng thường xảy ra trong đời một người.
Đức Yêsu nói với các môn đệ “lòng anh em đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Ga.14, 1).
Đức Yêsu sẽ trở lại. Ngài trở lại để đem chúng ta đi theo Ngài, để chúng ta ở với Ngài.
Đức Yêsu là đường dẫn đến Thiên Chúa Cha
Các tông đồ không biết Đức Yêsu đi đâu, nên các ngài không hiểu gì về “con đường” mà Đức Yêsu nói! “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, thì làm sao chúng con biết được đường” (Ga.14, 5)!
“Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (Ga.14, 6)!
Đức Yêsu và chúng ta, đều đến với Cha như cùng đích! Con đường dẫn chúng ta đến với Cha, là Đức Yêsu. Cách sống của Đức Yêsu, có tác dụng như một con đường.
Không có Đức Yêsu trợ giúp, con người không thể đến với Cha được, con người không thể đạt được cứu cánh đời mình. “Không ai biết Cha trừ Con, và những người được Con mặc khải cho” (Mt.11, 27).
Biết Đức Yêsu, là biết Cha. Thiên Chúa là Đấng vô hình, người ta không thể nhìn thấy Ngài bằng mắt trần, nhưng người ta có thể nhận biết Ngài bằng đức tin, khi họ “vượt qua” những gì vật chất để nhận biết Thiên Chúa đang hoạt động nơi mọi người.
Thiên Chúa là ai? Thiên Chúa là Đấng yêu thương chúng ta vô cùng.
Ngài yêu con người đến độ ban Con Một Ngài cho chúng ta. Con Một Thiên Chúa đã nhập thể để giúp chúng ta sống trọn kiếp người, để chúng ta được “Chúa hoá”.
Ngài đã phục sinh, để chúng ta được sống lại trong ngày Ngài quang lâm.
Trong thời hiện tại, Ngài ban các mục tử cho chúng ta, để giúp chúng ta đi đến với Thiên Chúa là Cha.
Ngài sẽ trở lại đón chúng ta, để chúng ta được ở với Ngài!
Khi nào Ngài trở lại?
Trong những ngày này, có nhiều người xôn xao lo lắng, vì có nhiều tin đồn về ngày cùng tận! Phải chăng những người này xôn xao lo lắng, vì không biết tương lai của họ thế nào như các tông đồ hồi xưa? Hay tại họ muốn bám víu vào trần thế “mau qua” này?
Những ý kiến về ngày cùng tận
Có người cho rằng năm 2000 sẽ tận thế! Có người cho rằng vào tháng 9 năm nay sẽ tận thế; những người này còn đòi trưng dẫn “ý kiến của các nhà khoa học”!
Theo ý kiến của tôi, trước khi tin rằng đó là ý kiến của các nhà khoa học, thì phải kiểm chứng có đúng như vậy không, nghĩa là, có đúng là có các nhà khoa học hội họp với nhau và bàn về vấn đề này không, ở đâu, bao giờ, hãng thông tấn nào loan tin, ai triệu tập, tại sao các nhà khoa học lại bàn về vấn đề này? nhà khoa học nào có thẩm quyền để triệu tập một hội nghị như vậy?
Có người cho rằng Đức Mẹ mặc khải cho biết ngày giờ tận thế, và khuyên người ta ăn năn sám hối. Về việc người ta phải ăn năn sám hối, thì rất đúng! Nhưng có cần Đức Mẹ phải mặc khải về ngày giờ tận thế không, nhất là khi chính Chúa Yêsu nói không ai biết ngày giờ đó (Mc.13, 32)?
Lời dạy của Đức Yêsu
Chúa Yêsu đã nói “Còn về ngày giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay cả người Con cũng không; chỉ một mình Chúa Cha biết mà thôi” (Mt.24, 36; Mc.13, 32). Nếu Chúa Yêsu nói không ai biết, thì tại sao lại có những kẻ tự nhận rằng họ biết! Chẳng lẽ họ đúng, còn Chúa Yêsu thì sai?!
Ý kiến của thánh Phaolô
Thời thánh Phaolô, người ta cũng tưởng Chúa trở lại “đến nơi” rồi, và thánh nhân cũng tưởng không chừng mình thuộc vào số những người còn sống mà được đi đón Chúa: “Dựa vào Lời của Chúa, chúng tôi nói với anh em điều này, là chúng ta những người đang sống, những người còn lại vào ngày Chúa quang lâm, chúng ta sẽ chẳng đi trước những người đã an giấc ngàn thu đâu. Vì khi hiệu lệnh được ban ra, khi tiếng tổng lãnh thiên thần và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên, thì chính Chúa sẽ từ trời ngự xuống, và những người đã chết trong Đức Kitô sẽ sống lại trước tiên; rồi đến chúng ta, là những người đang sống, những người còn lại, chúng ta sẽ được đem đi trên đám mây cùng với họ, để nghênh đón Chúa trên không trung. Như thế, chúng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi” (1Tx.4, 15-17).
Ở chỗ khác trong cùng thư, thánh Phaolô nói: “Thưa anh em, về ngày giờ và thời kỳ Chúa đến, anh em không cần ai viết cho anh em. Vì chính anh em đã biết rõ: ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm. Khi người ta nói “bình an biết bao, yên ổn biết bao” thì, lúc ấy tai họa sẽ thình lình ập xuống, tựa cơn đau chuyển bụng đến với người đàn bà có thai, và sẽ chẳng có ai trốn thoát được” (1Tx.5, 1-3).
Trong thư thứ hai gởi Thessalonica, thánh Phaolô viết: “Thưa anh em, về ngày Đức Yêsu Kitô, Chúa chúng ta, quang lâm và tập hợp chúng ta về với Người, tôi xin anh em điều này: nếu có ai bảo rằng chúng tôi đã được thần khí mặc khải, hoặc đã nói, đã viết thư quả quyết rằng ngày của Chúa gần đến, thì anh em đừng vội để cho tinh thần dao động, cũng đừng hoảng sợ. Đừng để ai lừa dối anh em bất cứ cách nào” (2Tx.2, 1-3a).
Tại sao đòi biết ngày giờ và lo lắng hoảng loạn?
Chắc chắn Chúa Yêsu sẽ quang lâm! Chắc chắn không ai thoát được biến cố này. Thế nhưng về ngày giờ biến cố đó xảy ra thì không ai biết, trừ Cha! Biến cố đó có thể xảy ra trong ít phút nữa đây, cũng có thể xảy ra vào tháng chín tới, nhưng cũng có thể vào năm 2000, hay vào năm 4000, hay vào một thời rất xa xưa trong tương lai! Đâu có ai biết!
Tại sao chúng ta quá bận tâm về ngày giờ đó?
Nếu chúng ta quá bận tâm để biết ngày giờ, phải chăng vì mình muốn thoát khỏi ngày đó? Và như vậy, phải chăng bởi vì
tôi còn ham thế gian, không coi thiên đàng là quê thực!
hay vì tôi sống chưa ngay thẳng để ra trước nhan Chúa trong ngày Người quang lâm?!
hay tại tôi không tin vào Chúa Yêsu, tôi không coi trọng Lời Người?! Chúa nói không ai biết, còn tôi thì đòi biết, và tin vào người khác hơn tin vào Chúa Yêsu.
Làm sao có thể thoát được ngày đó nếu ngày đó tới! Làm gì để chuẩn bị đón biến cố đó? Hãy xem Chúa mời gọi các tông đồ thế nào, và chúng ta hãy sống như vậy!
“Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Ga.14, 1).
Tin vào Đức Yêsu, có thể làm được những điều kỳ diệu hơn cả Đức Yêsu!
“Hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha, và Chúa Cha ở trong Thầy” (Ga.14, 11). “Ai tin vào Thầy, người đó sẽ làm được những việc Thầy đã làm; người đó còn làm được những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha” (Ga.14, 12).
Một bài giảng của Phêrô sau biến cố Thánh Thần hiện xuống, đã làm khoảng 3000 người trở lại (Cv.2, 41)! Điều này làm cho người ta nghĩ đến câu Lời Chúa ở trên “người đó còn làm được những việc lớn hơn nữa”.
Ngày nay, với những người tin vào Đức Yêsu, họ còn có thể làm được những điều kỳ diệu mà Chúa Yêsu đã tiên báo trước. Họ có thể vượt qua chính mình. Họ dám sống hiến dâng đời mình để phục vụ Chúa và tha nhân.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Tại sao các tông đồ xao xuyến? Có sự tương đồng nào đó giữa niềm xao xuyến của các tông đồ xưa và của con người ngày nay trước luồng tin “ngày tận thế”?
2. Theo lời khuyên dạy của Đức Yêsu, làm sao để hết xao xuyến và lo lắng?
3. Bạn hiểu câu “Đức Yêsu lại là đường, sự thật và là sự sống” như thế nào?
4. Thiên Chúa vô hình! Có bao giờ bạn nghĩ bạn “thấy Thiên Chúa” không? Nếu được, mời bạn chia sẻ kinh nghiệm này.
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.)
Sau biến cố tử nạn và phục sinh của Đức Yêsu, các tông đồ nhớ lại những gì Đức Yêsu đã nói và đã làm khi các ông được diễm phúc đi theo và sống với Ngài. Tin Mừng hôm nay là hồi niệm, tường thuật những gì các tông đồ đã thấy và đã nghe. Lời Chúa được công bố hôm nay giúp con người hiểu biết hơn về Đức Yêsu, và về Hội Thánh cụ thể trong lịch sử.
1. Xin chỉ cho chúng con biết Chúa Cha, thế là đủ cho chúng con
Tin Mừng theo thánh Yoan cho biết về Đức Yêsu và các tông đồ trong thời gian Đức Yêsu còn tại dương thế hơn. Một trong những bận tâm chính của con người là hiểu biết về Thiên Chúa. Chính trong tâm tình này mà Philip nói với Đức Yêsu: “xin chỉ cho chúng con Chúa Cha, và thế là đủ”. Ao ước biết hơn về Thiên Chúa, là ao ước của con người trong mọi thời đại, đặc biệt của các tông đồ.
“Ai thấy Ta là thấy Cha”. Tại sao Philip còn đặt câu hỏi với Đức Yêsu về Thiên Chúa Cha? Sở dĩ vậy vì Philip và các tông đồ lúc đó không nhận ra Đức Yêsu là “hình ảnh” của Thiên Chúa Cha, là phản ánh của Thiên Chúa Cha. Sau biến cố tử nạn và phục sinh của Đức Yêsu, các tông đồ nhận biết Đức Yêsu hơn; và với Thánh Thần của Đức Yêsu, các tông đồ được dẫn vào sự thật trọn vẹn (Ga.16, 12-13).
Có nhiều điều một người nói, và những người khác không hiểu được. Cũng tương tự vậy, Đức Yêsu đã nói nhiều điều với các tông đồ, nhưng các ngài không hiểu cho tới khi các ngài được Thiên Chúa soi sáng đặc biệt. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Đức Yêsu mời gọi các tông đồ hãy nhìn các việc Ngài làm mà gắng hiểu Ngài. Thời gian “bốn mươi ngày” là thời gian đặc biệt các tông đồ nhớ lại những tháng ngày sống với Đức Yêsu, nhớ lại những gì Đức Yêsu nói, những việc Đức Yêsu làm, để các ngài hiểu hơn về Đức Yêsu, và với ơn của Thánh Thần các ngài nhận biết Đức Yêsu là Con Thiên Chúa.
2. Đức Yêsu là viên đá sống động
Một thời gian dài sau biến cố Đức Yêsu chết và sống lại, khi thư thánh Phêrô được viết, các tông đồ đã có cái nhìn đúng đắn và sâu xa hơn về Đức Yêsu. Tác giả thư thứ nhất của thánh Phêrô nhận ra Đức Yêsu là viên đá mà thợ xây loại bỏ, đã trở nên đá góc tường, là nền tảng trên đó Thiên Chúa xây dựng Hội Thánh của Thiên Chúa.
Đức Yêsu cũng là viên đá làm người ta vấp ngã, vì không dễ gì để tin vào Đức Yêsu. Hiện nay, đa số người Do Thái không tin Đức Yêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Thiên Sai mà mọi người phải đợi trông. Khá nhiều người trên thế giới không tin Đức Yêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa đến độ người ta có thể nói Ngài là Thiên Chúa nhập thể.
Tác giả thư thứ nhất của thánh Phêrô cũng nhận ra rằng, số phận của con người được biến đổi nhờ Đức Yêsu Kitô. Với Đức Yêsu tử nạn và phục sinh, con người có thể trở thành con người mới trong Đức Yêsu. Tác giả thư thánh Phêrô nói: chúng ta là dân tộc được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh, là người của Thiên Chúa. Nhờ đức tin vào Đức Yêsu, chúng ta trở thành một tạo vật mới, một con người mới.
3. Dù đã thuộc về Chúa, con người vẫn còn giới hạn
Sách Công Vụ Tông Đồ cho thấy sinh hoạt của Hội Thánh sơ khai. Thời đầu, các Kitô-hữu đã để tất cả tài sản của họ làm của chung, và ai cần gì thì cứ dùng theo nhu cầu (Cv.2, 44-45). Sách Công Vụ cũng cho biết trường hợp của Khanania cùng vợ gian lận (Cv.5, 1-11). Và hôm nay bài đọc sách Công Vụ Tông Đồ cũng cho biết “tính người” của những Kitô-hữu tiên khởi: họ càm ràm vì không được đối xử công bình.
Sách Công Vụ cũng cho biết cách cư xử của các tông đồ trước vấn đề này. Hội Thánh cho dù gồm những người được Thiên Chúa chọn, nhưng họ vẫn là người với những yếu đuối của con người. Điều nào là tốt nhất, thì làm. Các tông đồ đã đề nghị cách giải quyết cho cộng đoàn, và cộng đoàn đã chấp nhận, và rồi các tông đồ đã thực hiện điều đó.
Qua cách giải quyết của các tông đồ, người ta nhận ra một tiêu chuẩn rõ ràng: việc phục vụ Lời Chúa phải là ưu tiên một đối với trách vụ tông đồ. Nhu cầu vật chất là quan trọng và không thể bỏ, nhưng nhu cầu tinh thần phải được đặt ưu tiên hơn. Đây cũng là một tiêu chuẩn mà mỗi người phải giữ trong việc chọn lựa ưu tiên để phục vụ và sống trong Hội Thánh.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Đức Yêsu giúp bạn biết gì về Thiên Chúa hơn?
2. Bạn có thất vọng khi thấy Hội Thánh vẫn còn nhiều giới hạn không? Tại sao?
3. Theo bạn, đâu là vấn đề nổi cộm hiện nay của Hội Thánh? Và Hội Thánh phải giải quyết những vấn đề này như thế nào?
12.Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Sống trong xã hội tiến bộ như hôm nay, để đi đến một địa chỉ nào đó, có rất nhiều con đường để lựa chọn. Có con đường rộng. Có con đường hẹp. Có con đường khó đi. Có con đường dễ đi. Có con đường cong. Có con đường thẳng. Có con đường gồ ghề sỏi đá. Có con đường bằng phẳng. Có con đường ngắn. Có con đường dài…Nhưng chắc chắn trong muôn vàn con đường đó sẽ có một con đường thuận tiện hơn cả, sẽ dẫn tới đích nhanh nhất.
Đích đến của mỗi Kitô hữu chúng ta là Thiên Đàng. Để tới Thiên Đàng cũng có nhiều con đường đi, nhưng con đường thuận tiện hơn cả và dẫn tới Thiên Đàng nhanh nhất đó là con đường Giêsu.
Thật vậy, Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết, sau khi yên ủi các môn đệ: “Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”(Ga 14,1), Đức Giêsu cho các ông biết: Trên Thiên Đàng “có nhiều chỗ ở” và Ngài muốn cho các ông tới đó, vì Ngài “đi trước để dọn chỗ,” rồi Ngài “sẽ trở lại đón các ông…vì Thầy đi đâu các ông đã biết đường rồi.” (x. Ga 14, 2-4).
Vậy, đường của Đức Giêsu đi là con đường nào? Chính những người thân cận của Đức Giêsu vẫn còn vu vơ, chưa biết. Tôma là hiện thân của con người thực dụng, ông muốn biết một cách chính xác những gì ông chưa hiểu. Chính vì thế, ông mới hỏi Đức Giêsu rằng: “Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi?” (Ga 14,5). Cám ơn Thánh Tôma, vì nhờ ông mà chúng ta có được một câu trả lời hết sức quan trọng của Đức Giêsu: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ các con biết và đã xem thấy Người” (Ga 14, 6). Như vậy, chính Đức Giêsu là đường đi, muốn tới Chúa Cha, muốn tới Thiên Đàng, thì cần phải đi trên con đường Giêsu. Nhưng con đường Giêsu là con đường nào? Đó là con đường Ngài đã đi trong suốt 30 năm đời sống ẩn dật: khiêm nhường, hy sinh phục vụ, vâng lời Đức Mẹ và Thánh Giuse, càng thêm tuổi càng thêm khôn ngoan và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Ngài…Đó là con đường Ngài đã đi trong suốt 3 năm đời sống công khai: rao giảng Tin mừng, chữa lành bệnh hoạn tật nguyền, tha thứ tội lỗi, tuyển chọn và huấn luyện các Tông đồ, thiết lập Giáo hôi, thiết lập các Bí tích, chấp nhận bước vào cuộc khổ nạn và chết trên thập giá để cứu độ thế gian.
Muốn đi trên con đường của Giêsu, chúng ta phải theo vết chân Ngài. Muốn đi trên con đường của Giêsu, chúng ta phải thực hiện giáo huấn của Ngài. Giáo huấn của Đức Giêsu dạy chúng ta được ghi lại trong các cuốn Tin mừng. Giáo huấn của Đức Giêsu dạy chúng ta được cô đọng trong 10 điều răn, tóm lại trong hai điều này là mến Chúa và yêu người.
Đi theo con đường Đức Giêsu đã đi, có thể là bước theo con đường của Đức Maria, nghĩa là biết sống phó thác, khiêm nhường, phục vụ. Đi theo con đường Đức Giêsu đã đi, có thể là bước theo con đường của các Thánh. Nhưng mỗi thánh cũng có một con đường để đi: Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã đi con đường thơ ấu thiêng liêng; Thánh Đamiêng đã đi con đường phục vụ người cùi; Thánh Phanxicô Xaviê đã đi con đường truyền giáo; Thánh Têrêxa Caculta đã đi theo con đường phục vụ người nghèo; Thánh Maria Goretti đã đi con đường tha thứ cho kẻ thù; các thánh Tử đạo đã đi con đường đau khổ…Nhưng tất cả các con đường đó đều được Đức Giêsu vạch ra. Chính vì thế, hãy đến với Đức Giêsu, chúng ta sẽ chọn một con đường thích hợp cho mình để tới tới Chúa Cha, để về Thiên Đàng.
Bài đọc I, trích sách Công vụ Tông đồ cho chúng ta biết một số sinh hoạt của Giáo hội thời sơ khai (x. Cv 6,1-7). Khi số tín hữu ngày càng đông, các tông đồ không thể đáp ứng hết mọi công việc phục vụ nên đã mời gọi một số người cộng tác, đây là sự xuất hiện đầu tiên của chức phó tế trong Giáo hội. Chắc chắn ngoài 7 vị phó tế ra còn có nhiều người giúp đỡ các ông trong những lãnh vực khác. Sự phân chia các công việc này là mô hình đẹp cho các cộng đoàn giáo xứ hôm nay. Thật vậy, trong các giáo xứ, cha xứ là người chủ chăn được Giáo hội giao phó để coi sóc đoàn chiên. Nhưng một mình cha xứ không thể đảm đương hết tất cả các công việc. Vì thế, để cha xứ chu toàn bổn phận của mình cần có nhiều người cộng tác như: Cha phó, thầy Phó tế, chủng sinh, các Sr…Đặc biệt, trong giáo xứ luôn có Hội đồng mục vụ Giáo xứ, là cánh tay nối dài của cha xứ. Ngoài ra, trong giáo xứ còn có các ban ngành đoàn thể như: Ban Phụng Vụ, Ban Giáo lý, Ban Gia Trưởng, Ban Hiền Mẫu, Ban Giới Trẻ, Ban Phụ Lão và các hội đoàn khác. Tất cả các ban ngành được thành lập nhằm giúp đỡ Cha xứ hoàn thành trách nhiệm của mình. Nếu mỗi người trong cương vị của mình biết chu toàn bổn phận, trách nhiệm, thiết nghĩ đó cũng là con đường nên thánh. Con đường đến được với Chúa Cha, con đường dẫn tới Thiên Đàng.
Một con đường khác nữa để đến với Chúa Cha, đến với Thiên đàng, đó là con đường mà Thánh Phêrô đã vạch ra trong bài đọc II (x. 1 Pr 2, 4-9). Thật vậy, Thánh Phêrô cho chúng ta biết phẩm giá cao quý của người Kitô hữu, đó là “dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa.” Nhưng để gìn giữ phẩm giá cao quý đó, Ngài nhắc nhở chúng ta phải chu toàn bổn phận của mình như những viên đá sống động được tham dự vào viên đá tảng là chính Đức Giêsu, để xây dựng tòa nhà thiêng liêng, chức vụ tư tế thánh thiện, để hiến dâng của lễ thiêng liêng đáng Thiên Chúa chấp nhận nhờ Ðức Giêsu Kitô. Ngoài ra, mỗi Kitô hữu cũng phải biết “rao giảng quyền năng của Ðấng đã gọi anh em ra khỏi tối tăm mà vào ánh sáng kỳ diệu của Người.”
Tóm lại, Đức Giêsu là con đường để mỗi người chúng ta đi và ai đi theo con đường của Ngài vạch ra chắc chắn sẽ tới được Chúa Cha, tới được cùng đích của mình là Nước Thiên Đàng. Nguyện xin Đức Giêsu là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống giúp mỗi người chúng ta biết đi theo con đường của Ngài vạch ra, hầu tất cả mỗi người chúng ta được nên thánh. Amen.
Thưa anh chị em,
Chúa nhật thứ V Phục Sinh hôm nay Chúa Giêsu trả lời cho Tông đồ Tôma, khi ngài hỏi làm sao biết đường mà đi theo Chúa: “Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6). Như vậy chính Chúa Giêsu là con đường dẫn chúng ta đến với Thiên Chúa, là ơn cứu độ duy nhất mà Thiên Chúa ban tặng cho trần gian, là con đường đưa chúng ta đến hạnh phúc viên mãn; bởi vì ở đâu có Thiên Chúa, ở đấy chính là thiên đàng.
Vậy làm sao chúng ta có thể đi trên con đường là Chúa Giêsu hay làm sao chúng ta có Chúa đi cùng trong cuộc hành trình đời người của mình?
Như chúng ta đã biết mọi con đường đều dẫn đến một nơi nào đó, dù đó là đường mòn, đường đất, đường nhựa hay đường sông, đường biển. Không có đường thì không thể đi đến nơi mình muốn được. Và để thực hiện chuyến đi, chúng ta sử dụng nhiều phương tiện khác nhau: đi bộ, đi xe máy, đi máy bay, đi bằng ghe, tàu..v.v..
Chúa Giêsu hôm nay chỉ cho chúng ta biết Ngài chính là con đường dẫn ta tới Chúa Cha, vì Người là sự thật, là hình ảnh Chúa Cha trong thế gian. Chính vì vậy, Người cũng là sự sống, nguồn thông ban ơn Thần Khí, là chính sự sống của Thiên Chúa cho những ai lớn lên trong Người là các kẻ tin. Cho nên Chúa Kitô là con đường duy nhất dẫn chúng ta đến với Chúa Cha mà không sai lầm. Có Chúa Kitô là có Thiên Chúa, mà Thiên Chúa ở đâu thì thiên đàng, hạnh phúc thật cũng ở đấy.
Xác định được như thế, chúng ta tự vấn xem mình đang đi trên con đường nào: con đường của Chúa hay con đường riêng của chúng ta, vắng bóng Thiên Chúa.
Có con đường đam mê những thú vui trần thế, lo tìm thú vui xác thịt, sống chỉ để thỏa mãn những khát vọng nhục dục, những nhu cầu ích kỷ của chính mình, không bận tâm đến tha nhân và những lý tưởng cao đẹp.
Có con đường chỉ mong kiếm tìm những lợi lộc trần thế. Cuộc sống chạy theo những gì là có lợi cho mình. Lợi thì làm, không lợi thì thôi. Bế tắc. Bởi vì con con người còn có niềm vui lớn hơn, khi sống cho những giá trị tâm linh.
Có con đường chỉ biết giành giật chổ đứng trong xã hội. Mục đích chỉ là sống sao cho hơn người, được người đời trọng vọng, ca tụng..hay cho rằng con người có khả năng giải quyết mọi sự, mà quên rằng tất cả đều là ơn ban của Thiên Chúa. Sức người có hạn. Cuộc sống mỏng dòn. Con người không thể tự mãn về chính mình được.
Con đường có Chúa là con đường chăm chăm hướng về Chúa là mục đích đời mình. Sống vâng phục tin tưởng như Abrahma, như Mẹ Maria. Cùng đồng hành với Chúa như hai môn đệ Emmau. Sống như “thấy Đấng vô hình” đang hiện diện bên mình.
Để con đường cuộc đời chúng ta luôn luôn có Chúa, cần liên lỉ cầu nguyện xin Chúa thêm lòng tin cho chúng ta. Cần năng chạy đến các Bí tích để hưởng nhờ ơn trợ lực nâng đỡ của Chúa, nhất là Bí tích Thánh Thể, để có Chúa trong tâm hồn.
Lạy Chúa, cuộc đời có Chúa cùng đi, con an tâm vui bước!
14.Lưu giữ Kỷ niệm sống động về Đức Giêsu
(Suy niệm của Daniel J. Harrington. SJ. – Văn Hào SDB, chuyển ngữ)
“Ai thấy Thầy là thấy Cha” (Ga 14,9).
Vào phần 2 mùa Phục sinh, những câu hỏi chính được đặt ra cho mọi người: “Làm sao lưu giữ được những kỷ niệm sống động về Đức Giêsu? – Làm sao để những công việc Đức Giêsu đã thực hiện và khơi mào trước đây, được tiếp nối sau khi Ngài chết và trở về với Chúa Cha?”. Để trả lời những câu hỏi này, chúng ta hãy trở về với những chỉ dẫn nơi bài huấn từ của Đức Giêsu trong bữa tiệc ly mà Thánh Gioan đã ghi lại (Ga 14,17). Bối cảnh của bài diễn từ này nằm trong bữa tối cuối cùng với các môn đệ, trước khi Chúa Giêsu thọ nạn. Đức Giêsu đã nhắn gửi những học trò thân thiết của mình, cách thức lưu giữ những kỷ niệm về Ngài và thực hiện sứ mạng Ngài trao phó. Những chỉ huấn này vẫn thức thời và luôn mang tính thời sự cho Giáo hội trong mọi thời đại, đặc biệt cho chúng ta ngày hôm nay.
Khởi đầu bài diễn từ, Đức Giêsu và các môn đệ đã trò chuyện với nhau. Trong mẩu đối thoại đó, Ngài đưa ra một khẳng quyết. Một môn đệ đã bình phẩm, hiểu sai điều Chúa giáo huấn.Vì thế, Chúa Giêsu đã nói những lời dạy bảo rõ nét hơn và tích cựu hơn về chính Ngài.
Trong bài Tin Mừng hôm nay trích trong Gioan chương 14, Đức Giêsu thoạt đầu nói về việc đi dọn chỗ cho các môn đệ, và chỉ cho các ông đâu là lối đường đưa họ đến đó. Tôma cắt ngang và hỏi Chúa, “Chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao biết được đường đi”. Đức Giêsu trả lời, chỗ đó chính là tình trạng “chúng ta được sống với Chúa Cha”, và “Ngài chính là con đường đi, là sự thật và là sự sống”.
Rồi đến lượt Philip, Ông ta nói với Chúa là hãy cho họ thấy Chúa Cha, và điều đó cũng đủ rồi. Điều này không giản đơn, có gì đó xem ra có vẻ ngô nghê và hơi khó chịu. Tuy nhiên, yêu cầu của Philip đã khiến đức Giêsu truyền đạt cho các học trò của mình nhãn quan sâu xa nhất và thâm thúy nhất được diễn đạt trong suốt Tin mừng của Thánh Gioan. “Ai thấy Thầy là thấy Cha”. Sứ điệp mà Gioan nhắm tới, là trình bày Đức Giêsu vừa như là người khải thị về Chúa Cha, vừa là hiện thân của chính Chúa Cha. Nếu ta muốn biết Thiên Chúa là ai, Thiên Chúa nghĩ gì, và Thiên Chúa muốn gì nơi ta, chúng ta phải đến với đức Giêsu, Ngôi Lời của Chúa Cha.
Đức Giêsu chính là “Lời” của Thiên Chúa được gởi trao cho con người, nên những gì chúng ta biết và nhớ về Ngài, sẽ trở nên rất quý báu. Bởi lẽ khi chúng ta biết Đức Giêsu là chúng ta biết Chúa Cha. Đối với chúng ta là những kẻ tin, cũng như đối với toàn thế Hội Thánh, việc cần thiết phải làm là lưu giữ những kỷ niệm về Chúa Giêsu cho thật sống động. Chúng ta làm được điều đó, bằng việc đọc và gẫm suy Lời Chúa, bằng việc cùng nhau cử hành Thánh Thể để tưởng nhớ đến đức Giêsu, bằng việc thực hành những truyền thống đức tin của Hội Thánh, và cùng nhau sống theo những chỉ dạy khôn ngoan của chính Ngài. Những kỷ niệm về đức Giêsu sẽ đưa dẫn chúng ta hướng về giá trị cao quý của cuộc sống làm người, sẽ giúp chúng ta loại trừ những hành vi sai trái, sẽ làm cho chúng ta ý thức tầm quan trọng của một tình yêu vị kỷ, biết yêu thương cả những kẻ thù, sẽ công bố cho mọi người biết rằng chết không phải là hết, và sẽ giúp chúng ta xác tín rằng trong Đức Giêsu, tình yêu và sự sống sẽ chiến thắng hận thù và cái chết.
Giữ mãi kỷ niệm về đức Giêsu cho thật sống động, là một thách đố lớn nhất cho chúng ta trong mùa Phục sinh. Về vấn đề này, Giáo hội với những định chế của mình đóng một vai trò chủ đạo và quan trọng. Bài đọc ngày hôm nay trong sách Công vụ tông đồ chương 6, cho chúng ta thấy được các Kitô hữu buổi sơ khai đã áp dụng những định chế cụ thể. Trường hợp các bà góa trong xã hội theo văn hóa Hy Lạp ngày xưa thời giáo hội sơ khai, là một ví dụ. Để giải quyết, nhóm 12 tông đồ đã chỉ định 7 người Hy Lạp (có lẽ là phó tế?) để chăm sóc cho họ và cho những người khác. Sự kiện này cho thấy Giáo hội ban đầu đã thiết định những quy chế để áp dụng, và Giáo hội vẫn giữ mãi những kỷ niệm về Chúa Giêsu cách sống động. Kết quả là Lời của Chúa vẫn tiếp tục được tỏa rộng.
Trong thân thể mầu nhiệm đức Kitô, chúng ta được chuyển giao để thủ đắc một căn tính mới và một phẩm giá mới. Các Kitô hữu gốc dân ngoại, được nói tới trong thơ thứ nhất của Thánh Phêrô, vẫn bị coi như là nhửng người bị gạt ra bên ngoài, trên phương diện chính trị và xã hội. Nhưng Thánh Phêrô đã mặc cho họ một tước hiệu ấn tượng nhất như tước hiệu dành cho dân Israel thời cựu ước. Qua phép rửa nhân danh Đức Giêsu, họ trở thành “ Một dân được tuyển chọn, thuộc hàng tư tế vương giả, chủng tộc thánh thiện, là dân riêng của Chúa”. Công việc của họ bây giờ là làm chứng tá về đức Giêsu, như một viên đá sống động, bị con người loại bỏ nhưng được tuyển chọn và trở nên quý giá trong con mắt của Thiên Chúa. Những con người đã một thời lưu lạc chẳng còn dân tộc, nay đã là dân của Thiên Chúa. Họ kết liên với nhau để cho mọi người biết cách thức Thiên Chúa đã kêu gọi họ thoát khỏi vùng tối tăm đến nơi đầy ánh sánh huy hoàng như thế nào.
Giữ mãi những kỷ niệm về Chúa Giêsu một cách sinh động là bổn phận của mọi Kitô hữu và của cả Hội Thánh. Nếu chúng ta thật sự tin rằng Đức Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống, chúng ta sẽ biết khám phá ra những cách thức mới mẻ và đầy sáng tạo để lưu giữ mãi những kỷ niệm sống động về Ngài. Nếu chúng ta thật sự tin rằng “Ai thấy và nghe Đức Giêsu, chính là nghe và xem thấy Chúa Cha”, thì việc lưu tồn những kỷ niệm sống động về Ngài sẽ là một công việc quan hệ nhất và ý nghĩa nhất mà mỗi người chúng ta có thể và phải đem ra thực hành.
15.Chúa Giêsu là đường dẫn đến sự sống thật
Nếu so với truớc đây khoảng vài thập niên thì ngày nay chúng ta đi đây đi đó dễ dàng hơn nhiều. Bởi lẽ, đường đi ngày càng được mở rộng và thông thoáng hơn. Phương tiện di chuyển cũng đa dạng và phong phú hơn. Thậm chí, người ta có thể lên cung trăng hoặc nhiều hành tinh khác. Dầu vậy, có một con đường mà con người đành phải bó tay. Ðó là con đường dẫn tới sự sống thật.
Tuần trước, chúng ta đã cùng suy niệm Chúa Giêsu chính là mục tử nhân lành. Mục tử nhân lành dẫn đoàn chiên của mình tìm lại sự sống. Hôm nay, Giáo hội tiếp tục cho chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu với ý nghĩa Người chính là đường dẫn tới sự sống thật.
Chúng ta biết, ý định ngàn đời của Thiên Chúa Cha là muốn cho tất cả con người được sống dồi dào. Thiên Chúa cũng biết là tự sức mình, con người chúng ta không thể nào tìm lại sự sống đã bị đánh mất. Do đó, chỉ có Ðấng từ Thiên Chúa mà đến mới có đủ sức đưa ta trở về tình trạng ấy. Ðấng ấy chính là Chúa Giêsu – Con Một Chí Ái của Ng ười.
Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ cách riêng là với Thánh Tôma cũng như cho mỗi người chúng ta: “Thầy là đ ường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Cha mà không qua Thầy ” (Ga 14, 6). Trên hết mọi sự Thiên Chúa luôn luôn muốn cho con ng ười chúng ta được sống và sống dồi dào. “Ta đến để cho chiên đ ược sống và sống dồi dào ” (Ga 10, 10); ” Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người ” (Mc 10, 45); “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn.” (Lc 5, 31-32). Nhờ ăn năn sám hối mà những người tội lỗi mới mong được sống.
Như thế, nếu muốn có sự sống thật thì không cách nào khác chúng ta cần phải đặt trọn niềm tin vào Chúa Giêsu. Vì chính Người là Ðấng dẫn đường và cũng chính là con đường dẫn đến Chúa Cha – Ðấng là nguồn sống thật của chúng ta. Chúa Giêsu đã mời gọi Nicôđêmô và chúng ta: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời “. (Ga 3, 14-15).
16.Suy niệm của GKGĐ Giáo phận Phú Cường
SUY NIỆM
Mỗi Thánh lễ là dịp nhắc nhớ chúng ta không bao giờ được quên chân lý này là “tuy ở giữa thế giới này nhưng chúng ta lại thuộc về một cộng đoàn dân thánh’, ‘dân được Thiên Chúa tuyển chọn’”. Đây là một vinh dự, nhưng đồng thời cũng là một trách nhiệm. Nếu như chúng ta cảm thấy mình chưa xứng đáng với vinh dự này và chưa chu toàn trách nhiệm này, thì xin hãy đến với Chúa Giêsu trong Thánh lễ, để Ngài sẵn sàng thanh luyện chúng ta và thêm sức giúp chúng ta.
Nhìn lại các tông đồ ngày xưa, các ông đã sống với Chúa Giêsu nhiêu năm, các ông nhìn thấy những việc làm, những điều lạ mà Chúa đã thực hiện. Rồi các tông đồ cũng được nghe những lời giảng dạy, những hướng dẫn riêng để chuẩn bị cho bước đường tương lai. Vậy mà trong giờ phút quyết định, Tôma lại nói với Chúa Giêsu: “Chúng con không biết Thầy đi đâu làm sao chúng con biết đường đi”. Còn Philipphê thì sao? Ông không nhận ra được người mà mình đã đi theo bao nhiêu năm nay là ai, ông chỉ thấy đây là một con người, bởi vì mặc dù sống với Chúa Giêsu, nhưng ông chỉ lắng nghe chính mình, ông chỉ theo những gì mình muốn, nên những gì của Chúa Giêsu nói và làm đã không có được ảnh hưởng đến ông.
Trước thái độ của các tông đồ, Chúa Giêsu đã nói: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống… Ai thấy Thầy là xem thấy Cha”. Điều đó khẳng định cho chúng ta rằng:
Chúa Giêsu chính là con đường, con đường dẫn chúng ta đến với Thiên Chúa thật. Đó là con đường thập giá. Và chúng ta phải đi trên con đường đó mới đến được với Thiên Chúa.
Chúa Giêsu là sự thật, sự thật của ơn cứu độ, sự thật của lòng thương xót. Chính vì Chúa là sự thật nên Chúa không ngần ngại nói lên sự dối trá của thế gian, để làm rõ nên chân lý tình yêu của mình.
Chúa Giêsu là sự sống. Trong suốt cuộc đời rao giảng, Chúa Giêsu đã đem sự sống đến cho mọi người, cách riêng là người nghèo, người cô đơn, người bệnh tật, người tội lỗi, người chết và nhất là chính Chúa đã sống lại để hủy diệt nộc độc của sự chết và minh chứng rằng: Chúa chính là sự sống đời đời.
Khi nói lên tất cả như thế, Chúa Giêsu muốn dạy các tông đồ rằng: những gì các ông đòi hỏi, nó đang ở trong hiện tại trước mắt các ông, nếu biết nhìn thấy để nhận ra mà sống thì thật là hạnh phúc.
Cứ tưởng như câu chuyện của các tông đồ ngày xưa đã đi vào quá khứ và chỉ còn là một hoài niệm nào đó. Vậy mà nhìn lại, nó vẫn còn là một câu chuyện rất thời sự của ngày hôm nay đối với mỗi người trong chúng ta.
Cũng như các tông đồ khi xưa, chúng ta cũng thường đòi hỏi những gì không có trong hiện tại, để những đòi hỏi đó làm chúng ta cảm thấy khổ sở. Biết bao nhiêu lần chúng ta bất mãn với hiện tại, không bằng lòng về chính mình, không bằng lòng về cách sống, không bằng lòng với những người chung quanh và thường hay hỏi tại sao mình không được như người khác, tại sao mình không được tốt hơn…
Nếu chúng ta biết trân trọng và chu toàn tốt trách nhiệm của mình; biết vượt qua những trở ngại, những vất vả, để chấp nhận cuộc sống và hoàn thành trách nhiệm của mình mà không phàn nàn trách móc, thì những lúc đó, chúng ta như đứa bé được nói đến trong bài viết đã biết tận dụng cái mình đang có để đem lợi ích đến cho người khác và cho mình. Khi đó chúng ta đang nhận ra Chúa là đường, là sự thật và là sự sống cho chính mình.
Rất ước mong chúng ta luôn cảm nhận được sự hiện diện thật sự của Chúa Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống trong lòng của mình mỗi khi tham dự Thánh lễ cũng như khi về cuộc sống hiện tại. Để nhờ đó, chúng ta sẽ có thêm sức mạnh và tâm hồn mãi luôn được bình an để hoàn tất cuộc hành trình về nhà Chúa. Amen.
Có người cho rằng tiền quí nhất, có người cho rằng tình yêu quí nhất hoặc quyền lực, danh vọng quí nhất… Nhưng theo tôi, cái quí nhất chính là sự sống, cho dù có tất cả mọi thứ nhưng khổ nỗi mình đang mắc chứng bệnh ung thư giai đọan cuối thì sao? Chắc chắn sự sống là quí nhất.
Người ta làm tất cả mọi việc chỉ để sống. Nhưng rất tiếc sự sống ở đời này lại quá ngắn ngủi. Vì thế, vua Tần Thủy Hoàng đi tìm thuốc trường sinh bất tử, vì ông ta muốn có sự sống đời đời. Hôm nay Chúa Giêsu bảo đảm cho chúng ta một cuộc sống vĩnh cửu và hạnh phúc, nếu chúng ta đi trên con đường của Chúa, vì Chúa là đường dẫn chúng ta tới sự sống đời đời. Đối với các nhà thám hiểm, các hoa tiêu, các phi công thì vấn đề phương hướng rất quan trọng! Đi đúng đường, đúng hướng là có hy vọng tới đích, đi lạc đường là nguy hiểm đến tính mạng của mình và của bao nhiêu người khác nữa.
Năm 1989 chiếc phi cơ hàng không dân dụng của Nam Triều Tiên lạc đường vào lãnh thổ Liên Xô. Hậu quả, máy bay bị bắn hạ làm mọi người chết hết. Có đi đúng đường, đúng hướng mới về đích an toàn. Đường dẫn đến sự sống đời đời chỉ có một. Ai tìm được là sống, ai lạc đường sẽ mất sự sống.
Con đường của Chúa đi không trải bằng những thảm hồng và nhung lụa, nhưng là con đường thập giá, đòi hỏi phải hy sinh và từ bỏ. Thường thì ai ai cũng muốn chọn cho mình con đường dễ đi của hưởng thụ, sung sướng cho bản thân, nhưng lại bất chấp mọi điều gian ác, tội lỗi. Người ta sợ đi trên con đường của Chúa vì phải hy sinh và từ bỏ.
Sự sống trường sinh mà Chúa ban cho ta phát xuất từ tình yêu và cái chết đau thương trên thập giá. Thập giá và sự phục sinh không tách rời nhau nhưng gắn liền với nhau. Có con đường thập giá thì mới có con đường phục sinh vinh quang. “Sống là chết mà chết là sống”. Sống là từng ngày chết đi con người cũ tội lỗi để trở thành con người mới trong Chúa. Cái chết từng phần mà mỗi ngày chúng ta gọi là hy sinh chính là điều kiện để đạt đến sự sống đời đời. Đó là sự sống của chính Chúa. Nếu Đức Kitô đã chết và đã sống lại thì chúng ta cũng sẽ chết và sống lại với Ngài.
Trong một xã hội hưởng thụ như ngày nay, cái lợi trước mắt vẫn hơn, vinh hoa phú quí, tiền của, tình dục, dang vọng đang cung ứng cho mình thì mình cứ hưởng thụ, tương lai hậu xét. Nhiều người còn nghĩ rằng; chắc gì có tương lai, có đời sau. Nếu không có đời sau thì những phấn đấu nỗ lực của con người thật vô nghĩa và đáng thương, rốt cuộc rồi cũng chết như con vật sao? Không, chính Chúa Giêsu sống lại là niềm tin và là con đường dẫn chúng ta đến sự sống đời đời. Khi chết rồi chúng ta được gì chứ? Tiền của chăng? danh vọng chăng? Tất cả mọi sự đều là phù vân. Chỉ có chúa là đường dẫn chúng ta đến sự sống đời đời thôi. “ngay trong đêm nay người ta lấy linh hồn ngươi thì tất cả những của cải ngươi tích trữ sẽ về tay ai”.
Là người kitô hữu, tôi tin rằng có Chúa Giêsu là đường dẫn tôi đến sự sống đời đời, vậy niềm tin này thúc bách tôi có thái dộ sống thích hợp hơn, hãy coi ngày hôm nay là ngày cuối đời. Cuộc sống đời này vẫn tốt đẹp và hạnh phúc nhưng nó không phải là điểm dừng của chúng ta. Đời sau có được hạnh phúc trên thiên đàng hay phải trầm luân trong hỏa ngục là tùy cách sống hiện tại của mọi người.
Vậy ngay từ bây giờ, chúng ta hãy bám lấy Chúa Giêsu là đường dẫn chúng ta đến sự sống đời đời. Để được như vậy chúng ta nên áp dụng phương châm sau đây: tạo vật nào đưa chúng ta đến với chúa thì chúng ta sử dụng, ngược lại tạo vật nào ngăn cản chúng ta đến với chúa thì ta không dùng nó”
Thế thì để có một cuộc sống trường sinh bất diệt chúng ta cần phải làm gì? Tôi thiết nghĩ chẳng có cách nào hơn là chúng ta phải sống theo đường lối của Chúa dạy: đó là mến Chúa và yêu người. Mến Chúa qua việc giữ những điều Chúa dạy, siêng năng tham dự thánh lễ, lãnh nhận các bí tích…Yêu người được thể hiện qua cuộc sống hằng ngày yêu thương người nghèo đó là điều kiện để chúng ta được sự sống đời đời.
Chúa không cần chúng ta làm những việc to tát, nhưng là những việc rất nhỏ, tầm thường với một tình yêu chân thành.
Lạy Đức Kitô phục sinh, Ngài là đường để con bước đi, là sự thật để con tín thác, là sự sống để con no thỏa, và là điểm hẹn để con gặp gỡ trong niềm vui muôn đời.
Tin vào sự phục sinh của Chúa cũng chính là tin vào sự phục sinh của con, để con không quản ngại trên đường thập giá, không nao núng dấn thân cho sự thật, không sợ chết đi cho sự sống. Amen.
18.Đức Giêsu: Dung nhan của Thiên Chúa Cha
(Suy niệm của Lm. Antôn Hà Văn Minh)
Sách xuât hành tường thuật việc Ông Môsê xin được thấy tôn nhan Thiên Chúa. Chúa liền nói với ông: “Ngươi không thể xem thấy tôn nhan Ta, vì con người không thể thấy Ta mà vẫn sống.” (Xh 33, 20), thế mà hôm nay qua Đức Giêsu Thiên Chúa đã tỏ tôn nhan Ngài cho chúng ta: Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.
Khi tạo dựng con người Thiên Chúa muốn con người làm bạn, nên Ngài đã tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài, và sách thế đã diễn tả mối tương quan bằng hữu giữa Thiên Chúa với con người qua việc Thiên Chúa đi dạo trong vườn cây Eden và nói chuyện với con người, thế nhưng mối tương giao này gẫy đổ khi con người phạm tội, và tự con người lánh trốn Thanh nhan “Nghe thấy tiếng ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa đi dạo trong vườn lúc gió thổi trong ngày, con người và vợ mình trốn vào giữa cây cối trong vườn, để khỏi giáp mặt ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa” (St 3, 8), không những con người chạy trốn Thanh nhan, nhưng chính tội cũng làm cho con người không còn có khả năng chiêm ngưỡng Tôn Nhan.
Kể từ khi bị đuổi ra khỏi mối tương giao bằng hữu, con người không thể nào nhìn thấy được Chúa. Nhưng vì là Cha nhân ái, Thiên Chúa luôn mong ước được gần gũi với con cái, lòng thương xót của Chúa luôn thôi thúc Ngài đến với con người, gặp gỡ con người, và tỏ cho con người biết Ngài luôn yêu thương họ. Vì yêu thương Ngài đã sai con chí ái đến với con người, và với sáng kiến bởi tình yêu nhiệm lạ, Con Thiên Chúa đã mạc lấy thân xác con người để biểu tỏ tôn nhan trong cách thế mà con người có thể nhìn thấy. Đức Thánh Cha Phanxicô trong tông thư “Thiên Chúa giàu lòng thương xót” một lần nữa minh định điều Chúa Giêsu đã mạc khải: “Dung mạo lòng thương xót của Chúa Cha chính là Đức Kitô Giêsu. Mầu nhiệm đức tin Kitô giáo như đã được tóm tắt đầy đủ trong mệnh đề này.” (số 1).
Một cuộc tỏ bày tôn nhan quá ư nhiệm mầu. Tại sao Thiên Chúa hành động như thế? Thưa bởi vì quá yêu thương con người nên Thiên Chúa đã quay lại chống đói chính mình”, nói như Đức Benđíctô XVI. Phải, Ngài đã quay lại chống đối với điều Ngài đã làm, đó là đuổi con người ra khỏi Tôn Nhan, nay Ngài lại cho con người nhìn thấy Dung nhan, Ngài đã luận phạt con người, nay Ngài lại ra tay cứu vớt con người, Ngài đã loại trừ con người nay lại giao hoà với con người bằng chính cái chết của Người Con dấu ái. Vâng, vì là Thiên Chúa tình yêu nên Ngài không báo giờ bỏ rơi công trình do tay Ngài tạo thành.
Tinh yêu Thiên Chúa là thế đấy, nhưng con người vẫn chứng nào tật ấy, vẫn tỏ ra cao ngạo, và chẳng nhận ra Tôn Nhan Chúa qua Người Con, Đức Giêsu Kitô. Ngay từ những thế kỷ đầu của lịch sử Giáo Hội có nhiều người đã không nhận ra Đức Kitô là dung mạo của Chúa Cha, và chỉ coi Người như là “người con nuôi” của Thiên Chúa. Họ không nhận ra bởi quá dựa vào lý luận của lý trí con người mà không để cho Thần Khí Chúa can thiệp. Rồi trôi theo dòng lịch sử của nhân loại, tinh thần thế tục ngày càng lan toả trong lối sống, càng ngày người ta càng bóp méo dung nhan của Đức Kitô, để rồi coi Người đơn giản như một lãnh tụ khởi nghĩa nhằm giải phóng dân tộc, chống lại Đế Quốc Roma, hoặc Đức Kitô chỉ như một Rabbi trình bày giáo huấn về đối nhân xử thế như Khổng Tử, Lão giáo, hoặc Phật Thích Ca. Và để loại trừ bản tính Thiên Chúa ra biến mất nơi con người Đức Kitô, người ta tô vẽ Người chỉ còn là một con người bình thường như bao người khác qua những bộ phim mang tính phỉ báng như “cơn cám dỗ cuối cùng của Giêsu”, hay “Mật mã da Vinci”.
Không nhận ra tôn nhân Thiên Chúa nơi con người Đức Kitô, cũng có nghĩa là không nhận ra tình thương và lòng thương xót của Ngài, nên con người mãi mê lầm trong bóng tối của sự chết. Thế giới luôn tràn ngập hận thù, con người càng ngày càng trở nên vô cảm nỗi khổ của người khác, giết chóc, hãm hiếp, buôn bán nô lệ dưới mọi hình thức, cướp bóc… và cuộc sống càng ngày càng trở nên bất an.
Để tìm lại niềm vui của cuộc sống và bình an trong xã hội không gì khác ngoài việc tìm đến vàdung mạo của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Quả thật, Nói như Đức Phanxicô: “Tình yêu Thiên Chúa giờ đây trở nên hữu hình và được tỏ bày trong cả cuộc sống của Chúa Giêsu. Bản thân Người không gì khác hơn là tình yêu, một tình yêu được ban tặng cách vô điều kiện. Các mối liên hệ giữa Người và những ai tìm đến với Người, là một tương quan đặc thù duy nhất và không thể tái diễn. Những dấu lạ Người thực hiện, nhất là cho các tội nhân, cho những người nghèo khổ, những người bị gạt ra bên lề xã hội, cho các bệnh nhân và những người đau khổ, tất cả đều mang dấu ấn của lòng thương xót. Tất cả mọi sự nơi Người đều tỏ bày cho thấy lòng thương xót. Không có gì nơi Người lại thiếu vắng lòng thương xót’’ Dung mạo long thương xót số 8).
Lạy Chúa Giêsu, còn gì hạnh phúc hơn khi được chiêm ngưỡng dung nhan Chúa, bởi từ đó chúng con thấu hiểu Chúa yêu thương chúng con là dường nào. Xin cho chúng con cũng trở thành dung mạo của Chúa để qua đó người ta nhận ra tình thương Chúa, họ nhận được ơn cứu độ. Amen.
19.Suy niệm của Barbara E. Reid
(Barbara E. Reid, nữ tu Đa Minh, giáo sư môn Tân Ước tại Đại học Công giáo ở Chicago. Bà cũng là trưởng khoa và là phó viện trưởng tại trường đại học này. – Văn Hào SDB, chuyển ngữ)
“Tâm hồn anh em đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và cũng hãy tin vào Thầy” (Ga 14,1)
Có nhiều người được phú ban khả năng đặc biệt. Đó là, họ vẫn giữ được bộ dạng thanh thản, an bình, ngay cả trong những thời điểm khốn khó nhất. Họ không có vẻ căng thẳng hay cảm thấy phiền toái, dù bên trong họ vẫn phải đắng lòng gánh lấy những bầm dập và nghiệt ngã. Không phải chỉ vì họ là những con người lạc quan, biết nhìn ra những khía cạnh tích cực trong mọi trạng huống. Cũng không phải vì họ biết khôn khéo giải quyết sự việc khi nhìn vào những khổ đau hoặc bất công người khác phải gánh chịu sau đó được minh oan. Nhưng trên hết, niềm vui sẽ được hiện lộ ra bên ngoài rõ ràng khi họ biết nhìn thực tại bằng một cặp mắt cắm sâu trong niềm hy vọng, và hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa. Họ có thể biểu tỏ trạng huống tâm hồn họ theo cách thức sâu xa mà Đức Giêsu đã khuyến mời các môn đệ thực hành trong bài Tin Mừng hôm nay: “ Tâm hồn anh em đừng xao xuyến”. Bạn có bao giờ gặp những con người như vậy không? Hay có thể chính bạn là con người như thế?
Trong Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu không chỉ khuyên mời các học trò của mình hãy để tâm hồn của họ tĩnh lặng, đừng lo lắng, nhưng Ngài còn vạch dẫn cho họ cách thái để đạt được điều ấy. Bối cảnh câu chuyện xảy ra trong bữa tiệc ly, các môn đệ có nhiều lý do khiến họ lo âu, buồn sầu. Đức Giêsu nói với họ về viễn cảnh sẽ đi xa, xa thật xa, sẽ bị trao nộp, và sẽ bị phản bội bởi hai người bạn thân tín nhất. Các môn đệ nhốn nháo hỏi nhau, Ngài sẽ đi xa, nhưng đi đâu? Làm sao họ biết con đường Ngài đi để có thể cùng đi với Ngài. Tin mừng Marcô đề cập đến vấn đề “ Ai” sẽ là người phản bội (2,7; 4,41; 8,29). Nhưng trong Tin mừng Gioan, trọng tâm của khúc mắc là chuyện đó xảy ra “ ở đâu”. Người môn đệ được Đức Giêsu trao quyền hành lớn nhất tức Phêrô, muốn biết “ Thầy ở đâu” (Ga 1,38). Đức Giêsu biết Ngài từ đâu đến và sẽ đi về đâu, nhưng những kẻ thù của Ngài không biết (Ga 7,27;8,14;9,29). Trước tòa án, Philatô tra hỏi, muốn biết Chúa Giêsu từ đâu đến (19,9). Khi đến ngôi mộ trống, Maria Madalêna cũng bộc bạch sự lo lắng “ Chúng tôi không biết họ để Người ở đâu” (Jn 20,2;20,13).
Xuyên suốt Tin mừng của Thánh Gioan, ý niệm “ ở đâu” không mang ý nghĩa một nơi chốn không gian, nhưng là trạng huống con người kết hợp sâu xa với Đức Giêsu, trong đó họ được nghỉ ngơi trong Chúa và tin vào Ngài. Đức Giêsu cũng muốn những kẻ tiếp bước theo Ngài sống theo cách thức mà Ngài đã sống, là luôn kết hợp với Chúa Cha, như Ngài đã nói “ Cũng như Cha ở trong con và con ở trong Cha, để họ cũng vui hưởng được ở trong Cha, và ở trong chúng ta” (Ga 17,21). Có lần Đức Giêsu còn minh giải thêm “ Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở và Ngài còn cắt nghĩa rõ hơn “ Thầy đi để dọn chỗ cho anh em” (Ga 14,2). Nhiều Kitô hữu phác vẽ một viễn cảnh về một nơi ở trên trời, nơi Đức Kitô đã chuẩn bị sẵn môt “căn hộ năm sao” cho những ai trung thành bước theo Ngài. Nơi ở mà Chúa Giêsu nói đến không phải vậy, nhưng chính là tình trạng kết hợp sâu xa với Ngài. Đó vừa là một thực tại hiện sinh, vừa là một động thái sâu xa hướng về sự viên toàn vào thời cánh chung.
Đây không phải là điều chúng ta dễ dàng lãnh hội được, cũng không phải là một cuộc hành trình giản đơn. Tuy nhiên, theo một nghĩa khác, có một điều khá đơn giản: Đức Giêsu chính là con đường đi. Trong Tin mừng Gioan, Thánh Tôma luôn là đại biểu cho những người hay chất vấn và nghi ngờ, đã lên tiếng “ Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường đi?” (câu 5) Không biết đường đi, là một cách biểu lộ dễ nhất của một người muốn đứng ngoài cuộc. Philip đã đưa ra một chiến thuật khác để đối kháng “ Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, thế là đủ cho chúng con (câu 8)”. Ông ta bày tỏ ước muốn chỉ cần nhìn thấy Đấng mời gọi chúng ta sống kết hợp sâu tận với Ngài, thế thôi, giống như chỉ cần nhìn thấy căn phòng khách sạn rẻ tiền đã trang bị sẵn đồ đạc để ta đến trú ngụ, không cần điều gì khác. Dù chúng ta không biết cách thâm nhập vào cõi lòng đầy an bình của Thiên Chúa, nhưng chúng ta đã gặp được Đức Giêsu, thấy được vẻ thần linh, kín nhiệm của Thiên Chúa nơi Ngài. Tin Ngài và dấn bước theo Ngài, ngay cả khi trực diện cái chết, tâm hồn chúng ta sẽ trở nên tĩnh lặng và an bình, không còn xao xuyến, giống như một đứa bé thơ chẳng lo âu, đang ngủ yên trong vòng tay của mẹ nó (Tv 131,2)
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Người ta nói cuộc đời là một chuyến đi. Có chuyến đi dài. Có chuyến đi ngắn. Có chuyến đi đến vô tận. Chuyến đi nào cũng có thể gặp người ta yêu nhưng cũng có thể phải chia tay và bỏ họ lại phía sau. Chuyến đi nào cũng có niềm vui nhưng cũng có những chuyến đi mang lại nỗi buồn. Vui buồn lẫn lộn trong kiếp người cũng tùy thuộc vào chuyến đi mang theo mục đích gì? Mục đích chuyến đi sẽ quyết định về sự vui buồn trong hành trình của chúng ta.
Càng đi, ta lại càng thêm dẻo dai. Như một lực sĩ, càng chạy, ta càng mềm dẻo để có thể dấn thân vào một chuyến đi mới, vào những cuộc chiến đấu mới. Đi càng nhiều thì đời càng cho ta thêm kinh nghiệm. Thế nhưng, có khi càng đi, con người lại càng thêm buồn đau hơn! Vì thất bại nên thất vọng. Vì không như ý muốn nên chán nản…
Tựu trung trong cuộc đời chúng ta có ba chuyến đi:
1/ Những chuyến đi thể lý:
Đó là những chuyến đi theo nhu cầu tự nhiên của một người bình thường. Nhu cầu công việc. Nhu cầu về thăm quê hương. Nhu cầu thăm nom cha mẹ và anh chị em trong gia đình… Đây là những chuyến đi của bổn phận nhưng đòi hỏi chúng ta vượt lên sự ngại ngùng, lười biếng để dấn thân về phía trước.
2/ Những chuyến đi nhân ái
Có những chuyến đi không phải của bổn phận mà là của tình người chia sẻ, hiệp thông với tha nhân. Có chuyến đi đến với người nghèo để cho họ bữa ăn, hay đến với người bất hạnh để ủi an nâng đỡ họ. Mỗi năm giáo xứ chúng tôi vẫn có chuyến đi thăm người nghèo ở những vùng xa xôi hẻo lánh như Cao Nguyên hay Miền Trung khô cằn. Nhìn nét mặt hân hoan của họ khi nhận quà mà lòng mình cũng hân hoan. Lúc đó mới thấy chuyến đi mình thật ý nghĩa.
3/ Những chuyến đi tâm linh
Sự sống con người không dừng lại ở những chuyến đi thể lý hay nhân ái mà còn có chuyến đi về với cội nguồn là Thiên Chúa, Đấng tạo thành con người. Chuyến đi này xuyên suốt trong những chuyến đi thể lý hay nhân ái. Chính chuyến đi này làm cho những gánh nặng, những khó khăn trở nên nhẹ nhàng hơn. Ai đã từng đau khổ hay mang gánh nặng nề nếu biết hướng lòng về chuyến đi cùng đích sẽ cảm thấy nhẹ vơi, bình an. Vì sau đêm dài là ánh bình minh. Sau thập giá là vinh quang.
Chúa Giê-su đã từng thực hiện chuyến đi ấy trong suốt cuộc đời Ngài luôn hướng về Chúa Cha, luôn sống trong chờ đợi “Giờ” mà Chúa Cha đã định cho Ngài. Ngài đã sống trọn vẹn một hành trình vâng phục thánh ý Chúa Cha. Cho dầu đó là thập giá đau thương, Ngài vẫn đón nhận trong niềm tín thác nơi Cha.
Sau cuộc hành trình đầy thương khó, Ngài đã về Trời để lãnh triều thiên vinh quang. Ngài đã bước qua thập giá để tiến tới vinh quang Phục sinh.
Hôm nay Ngài bảo: “Ngài về cùng Chúa Cha”. “Ngài đi trước để dọn chỗ cho chúng ta. Ngài mong rằng Ngài ở đâu thì chúng ta cũng ở đó với Ngài. Nhưng để có thể ở bên Ngài trong Nước Cha Ngài, chúng ta cũng phải đi trên con đường Ngài đã đi. Con đường của thập giá tiến tới vinh quang. Thập giá trong bổn phận. Thập giá trong sự chia sẻ trách nhiệm với tha nhân. Thập giá trong những hy sinh phục vụ đồng loại. Nhất là thập giá trong hy sinh từ bỏ những quyến luyến tội lỗi, những đam mê lầm lạc để sống theo thánh ý Chúa.
Là người ky tô hữu, chúng ta được mời gọi bước theo con đường Chúa Giê-su đã đi. Đó là con đường đi tìm thánh ý Chúa và thực thi đến hơi thở cuối cùng. Đó không phải là con đường trải thảm rộng thênh thang mà là con đường hẹp, đầy chông gai giăng kín hành trình. Đó là con đường từ bỏ, đường thập giá, đường hiến tế đẫm máu trên đỉnh đồi Calve. Đó là con đường của tình yêu, tận hiến và hy sinh như Thầy Chí Thánh Giêsu. Và như thế, đó chính là con đường duy nhất để chúng ta tiến vào nhà Cha, nơi đó, Chúa Giê-su đã đi trước để dọn chỗ cho chúng ta.
Cuộc đời là một chuyến đi trở về nguồn. Trở về với Thiên Chúa là Cha. Trở về thiên đàng là nơi dành sẵn cho con người. Xin cho chúng ta biết đi theo Con Đường Chúa Giêsu đã đi để tiến về nhà Cha. Xin đừng vì những đam mê bất chính, những thói hư tật xấu, những lười biếng mà lạc mất hướng đi về trời. Xin Chúa Giêsu luôn đồng hành và nâng đỡ chúng ta trên hành trình tiến về nhà Cha. Amen.
21.Thầy là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Minh)
I. Dẫn vào
Bài Tin Mừng Ga 14,1-12 hôm nay là bài thứ nhất trong ba bài giảng sau Tiệc Ly được thánh Gioan trình bày kế tiếp nhau. Bắt đầu bằng việc Đức Giêsu ra đi để dọn chỗ cho các môn đệ, rồi Người sẽ trở lại đem các môn đệ đến với Người, để Người ở đâu, các môn đệ cũng ở đó (cc. 1-3) và điểm đến là mặc khải về sự duy nhất Cha-Con (cc. 7-11). Con đường mà cộng đoàn các môn đệ phải đi theo, là chính Đức Giêsu vì Người là con đường, là sự thật và là sự sống (cc 4-6). Các môn đệ đi trên con đường đó với điều kiện duy nhất là lòng tin, một thực tại có sức mạnh lớn lao (c. 12)
II. Đức Giêsu, con đường đến cùng Chúa Cha
Trong bữa ăn cuối cùng với các môn đệ, Đức Giêsu đã nói lời từ biệt để về cùng Chúa Cha. Đã khiến cho các môn đệ hoang mang, lo sợ, xao xuyến. Trong suốt ba năm gắn bó với Thầy và chia sẻ ngọt bùi trong cuộc sống, Thầy là chỗ dựa, là cuộc sống, là con đường tương lai. Tất cả cuộc sống, hướng đi tương lai nay bơ vơ không biết đi về đâu… Chúa Giêsu hiểu rõ tâm trạng bồn chồn, lo lắng, ưu phiền của các môn đệ. Người nói với họ: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”. Như thế, Người kêu gọi các môn đệ xây dựng cuộc sống trên nền tảng vững chắc không lay chuyển trong Thiên Chúa và trong chính Người.
Sở dĩ, Người kêu gọi hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Người, đó là bởi vì Người và Chúa Cha là một (10,30-38; 14,11-20; 17,21-23). Như Người đã quả quyết: “Ai tin vào tôi thì không phải tin vào tôi, nhưng tin vào Đấng đã sai tôi” (Ga 12,44). Bây giờ Người đi về cùng Đấng ấy, nhằm đưa các môn đệ đến chỗ nên một với Người. Đó là cuộc trở về nhà của Chúa Cha như Người nói: “Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến để đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”.
Sau khi trấn an các môn đệ, Đức Giêsu nói về con đường đưa các ông đến cùng Chúa Cha. Người nói với các môn đệ: “‘Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi’. Ông Tôma nói với Đức Giêsu: ‘Thưa Thầy chúng con không biết Thầy đi đâu làm sao chúng con biết đường đi?’ (cc. 4-5). Đức Giêsu trả lời: ‘Chính Thầy là đường là sự thật và là sự sống, không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy’” (c. 6).
Đức Giêsu chính là con đường, bởi vì Người là sự thật và là sự sống. Con đường này đưa đến Chúa Cha, và đây là con đường duy nhất bởi vì không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy (14,6). Đến với Đức Giêsu đồng nghĩa với tin vào Đức Giêsu. Như thế “Đến cùng Chúa Cha” là tin vào Chúa Cha. Và Đức Giêsu là con đường nghĩa là trung gian dẫn thiên hạ đến với Chúa Cha, làm cho thiên hạ tin vào Chúa Cha.
Đức Giêsu tự ví mình với con đường, vì con đường là một trong những tượng trưng của Thánh Kinh. Theo Cựu Ước, nghe lời Thiên Chúa và tin tưởng vào Người, dân Israel đã ra đi và phải trải qua một con đường dài và cực nhọc để tới đất hứa. Do đó, con đường là tượng trưng cho cuộc xuất hành (x. Đnl 1,30-39). Một khi đã vào đất hứa, dân Israel cũng phải ăn ở theo đường Chúa dạy bảo thì mới được phần thưởng muôn đời (Đnl 32,4; Tv 25,10). Mà Thiên Chúa đã mặc khải những đường hướng ấy trong luật Môsê. Do đó, con đường còn là tượng trưng cho luật Môsê.
Trong Tân Ước, Thiên Chúa mặc khải những đường hướng của Ngài qua trung gian Đức Giêsu, vị trung gian tuyệt hảo và sau hết. Do đó, con đường vẫn còn là tượng trưng, nhưng đối tượng của tượng trưng đã thay đổi, không còn phải là con đường trong sa mạc, cũng không phải là luật Môsê, mà là Đức Giêsu (Mc 8,30; Mt 16,24; Lc 8,23).
Đức Giêsu là con đường dẫn đưa “vượt qua” từ đau khổ đến vinh quang, từ sự chết đến sự sống. Tất cả được tiên báo trước bằng hình ảnh con đường nối liền giữa trời và đất như giấc mơ tổ phụ Giacóp, ông thấy chiếc thang từ đất chạm tới trời, trên đó có các sứ thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống (x.St 28,12), và chính Chúa Giêsu cũng khẳng định: “Các anh sẽ thấy trời rộng mở và các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người” (Ga 1,51).
Đức Giêsu là con đường vì Người là chân lý. Theo ngôn ngữ của Cựu Ước và của Do Thái giáo thì chân lý (hay sự thật) có nghĩa là tiếng nói của thánh ý Chúa liên quan đến loài người và đời sống chân lý của loài người. Chân lý ấy, ngày xưa được truyền đạt cho loài người qua trung gian ông Môsê và các ngôn sứ. Nhưng ngày nay chân lý ấy được mặc khải qua trung gian Đức Giêsu (Ga 1,17). Một cách sâu rộng chúng ta có thể nói: Đức Giêsu và chân lý Ngài mặc khải là một, vì khác với Môsê và các ngôn sứ, Người là Chúa Con nhập thể, và vì thế, Ngài là lời tuyệt hảo của Chúa Cha, là chân lý được Chúa Cha phát biểu bằng cuộc sống và lời nói của Chúa Giêsu (Ga 17,8-12).
Thật vậy, Đức Giêsu là sự thật, sự thật về một Thiên Chúa tình yêu (x. 1Ga 4,8) hay chạnh lòng thương, và giàu lòng thương xót. Sự thật về một Thiên Chúa cứu độ và giải thoát con Người: “Các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông” (Ga 8,32). Cho nên thánh Augustinô đã cắt nghĩa căn nguyên sự bối rối của các tông đồ: “Các ông đã không biết kho tàng sự thật mà chính mình đang sở hữu”.
Đức Giêsu cũng là sự sống. Muốn có đời sống vĩnh cửu, loài người phải nghe và làm theo lời Thiên Chúa dạy bảo qua trung gian Con Một của Người là Đức Giêsu (12,50). Hơn nữa, Đức Giêsu không chỉ nói lời của Thiên Chúa như ông Môsê hay các ngôn sứ: Ngài chính là lời tuyệt hảo của Thiên Chúa. Vì thế, chẳng có gì lạ khi Người là sự sống.
Đức Giêsu là sự sống, sự sống vĩnh hằng, sự sống ấy ngay trong cung lòng Chúa Cha (x. Ga 6,5a). Như Ngài đã tuyên bố: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào Thầy thì dù đã chết, cũng sẽ được sống” (Ga 11,25). Sự sống này được ban cho những người tin vào Người: “Ai tin vào Người Con thì được sự sống đời đời”.
Đích điểm của con đường là Chúa Cha. Nhưng Chúa Cha hiện diện nơi Chúa Giêsu. Các môn đệ đã từng biết Đức Giêsu, và vì thế họ cùng biết Chúa Cha nơi Người. Vì thế, Đức Giêsu nói: “Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ anh em biết Người và đã thấy Người” (c.7). Lúc ấy, ông Philipphê mới xin được thấy Chúa Cha: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”. Thánh nhân đã nói lên khát vọng sâu xa của loài người mà chưa bao giờ đạt được. Nhưng Chúa Giêsu trả lời rằng xem thấy Người là xem thấy Chúa Cha. Tuy nhiên, con người chỉ xem thấy Chúa Cha, không phải bằng cặp mắt Người phàm, mà bằng cặp mắt đức tin qua việc Đức Giêsu nói và việc Ngài làm, vì Chúa Cha ở trong Người và thực hiện công trình của Người qua Chúa con (14,10b). Thánh tiến sĩ Tôma Aquinô giải thích: “Lời xin của Philipphê không gây ngạc nhiên, bởi vì, được nhìn thấy Chúa Cha là cùng đích của mọi ước muốn và hành động của chúng ta thì không còn gì, làm cho chúng ta mãn nguyện hơn, như lời Thánh Vịnh: “Nhìn thấy dung nhan Chúa, lòng con khấp khởi mừng vui”.
III. Người tín hữu sống Tin Mừng hôm nay như thế nào?
Bài Tin Mừng hôm nay, một lần nữa, nhắc nhở chúng ta hãy khẳng định, hãy xác tín hơn nữa vào Chúa Giêsu. Ngài chính là con đường, nghĩa là ai tin vào Ngài và đi theo dấu chân của Ngài mới thực sự tìm được hướng đi cho cuộc hành trình cuộc đời của mình.
Thực vậy, trên thế giới không thiếu gì những con đường nổi tiếng, những xa lộ, những con đường siêu tốc. Tất cả mọi con đường đều dẫn đến điểm hẹn. Nhưng trong cõi rộng mênh mông của cuộc đời, nhiều khi hành trình của chúng ta bị lạc hướng, nhiều khi chúng ta muốn bỏ cuộc, muốn dừng chân, vì những chống đối, hiểu lầm, ghen ghét, kết án cứ bám chặt lấy cuộc đời chúng ta. Tuy nhiên, có một con đường được mở ra bằng một tình thương và kết thúc bằng một hạnh phúc. Con đường ấy trải dài tình yêu để vươn lên sự sống; con đường ấy thắp sáng hy vọng để dẫn tới nhà Cha trên trời. Đó là “con đường mang tên Giêsu”.
Người tín hữu hôm nay, đi trên “đường Giêsu” là đi bằng cả niềm tin gắn bó với Chúa Giêsu, để được sống và sống dồi dào do ân ban của Ngài, và để nói như thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không còn là tôi, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”.
Người tín hữu hôm nay, đi trên “đường Giêsu” là đi bằng cả tình yêu và phục vụ. Bởi vì con đường của Giêsu chính là con đường phục vụ và yêu thương. Vì thế, khi chúng ta sống trong yêu thương, sống trong phục vụ là lúc chúng ta đang đi trên con đường của Chúa.
Xin Chúa là ánh sáng, là đường đi, là chân lý, hướng dẫn chúng ta lúc nào cũng đi trên con đường của Chúa, để sau cuộc hành trình đời này, chúng ta được về bên Chúa là cùng đích của chúng ta. Amen.
22.Niềm tin vào đời sau – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Chúa Giêsu đã hứa rằng: “Thầy đi trước để dọn chỗ cho các con, để Thầy ở đâu các con cũng ở đó với Thầy”. Đây là một lời hứa thật đẹp. Đẹp vì nó mở ra cho chúng ta một khung trời hy vọng vì ngày mai tốt đẹp hơn. Đẹp vì cuộc sống của chúng ta không đi vào ngõ cụt. Cuộc sống của chúng ta từ nay đã có một lối đi về. Cuộc sống của chúng ta không dừng lại ở cái chết là hết một kiếp người. Cuộc sống vẫn tiếp diễn. Cuộc sống được nối dài vĩnh viễn trong sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa là Cha, là cội nguồn sự sống.
Người ta kể rằng: Có một gia đình kia. Chồng là người ngoại đạo. Ông không tin vào Chúa. Ông còn luôn miệng nhạo báng, khinh miệt những hành vi thờ phượng kính mến Chúa. Ngược lại, bà vợ thì rất sùng đạo, luôn dạy con giữ đạo sốt sắng. Ngày nào bà cũng dắt con đi lễ cầu nguyện. Dù sống giữa hai niềm tin trái ngược nhau, nhưng đứa con trai duy nhất của họ vẫn hiếu thảo với cha mẹ. Cho tới một hôm, em lâm bệnh hiểm nghèo. Em biết rằng mình chẳng còn sống được bao lâu ở dương gian. Em đã mạnh dạn hỏi bố rằng: “Bố ơi, trong ít ngày nữa con sẽ không còn sống ở dương gian nữa! Con xin bố hãy dạy cho con biết, con phải tin theo ai? Theo bố hay theo mẹ? Tin theo bố thì chẳng có thiên đàng để tiếp tục sự sống, chẳng có Chúa hay có Mẹ để yêu thương và bảo vệ cho con được hạnh phúc đời đời? Còn tin theo mẹ, thì có Thiên Chúa là cha nhân lành sẽ ban thưởng hạnh phúc thiên đàng vĩnh cửu và có Mẹ Maria luôn bầu cử chở che.
Ông bố nghe mà tái tê lòng. Ông ôm con vào lòng và nói: “Con hãy tin theo mẹ”. Đứa bé lại nói tiếp: “Nhưng nếu bố không tin theo mẹ, thì làm sao con có thể chờ đợi bố ở trên thiên đàng được?” Trước lời nói đơn sơ và chân thành của em bé, ông bố đã không kiềm nổi những giọt nước mắt ứ tràn nơi khoé mắt, và để mặc cho nó tuôn tràn trên gò má già nua của ông. Kể từ ngày đó, ông đã đổi đời, ông chọn Chúa là lẽ sống và là cùng đích của đời mình.
Vâng câu nói: “Con hãy tin theo Mẹ” của người cha là câu nói hay nhất trong cuộc đời của ông. Câu này đã giúp cho con ông cảm thấy thanh thản khi bước vào đời sau. Câu này cũng giúp ông thay đổi đời sống mà từ trước tới nay ông đã cố tình không sống theo. Ông biết rằng phải có đời sau. Ông biết rằng là người thì hơn muôn loài muôn vật, vì con người có sự sống thần linh, con người có hồn thiêng bất tử. Thế nhưng, vì lười biếng và cố chấp ông đã không dám nhìn nhận sự thật từ trong sâu thẳm lòng mình là tin có Trời, có thần thánh, có hồn thiêng và cả đời sau. Ông lừa đối chính mình và lừa dối tha nhân. Hôm nay, ông đã phải nuốt những giọt nước mắt mặn đắng để nói lên sự thật của lòng mình trước mặt đứa con yêu dấu, sắp sửa từ giã ông tiến vào đời sau.
Thực vậy, là người ai cũng tin có đời sau. Là người ai cũng tin có quả phúc. Có thưởng có phạt đời sau. Từ trong sâu thẳm tâm hồn luôn có tiếng nói của Thượng Đế nhắc nhở con người phải sống ngay lành, sống thánh thiện như tình trạng ban đầu là “nhân chi sơ tính bản thiện”. Sống đúng theo lề luật tối thượng của Thượng Đế, con người mới được bình an và hạnh phúc. Người khôn ngoan phải biết sống thuận theo ý trời mới được trời chúc phúc cho cuộc sống an khang hạnh phúc. Đạo lý đó đã được cha ông ta gom lại thành đạo lý tam tài: “Thiên thời – Địa lợi – Nhân hòa”.
Chúa Giêsu trong tư cách là một con người. Ngài đã luôn tìm kiếm ý Cha trên trời để thực thi. Cuộc sống của Ngài luôn mang hai chiều kích: hướng về Thiên Chúa và hướng về tha nhân. Ngài phục vụ tha nhân để tôn vinh Thiên Chúa. Ngài phụng sự Thiên Chúa qua việc phục vụ nhân loại theo thánh ý Chúa Cha. Có thể nói, Ngài đã sống cả cuộc đời vì yêu thương nhân loại và tôn vinh Chúa Cha. Vì Chúa Cha mà Ngài đã nhập thể làm người. Vì Chúa Cha mà Ngài đã hy sinh chịu chết cho con người được sống dồi dào.
Là người kytô hữu, chúng ta được mời gọi bước theo con đường Chúa Giêsu đã đi. Đó là con đường đi tìm thánh ý Chúa và thực thi đến hơi thở cuối cùng. Đó không phải là con đường trải thảm rộng thênh thang mà là con đường hẹp, đầy chông gai giăng kín hành trình. Đó là con đường từ bỏ, đường thập giá, đường hiến tế đẫm máu trên đỉnh đồi Calve. Đó là con đường của tình yêu, tận hiến và hy sinh như thầy Chí Thánh Giêsu. Và như thế, đó chính là con đường duy nhất để chúng ta tiến vào nhà Cha, nơi đó, Chúa đã đi trước để dọn chỗ cho chúng ta.
Nguyện xin Chúa Giêsu Phục Sinh luôn đồng hành với chúng ta trong cuộc sống. Xin Người nâng đỡ những yếu đuối của chúng ta. Xin Người chỉ đường dẫn lối để chúng ta luôn tiến bước về nhà Cha trong an bình và thanh thoát với những bận rộn của cuộc sống bon chen hôm nay. Amen.
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Chúa Giêsu khuyên các Tông đồ: “Các con đừng xao xuyến”. Động từ xao xuyến nói đến một tình cảm rung động mạnh và kéo dài không dứt trong lòng. Như vậy, băn khoăn xao xuyến là một cái gì đụng đến trái tim, là phần sâu thẳm nhất trong thâm tâm của con người. Hôm nay, các môn đệ đã xao xuyến khi các ông được nghe biết về sự phản bội của Giuđa, về sự chối bỏ của Phêrô, về cái chết gần kề của Thầy minh. Những biến cố kinh hoàng này đã ảnh hưởng đến đời sống các ông, phá vỡ những gì các ông đã xây dựng, đã vun trồng và ước mơ vì phải xa cách Thầy, phải đương đầu với một thế gian thù nghịch, với những hiểm nguy về tính mình sẽ xảy đến… tất cả những điều ấy đã làm cho các ông phải xao xuyến.
Không phải chỉ các môn đệ mới lo lắng và xao xuyến, mà chính Chúa Giêsu cũng đã nhiều lần lâm vào một hoàn cảnh như thế. Ngài đã từng xao xuyến khi thấy Maria và những người Do Thái khóc nức nở bên nấm mồ Lagiarô. Ngài đã xao xuyến khi thấy giờ Ngài được tôn vinh qua đau khổ và cái chết đã đến, nên Ngài đã nói và cầu nguyện: “Giờ đây, tâm hồn Thầy xao xuyến, Thầy biết nói gì. Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến”. Rồi Ngài đã xao xuyến khi loan báo về việc phản bội của một người môn đệ là Giuđa và Phêrô chối Thầy…Như thế, Chúa Giêsu không phải là một con người sắt đá, hay đã tôi luyện cho mình một thái độ vô cảm trước những nỗi đau của bản thân và của người khác. Trái lại, Ngài cũng có một trái tim như chúng ta. Và trái tim ấy cũng đã thổn thức, xót thương, lo lắng và xao xuyến trước hoàn cảnh bi đát của con người. Vì thế, Ngài rất hiểu và cảm thông với con người chúng ta. Xao xuyến và băn khoăn là một tâm trạng bình thường, đó không phải là một tội, nếu nó không đưa chúng ta đến chỗ sợ hãi mà bỏ cuộc, không chu toàn thánh ý Chúa. Trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu cũng đã băn khoăn lo lắng, nhưng Ngài đã vượt thắng những băn khoăn lo lắng ấy, Ngài đã can đảm chấp nhận vác thập giá, không lùi bước trước khổ đau và hiểm nguy. Và Ngài đã toàn thắng phục sinh vinh hiển.
Chúng ta nhìn vào thế giới và trái đất hôm nay có những biến cố sự kiện xảy ra thật khủng khiếp kinh hoàng: Dịch bệnh Covid giết người hàng triệu triệu, các lớp băng ở Bắc Cực tan thêm bởi thời tiết cực đoan khiến trái đất này đang nóng dần lên, rồi nhiệt độ Trái đất thay đổi nóng lạnh, đột ngột bất thường. Cụ thể ở Việt Nam chúng ta chưa bao giờ thấy cảnh người niềm Tây đi mua từng thùng nước để uống, dự báo niềm trung năm nay nóng chưa bao giờ có trong vòng hơn 40 năm nay… Về phương diện con người, con người đã dùng vũ khí sinh học giết người hàng loạt để hủy diệt nhau, rồi phá thai tự do lan tràn, tệ nạn xã hội ngày càng diễn biến phức tạp…
Trái đất và con người đang như thế, lời Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng: “Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy ” (Ga 14,1). Tại sao Chúa Giêsu nói những lời ấy? Thưa là vì trước sự ra đi sắp đến của Người, đã làm cho các môn đệ cảm thấy bất an. Các ông lo cho chính mình, sợ bị bỏ rơi, phải sống cô đơn, sợ chết… và bằng một lời hứa Chúa Giêsu nâng đỡ các ông: “Thầy đi để dọn chỗ cho các con”(Ga 14, 2), và sau đó “Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó “(Ga 14,2-3). Qua thánh Tôma, các Tông đồ đáp lại lời trấn an của Chúa Giêsu: “Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi?”(Ga 14, 5). Câu trả lời của Chúa Giêsu làm ánh sáng rõ ràng cho bao thế hệ con người và cho chúng ta hôm nay: “Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”(Ga 14,6). “Chỗ” mà Chúa Giêsu ra đi để chuẩn bị, là ở nơi “nhà Cha”; ở đó, người môn đệ sẽ có thể được sống đời đời với Thầy mình, và tham dự vào niềm vui của Người. Tuy nhiên, để đạt đến chỗ này, thì chỉ có một đường đến mà thôi: đó là Chúa Kitô, là Ðấng mà người môn đệ phải từ từ đồng hóa chính mình với Đức Kitô tức là không phải người Kitô sống, nhưng Chúa Kitô sống trong chúng ta (x. Gal 2,20).
Thử hỏi làm sao chúng ta không xao xuyến trước thế giới, vũ trụ và cuộc sống của chúng ta quá nhiều hiểm nguy đang đe dọa. Chúa Giêsu hôm nay dạy chúng ta không xin cho mình tránh khỏi mọi xao xuyến nhưng dạy chúng ta vượt qua những xao xuyến ấy bằng niềm tin: Lòng các con đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Chính niềm tin sẽ đem lại cho chúng ta sự bình an. Thực vậy, hiểm nguy vẫn còn đó, khổ đau vẫn còn đó, nhưng chúng ta luôn an tâm vì biết rằng quyền năng và tình thương của Chúa còn lớn hơn mọi sóng gió như muốn nhận chìm con người và cuộc đời chúng ta. Vì vậy, chúng ta hãy siêng năng đọc kinh sáng tối, tham dự Thánh lễ và rước Mình thánh Ngài vào lòng để thờ phượng Ngài, cậy trông Ngài trong mọi hoàn cảnh vì chỉ trong Thiên Chúa chúng ta mới tìm được nguồn an ủi, niềm vui và sự bình an tột đỉnh của tâm hồn. Ước chi lời khuyên của Chúa Giêsu hôm nay thấm nhập vào trong tâm trí chúng ta, như là nguồn mạch của bình an, thanh thản và niềm an vui. Còn hạnh phúc nào hơn khi có Thiên Chúa là sức mạnh thiêng liêng giúp chúng ta không bị gục ngã dưới sức nặng của khổ nhọc, của tuyệt vọng và buồn phiền, lo âu xao xuyếng… Xin Mẹ Maria trong tháng hoa này giúp chúng ta chăm chú nhìn lên Thiên Chúa Cha toàn năng để Ngài phù trì nâng đỡ chúng ta. Xin Mẹ hãy nắm tay hướng dẫn và thôi thúc chúng con luôn vững tin vào quyền năng của Chúa như Mẹ. Amen.
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Chúa Giêsu hôm nay nói: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống”. Một câu nói thật uy hùng, dũng cảm, uy tín mạnh mẽ và chân lý đến nỗi trước Chúa Giêsu và sau Chúa Giêsu không ai dám tuyên bố câu này. Cụ thể, Đức Phật sinh trước Chúa Giêsu, (rằm tháng 4 vừa rồi là kỷ niệm Đức Phật sinh ra được 2561PL năm – Còn Chúa Giêsu mình được 2017), ấy thế mà Đức Phật tự xác nhận Ngài là Đấng đã đạt đến giác ngộ. Còn ông Socrate một triết gia lỗi lạc sinh 469 TCN, cũng trước Chúa Giêsu xa, ấy thế mà ông vẫn rất bình tỉnh vui cười bưng chén thuốc độc uống cạn, chấp nhận cái chết để bảo vệ chân lý, rất giống cái chết của Chúa Giêsu nhưng Socrate không bao giờ dám nói như Chúa Giêsu: “Ta là đường là sự thật và là sự sống và ai thấy Tôi là thấy Chúa”. Vâng, chỉ có mình Chúa Giêsu mới có thể nói: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống”. Như vậy, duy chỉ có Chúa Giêsu là con đường đến với Chúa Cha, con đường cứu độ duy nhất và ai đi con này này sẽ đến cùng đích trong vinh quang với Ngài. Chính vì vậy, Chúa Giêsu là Đấng duy nhất cho mình biết về Thiên Chúa đích thực là ai, tâm tư Ngài như thế nào. Vì vậy, Ngài là Người duy nhất cho mình sự thật về con người: nguồn gốc, cùng đích của đời người, vì con người là hình ảnh về Thiên Chúa. Cho nên, đối với người Kitô Giáo, Chúa Giêsu là đường là sự thật và là sự sống. Khi tuyên xưng và nhìn nhận như thế, chúng ta phải đặt bàn chân của mình lên con đường đó.
Trước hết, Chúa Giêus là đường sự thật và chân lý sống động, làm tiêu chuẩn hướng dẫn cho mọi cuộc đời ở chỗ nào? Thưa, đường chân lý ấy, không phải là một mớ những tín điều, những sự phải tin, nhưng là toàn thể cuộc sống của Chúa Giêsu, từ tư tưởng cho đến lời nói và việc làm. Tất cả đều hướng tới chân trời cứu độ. Sự thật là thế này: Chúa Cha đã dùng quyền năng Chúa Thánh Thần cho Ngôi Hai “nhập thể trong lòng Trinh nữ Ma- ri- a và đã làm người”. Chúa Giêsu sinh tại hang Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hê-rô đê, cha nuôi là Thánh Giuse thuộc con cháu dòng dõi Đa-vít, làm nghề thợ mộc, mẹ là Ma-ri-a lo việc nội trợ. Đến năm trạc 30 tuổi Chúa Giêsu rời khỏi gia đình, khởi sự đi rao giảng Tin mừng và thực hiện ơn cứu độ. Sau khi Đức Chúa Giêsu chịu phép rửa, được Thánh Thần dẫn vào trong sa mạc, ăn chay, cầu nguyện 40 đêm ngày, chịu ma quỷ cám dỗ. Sau đó, Đức Giêsu trở về miền Ga-li-lê và bắt đầu giảng dạy trong các hội đường của họ, dùng những ngụ ngôn giảng dạy và được mọi người tôn vinh. Người đã dùng quyền năng của mình đi rao giảng khắp nơi và chữa lành cho nhiều người bị quỷ ám, đau yếu, bị phong hủi, bại liệt được lành bệnh, kẻ điếc được nghe, kẻ mù được thấy, kẻ câm nói được, kẻ què được đi và kẻ chết sống lại. Chúa Giêsu thiết lập Hội Thánh để ban ơn cứu độ cho loài người bằng việc chọn và thiết lập Mười Hai người lại làm Tông Đồ, huấn luyện và ban cho các ông năng lực và quyền phép để trừ mọi thứ ma quỷ và chữa các bệnh tật. Chúa đã đặt Phêrô làm đầu, chính công Đoàn này là hạt nhân làm phát triển Hội Thánh Người sai các ông đi rao giảng nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân khắp mọi nơi. Chúa Giêsu đã làm nhiều phép lạ để chứng minh sứ mệnh của Người, Người phải chịu nhiều đau khổ và phải chết để cứu độ hết mọi người. Vì thế, trong bữu ăn tối Vượt Qua với các Tông đồ, Chúa Giêsu hoá bánh và rượu trở thành Mình và Máu Người cách nhiệm mầu để ở lại với họ và những người Chúa yêu trong mọi thời đại. Chúa còn rửa chân cho các môn đệ để dạy họ bài học yêu thương phục vụ. Lúc đêm khuya, Chúa vào vườn Cây Dầu cầu nguyện. Giuđa, một trong12 môn đệ đã phản bội vì tham tiền, ông dùng cái hôn tình nghĩa để chỉ điểm cho lính bắt Chúa. Chúa bị Philato kết án tử hình. Chúa bị trao cho các lý hình, chúng đánh đập, nhạo báng, ấn vòng gai lên đầu Người như mũ triều thiên,bắt Người vác thập giá lên Núi Sọ. Vào giờ trưa chúng đóng đinh Người vào thập giá cùng với 2 tên trộm cướp. Người đã tắt thở vì cực hình tàn bạo ấy lúc 3 giờ. Chập tối, ông Nicôđêmô đến xin Philato cho tháo xác Người, xác Người được mai táng trong mồ, còn linh hồn thì xuống ngục tổ tông để loan báo Tin Mừng cứu độ cho những người công chính đã chết trước khi Người đến. Theo kế hoạch Thiên Chúa đã định ngày thứ ba Người đã sống lại như Người đã báo trước. Sau khi sống lại, Chúa Giêsu còn hiện ra dạy dỗ, an ủi các môn đệ trong 40 ngày, sai các ông đi rao giảng Tin Mừng rồi Người lên trời ngự bên hữu Chúa Cha. Rồi Người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Vì vậy, sự sống lại của Chúa Giêsu là mở lối cho chúng ta bước vào sự sống mới đồng thời là khơi nguồn và bảo đảm sự sống lại sau này của chúng ta. Sự thật là thế!
Cho nên, Chúa Giêsu là đường sự sống dĩ nhiên bởi vì Ngài là nguồn phát sinh mọi sự sống tự nhiên cũng như siêu nhiên: Sự sống phần xác trong công trình tạo dựng, cũng như sự sống phần hồn trong công trình cứu chuộc. Ngài đã chết để mọi người được sống và Ngài đã sống lại để mãi mãi mở ra một con đường dẫn vào cõi sống vĩnh cửu. Sự sống vật chất một ngày nào đó sẽ tan biến, nhưng sự sống mà Ngài trao ban sẽ là một sự sống trường tồn bất diệt. Chính vì thế mà chúng ta thường kết thúc lời cầu nguyện bằng câu: “Người hằng sống và hiển trị cùng Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời”.
Với kinh tế thị trường và lòng tham sân si trong con người hôm nay như cơn lốc xoáy nó xô đẩy làm chúng ta lao mình đi tới mà chẳng biết đường biết hướng ở đâu. Chúa là con đường nhưng vật chất, tài, tiền danh vọng lạc thú làm chủ tốc độ, nó dẫn chúng ta đi nhiều khi ta tưởng đó là đúng mục đích nhưng thực ra chúng ta đi đến tội lỗi và chết chóc. Là Kitô hữu, tức những người thuộc về Chúa Giêsu Kitô, chúng ta luôn môi miệng tuyên xưng Chúa là con đường con con bước đi nhưng thực tế trong cuộc sống chúng mình đặt bàn chân của mình lên con đường đó, con đường Chúa Giêsu đi ngày xưa không? Cụ thế, chúng ta dám đặt bàn chân mình vào con đường của những Lời dạy Phúc Âm: Tám Mối Phúc Thật, 10 điều răn Đức Chúa Trời… Chúng ta thử đặt khung cảnh lúc Chúa Giêsu nói: Ta là đường…. Ai thấy Tôi là… lúc đó là bữa tiệc ly, Chúa Giêsu chuẩn bị bước vào đường thương khó, đến đồi Gôngôta. Vậy lúc đó Ngài nói Ngài là con đường, đường nào? Đường dẫn đến cái chết. Ngài là sự thật nào? Sự thật phũ phàng của một con người chịu đóng đinh. Ngài là sự sống nào? Cái chết trên thập giá. Cho nên, chính vì thế mà chúng ta không dám đặt bàn chân mình trên con đường của Phúc âm. Vì sao chúng ta không dám bước đi con đường Giêsu vì thiếu tình yêu, niềm tin, can đảm, nghị lực và không muốn bỏ mình. Vì thế, chỉ con đường Phúc âm, con đường Giêsu mới dẫn chúng ta tới địa chỉ Nhà Cha và ngược lại, muốn đến nhà Cha thì phải đi trên con đường Giêsu. Có nghĩa là muốn được bước vào quê hương Nước Trời, chúng ta phải thực thi và sống Lời Chúa dạy đó là: yêu thương, tha thứ, phục vụ, hy sinh, hiền hậu, nhân từ như Chúa Giêsu.
Vì vậy, giờ này mời anh chị em cùng đứng lên và hát bài Thánh ca này như một lời cầu nguyện của chúng ta với Chúa hôm nay rằng: “Xin chỉ cho con (Xin chỉ cho con) đường đi của Chúa (đường đi của Chúa). Xin dạy bảo con (Xin dạy bảo con) nước bước của Ngài (nước bước của Ngài). Xin hướng dẫn con trong chân lý, xin dạy bảo con những điều cao quý, vì Chúa là Đấng cứu độ con. Là Đấng ngày đêm con cậy trông.
1. Tất cả nẻo đường Chúa là tình yêu và chân lý, dành cho những ai giữ trọn minh ước. Điều răn Chúa ra nghiêm chỉnh thực thi.
2. Xin mở lượng từ bi từ ngàn xưa Ngài vẫn có, mà quên hết những lỗi lầm con mắc. Hồi niên thiếu vươn lên trong dại khờ.
3. Xin đừng để kẻ hại con ngày nào reo mừng chiến thắng, thẹn thay khốn thay cho bọn thất tín. Làm sao thoát tay Thiên Chúa toàn năng.
25.Thầy là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Trong cuộc sống con người, những băn khoăn về cội nguồn của con người, những thắc mắc về ý nghĩa cuộc sống, những thao thức truy tìm cứu cánh của đời người đã tiếp nối hằng bao thế kỷ mà chưa có được câu trả lời thoả đáng. Con người bơ vơ giữa ngã ba đường không biết phải đi về đâu.
Khi xuống trần, Chúa Giêsu đã cho chúng ta biết cội nguồn của Người là Chúa Cha, ý nghĩa cuộc sống của Người là thi hành thánh ý Chúa Cha, và cùng đích của Người là trở về với Chúa Cha. Muốn về với Chúa Cha, ta phải theo một con đường. Con đường ấy có tên là GIÊSU. Con đường ấy chắc chắn an toàn đi đến nơi về đến chốn vì Chúa Giêsu là người mở đường. Người chính là con đường dẫn chúng ta tới đích.
Mười năm về trước, một lần từ Bình Dương về Long Khánh. Trên đường đi tôi thấy một bảng chỉ dẫn Bình Dương – Biên Hòa 30 km. Tôi yên tâm cứ thế mà đi. Đi được khoảng một tiếng đồng hồ, tự nhiên tôi có cảm tưởng là sao hôm nay con đường này lạ quá và tôi đã dừng xe lại hỏi một người bên đường từ đây đến Biên Hòa còn bao xa?
Và tôi hốt hoảng với câu trả lời: còn 30 cây số nữa.
Bình Dương cách Biên Hòa 30 cây số. Đi cả một tiếng đồng hồ mà vẫn còn 30 cây số.
Tôi bắt đầu lo lắng, vì hai bên đường toàn cây cao su vắng lặng, không một bóng người.
Làm sao đây? Rủi hư xe hoặc hết xăng thì như thế nào đây?
Với cảm nghiệm này, tôi mới thấy tầm mức quan trọng của Lời Chúa hôm nay:
“Ta là con đường, là sự thật và là sự sống”.
Con đường chính là cái giúp chúng ta đến nơi mà chúng ta mong đợi. Con đường càng tốt, càng đưa chúng ta tới đích nhanh. Con đường càng sáng sủa, càng giúp chúng ta nhận định chính xác điểm đến của chúng ta. Dĩ nhiên, nếu con đường vòng vèo sẽ làm chúng ta mất nhiều thời giờ và lâu tới đích hơn.
Chúa Giêsu là con đường, con đường thật, con đường chân chính dẫn đến Chúa Cha.
Chúng ta biết Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa vừa là con người. Người là trung gian hòan hảo duy nhất giữa Chúa Cha với chúng ta.
Biết bao con đường mở ra trước mắt chúng ta, nhưng chỉ có Người mới là con đường đưa chúng ta đến cùng Chúa Cha, vì Ngài biết Chúa Cha và bởi Chúa Cha mà ra. Chúng ta hãy tin tưởng bước theo Người vì chính Người đã khẳng định với chúng ta: ”Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy”(Ga 14,6).
Một hình ảnh khác về con đường: chú ruồi với con đường
Hôm ấy là một ngày cuối tháng Bảy bình thường như mọi ngày. Tôi đang ngồi trong một căn phòng yên tĩnh ẩn giữa rừng thông và lắng nghe những âm thanh tuyệt vọng của trận chiến sinh tử đang diễn ra cách chỗ tôi ngồi một vài bước chân. Đó là một chú ruồi nhỏ đang dốc chút sức lực cuối cùng để vượt qua tấm kính của cửa sổ. Những nỗ lực điên cuồng không mang lại chút hy vọng nào. Càng cố gắng, nó càng mau kiệt sức. Thật vô ích khi chú ruồi cứ nhất định muốn phá vỡ tấm kính bằng sức lực nhỏ bé của mình.
Cuối cùng, chú ruồi phải chịu số phận bi đát. Nó kiệt sức và gục chết trên bậu cửa. Chỉ cách mười bước chân thôi, cánh cửa đang rộng mở. Chỉ mất mười giây đồng hồ để bay đến đó, và con vật bé nhỏ này sẽ ra được với thế giới bên ngoài mà nó đang tìm kiếm. Chỉ cần một phần nhỏ sức lực đã bỏ phí, nó đã có thể thoát khỏi chiếc bẫy mà nó tự áp đặt cho mình, nhưng nó đã không làm thế. Nó đã chết một cách thê thảm.
Và một hình ảnh khác: chú ong đất với con đường
Khi chúng ta nhốt một con ong đất vào một chiếc lọ thủy tinh, chúng ta thấy chú ong cứ luẩn quẩn ở đáy lọ và tìm cách thoát ra ngoài bằng con đường ở đáy lọ, đang khi đó, nắp lọ mở rộng, nhưng nó không bao giờ nghĩ tới. Chúng ta nhiều khi cũng như chú ong đất, chỉ loay hoay tìm hướng ra từ mặt đất, không thể hướng lên cao, nên chúng ta phải nhờ Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu giúp chúng ta hướng lên, hướng lên cao tới tầm mức của một con người và tầm mức của một con Chúa.
Chính Chúa Giêsu là người mở đường đồng thời cũng là chính con đường dẫn chúng ta đến Chúa Cha. Phải, chính Chúa Giêsu, Người đã đến từ Chúa Cha, nay Người trở về cùng Chúa Cha. Người lại hứa dọn chỗ cho ta trong Nhà Cha. Với những thông tin như thế, Người đã cho ta biết Trời chính là Nhà Cha. Quê Trời trở thành Quê Cha. Nước Trời trở thành một cõi đi về thân thương của con người. Con đường đi về ấy, chính Chúa Giêsu đã khai mở.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết tin tưởng và tín thác vào Lời Chúa như trong bài Tin Mừng hôm nay: “Ta là con đường, là sự thật và là sự sống.” Amen.
Đoạn Tin Mừng chúng ta suy nghĩ hôm nay là một trong những đoạn quan trọng nhất và mang đậm nhiều vấn đề thiết yếu. Đây là một đoạn trong diễn từ vĩnh biệt, trong bữa Tiệc Ly, trong đó Chúa Giêsu như trút hết tâm sự cho các môn đệ của Ngài, đồng thời Ngài cho biết hướng đi sau này các ông phải theo.
“Anh em đừng xao xuyến”. Không xao xuyến sao được khi Thầy nói rằng một người trong anh em sẽ nộp Thầy? Rồi Ngài lại nói thêm: “Thầy sẽ ra đi”. Mấy năm sống bên Thầy, Thầy là tất cả. Bây giờ Thầy lại ra đi. Đi đâu? Thầy đi dọn chỗ cho anh em? Đây chỉ là một cách nói điển hình cho dễ hiểu. Trong thế giới tâm linh thì không thể có chỗ ngồi hay đứng. Nhà Cha Thầy không là một tòa nhà xây bằng gạch đá, mà là chính Cha, Tình Yêu của Cha. Trái tim Cha rộng đến nỗi có thể cho mọi người một chỗ. Cha không từ chối ai cả, chỉ có những người con của sự hư mất mà thôi, những người không chấp nhận ân ban nhưng không của Cha.
Thầy dọn chỗ, tức là Thầy đi trước, Thầy lo tất cả, chúng ta chỉ cần chấp nhận bước theo. Thầy sẽ đến và đưa anh em đến với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Thầy đi đâu, anh em đã biết đường rồi. Những lời Thầy nói hình như có ẩn ý gì, không rõ rệt. Tôma, người đã tuyên xưng đức tin lại thắc mắc: “Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường?”
Nhờ những thắc mắc của các môn đệ, Chúa Giêsu mạc khải rõ nét hơn về khuôn mặt của Ngài. Và đây là những nét hết sức quan trọng đối với chúng ta.
Anh em không biết đường? Thầy chính là đường, là sự thật và là sự sống. Đây là một lời tuyên bố thật mạnh mẽ. Thầy là đường, phải đi trong Thầy mới có thể đến với Cha. Không có con đường nào khác. Từ xưa đến nay, biết bao người đã dẫn đường cho nhân loại, nhưng không có con đường nào dẫn đến sự sống cả, nhiều chủ nghĩa đã dẫn con người đến chết chóc và khốn khổ. Nhân loại vẫn tìm đường để đạt đến hạnh phúc, nhưng hình như không có con đường nào cả. Công Đồng Vatican II đã xác quyết: chỉ có Chúa Giêsu, Thiên Chúa làm người mới là con đường duy nhất dẫn đến hạnh phúc mà thôi. Người ta đã tạo ra đủ các thứ tổ chức để ngăn chặn những tranh chấp nhưng thế giới vẫn đầy đe dọa. Các nước vẫn chống đối nhau và nguy cơ một thế chiến thứ ba vẫn đang là một ám ảnh cho con người hôm nay, vì không có Chúa Giêsu, thì không thể có gì tốt đẹp, chỉ có tranh chấp và hận thù.
Chúa Giêsu là Tình Yêu nhập thể, không thể có con đường nào khác ngoài con đường mang tên Giêsu Tình Yêu. Càng loại trừ Thiên Chúa, con người càng lún sâu vào khốn khổ mà thôi, vì chỉ có Tình Yêu của Chúa mới giải thoát chúng ta ra khỏi ngục tù của tham lam và gian ác.
Chúa Giêsu cũng là sự thật. Philatô hất hàm hỏi Chúa: “Sự thật là gì?” rồi bỏ đi. Đó là thái độ của nhiều người hôm nay. Họ không quan tâm đến những vấn đề tinh thần, chỉ cần vật chất. Linh mục Jean Sulivan đã nói: “Thời này là thời trâu bò… Người ta chỉ sống cho cái xác”. Không cần sự thật, không cần hạnh phúc. Chúa Giêsu mang đến cho chúng ta hạnh phúc bất diệt, hạnh phúc đó chính là sống trong sự thật. Chính Chúa đã nói: “Sự thật giải thoát các ngươi”. Chúng ta chỉ hạnh phúc khi chúng ta không bị ràng buộc trong tội ác, hoàn toàn tự do. Muốn thế phải sống trong sự thật, là sống trong Chúa. Chỉ những người có đức tin mới biết sự thật là gì. Vì chỉ có Chúa mới là sự thật. Hãy cám ơn Chúa vì đã ban cho chúng ta đức tin. Nhờ đức tin chúng ta mới thấy cuộc sống có ý nghĩa. Chúng ta không chỉ sống bằng cơm bánh mà bằng niềm tin vì chỉ có Ngài mới có những lời ban sự sống đời đời.
Chúa Giêsu lại là sự sống. Chúng ta đã chết trong tội, như thánh Phaolô đã nói, nhưng Chúa đến tiêu diệt sự chết và khôi phục sự sống cho chúng ta. Rất nhiều người không biết đến sự sống thật mà chỉ biết sự sống thể xác. Chúng ta là những người có phúc vì đã được biết sự sống đời đời là gì: “Sự sống đời đời chính là nhận biết Cha và Đấng Người sai đến”. Chúng ta đang sống trong Chúa Kitô, chúng ta đang hưởng hồng ân đức tin nhờ được thanh tẩy trong Chúa Kitô. Cám tạ ơn Chúa vì đã cho chúng ta hồng ân tuyệt diệu là biết Cha, yêu mến Cha. Cha là nguồn tình yêu, là lòng từ nhân.
Nhưng chúng ta có yêu mến Cha không? Không mấy khi chúng ta nghĩ đến Cha trên trời, nhưng chính Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta con đường đến với Cha, chính là Ngài. Philipphê thắc mắc: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”. Chúa nói rõ cho Philipphê biết Ngài là ai và Cha là ai. “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha… Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao?” Đây chính là một mạc khải quan trọng. Chúa Giêsu cho chúng ta thấy, Chúa Cha và Ngài là một, như Ngài đã nói. Ngài chính là Chúa Cha hiện diện giữa loài người, cụ thể và rõ rệt. Thiên Chúa đến với chúng ta, trong thế giới vật chất của chúng ta. Chúng ta có thể đến gần Ngài, chạm lấy Ngài, chiếm hữu lấy Ngài như thánh Gioan đã nói: “Điều vẫn có từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến… chúng tôi loan báo cho anh em.”
Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi ban Người Con Một. Người Con Một ấy lại thuộc về thế gian, và chúng ta chiếm hữu Thiên Chúa. Ngài đến không phải để lên án mà để cứu vớt. Ngài đến như một tình thương rộng mở đón tiếp và ban bố ơn lành. Chúng ta có thấy được hạnh phúc của chúng ta không? Hạnh phúc đó chính là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, và Thiên Chúa chính là hạnh phúc thật, hạnh phúc vĩnh cửu. “Nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở” là như thế. Mọi người đều được mời gọi vào tình yêu của Cha.
Sự hiệp nhất toàn vẹn giữa Chúa Cha và Chúa Con lan tỏa đến mỗi người chúng ta. Thầy với Cha là một, Cha ở trong Thầy và Thầy ở trong Cha… thì chúng ta cũng phải như thế. Chúng ta cũng phải nên một như Chúa Cha và Chúa Con. Chính Ngài đã cầu xin như thế: “…để tất cả nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để họ cũng ở trong chúng ta”. Sự hiệp nhất trong tình yêu là một bằng chứng cụ thể về Thiên Chúa. Sở dĩ thế gian không tin nhận Chúa là vì chúng ta chưa có một bằng chứng cụ thể về Chúa, chúng ta không hiệp nhất.
Hơn nữa, Chúa Giêsu còn muốn chúng ta trở thành chính hiện thân của Ngài giữa thế gian: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”. Ngài cũng muốn người ta thấy Ngài nơi mỗi người chúng ta, để ai thấy chúng ta là thấy Ngài. Các thánh đã làm được. Người ta đã nhìn thấy Chúa nơi các ngài. Chúng ta nghĩ sao? Chúng ta là hiện thân của ai? Của kiêu căng, hận thù hay của tình yêu?
Hãy đến ăn lấy Ngài để nên một với Ngài, không phải chỉ trong ước muốn mà trong thực tế của mỗi ngày. Trong hy sinh bỏ mình vì anh em, trong phục vụ chân thành không tránh né: “Ai ăn Thịt và uống Máu Thầy, người ấy ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy”.
27.Nhà Cha – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Những điều làm chúng ta lo lắng nhiều trong cuộc sống đời tạm này là tìm kiếm có nhà để ở, có của ăn nuôi dưỡng, có gia đình, bạn bè và bà con thân thuộc chung sống. Chứng kiến cảnh những người vô gia cư sống lang thang nay đây mai đó, chúng ta thấy thật tội! Trong khu vực tôi đang phục vụ, hàng ngày tôi vẫn thấy có nhiều người vô gia cư sống bên lề đường. Một hôm tôi bắt truyện với một người và mới được biết anh là người Việt Nam. Ngày trước, quê ở Saigòn, anh được bảo lãnh sang Hòa Kỳ theo diện con lai. Không may mắn, vợ con từ bỏ và đi sống ở tiểu bang khác. Anh bơ vơ một mình. Quanh năm suốt tháng, với năm ba cái vali và bao bì, anh di chuyển từ chỗ này đến chỗ kia bên lề đường. Tôi không biết anh giải quyết các nhu cầu cá nhân ở đâu. Mùa Hè qua, mùa Đông đến, anh luôn có mặt đó. Anh không xin ăn. Anh đứng hoặc ngồi đó, miệng luôn lẩm bẩm nói điều gì không rõ. Biết rằng anh có bệnh trong người, nhưng hình như anh an phận và không than van trách móc. Tôi nghĩ có lẽ tâm trí của anh không được bình thường lắm. Tôi cũng không thể tưởng tượng nổi làm sao anh có thể sống sót ngoài đường sương gió tuyết lạnh và nóng nảy quanh năm suốt tháng như vậy. Anh không có nhà để về, không có nơi để ở và không có chốn để dung thân. Chính anh lại không muốn vào ‘shelter’ chỗ sống chung dành cho người vô gia cư. Thật đáng thương! Thân phận một đời người. Tôi chẳng giúp được gì cho anh.
Chúng ta dù có đi đâu, rồi cũng mong về nhà. Nhà là tổ ấm của yêu thương. Ai ai cũng mong có một mái nhà để được đùm bọc sinh sống. Dù là mái tranh nghèo, nhưng cuộc sống ấm áp là đủ. Người ta thường nói: Hai trái tim vàng, một túp lều tranh là thế. Thật là lý tưởng và đơn sơ. Trong thực tế cuộc sống văn minh ngày nay, hình như sự đòi hỏi các phương tiện và nhu cầu cuộc sống cao hơn nhiều. Nhưng chúng ta biết rằng nhà to hay nhỏ không quan trọng, điều cần thiết là có mái nhà. Nhà là nơi mọi thành viên trong gia đình có thể qui tụ và vui hưởng hạnh phúc bên nhau. Chúng ta đang trong cuộc lữ hành trần thế, chúng ta chỉ có thể sống tạm nơi đây một thời gian. Đôi khi, vì nhu cầu cuộc sống, chúng ta đã chuyển đổi từ nơi này tới nơi khác nhiều lần. Cho nên các ngôi nhà dù có xây cất kiên cố, cũng không thể giữ chân của chúng ta tại một chỗ. Chúng ta luôn phải đi kiếm tìm cuộc sống tươi đẹp hơn. Ai cũng như ai, cuộc đời con người bước tới và phát triển mỗi ngày. Dù nhà có sang có đẹp, rồi một ngày nào đó, mỗi người chúng ta đều phải giã từ.
Niềm tin hy vọng của con người trên trần thế có cùng đích và có nơi để về. Chúa Giêsu sau khi phục sinh từ cõi chết, Ngài đã mạc khải cho các môn đệ: Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không Thầy đã nói với các con rồi; Thầy đi để dọn chỗ cho các con (Ga 14, 2). Chúa Giêsu đi trước để dọn chỗ cho chúng ta. Còn gì hạnh phúc hơn. Chúng ta biết chắc chắn là sẽ có đường để đi theo và có nhà để tới. Chúa Giêsu mở một chân trời mới đáp ứng mọi ngưỡng vọng của đời người. Có người ví đời người như cánh bèo trôi, lênh đênh dòng nước, khi trôi khi dừng, lững thững theo dòng nay đây mai đó và cuối cùng tàn rụi. Nhưng người có niềm tin vào Thiên Chúa là có niềm hy vọng. Đời tạm này sẽ đi qua và cuộc đời trần thế sẽ kết thúc, nhưng hồn thiêng sẽ sống mãi. Chúa Giêsu đã hứa sẽ trở lại đón chúng ta về nhà Cha. Ngày hạnh phúc đó, xác hồn kết hợp trong một cuộc sống mới và nơi đó không còn bóng dáng sự chết.
Chúa Giêsu đã dọn cho chúng ta có chỗ dung thân đời đời. Nhưng để tìm đạt cùng đích của cuộc đời, chúng ta không thể đi con đường nào khác ngoài con đường Chúa Giêsu đã vạch ra. Chúa nói: Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy (Ga 14, 6). Con đường dẫn tới sự sống viên mãn là con đường sự thật. Chúa Giêsu đến trần gian là để làm chứng cho sự thật. Có rất nhiều người chưa hiểu biết sự thật là chi? Sự thật là Chúa Kitô, Con Thiên Chúa giáng thế làm người và đã hy sinh thân mình để cứu độ chúng sinh. Chúa Kitô là sự thật tuyệt đối. Sự thật của Chúa sẽ giải thoát chúng ta khỏi mọi điều bất chính. Sự thật thì đơn sơ, trong sáng và thanh khiết. Chúa Thánh Thần chính là Thân Chân Lý. Muốn học biết sự thật, chúng ta phải biết hướng thiện và tìm về nguồn cội rễ của sự hiện hữu. Thiên Chúa Cha đã mạc khải sự thật qua chính Con Một của Người. Chúng ta chỉ có thể đến với Chúa Cha qua Đức Kitô.
Ngay sau khi Chúa Giêsu về trời, các tông đồ đã ra đi làm nhân chứng. Công việc chính yếu của các ngài là: Còn chúng tôi, thì sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ lời Thiên Chúa (Tđcv 6, 4). Sứ vụ của các tông đồ là cầu nguyện và rao giảng. Các tông đồ đã nhiệt tâm và hăng say rao giảng tin mừng Chúa Kitô phục sinh và đón nhận các tín hữu. Đặt nền tảng và xây dựng Giáo Hội sơ khai. Tuy phải đối diện với nhiều khó khăn cả về mặt tôn giáo và xã hội, các ngài đã can đảm vượt qua mọi gian khổ để mở mang Nước Chúa: Lời Chúa lan tràn và số môn đồ ở Giêrusalem gia tăng rất nhiều. Cũng có đám đông tư tế vâng phục đức tin (Tđcv 6, 7). Giáo hội mở rộng cửa và có rất nhiều người đã ăn năn sám hối trở về gia nhập đạo thánh. Hình thành tổ chức của Đạo Công Giáo thời sơ khai là do chính các người Do-thái. Họ đã giơ tay xin đóng đinh Chúa Giêsu vào thánh giá, nay trở thành môn đệ của Chúa. Một số các vị tư tế xin giết Chúa, nay cũng tin nhận Chúa Kitô phục sinh và ăn năn sám hối đổi đời.
Niềm tin vào Chúa Kitô là căn cốt của ơn cứu rỗi: Vậy vinh dự cho anh em là những kẻ tin; nhưng đối với những người không tin, thì tảng đá mà thợ xây loại bỏ, đã trở thành đá góc tường (1Petr 2, 7). Chúa Kitô trở thành tảng đá góc của niềm tin. Chúa Kitô là tất cả, là đầu hết và là cùng đích. Mọi sự đều qui phục dưới chân Người. Các tông đồ đã nhờ Danh của Đức Kitô làm mọi sự lạ lùng: Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha (Ga 14, 12). Chúa Giêsu trao ban trực tiếp cho các tông đồ quyền giảng dậy, làm các phép lạ và xua trừ ma quỉ. Biết rằng, không thể cáng đáng mọi công việc, các tông đồ đã tuyển chọn và đặt tay cầu nguyện trên những người cộng tác tiếp tục sứ mệnh. Ân sủng của Chúa Kitô là kho tàng chung của Giáo Hội được kế thừa qua mọi thời.
Thánh Phêrô tràn đầy sinh lực của Chúa Thánh Thần đã mạnh dạn công bố tin mừng và xác tín điều giảng dậy: Còn anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa, để rao giảng quyền năng của Đấng đã gọi anh em ra khỏi tối tăm mà vào ánh sáng kỳ diệu của Người (1Petr 2, 9). Chính nhờ Chúa Kitô, cùng với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô, các tín hữu trở thành dân riêng được tuyển chọn. Qua Bí tích Thanh Tẩy, mỗi người được trở nên tạo vật mới, được tháp nhập vào nhiệm thể Chúa Kitô và được chung phần gia nghiệp mà Chúa đã dọn sẵn cho. Chúa Kitô là trưởng tử đã sống lại từ cõi chết và đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Ngài đã chuẩn bị sẵn chỗ cho chúng ta trong Nhà Cha của Ngài.
Lạy Chúa, hôm nay là ngày Chúa đã dựng nên, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan. Chúng ta hãy sống niềm vui phục sinh ngay khi còn đang lữ hành dưới thế. Xin cho chúng con luôn biết dõi theo con đường chính thật để đạt tới sự sống đời đời.
(Trích trong ‘Với Cả Tâm Tình’ – ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống)
Trong những ngày đầu tháng 02 năm 1990, có một con đường ở huyện ngoại thành đã được báo chí làm cho nổi tiếng. Con đường ấy một đầu là giăng ngang biểu ngữ khai trương phòng vật lý trị liệu trá hình, còn đầu kia là sừng sững một khách sạn mini sang trọng làm nhà riêng của người biển thủ, chức danh là giám đốc. Con đường ấy chợt nổi tiếng vì những vụ tai tiếng.
Từ hai mươi thế kỷ nay, trong Giáo Hội, người ta biết có một con đường thật danh tiếng và luôn luôn nổi tiếng. Con đường ấy mở ra bằng một tình thương và kết thúc bằng một hạnh phúc. Con đường ấy trải dài tin yêu để lâng lâng vươn lên sự sống. Con đường ấy thấp sáng hy vọng để dẫn tới Nhà Cha trên trời. Đường mở về miên viễn, Đường dẫn đến vĩnh hằng. Đó là đường mang tên Chúa Giêsu.
1. Đường hy vọng tin yêu.
Nếu có một câu hỏi được các Tông đồ đặt ra nhiều nhất thì đó phải là câu hỏi thuộc về nơi chốn. “Thầy ở đâu?” là câu hỏi của Gioan đặt ra trong lần đầu gặp gỡ, để được gọi đến xem và bước vào ơn gọi; “Thầy muốn chúng con dọn lễ Vượt Qua ở đâu?” là câu hỏi của các Tông đồ đặt ra để có được địa chỉ chính xác cho Bửa Tiệc Ly; và hôm nay lại là Tôma nôn nóng bật ra câu hỏi “Thầy đi đâu?” trước một tương lai vẫn còn ẩn khuất.
Bận tâm về nơi chốn là bởi vì trong đời theo Chúa, các ông luôn được dẫn vào những cuộc hành trình, mà cuộc hành trình cuối cùng là tiến về Giêrusalem để chứng kiến Thầy mình chịu chết. Có khối ông đã coi đây là con đường thất bại của Chúa để trở thành con đường thất vọng của mình. Mấy năm dài miệt mài theo Chúa những mong có ngày tả hữu vinh quang, nào ngờ Người lại bị đóng đinh như tên tử tội. Công dã tràng! Khi mọi vốn luyến hy vọng đặt cả vào canh bạc cuộc đời, rồi bổng dưng lật ngữa trắng tay, người ta như rớt từ trên cao quay cuồng chao đảo. Thế mới hay ước vọng thì rộng lớn nhưng khung đời lại chật hẹp mà thực tế lại phũ phàng!
“Thầy đi đâu?” Ẩn sâu dưới câu hỏi ấy là một tâm trạng hoang mang trước một quá khứ vứa mới khép lại mà tương lai chưa kịp mở ra. Tương lai ấy mới mẻ hay chỉ là quá khứ đươc lặp lại ở thì sẽ đến? Đã một lần vỡ mộng, các Tông đồ băn khoăn là chuyện thường tình. Giống như đứa trẻ lỡ một lần phải bỏng, hễ thấy lửa là tự nhiên rụt tay lại. Vì thế, nghe trong câu hỏi “Thầy đi đâu?” có âm hưởng lo âu tự hỏi “mình đi đâu?”.
Thất vọng về quá khứ và hoang mang trước tương lai, đó là những con đường các Tông đồ đã nếm trải. Nhưng mở đầu Tin Mừng hôm nay lại là lời của Chúa Giêsu: “Các con đừng xao xuyến”. Đó là lời an ủi vỗ về, đồng thời cũng là lời cắt băng khai mở một con đường mới trong hy vọng tin yêu.
2. Đường mang tên Giêsu.
“Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”. Trả lời cho Tôma, cùng lúc Chúa Giêsu để lộ cho biết từ nay chỉ có một con đường duy nhất được mở ra trong ơn cứu độ, và tên gọi con đường ấy lại chính là Người.
Người là Đường Sự Thật bởi Người là Chân Lý, một chân lý sống động khả tín làm nền tảng và hướng đi cho mọi cuộc đời, một thực tại năng động đầy Thần Khí làm sức mạnh giải thoát cho mọi kẻ tin. Đường Sự Thật không phải là một hệ thống tín điều do Chúa Giêsu thiết định, nhưng là toàn thể cuộc sống lời nói việc làm của Người trong ý nghĩa cứu độ. Nhưng đâu phải ai cũng nhận ra? Giữa phiên tòa dịp lễ Vượt Qua, trước mặt Chúa Giêsu, Philatô đã hỏi một câu ngớ ngẩn: “Sự Thật là chi?- Quid est Veritas?” Chúa Giêsu không trả lời, vì Sự Thật hiện thân chính là Người đứng đó. Có biết đâu hỏi là đã trả lời, chỉ cần sắp xếp lại thứ tự các mẫu tự sẽ thành hàng chữ: “Est Vir qui adest” (x. Tihamet Toth, Chúa Cứu Thế Với Thanh Niên, p. 95).
Người là Đường Sự Sống bởi Người là Sự Sống thượng nguồn phát sinh các sự sống khác trong công trình sáng tạo, và là Sự Sống cội nguồn mà mọi sự sống khác phải tìm về trong công cuộc tái tạo của ơn cứu độ. Người thông ban sự sống cho mọi sinh linh, và luôn đi bước trước để lôi kéo mọi người về với Sự Sống của Thiên Chúa. Người chịu chết để nhân loại được sống, và Người sống lại để mãi mãi mở ra nẻo đường dẫn vào cõi sống. Mọi sự sống trần gian có thể đổi thay tan biến, nhưng Sự Sống Người là vĩnh cữu trường tồn. Người hằng sống hằng trị muôn đời.
Người là Đường dẫn tới Nhà Cha bởi Người và Cha không thể tách lìa: Chúa Con ẩn mình trong Chúa Cha và Chúa Cha tỏ hiện trong Chúa Con. Vẫn là Một từ ngàn xưa và mãi là Một tới ngàn sau. Thế nên Đường mang tên Giêsu tất yếu cũng là địa chỉ Nhà Cha, và ngược lại tìm đến Nhà Cha cũng là hành trình vào Đường Sự Thật và Sự Sống.
3. Đường con đi.
Dẹp bỏ con đường cũ của thất vọng hoang mang để khai mở con đường mới bằng toàn diện con người mình, Chúa Giêsu muốn truyền lại cho các Tông đồ cái kinh nghiệm hiện sinh phong phú liên kết với Cha qua Chân Lý và Sự Sống; đồng thời đó cũng chính là lời mời gọi Giáo Hội cất bước lên đường với những hành trang đi về hạnh phúc.
Đi trên Đường Giêsu là đi bằng cả niềm tin gắn bó hiệp thông của những con người biết mình có một lí tưởng để theo đuổi, và sẵn sàng hy sinh tất cả để đạt được lí tưởng ấy. Trút bỏ những hành trang cồng kềnh của danh lợi thú, đoạn tuyệt với những ngõ cụt lối mòn sao gợn sỏi đá của cuộc sống khô khan, chấp nhận canh tân để có được bước đi vừa thanh thót vừa thanh thản của đời nhân đức chính là hát lên khúc ca mới trên con đường mới. Vì lí tưởng ấy chính là lẽ sống, cũng chính là vinh dự một đời: “Anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là chủng tộc thánh thiện, Dân riêng của Chúa…” (bài đọc thứ hai).
Đi trên Đường Giêsu cũng là đi bằng niềm hy vọng bền vững. “Thầy đi dọn chổ cho các con”. Vận mệnh tương lai đã mở ra. Không còn xa xôi tít tắp, nhưng đã châm rễ từ cuộc đời này. Sống hôm nay là chuẩn bị sống ngày mai, và ngày mai tại Nhà Cha đã được định hình ngay từ bây giờ trong bước đường lữ thứ của Hội Thánh ở giữa lòng đời. Đi trong hy vọng là nhận ra rằng con người được tạo dựng để hướng về một cứu cánh, được tái sinh trong giới hạn nhưng không ngừng hướng về vô hạn. Thiết tưởng lời kinh của Thánh Auguatinô có thể là tóm kết của bước đi hy vọng đã biến thành khát vọng: “ Lạy Chúa, Chúa dựng nên con để cho Chúa, nên con mãi khắc khoải cho tới khi được nghĩ ngơi trong Ngài”.
Đi trên Đường Giêsu còn là đi bằng cả tình yêu chan hòa phục vụ. Bài đọc thứ nhất là hình ảnh đẹp về một Giáo Hội trẻ đang cựa mình vươn vai tiến tới. Có những phân công khác biệt: kẻ phục vụ bàn thánh, người phục vụ bàn ăn; kẻ chuyên chăm rao giảng Lời Chúa, người chuyên lo hạnh phúc anh em. Nhưng vẫn là nhịp bước đồng hành. Có thể nói được rằng tình yêu và phục vụ là đôi chân của Giáo Hội lữ hành đặt bước chân mình trong dấu chân Chúa. Và cũng có thể hiểu được rằng cách nhìn “con người là con đường của Giáo Hội” (Gioan Phaolô II) chính là tốc độ mới của tình yêu chan hòa phục vụ trên Đường Giêsu hôm nay.
Và lời cuối cùng sẽ là một lời kinh, dệt nên khúc hát hy vọng cho những ai đang băn khoăn tìm kiếm một con đường sống, và biến nên hành khúc tin yêu cho những ai đã một lần cất bước hành trình: “Chúa muốn nhận con đường con đi, nên Ngài đã sinh xuống dương gian. Chúa đã nhận đôi bàn tay con, dìu từng bước, bước đi trên đường. Chúa ôi, khi nhìn đời con, con không hiểu từng giọt lệ sầu. Chúa ôi, khi nhìn đời Ngài, con đã gặp đường hướng con đi”.
NHỮNG LỜI CHÚA GIÊSU TÂM SỰ VỚI CÁC TÔNG ĐỒ SAU BỮA TIỆC LY
1. Tìm hiểu: 3 điều:
a/ Thiên đàng có nhiều chỗ
b/ Thầy là Đường đi…
c/ Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.
– Câu 14,2 Nhà Cha Thầy có nhiều chỗ
Chúa cho biết trong nước Trời của Chúa, tức là trên thiên đàng có nhiều cấp bậc, nhiều phần thưởng khác nhau, tùy Chúa ban, tùy công phúc người ta cố gắng lập khi còn sống. Rất công bằng và thương xót. Không có chuyện “Bé không đi học, lớn lên làm đại úy”.
– Câu 14,6 Thầy là đường đi…
Nhờ ông Tôma hỏi, Chúa nói rõ Ngài chính là đường đi về quê trời, là sự thật và là sự sống, chỉ qua Chúa Giêsu chúng ta mới có thể đến được với Chúa Cha, đến được Nước Trời.
– Câu 14,9 Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.
Nhiều khi người ta tự hỏi: Không biết Chúa Cha thế nào? Có giống như người ta vẽ cụ già đầu râu tóc bạc, uy nghi dễ sợ không?
Chúa Giêsu trả lời rõ ràng: Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Cha cũng trẻ, cũng nhân từ, hiền lành, thương xót như Thầy, đừng sợ.
2. Suy niệm:
Truyện: Đi tìm minh chủ
Truyện kể rằng: có một chàng thanh niên khỏe mạnh, muốn tìm một ông chủ tốt làm sư phụ.
– Anh ta đến với một người giầu có trong làng, anh rất hài lòng về cách cư xử của người này. Nhưng một hôm, theo người này đến một nơi, thấy người này quì lạy một người tự xưng là ông quỉ. Chàng thanh niên phân vân tự nghĩ: như vậy ông chủ mình còn thua ông quỉ. Anh ta liền xin ông chủ cho đi theo ông quỉ.
– Ông quỉ hài lòng với người thanh niên lắm, sai hắn làm cái này cái kia…đều được việc, nhưng một hôm chàng theo ông quỉ tới đầu làng, chàng thấy ông quỉ không dám đi gần cây Thánh giá dựng ở đó, chàng thanh niên bỡ ngỡ, hỏi căn cớ tại sao thì ông quỉ cho biết, người chết trên đó là ông Giêsu. Chàng thanh niên lại bỏ ông quỉ đi tìm hiểu Ông Giêsu.
– Người ta giới thiệu chàng vào gặp cha xứ.
Sau một thời gian tìm hiểu, chàng được rửa tội, cha xứ thấy chàng to con, khỏe mạnh, cha đề nghị chàng làm việc bác ái, đưa đồ giúp người qua khúc sông, vì nơi đó không có thuyền không có cầu. Chàng vui vẻ làm theo, ngày nào cũng có mặt để giúp những người mang vác nặng nề.
Nhưng một hôm, chàng vác một em bé trên vai cho mẹ em rảnh tay lội nước.
Chàng cảm thấy Em bé gì mà nặng quá, nặng như cả mấy bao gạo trên vai, làm chàng thanh niên khỏe mạnh lực lưỡng muốn té nhào. Chàng than: ” Sao em nhỏ ăn cái gì mà nặng thế, anh vác không nổi!
Em bé đang ôm đầu chàng, bật cười lớn, em nói: “Anh vác nổi sao được, anh đang vác cả một Thiên Chúa dựng nên trời đất đấy mà! Này chàng thanh niên, Ta rất hài lòng với việc giúp đỡ của con. Ta là Giêsu con đang tìm kiếm.
Chàng thanh niên đó chính là ông thánh Giorgiô, đã từ bỏ mọi sự trần gian đi theo Chúa Kitô.
Có 3 điều quan trọng cho cuộc sống con người:
a/ Đi đúng đường, không sợ lạc.
b/ Tìm ra sự thật, không hồ nghi.
c/ Tìm được sự sống, không sợ chết. Theo Chúa Kitô, sẽ được cả 3 thứ trên.
1/ Đường đi: Nếu bạn đến một thành phố xa lạ và hỏi thăm đường đi, có người chỉ dẫn rằng:
“Đến ngã tư thứ nhất anh rẽ sang phải, đến ngã tư thứ hai anh rẽ sang trái, đi qua công viên, vượt qua một nhà thờ, đến ngã tư thứ ba thì rẽ sang phải nữa… con đường anh tìm là con đường thứ tư bên trái.
Nếu chỉ dẫn như thế, có thể đi được nửa đường, anh đã bị lạc.
Nhưng nếu có người nói: “Anh đi theo tôi, tôi sẽ dẫn anh đến đó”, người ấy sẽ đưa ta tới nơi, sẽ không lạc đâu.
Đó là việc Chúa Giêsu đang làm cho ta. Người không đưa ra những lời khuyên, chỉ hướng đi xong rồi thôi, nhưng Người nắm lấy bàn tay và dẫn ta đi. Người cùng đi với ta, Người thêm sức cho ta, hướng dẫn ta mỗi ngày. Người là Đường đi: Người làm gương về cách hành động vâng ý Chúa Cha, và Người đưa kẻ tin Người đến cùng Chúa Cha. Sướng thật.
2/ Sự thật: Không ai thích người nói dối, không ai thích hàng giả.
Phụ nữ Việt Nam không mấy ai muốn đeo nữ trang giả, ai cũng thích thứ thật, vàng thật, đôla thật, hột xoàn thứ thiệt.
Ngày nay, có nhiều thứ giổm, giổm lại còn độc chết người. Nhiều người nói với ta về sự thật, nhưng họ không phải là sự thật.
Chỉ có mình Chúa Giêsu nói: “Ta là sự thật”. Ngài không lừa dối ai và không ai lừa dối được Ngài. Chúa Giêsu đã tỏ ra những mầu nhiệm về Thiên Chúa Cha cách không sai lầm.
3/ Sự Sống: Thông thường, người ta tìm kiếm sự sống, ai cũng muốn sống, sống khỏe, sống hạnh phúc… sống hoài sống muôn năm. Không ai muốn sống nhăn răng.
Chúa Giêsu hứa ban sự sống đời đời cho những ai tin vào Người. Đời đời quí hơn một đời là cái chắc.
Thế nên Chúa nói: “Được lời lãi cả thế gian mà mất sự sống đời đời nào có ích gì?” (Mt 16,26)
3. Chúa muốn tôi làm gì?
– Bằng giá nào, tôi cũng phải tìm mọi cách để chiếm được một chỗ trên thiên đàng. Vì Chúa Giêsu nói “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ”. Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu nói: ” Ta trông cậy thế nào, Chúa sẽ ban cho như vậy”.
– Xin Mẹ Maria, giúp con bền lòng theo Chúa Giêsu “bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Chúa là Đường đi,
Luôn nghĩ tưởng, nói năng, làm thật thà theo Chúa là Sự Thật,
Luôn bênh vực sự sống, theo Chúa là Sự Sống như thánh Giorgiô trên đây. Noi gương các thánh tử đạo VN: chết cũng không bỏ đạo, không bỏ Giáo hội Công giáo, để được ơn cứu rỗi muôn đời trong nhà Cha Cả. Amen.
Sau nhiều năm học chung, tôi mới có dịp về Cà Mau thăm nhà người bạn thân, trước khi đi tôi cứ nghĩ Cà Mau sẽ rất xa, mình phải ngồi trên xe lâu lắm mới tới. Đúng như tôi suy nghĩ. Cuộc hành trình về Cà mau của chúng tôi rất vất vả. Sáng sớm chúng tôi đã đón được chuyến xe tốc hành về Cà Mau. Tuy đường từ Cần Thơ về Cà Mau có nhiều chỗ “ổ gà” thậm chí cũng có rất nhiều “ổ voi”, nhưng cũng không thấm vào đâu so với sức trẻ của chúng tôi. Chúng tôi hãnh diện là những người khỏe, trẻ không sợ gian khó, nhưng chúng tôi cũng phải chùn bước khi thấy con đường từ Cà Mau về nhà bạn tôi. Từ Cà Mau vào phải đi qua hai chiếc đò, và đi bộ thêm hai giờ đồng hồ trên đường đất nhỏ với bốn chiếc cầu khỉ mới đến được nhà bạn tôi. Trong đoàn chúng tôi có tất cả sáu người, nhưng khi ngồi xe đến Cà Mau, thì đã có ba người không đi nổi nữa phải ở lại. Còn lại ba người tuy rất ngán ngẫm về con đường phía trước, nhưng vẫn phải đi vì không còn con đường nào dẫn về nhà bạn tôi được. Cuối cùng chúng tôi quyết tâm đi với hy vọng cũng sẽ tới và tâm niệm trong đầu “ai bền đỗ đến cùng người đó sẽ được rỗi”. Cuối cùng chúng tôi đã tới. Thật là vui mừng và sung sướng vì chúng tôi đã đi đến đích cách thành công.
Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đã giới thiệu cho chúng ta biết như một lệnh truyền độc nhất không thể huỷ bỏ “Thầy là đường”. Có thể lúc Chúa Giêsu nói Tôma vẫn chưa thể hiểu hết câu nói của Người. Ông còn đang mơ tưởng đến một quê hương nào đó, vì ông thuộc mẫu người thực nghiệm, muốn tay sờ, mắt thấy, tai nghe… Nhưng Đức Giêsu đã khẳng định chỉ cần nhìn vào Người, vì Người là con đường độc nhất dẫn về cùng đích duy nhất. Trong thực tế thì “đường” đã có sẵn và có từ muôn đời, nhưng người ta lại không muốn đi, có người thi lại không chịu nghe lời hướng dẫn để rồi bị đi lạc như Giuđa Iscariô. Có người đã đi đúng đường, đã tìm được sự hướng dẫn đích thực, nhưng lại bị lôi kéo bởi những con đường giả tạo, phù phiếm…để rồi bị lạc đường và bị lún sâu vào vũng lầy bóng tối, xa cách sự sáng mãi mãi.
Trên đường về thăm nhà bạn tôi, cũng chỉ có ba người về đến đích, còn ba người phải tạm chia tay hay nói đúng hơn là bỏ cuộc. Tượng tự những người lữ hành về quê trời cũng vậy, tất cả đều đang đi, nhưng cũng có người vì bị một lý do chủ quan hay khách quan nào đó mà phải ở lại, đành bỏ cuộc. Thật đúng như lời Đức Giêsu đã nói “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy”. Đi theo Người đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ mình vác thập giá mình hàng ngày mà theo. Nếu đường đã có sẵn mà chúng ta không chịu đi thì không bao giờ về đến đích. Đức Giêsu chính là con Đường và là Người dẫn đường, nhưng nếu chúng ta chán nản chúng ta không chịu đi thì Ngài cũng đành “bó tay”, vì Ngài luôn cho ta có một sự tự do để lựa chọn.
Còn những người về đích, không phải họ là những người may mắn, mà là những người đã đi đúng đường, với nỗ lực bản thân vượt qua được những trở ngại trước mắt để về đến đích bình an.
Trong đời sống thiêng liêng, chúng ta vẫn chưa đạt tới đích, tất cả chúng ta đều đang đi, trên quãng đường này chắc chắn có rất nhiều chông gai thử thách, cám dỗ mời mọc… nó sẽ thật nguy hiểm cho đời sống đạo của chúng ta. Có rất nhiều ngã và lối rẽ, nếu ta không thức tỉnh, nếu ta không vững vàng, ta sẽ bị sụp bẫy của kẻ thù mà đi lạc hướng, đi vào con đường của bóng tối và sự chết.
Lạy Chúa, xin cho con xác tín chỉ có Chúa mới là con đường nhanh nhất, và chắc chắn nhất dẫn chúng con về với Chúa Cha. Amen.
(Suy niệm của JB Lê Ngọc Dũng)
Lý trí và sự sống con người chúng ta đòi biết và biết đúng sự thật. Đi chợ, đòi phải mua hàng đúng, hàng thật. Nghe một thông tin, cũng phải xem xét có đáng tin không.
Tuy nhiên, cùng với ý muốn biết đúng sự thật, chúng ta có dám sống sự thật không? Thường thì, ta muốn biết đúng sự thật nhưng lại không dám sống sự thật. Đó chính là vấn đề ngang trái của con người chúng ta.
Chúa Giêsu hôm nay nói: “Thầy là Đường là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14,6).
Ngài là Sự Thật và đã sống Sự Thật vậy ta có dám sống sự thật như Ngài không?
Sống theo sự thật thì phải chấp nhận chịu mất mát hy sinh, thua thiệt. “Thật thà thì thua thiệt”. Đó là một chân lý của cuộc sống.
Có thể có nhiều người giống như Philatô hỏi Đức Giêsu: “Sự thật là chi?” (Ga 18,38). Philatô hỏi nhưng lại không muốn nghe câu trả lời. Bởi vì ông không muốn, không dám chấp nhận sự thật.
Một hôm anh sự thật và anh dối trá gặp nhau tại một ngã ba đường. Hai bên trao đổi nhau về cuộc sống. Anh sự thật thì gương mặt hốc hác, quần áo xốc xếch, bẩn thiểu, tâm sự như sau:
– Cuộc sống của tôi ngày càng bi đát. Đã ba ngày rồi, tôi không có một hạt cơm trong bụng. Nơi nào tôi đến thì tôi cũng như bạn bè đều gặp rắc rối. Nếu cứ như thế này, tôi không biết đi về đâu.
Anh dối trá liền lên lớp với cái nhìn đắc chí:
– Anh đừng than thân trách phận làm gì. Này hãy đi theo tôi, anh sẽ được ăn sung mặc sướng.
Họ dắt nhau vào phòng ăn của một khách sạn sang trọng. Sau khi đã ăn uống no nê, mọi người lui về phòng mình. Tuy nhiên anh dối trả không chịu trả tiền, hắn nài nĩ sự thật ngồi nán lại. Vừa thấy ông chủ khách sạn đi qua, hắn đập bàn và la lớn tiếng:
– Tôi đã trả tiền cho nhân viên lâu lắm rồi, chừng nào các ông mới đem tiền thối lại cho tôi?
Ông chủ liền đi tìm nhân viên để hỏi chuyện. Anh ta cho biết anh chưa hề nhận bất cứ đồng bạc nào. Sau một hồi cải cọ, sự dối trá mới rút tiền ra trả rồi nói lớn:
– Thôi được, tôi trả tiền thêm một lần nữa đây, mang tiền thối lại cho tôi gấp.
Sợ mất mặt và gây tiếng xấu cho khách sạn, ông chủ khách san không nhận tiền và thừa nhận vị khách này đã trả tiền ăn cho khách sạn. Ông chủ tìm người nhân viên hầu bàn để khiển trách. Nhân viên đó thề thốt rằng mình không hề nhận tiền, nhưng chẳng ai chịu tin, anh chỉ biết giơ tay lên trời mà kêu than:
– Hỡi sự thật đáng thương, ngươi còn đó hay chết rồi?
Nghe thế, anh sự thật nhìn nhân viên và cố gắng thét lên;
– Ta vẫn còn sống đây, nhưng đã ba ngày ta không có hạt cơm trong bụng. Giờ đây miệng ta bị lấp đầy, ta không thể nói được nữa. Ngươi phải tự đấu tranh cho mình, lưỡi ta bị cột lại rồi.
Anh sự thật cố gắng nói thật lớn nhưng nhân viên hầu bàn không nghe thấy gì. Khi hai người ra khỏi khách sạn, anh dối trá cười nắc nẻ và nói với anh sự thật:
– Ngươi phục tài ta chưa?
Nhưng anh sự thật trả lời:
– Ta thà chết đói còn hơn là làm điều dối trá như ngươi.
Từ đó hai người vĩnh viễn chia tay nhau.
Sống theo sự thật thì phải chấp nhận chịu mất mát hy sinh, thua thiệt. Đó là một chân lý của cuộc sống.
Đức Giêsu tuyên bố với các môn đệ rằng: “Thầy là Đường là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14,6). Đồng thời, Ngài cũng mạc khải rằng: “Ai thấy Thầy là thấy Cha”, “Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy” (Ga 14,10). Điều đó có nghĩa là Ngài cho biết Sự Thật: Ngài là Thiên Chúa. Ngài với Thiên Chúa Cha là một. Thế nhưng chính vì sự thật này mà Đức Giêsu phải chịu án tử hình trên thập giá.
Trước toà án người Do Thái, thượng tế Cai Pha hỏi Đức Giêsu: “Tôi nại đến Thiên Chúa hằng sống mà truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: Ông có phải là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống không?” Đức Giêsu trả lời: “Chính ngài nói đó. Hơn nữa, tôi nói cho các ông hay: Từ nay các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến.” Bấy giờ vị thượng tế liền xé áo mình ra và nói: “Hắn nói phạm thượng! Chúng ta cần gì nhân chứng nữa? Đấy, quý vị vừa nghe hắn nói phạm thượng đến Thiên Chúa, quý vị nghĩ sao?” Họ liền đáp: “Hắn đáng chết” (Mt 26, 63-66).
Như vậy, ngay khi Đấng tuyên bố: “Ta là Sự Thật”, Đấng ấy phải chết. Sự kiện này vẫn cứ xảy ra mãi trong lịch sử con người. Khi cam đảm sống theo sự thật ở trần gian này thì phải chịu mất mát hy sinh. Và cũng chính vì vậy mà ngay khi tuyên bố mình là Đường là Sự Thật thì Chúa Giêsu cũng nói luôn: “là Sự Sống”, để kêu gọi các môn đệ hãy tin vào Ngài.
Sự thật cuối cũng cũng sẽ dành được sự sống sung mãn và vinh quang, sự sống hạnh phúc muôn đời với Thiên Chúa trên Thiên quốc. Sự dối trá lúc đầu, ở trần gian, có thể được sung túc nhưng cũng sẽ sớm bị diệt vong cùng với sự giả trá của trần gian.
Xin Chúa cho chúng ta luôn vững tin rằng ngay khi chúng ta dám chết đi cho Sự Thật thì lúc đó sự sống của Thiên Chúa lại bừng lên trong chúng ta.
Đoạn Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy việc Chúa Giêsu ra đi và trở về. Hẳn nhiên chúng ta thấy vấn đề đặt ra là Chúa Giêsu đi đâu và trở về đâu? Sứ mạng của Ngài là gì?
Chúa Giêsu là Thiên Chúa, từ nơi Chúa Cha mà đến trần gian trong thân phận xác phàm nhưng không mất bản tính Thiên Chúa nơi mình. Sau khi hoàn thành sứ mạng ở trần gian, Ngài trở về cùng Chúa Cha. Sứ mạng của Ngài là “Cứu Thế”, Vị Cứu Tinh không chỉ cho dân Do thái mà còn cho toàn thể nhân loại, cho cả vũ trụ vạn vật vì tất cả vũ trụ vạn vật được sinh ra nhờ Người và trong Người (x. Cl 1, 16).
Một trong những sứ mạng của Chúa Giêsu là mạc khải cho con người biết Chúa Cha. Chúa Giêsu cũng chỉ rõ “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (Ga 14 ,9) vì “Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy”(Ga 14,10). Nơi Đức Giêsu Kitô, chúng ta gặp được Thiên Chúa, dễ gần gũi, dễ yêu thương. Giữa Ngài và Thiên Chúa Cha có một gắn bó mật thiết lạ lùng đến nỗi Chúa Giêsu dám nói: “Ai biết Thầy là biết Cha” (Ga 14,7). Như thế, Lời nói và việc làm của Chúa Giêsu chính là lời nói và việc làm của Thiên Chúa (Ga 14,10).
Cuộc đời Chúa Giêsu phản chiếu khuôn mặt và trái tim Thiên Chúa, đầy nhân ái và bao dung với hết mọi người. Điều kỳ diệu và tuyệt vời là chính Đấng Tuyệt Đối, Đấng Toàn Năng, Cao Cả và Hằng Hữu đã có thể trở thành con người thấp hèn, đơn sơ như em bé nơi máng cỏ Belem, sinh sống nơi làng Nadarét, giao tiếp với người thu thuế, người tội lỗi,…cuối cùng phải chết khổ nhục trên thập giá. Điều kỳ diệu nơi Chúa Giêsu, sự uy nghi của Thiên Chúa tỏ hiện trong khiêm tốn và yếu đuối cách lạ thường như thế.
Không ai thấyThiên Chúa bao giờ (Ga 1,18). Tuy nhiên, chúng ta có thể biết Thiên Chúa qua công trình sáng tạo và lịch sử cứu độ, thấy sự hiện diện đầy kỳ diệu và huyền nhiệm trong vũ trụ này. “Ai thấy Thầy là thấy Cha”, điều này cho chúng ta một xác quyết mạnh mẽ hơn, một niềm tin vững chắc hơn khi chúng ta tiếp cận Lời Chúa, chúng ta đón nhận Mình Máu Chúa, chúng ta lãnh nhận các bí tích và ân sủng tràn lan của Thiên Chúa ban qua Hội Thánh của Người cho chúng ta. Đó là con đường, là cơ hội, là cách thức nhận biết Thiên Chúa để củng cố và nâng đỡ đời sống đức tin của chúng ta.
“Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (Ga 14, 6). Mọi con đường cứu độ đều phải đi vào Con Đường Giêsu. “Thiên Chúa không ban một danh nào khác dưới bầu trời, để nhờ danh đó mà chúng ta được ơn cứu độ” (Cv 4,12). Hơn nữa, hằng ngày chúng ta có thể gặp Chúa nơi tha nhân, nơi những người nghèo khổ, nơi những người bị bỏ rơi,…(x Mt 28) hay nơi những người sống và thi hành ý muốn của Thiên Chúa…
Chúa Giêsu mạc khải cho con người biết Chúa Cha. Ngài còn mạc khải chính Ngài cho chúng ta biết: “Ta là Đường, là Sự thật và là sự sống”. Nơi Chúa Giêsu Kitô có sự sống đời đời, có niềm hạnh phúc vĩnh cửu. Ngài đã mạc khải về con đường đó và Ngài cũng chính là con đường mà ta có thể bước theo để được hưởng ơn cứu độ nhưng không của Thiên Chúa. Chính Ngài mạc khải là lời chân lý, không sai lạc, không hề lừa dối ai bao giờ. Đi trong đường lối Ngài là ta đang đi trong Sự Thật, đi trong đường lối Ngài là ta được đi trong tình thương và ân sủng của Ngài. Đi theo Ngài ta có được sự sống đời đời. Ở trong Lời Ngài, ta sẽ gặp được bình an. Bước đi theo Ngài ta sẽ được hạnh phúc đời đời. Đó chẳng phải là khao khát của chúng ta, khao khát của biết bao người, của những người thành tâm thiện chí đi tìm kiếm Thiên Chúa, Đấng mà họ gọi bằng những tên khác nhau: Đấng Tối Cao, Đấng Tuyệt Đối, Đấng vượt trên mọi danh hiệu… Như thế, con người đang muốn bắc một nhịp cầu với Đấng siêu việt, với Đấng là Đường là Sự Thật và là sự sống đời đời, con người muốn cảm nghiệm và đi sâu vào mối tương quan, vào mối hiệp thông thâm sâu với Đấng Tạo Hóa ấy. Phần của Thiên Chúa, Ngài đã đáp lại khát vọng, Ngài gieo nơi lòng người khi cho Con Một Ngài làm người, ở giữa chúng ta và cũng chính Ngài là Đấng khơi lên và giúp con người biết khát vọng và muốn tìm về cội nguồn của mình, tìm về Đấng đã yêu thương, sáng tạo và quan phòng chăm sóc.
Sau khi đã sống trọn sứ mạng yêu thương tự hiến, Chúa Giêsu đã về với Chúa Cha trong vinh quang Phục Sinh. Ngài cũng muốn chúng ta đi theo Ngài mà về nơi đó. Chúa Giêsu trở thành con đường cho chúng ta đi. Là Kitô hữu, chúng ta can đảm bước đi theo Chúa, chúng ta hãy gạt bỏ những gì không phù hợp với đời sống của người Kitô hữu, đi trên con đường Chúa chỉ dẫn. Con đường mà Chúa Giêsu đã đi là con đường mà Thiên Chúa muốn, là con đường vâng phục theo thánh ý Chúa Cha, là con đường đón nhận đau khổ, chết và phục sinh như Chúa Giêsu. Làm Kitô hữu là làm người như Đức Giêsu Kitô, là trở nên một Giêsu khác cho con người hôm nay, là ước ao để có thể nói được rằng: “Ai biết tôi là biết Đức Kitô, ai thấy tôi là thấy Đức Kitô.” Nếu chúng ta có tình yêu và đức tin, chúng ta sẽ thấy Chúa Giêsu nơi tha nhân vì họ đều là hình ảnh của Thiên Chúa để chúng ta yêu thương họ, bất kể họ thế nào, bất kể họ khác biệt ta đến mức độ nào, vì chính Ngài cũng yêu thương họ, muốn cứu chuộc họ, phục vụ họ. Ngài đã tự đồng hóa Ngài với họ đến nỗi ai làm gì cho họ thì cũng là làm cho chính Ngài, không làm cho họ thì cũng là không làm cho chính Ngài (x. Mt 10.40; 18, 5; 25, 40.45; Lc 10, 16). Ngài muốn ta yêu thương họ bằng trái tim của ta, phục vụ họ bằng đôi tay của ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hiểu được tình thương mà Chúa dành cho chúng con để chúng con đón nhận và đáp lại tình yêu đó, cho chúng con luôn trung thành bước theo Chúa như Chúa hằng khao khát và mạc khải cho chúng con. Amen.
Lễ Vượt Qua là một đại lễ đầy vui mừng, vì tưởng niệm cuộc vượt qua của dân Do Thái, thoát ách nô lệ Ai Cập. Thế nhưng trong nhà tiệc ly, bầu không khí không vui và nặng nề, vì Chúa Giêsu đã nói đến nhiều vấn đề nghiêm trọng. Ngài muốn biến bữa tiệc này thành một cuộc giả từ, vì giờ của Ngài đã đến. Ngài sẽ trở về với Chúa Cha. Trước khi vào bàn ăn, Ngài đã lấy nước rửa chân cho các môn đệ và ban cho họ điều răn mới của Ngài. Sau đó, Ngài cho họ biết rằng, đêm nay, một người trong nhóm sẽ nộp Ngài, và Phêrô tỏ ra hào hùng khi tuyên bố rằng con sẽ thí mạng con vì Thầy. Nhưng Chúa báo cho ông biết rằng, đêm nay ông sẽ chối Thầy ba lần. Vì thế họ phân vân, lo ngại. Và cũng vì thế, Ngài bảo họ: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”.
Không xao xuyến sao được khi Thầy báo Thầy sẽ ra đi. Đi đâu? Tôma nhạy cảm đã thắc mắc: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường?” Thầy đi đâu? Đi dọn chỗ cho anh em. Dọn chỗ là gì? Chúng ta không thể hiểu theo nghĩa vật chất mà phải hiểu rằng Chúa ra đi là để chuẩn bị những gì cần thiết cho chúng ta để Thầy ở đâu, anh em sẽ ở đó với Thầy. Ngài ra đi để ban Thánh Thần cho chúng ta, để Thánh Thần dẫn chúng ta đến sự thật vẹn toàn.
Nhờ câu hỏi của Tôma, Chúa mạc khải một điều mới lạ: “Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy”. Muốn đi đến một nơi nào đó, chúng ta cần đi đúng đường, nếu không chúng ta sẽ lạc lối và chẳng đi đến đâu. Chúng ta đang đi về đâu? Về với Chúa Cha là nguồn hạnh phúc duy nhất của chúng ta, vì Ngài là Tình yêu. Chỉ có Ngài mới là hạnh phúc của chúng ta thôi. Chúng ta cần xác tín mạnh mẽ điều này. Dù thế gian có hứa hẹn với chúng ta những gì đi nữa, bộ mặt thế gian này sẽ qua đi, nhưng Chúa vẫn còn. Con đường là Ngài, là những gì Ngài đã mạc khải cho chúng ta. Ngài là hình ảnh của Chúa Cha vô hình, là phản ánh huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa”. Nhiều lần, Chúa đã bảo chúng ta: “Hãy theo Ta”. Theo Ngài là con đường duy nhất, không có con đường nào dẫn chúng ta đến Chúa Cha cả.
Ngài cũng là sự thật và là sự sống. Chúng ta không thể định nghĩa một cách chính xác hai từ này, nhưng chúng ta có thể hiểu rằng, sự thật là một điều bất biến. Những gì thay đổi không thể là sự thật. Và Sự Thật và Sự Sống chính là Thiên Chúa. Chúa Giêsu muốn cho chúng ta biết rằng, Ngài là Thiên Chúa. Ngài được sai đến là để làm chứng cho sự thật, tức là làm chứng cho Thiên Chúa. Vì thế Chúa cũng nói: “Nếu anh em biết Thầy thì anh em cũng biết Cha Thầy”. Philipphê nài xin: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha”. Nhờ lời thỉnh cầu của ông, Chúa Giêsu lại mạc khải thêm một chân lý mới: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha… Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao?” Nơi khác Chúa Giêsu cũng nói: “Cha Thầy với Thầy là một”. Có cách nào nói rõ hơn nữa không? Trước khi bước vào tử nạn, Ngài muốn cho các môn đệ biết rõ về Ngài, về mối liên hệ mật thiết giữa Ngài với Chúa Cha. Ngài là hiện thân của Chúa Cha. Ngài đến trần gian là để mạc khải Chúa Cha là nguồn sống và hạnh phúc của con người. Ngài nói những gì Chúa Cha bảo Ngài nói, Ngài làm những gì Chúa Cha bảo Ngài làm. Vì thế, Ngài đòi buộc: “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”. Chỉ cần tin thôi: “Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm được những gì Thầy làm, người ấy còn làm những việc lớn hơn nữa”. Và đúng thế, từ bao nhiêu thế kỷ, bao nhiêu thế hệ Kitô hữu, là những người đã tin, đã làm cho Giáo Hội trở thành một cộng đoàn lớn mạnh trên khắp thế giới.
Đức tin chính là điều kiện tất yếu để chúng ta trở thành dụng cụ cho Chúa, cho tình yêu Chúa lớn mạnh trong tâm hồn mọi người. Đức tin là nguồn sống giúp chúng ta thi hành những gì Chúa muốn, như Chúa Giêsu đã làm những gì Chúa Cha muốn Ngài làm. Muốn có được đức tin như thế, chúng ta cần cầu xin và bền vững cầu xin, vì đức tin là một hồng ân chứ không là kết quả của nỗ lực của chúng ta. Chúng ta noi gương Chúa Giêsu là luôn tuân theo ý Cha trên trời, làm những gì Cha mong ước. Chúng ta không xao xuyến như các môn đệ vì Chúa đã hứa ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Chúng ta vững tin rằng Ngài luôn luôn hiện diện nơi bàn thờ hiến tế, khi chúng ta làm những gì Ngài căn dặn để nhớ đến Ngài. Ngài hứa sẽ cho chúng ta ở với Ngài, thì hôm nay, Ngài đến ở với chúng ta, trong xương thịt chúng ta, hoạt động với chúng ta, yêu thương với chúng ta, đau khổ với chúng ta và thánh hóa mọi gánh nặng trần thế của chúng ta. Tình thương của Ngài không hao hụt và ngược lại, trở thành sự sung mãn cho chúng ta. Nếu không có Ngài, cuộc sống chúng ta sẽ ra sao? Và chúng ta sẽ đi về đâu? Ngài là con đường duy nhất đưa chúng ta đến hạnh phúc đời đời. Ở lại trong tình yêu của Ngài như Ngài ở lại trong tình yêu của Chúa Cha, đó là niềm hạnh phúc lớn lao cho chúng ta, chúng ta có hiểu được không?
Mặc dù Ngài đến với chúng ta qua hình thức rất nhỏ bé và khiêm tốn, một tấm bánh thôi, nhưng, tấm bánh đó là sự sống, sự sống không tàn phai, vì đó là Thiên Chúa Tình Yêu.
34.Đường Về Nhà Cha – Lm. Trịnh Ngọc Danh
Sau biến cố Chúa Giêsu chịu chết và đã sống lại như một số môn đệ đã thấy, đa số các môn đệ vẫn còn bàng hoàng, buồn bã, chua thực sự an tâm: một sự kiện quá sức hiểu biết của con người! Một Đấng Tiên Tri đầy uy lực trong cả lời nói và hành động mà lại chịu chết cách nhục nhã đến thế! Tin Chúa đã sống lại cũng chưa làm cho họ an tâm và tin tưởng thực sự; và Thánh Phêrô đã phải nhiều làn lên tiếng để trấn an và củng cố đức tin: “Vinh dự cho anh em là những kẻ tin… anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa, để rao giảng quyền năng của Đấng đã gọi anh em ra khỏi tối tăm mà vào ánh sáng kỳ diệu của Người.” (1 Pr. 2, 7.9)
Tin Mừng hôm nay, Chúa nhật V mùa Phục sinh năm A (Ga. 14,1-12), Giáo Hội muốn chúng ta sống lại những giây phút cuối cùng giữa Thầy Giêsu và các môn đệ, và những gì Thầy trăn trối trước khi chia tay.
Chia ly nào chẳng ít nhiều gây buồn rầu, nuối tiếc! Hiểu được tâm trạng ấy, trong bữa ăn cuối cùng Chúa Giêsu đã phải lên tiếng trấn an các môn đệ:
– “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở” (Ga. 14,1-2)
Ông Simon Phêrô hỏi lại Thầy: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu vậy?”
Thầy Giêsu trả lời: “Nơi Thầy đi, bây giờ anh không thể theo đến được; nhưng sau này anh sẽ đi theo.” (Ga. 13,36) “Thầy đi để dọn chỗ cho anh em. Và khi Thầy đã ra đi và dọn chỗ cho anh em rồi, Thầy sẽ trở lại đem anh em đi với Thầy, để Thầy ở đâu anh em cũng ở đó. Thầy đi đâu, anh em đã biết đường rồi” (Ga 14, 2-4)
Ông Tôma hỏi lại: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường đi!” (Ga. 14,5)
Thầy Giêsu đáp: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.”…
Như thế Chúa Giêsu là ĐƯỜNG VỀ NHÀ CHA
Điều chúng ta cần khẳng định trước tiên là chúng ta cùng ANH EM một nhà, chúng ta có một người CHA và có chung một mái NHÀ. Để về NHÀ CHA, chúng ta không có con đường nào khác hơn là CON ĐƯỜNG GIÊSU: Thầy là đường, là sự thật và là sự sống.
Nhiều lúc, con người thắc mắc không biết mình là ai? Từ đâu tới? Có mặt trên thế gian này để làm gì? Tại sao lại phải sống và chết? Tại sao phải bệnh hoạn, đau khổ…? Và nhiều vấn nạn khác nữa mà không biết bao nhiêu triết gia, bác học, khoa học… chưa tìm được lời giải thích thỏa đáng. Còn chúng ta, chúng ta tin con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa. Chúng ta là con cái Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương chúng ta và đã làm mọi cách để cho chúng ta được hiển vinh như Cha chúng ta ở trên trời, ngay cả việc cho Ngôi Hai, người con yêu dấu duy nhất của Ngài xuống thế gian chịu mọi cực hình khốn khổ để tìm cách cứu vớt chúng ta khỏi sự hủy diệt…
Chúng ta là anh em có một Cha chung. Người Cha nhân hậu ấy vẫn hằng mong mỏi những người con lưu lạc trở về như hình ảnh người cha nhân từ mà Chúa Giêsu đã một lần ám chỉ.
Và có lẽ cũng như Philiphê, chúng ta muốn biết hình dáng người Cha chung của chúng ta: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha và như thế là đủ cho chúng con.”
Và Thầy Giêsu đã trả lời: “Ai thấy Thầy là xem thấy Cha… Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy.” (Ga. 14: 8-9). Thầy Giêsu và Người Cha chung của chúng ta là một.
Sống và chết đối với chúng ta không phải không phải là đi vào cõi hư không, nhưng chỉ là một biến đổi từ trạng thái này qua trạng thái khác, là giã từ trần gian để về nhà Cha, là chờ ngày đoàn tụ với Người Cha nhờ sự sống của Anh Cả Giêsu.
Chúng ta sẽ về Nhà Cha bằng con đường nào?
Đường có nhiều loại: Có đường quanh co, thẳng tắp; có đường gồ ghề, trơn tru; có đường một chiều hai chiều; có xa lộ không đèn; có lối mòn yên tĩnh… CON ĐƯỜNG GIÊSU hẹp mà rộng, trơn tru mà sỏi đá.
CON ĐƯỜNG GIÊSU có Tin Mừng hướng dẫn chỉ đường để đi về sự sống trường sinh. Đi trên con đường đó, phải biết lách mình mà đi, phải chống chọi với nhiều thú dữ, phải canh chừng thức tỉnh với những phù phiếm xa hoa bên đường, phải vững tin bước đi theo những hướng dẫn của Tin Mừng, phải biết “vác thánh giá mỗi ngày” mà đi, phải biết gạt bỏ những dục vọng, đam mê cuốn hút… Con đường ấy rộng thênh thang nhưng có rất nhiều cạm bẫy. Mất cảnh giác là gặp phải tai nạn. Con đường thênh thang nhưng gồ ghề khúc khuỷu là thế.
Nếu có bị lạc đường, lấy đèn sáng đức tin mà đọc lại bản Tin Mừng hướng dẫn. Con đường đến với Thiên Chúa gây nhiều trở ngại và bối rối cho nhiều người. Có người vì quá bối rối mà mất cả niềm hy vọng, mất phương hướng, lạc đường. Những lúc mất phương hướng và lạc đường như thế, hãy tìm lại CON ĐƯỜNG GIÊSU, vì “Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.” Con đường Giêsu là con đường sự thật, là con đường dẫn đến sự sống.
Như thế, Chúa Giêsu muốn cho chúng ta hiểu rằng không kết hợp với Ngài, không đi theo đường lối hướng dẫn của Ngài, con người sẽ khó đi đến cùng đích, sẽ khó đạt được vinh quang vĩnh hằng, sẽ khó mà vào được nhà Nhà Cha.
Chỉ khi nào chúng ta khám phá ra gương mặt của Chúa Giêsu trong mọi biến cố của cuộc đời mình, lúc đó chúng ta mới thực sự hiểu thế nào là Con đường Giêsu.
Cuộc sống của chúng ta hiện nay là một cuộc hành trình đi về Miền Đất Hứa, là một cuộc hành trình đi về Nhà Cha, một cuộc hành trình Đức tin.
Trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, có những lúc chúng ta gặp khủng hoảng về đức tin. Chính những lúc như thế, cần có đức tin nâng đỡ, thì chúng ta lại buông xuôi; và cũng chính những như thế, chúng ta mời thấy lòng tin vào Thiên Chúa ở mức độ nào.
Khi gặp khủng hoảng về đức tin, điều duy nhất mà chúng ta có thể làm là bước đi trong sự kiên quyết tín nhiệm nơi Thiên Chúa.
Lòng tin đích thực giúp chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa luôn ở với chúng ta. Đó là điểm tựa, là niềm hy vọng cho cuộc sống chúng ta. Ai có đức tin đều có nguồn an ủi và niềm cảm hứng ấy, đặc biệt khi gặp cảnh bối rối.
Chúa Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống. Trong Ngài và với Ngài, chúng ta nhận ra thân phận, ý nghĩa cuộc đời mình. Ngài là phần thưởng và là cùng đích của mỗi Kitô hữu chúng ta. Chúng ta hãy bước đi trên con đường của Chúa Giêsu đã vạch ra. Sống chân lý tình yêu của Ngài. Và sống sức sống thần linh của Ngài mỗi ngày trong cuộc sống chúng ta.
Lạy Chúa, chúng con tin rằng: “ Lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng Chúa. Chúa để mắt trông coi những kẻ kính sợ Chúa, nhìn xem những ai trông cậy ân sủng của Chúa để cứu giúp họ khỏi tay thần chết và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn.” (Tv.32: 18-19). Nhờ Chúa, chúng con được cứu chuộc và trở nên nghĩa tử, xin Chúa đoái nhìn đến chúng con, những kẻ tin vào Chúa Giêsu Kitô, cho được hưởng tự do thật sự và phần gia nghiệp muôn đời nơi nhà cha trên trời.
Câu hỏi:
1. Tại sao Chúa Giêsu nói: “Trong nhà Cha thầy có nhiều chỗ ở.” Nhiều chỗ ở có ý nghĩa gì?
2. Chúa nói: “Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm.” Câu nói ấy ám chỉ gì?
3. Thánh Phêrô đã nói: “Chính anh em là như những tảng đá sống động”. Tảng đá sống động biểu tượng cho vấn đề gì?
Anh chị em thân mến.
Một lần tôi vào quán ăn trên đường, tôi chú ý đến bàn ăn bên cạnh, vì nơi đó có một đứa bé khó tánh. Thức ăn bày ra trước mặt nó, vậy mà nó không bằng lòng với những gì đang có. Người mẹ ngồi bên cạnh hết sức nhẫn nại, vừa năn nỉ vỗ vành, vừa cố gắng cho thức ăn vào miệng cho con, nhưng cuối cùng, bà không thể nào làm gì hơn được. Bên cạnh đó, cũng có một đứa bé lẵng lặng đứng nhìn. Nó nhìn những tô thức ăn của thực khách đã dùng xong nhưng còn thừa lại. Nó cũng nhìn vào tô thức ăn mà đứa bé khó tánh kia đang làm khó mẹ nó. Người mẹ trẻ cũng nhìn thấy đứa bé đang đứng nhìn như thế, bà gọi em đến và cho em tô thức ăn gần như còn nguyên vẹn. Em rục rè cho tất cả những gì trong tô vào trong chiếc lon của em và mang ra ngoài. Bên ngoài còn một đứa trẻ khác nhỏ hơn, đang ngồi chờ đợi. Người chị vui mừng, cho em ăn trước, sau đó nó mới dùng phần còn lại.
Tôi chợt suy nghĩ. Đứa bé có người mẹ bên cạnh, được nâng niu chiều chuộng, nó không biết tận hưởng hạnh phúc mà nó đang có, mà lại đòi hỏi cái gì không có trong hiện tại, nên nó khó chịu và không chấp nhận hiện tại. Còn đứa bé có đứa em đang ngồi chờ bên ngoài, nó biết tận dụng những gì mình có được, để mang lại lợi ích cho mình và cho người khác.
Hạnh phúc không ở đâu xa, nó ở ngay bên cạnh, nếu ai biết tận hưởng thì sẽ được, còn ai không biết thì sẽ không bao giờ nhận được.
Các Tông Đồ sống với Chúa Giêsu bao nhiêu năm trời, các ông nhìn thấy những việc làm, những điều lạ mà Ngài đã thực hiện. Các ông còn được nghe những lời giảng dạy riêng cho các ông để hướng dẫn cho bước đường tương lai. Vậy mà trong giờ phút quyết định, các ông lại thốt lên qua miệng của Tôma: “Chúng con không biết Thầy đi đâu làm sao chúng con biết đường đi”. Còn Philipphê thì sao? Ông không nhận ra được người mà mình đã theo bao nhiêu năm trời đây là ai, ông chỉ thấy đây là một con người, vì mặc dù sống với Chúa Giêsu, nhưng ông chỉ lắng nghe chính mình, ông chỉ theo những gì mình muốn, nên những gì của Chúa Giêsu không ảnh hưởng đến ông.
Chúa Giêsu bảo các ông “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống… Ai thấy Thầy là xem Thấy Cha”. Ngài muốn nói với các ông: những gì các ông đòi hỏi, nó đang ở trong hiện tại trước mắt các ông, nếu biết nhìn thấy để nhận ra mà sống thì thật là hạnh phúc. Một học giả nói rằng: “Con người luôn nuối tiếc quá khứ, mơ ước đến tương lai, nhưng lại hờ hững với hiện tại”. Cái hiện tại là kết quả của quá khứ, là đường để đi đến tương lai, nhưng con người thường quên nó đi.
Các Tông đồ ngày xưa đã như thế, nhưng các ông được dạy bảo, nhắc nhở và các ông đã biết sống trở lại cho tốt. Câu chuyện của ngày xưa, tưởng đã đi vào quá khứ, nhưng nó vẫn còn là một câu chuyện thời sự nóng bỏng của ngày hôm nay đối với mỗi người trong chúng ta. Cũng như các Tông Đồ khi xưa, chúng ta cũng thường đòi hỏi, mơ ước những gì không có trong hiện tại, để những đòi hỏi, những mơ ước đó nó làm khổ chúng ta trong cuộc sống. Biết bao lần chúng ta bất mãn với hiện tại, không bằng lòng về chính mình, không bằng lòng về cách sống, không bằng lòng với người chung quanh và thường hay hỏi tại sao tôi không được như người khác, tại sao tôi không được tốt hơn… Những lần như thế, chúng ta đang đi trên con đường của các tông đồ khi xưa. Những lúc đó, Chúa Giêsu cũng nói với chúng ta lời nói khi xưa “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống… ai xem thấy Thầy là xem thấy Cha”. Những khi đó chúng ta có cảm nhận được hạnh phúc mà mình đang có, cảm nhận được hồng ân Chúa bao bọc chúng ta không? Nếu chúng ta biết trân trọng hiện tại và chu toàn trách nhiệm mình cho tốt: trách nhiệm của một con người mà Thiên Chúa đã đặt để trong xã hội, trách nhiệm của một người Công Giáo. Cụ thể hơn là trách nhiệm của một người cha, người mẹ trong gia đình, chúng ta có làm gương tốt, có dạy dỗ con cái theo thánh ý Chúa không? Nếu trong cuộc sống đời thường, chúng ta biết vượt qua những trở ngại, những vất vả, để chấp nhận cuộc sống và hoàn thành trách nhiệm của mình mà không phàn nàn trách móc.
Đó là chúng ta như đứa trẻ biết tận dụng cái mình đang có để đem lợi ích đến cho mình và cho người khác. Khi đó chúng ta đang nhận ra Chúa là đường, là sự thật và là sự sống cho chính chúng ta.
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An – Giêrusalem 13.5.2014)
Chúng tôi đang ở Giêrusalem. Đoàn hành hương gồm 38 người (9 linh mục và 29 giáo dân) đi từ Việt Nam qua Ai cập đến Israel và sẽ qua Giocđan rồi trở về với hành trình 14 ngày.
Đi hành hương theo dấu chân Chúa Giêsu với tâm tình tạ ơn và cảm mến. Mỗi nơi đến, chúng tôi đều dành thời giờ đọc phúc âm và cầu nguyện, hát thánh ca. Nhờ đó mỗi người càng thêm xác tín những chân lý đức tin.
Đọc Tin mừng Chúa nhật V Phục sinh trong bầu khí cầu nguyện tại Đất Thánh, tôi suy niệm về lời giảng dạy của Chúa Giêsu.
Hai thánh Tông đồ Tôma và Philípphê đã hỏi Chúa hai câu và Chúa đã mạc khải hai chân lý thật quan trọng:
– Thầy là đường là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.
– Ai thấy Thầy là thấy Cha; Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy.
Chỉ có thể đạt tới Cha khi chúng ta đi theo Đấng tự nhận là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Và cũng không ai có thể tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa mà lại không do Thánh Thần. Hiểu biết đích thực về Cha và Con mang dấu ấn Thánh Thần. Chính trong Thánh Thần mà Thiên Chúa là Cha và Đức Giêsu là Con. Thiên Chúa mà mọi tín hữu tôn thờ và yêu mến hết linh hồn, hết sức lực, hết trí khôn, chính là Thiên Chúa hiện thân nơi Đức Giêsu Kitô “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (Ga 14, 9) vì “Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy”(Ga 14, 10).
Trải qua bao thời, con người kiếm tìm con đường dẫn đến chân lý và sự sống thật. Đã có biết bao nhiêu suy tư siêu hình học, triết học, thần học, tôn giáo, chiêm niệm, thần bí và khoa học… tìm kiếm sự thật về vũ trụ chung quanh và về cuộc sống con người. Bao nhiêu chất xám đã đầu tư để đi tìm nguồn sự sống và cùng đích của cuộc sống. Dù đã cố gắng hết mình con người vẫn còn bế tắc trong nhiều lĩnh vực của sự thật và sự sống.
Cách đây trên hai ngàn năm, Chúa Giêsu đã xuất hiện mặc khải cho con người con đường đi đến chân, thiện, mỹ. Ngài mở ra nhân loại con đường: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6).
1. Thầy là Đường
Thánh Gioan Tiền Hô đã loan báo ơn cứu độ. Gioan kêu gọi mọi người hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng. Để đón nhận Đấng Cứu Thế, mọi người phải chuẩn bị sám hối, cải đổi đời sống và mở rộng tâm hồn.
Thường khi đón chào một vị Vua, Hoàng đế hay Nữ hoàng, người ta chỉ cần sửa sang lối đi, quét dọn nhà cửa sạch sẽ và đón chào trong tiếng kèn tiếng trống náo nhiệt, hân hoan vui vẻ. Đón nhận Đức Chúa hoàn toàn khác biệt, Gioan gióng lên lời mời gọi: Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi (Mc 1,3). Chúa cần đi lối thẳng thắn nơi tâm hồn. Con đường Chúa đi là con đường dẫn tới đời sống nội tâm bên trong. Con đường Chúa đi là con đường khiêm tốn và yêu thương.
Chúa là con đường dẫn tới sự sống. Ngài giới thiệu cho các môn đệ con đường dẫn tới Nhà Cha: Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi (Ga 14,4). Con đường Chúa đi không phải là con đường thênh thang rộng mở và không phải là con đường trần thế vinh quang. Con đường Chúa đi là con đường phục vụ, hy sinh. Con đường Chúa đi là con đường lên dốc đồi Calvariô để chịu nạn và chịu chết.
Chúa Giêsu là con đường tiến lên. Các môn đệ còn nhiều thắc mắc về đường đi nước bước của Chúa. Tâm tư các tông đồ còn đang mong mỏi một con đường vinh hoa phú quý. Ông Tôma nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?” (Ga 14,5). Các Tông đồ không biết con đường nào Chúa sẽ đi. Không ai mong muốn con đường thập giá, con đường khổ đau, chết chóc. Chúa đã từng bước dẫn dắt các Tông đồ qua con đường sự chết để vào con đường sự sống. Qua con đường nhỏ hẹp để bước vào cõi sống hạnh phúc trường sinh.
2. Thầy là Sự Thật
Chúng ta đang sống trong một thế giới có nhiều ảnh hưởng của mê lầm và dối trá. Các nhà lãnh đạo quốc gia không dám nói hết sự thật. Các cấp lãnh đạo tôn giáo đôi khi cũng sợ nói sự thật. Các nhà giáo dục cũng không muốn đặt vấn đề sự thật trong các ngành nghề. Các bậc bề trên, phụ huynh và người hướng dẫn cũng che dấu sự thật. Vì nói sự thật thì có khi mất lòng, mất danh dự, mất uy tín, mất địa vị, mất công ăn việc làm và mất chính mình. Chúng ta sợ sự thật của gia đình, của con cái, của cha mẹ, của nhân viên, của các cộng tác viên và của chính mình bị phơi bầy và tỏ lộ. Có khi vì sự thật liên quan đến miếng cơm manh áo và tiếng tăm địa vị. Mấy ai can đảm nói hết sự thật.
Chúa Giêsu là Sự Thật. Chúa thấu tỏ lòng người. Chúa hiểu thấu được lòng con người nghĩ gì và muốn gì. Nhiều người nghe Chúa giảng đã phải thốt lên: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy nói và dạy một cách thẳng thắn, không thiên vị ai, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa” (Lc 20,21). Chúa Giêsu thẳng thắn phê bình những lầm lỗi và cách hành xử của các nhà lãnh đạo tôn giáo. Họ chỉ thích được ưa chuộng những hình thức xuất hiện bên ngoài, giả dạng và khoe khoang. Họ ngại bước vào đời sống nội tâm vì sợ nhìn thấy mặt trái của đời sống mình. Vì sống theo sự thật là sống trong ánh sáng: Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa (Ga 3,21).
Chúa Giêsu là con đường dẫn tới sự thật. Nghĩ thật, nói thật và rao giảng sự thật. Con người Chúa Giêsu là con người trong sáng và chân thật tuyệt đối. Ngài ra giảng dạy công khai và minh chứng cụ thể qua các việc làm. Ngài giảng dạy chân lý và áp dụng lời giảng trong cuộc sống mình. Còn chúng ta đôi khi nói một đàng, làm một nẻo. Ngôn hành bất nhất. Chúng ta muốn có sự thật nhưng không thực hành sự thật. Sự dối trá cứ len lỏi ràng buộc chúng ta vào những mê lạc tự vệ, cố chấp, ương ngạnh và sống giả hình.
Chỉ có sự thật mới giải thoát chúng ta. Chúa Giêsu nói với những người Do thái rằng: Các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông (Ga 8,32). Sự thật thì đơn sơ chân thành ví như tâm hồn trong trắng của trẻ thơ. Tâm hồn chân thật thì thanh thoát và không lệ thuộc vào những tranh đua hơn thua ở đời. Khi so sánh hơn thiệt và đua đòi cuộc sống dễ dẫn chúng ta đến những sự giấu giếm, giả trá, lừa lọc và dối gian. Người đời thường nói rằng: Sông sâu còn có kẻ dò, lòng người nham hiểm ai đo cho cùng. Chúa Giêsu thì hiểu thấu lòng con người hơn ai hết. Chúa biết những ý nghĩ thầm kín của người đời. Chúa thường yêu và cầu nguyện cho các môn đệ được thành tín chân thật: Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật (Ga 17,17).
3. Thầy là Sự Sống
Chúa Giêsu là nguồn sự sống và là bánh trường sinh. Chúa phán: Tôi là bánh trường sinh (Ga 6,48). Chính nhờ Người, với Người và trong Người, Thiên Chúa Cha đã tác tạo muôn loài. Chúa Giêsu là đầu và là cùng đích của các loài thụ tạo. Ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại (Ga 1,4). Chúa Giêsu là sự sống và là ánh sáng đến trong trần gian. Người đến để mọi người được sống và sống dồi dào. Người là bánh ban sự sống, dưỡng nuôi và dẫn chúng ta đến sự sống đời đời. Thánh Gioan, người tông đồ được Chúa yêu mến đã xác tín rằng: “Vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian” (Ga 6,33). Chúa Giêsu là chủ thể có quyền trên vũ trụ vạn vật và uy quyền trên sự sống và sự chết.
Sự sống mà Chúa sẽ ban là sự sống thật. Con đường dẫn vào sự sống là chu toàn lề luật và các giới răn. Đức Giêsu đáp: “Sao anh hỏi tôi về điều tốt? Chỉ có một Đấng tốt lành mà thôi. Nếu anh muốn vào cõi sống, thì hãy giữ các điều răn” (Mt 19,17). Chúa Giêsu căn dặn chúng ta rằng đừng quá lo lắng cho cuộc sống tạm bợ này. Ngày tháng sẽ trôi qua, tuổi đời sẽ chồng chất và sự chết sẽ đến. Tiên vàn chúng ta hãy tìm kiếm nước trời, mọi sự khác Người sẽ ban thêm cho. Vì sự sống hay chết đều nằm trong sự quan phòng của Chúa. Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Vì vậy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc; vì mạng sống thì hơn của ăn, và thân thể thì hơn áo mặc” (Lc 12,22-23).
Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại. Sự chết không còn làm chủ được Người nữa. Người đã đi vào sự sống vĩnh cửu. Chúa phán: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống” (Ga 11,25). Chúng ta cần đặt niềm tin tưởng vào Chúa Kitô Phục Sinh. Nơi Người, chúng ta sẽ tìm được câu giải đáp cho thân phận con người. Thiên Chúa tạo dựng loài người là muốn cho tất cả mọi người được chung hưởng niềm hạnh phúc viên mãn.
Chúa Giêsu là đường dẫn đến sự sống thật. Người là sự thật đưa dẫn đến sự sống đời đời và sự sống thật là con đường kết hợp mật thiết với Đấng Tạo Thành. Chúa Giêsu trở thành trung tâm cốt lõi cho tất cả mọi suy tư tìm kiếm nguồn chân lý, sự thánh thiện và sự hoàn hảo tuyệt mỹ.
Lạy Chúa, Chúa là đường, là sự thật và là sự sống. Xin Chúa dẫn dắt chúng con theo đường chân lý của Chúa để chúng con được hưởng niềm vui sự sống muôn đời.
37.Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng
GIÊSU – ĐƯỜNG DẪN TỚI CHÂN LÝ VÀ SỰ SỐNG MUÔN ĐỜI
Kính thưa quý cộng đoàn Phụng Vụ! Chuyện xưa kể rằng: ‘một hôm Đức Phật dẫn các đồ đệ của Ngài ngắm trăng rằm đang treo lơ lửng xa xa ngoài chùa; Ngài chỉ tay lên mặt trăng và hỏi các đồ đệ: Các con có nhìn thấy gì chăng? Liền tức thời, các môn đệ không ngần ngại đáp: dạ, chúng con nhìn thấy mặt trăng to tròn! Nghe thế, Đức Phật liền nói: Ta chẳng phải là ánh trăng kia, nhưng ta chỉ là một ngón tay chỉ cho các con hướng nhìn về ánh sáng tuyệt diệu đó mà thôi!’ Thật sự, nhìn lại các nhà sáng lập tôn giáo trên thế giới, chưa một vị nào dám khẳng định: họ chính là đường, là sự thật và là sự sống, ngoài Đức Ki-tô là Thiên Chúa xuống thế làm người, chịu khổ nạn, chịu chết và phục sinh như lời Người đã phán hứa cả. Cũng trong niềm vui Phục Sinh nối tiếp trong đời sống của mỗi chúng ta, một lần nữa, Chúa Giê-su muốn chúng ta hãy xác tín vào Người như Người đã từng dạy dỗ các Thánh Tông Đồ, đặc biệt ông Tô-ma và Phi-lip-phê trong đoạn Tin Mừng hôm nay “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (x. Ga 14, 6), và “Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư, Phi-lip-phê? Ai thấy Thầy là xem thấy Cha” (x. Ga 14, 9). Chúa Giê-su trước khi từ giã, Người đã dặn dò với các Tông Đồ yêu dấu “lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy…Thầy đi để dọn chỗ cho các con…Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu, các con cũng ở đó” (x. Ga 14, 1-3). Lời căn dặn tha thiết trìu mến này luôn vang vọng trong đời sống đức tin, cầu nguyện của mỗi người chúng ta, đặc biệt những lúc chúng ta thất vọng, đối diện với đau khổ, tâm hồn xuyến xao, đối mặt với vấn nạn cuộc đời, v.v…Những lúc chúng ta nghĩ Thiên Chúa đang bỏ mặc, xa lìa chúng ta, ‘Thiên Chúa đi vắng, Thiên Chúa ngoảnh mặt làm ngơ, không đoái hoài đến nỗi niềm thổn thức, ưu tư lo lắng của chúng ta!’, nhưng chính thời khắc ấy, lời Người vang vọng trong tâm hồn chúng ta đó “…hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (x. Ga 14, 1). Vì chính Chúa Giê-su là chân lý, là sự sống viên mãn. Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng, là sự sống muôn đời như chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính của Công Đồng Nicea-Constantinople. Và vì Người là nguồn mạch chân lý, và sự sống vĩnh hằng, nên chỉ duy mình Người có khả năng dẫn dắt, vạch đường chỉ lối cho chúng ta đến cùng Chân Lý và Sự Sống ấy. Hơn nữa, không những là người ‘quân sư’ chỉ lối, mà Người chính là ‘đường dẫn tới sự thật và sự sống viên mãn’ ấy. Cuộc đời chúng ta có rất nhiều đường, vô số ngã rẽ, những đoạn đường quanh co dẫn ta đến thú vui, hạnh phúc chóng qua, thành quả phút chốc nhưng bị diệt vong đời đời! Cuộc sống chúng ta không luôn luôn là những thảm hoa hồng trải dài, lót chân ta đi trên đường phẳng phiu, tươi đẹp! Tương tự, trong mối tương quan xã hội, cộng đoàn, giáo xứ, gia đình, giữa người với nhau, giữa người với môi sinh xung quanh, chẳng phải lúc nào cũng suông sẻ, ‘thuyền êm trôi, xuôi mái chèo’, mà thiết nghĩ, những lúc này, thời khắc ấy, chúng ta có nhận ra Chúa Giê-su đang ‘trải rộng’ đường cho ta bước đến chân lý và sự sống, hay chúng ta lơ đễnh bước trên con đường ‘thảm đỏ’ của trần gian, của thú vui, của thói quen ươn hèn, biếng nhác dẫn đến chỗ diệt vong? Những lúc mất phương hướng trong đời, bị ruồng bỏ, bị thờ ơ, bị lãng quên, bị lạc lõng và lạc lối, chúng ta có tín thác, tin tưởng, quay về với Chúa Giê-su – chính là đường dẫn đưa chúng ta đến Chân Lý và Sự Sống vĩnh cửu, hay chúng ta cứ ương ngạnh trong cái tôi to tướng, nhỏ nhen, thói đời đi ngược với lời Chúa và giáo huấn của Giáo hội? Vì vậy, để lòng chúng ta luôn thức tỉnh, nến Đức tin chúng ta luôn cháy sáng, ta hãy xác tín ơn gọi của mỗi chúng ta, đặc biệt trong xã hội hôm nay, như Thánh Phê-rô đã nhắc nhở giáo đoàn: “Anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế, vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa, để rao giảng quyền năng của Đấng đã gọi anh em ra khỏi tối tăm mà vào ánh sáng kỳ diệu của Người” (1Pr 2, 9). Chúng ta được Thiên Chúa ban tất cả đặc sủng này không phải bởi vì chúng ta xứng đáng lãnh nhận, cũng chẳng phải vì chúng ta có công trạng trước mặt Chúa; nhưng đơn giản chỉ vì lòng lân tuất, tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta mà thôi. Chính nhờ lòng thương xót vô bờ bến ấy, mà mỗi người chúng ta được Thiên Chúa tuyển chọn, được thông phần vào sứ vụ thờ phượng (tư tế), rao truyền và làm chứng (tiên tri), xây dựng tình hiệp nhất (vương giả). Mỗi lúc nhớ lại, khi chúng ta được rửa tội nhờ bởi Thánh danh Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta cũng được tháp nhập, tham dự vào 3 sứ mạng: tư tế (phụng tự, cầu nguyện, tham dự các Bí tích), tiên tri (giảng dạy, rao truyền, chứng tá) và vương đế (đóng góp, xây dựng cộng đoàn trong tình hiệp nhất, hiệp thông). Và sứ vụ này được thể hiện một cách rõ nét từ thời Giáo hội sơ khai (thời các Tông đồ) như sách Công Vụ Tông Đồ đã thuật lại một cách sống động, rõ nét: “Vậy thưa anh em, anh em hãy chọn lấy bảy người trong anh em có tiếng tốt, đầy Thánh Thần và khôn ngoan, để chúng tôi đặt họ làm việc đó. Còn chúng tôi, thì sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ lời Chúa” (Cv 6, 3-4) Bảy ứng viên trong cộng đoàn được chọn để hỗ trợ, phụ giúp các Thánh Tông Đồ, phục vụ cộng đoàn; và nhờ đó “Lời Chúa lan tràn, số môn đồ ở Giê-ru-sa-lem gia tăng rất nhiều…đám đông tư tế vâng phục đức tin” (Cv 6, 7). Noi gương cộng đoàn Giáo hội tiên khởi, chúng ta hãy nhìn lại cung cách phục vụ, tinh thần xả thân, cộng tác với các chủ chiên, các linh mục trong việc mục vụ-làm chứng-rao truyền như thế nào? Là dân được Thiên Chúa tuyển chọn, đặt Chúa Ki-tô Phục Sinh làm trung tâm đời sống, tất cả mọi sinh hoạt của chúng ta chưa? Hay thay vì Chúa Ki-tô Phục Sinh là trung tâm, thì chúng ta lại muốn mọi người khác phải quay tròn quanh ta, muốn mọi người phải làm hài lòng cái tôi của ta? Chúng ta cùng dành ít phút thầm thỉ trong lòng, thưa chuyện với Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh – là trung tâm đời sống của ta, của cộng đoàn, của gia đình ta. Người chính là đường dẫn đến sự thật và sự sống muôn đời:
Giê-su yêu dấu của lòng con
Dang đôi tay thương đón con thơ
Dẫu chông gai, mịt mờ tăm tối
Đưa con về đường lối trường sinh. Amen!
Có lẽ những ai đã học qua chương trình Văn Học lớp 12 đều không quên một tiểu tiết vui vui trong truyện ngắn “Đôi Mắt” của Nam Cao. Trong đó, anh Hoàng kể cho anh Độ nghe một câu chuyện “nực cười nhưng chẳng dám cười”. Anh kể rằng: “Tôi kể cho anh nghe chuyện nầy thế nào anh cũng cho là bịa. Nhưng tôi có bịa tí nào, tôi chết. Một hôm, tôi đi chợ Huyện chơi. Ở nhà đã hỏi đường cẩn thận rồi, nhưng đến một ngã ba, lại quên béng mất, không biết phải rẽ lối nào. Đành đứng lại, chờ có người đi qua thì hỏi, chờ mãi mới thấy có một anh thanh niên vác một bó tre đi tới. Tôi chào rồi hỏi: ‘Đi chợ Huyện lối nào, ông làm ơn chỉ giúp tôi’… Anh ta bảo: ‘Ông cứ đi lối nầy, đến chỗ có một cây đa to thì rẽ về tay phải, đi một quãng lại rẽ về tay trái, qua một cánh đồng, vào đường gạch làng Ngò, vòng ra đằng sau đình, rẽ về tay phải, đi một quãng nữa thì đến chợ’. Đại khái như thế chứ không hoàn toàn đúng như thế. Chỉ biết nó lôi thôi rắc rối, nhiều bên phải bên trái, đến nỗi tôi không tài nào nhận ra được. Cuối cùng, anh bày cho tôi một cách: Đứng đợi đấy, gặp ai gánh hàng đi chợ thì đi theo…”.
Tình huống của anh Hoàng đôi khi chúng ta cũng có thể gặp phải. Nếu ta đang ở một nơi xa lạ cần phải hỏi thăm đường đi. Đôi khi cách chỉ đường quá phức tạp đến nỗi ta “hỏi cũng bằng không”. Nhưng cũng có thể ta may mắn gặp được một người tử tế, nhiệt tình, người ấy nói: “Thật khó chỉ cho anh. Thôi, anh cứ đi theo tôi, tôi sẽ dẫn anh đi”.
Bối cảnh Tin Mừng hôm nay cho ta thấy tâm trạng âu lo của các Tông đồ khi biết mình sắp phải đơn độc. Trong Bữa Tiệc Ly, khi được biết Thầy không còn ở với mình nữa, các Tông đồ đã hết sức hoang mang và xao xuyến. Chúa Giêsu biết được tâm trạng của các ông nên Người đã trấn an, đồng thời hé mở cho các ông thấy việc ra đi của Người hoàn toàn cần thiết và có lợi cho các ông: “Anh em đừng xao xuyến!… vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em”. Tôma vẫn chưa yên tâm vì chưa biết làm sao đi đến đó được. Ông hỏi Thầy: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao biết được đường?”. Chúa Giêsu không chỉ đường bằng cách đưa ra nhiều phương hướng phức tạp. Thay vào đó, Người nói: “Thầy là Đường, là Sự thật và là Sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”.
Như thế, Chúa Giêsu đã chỉ rõ mục đích của cuộc hành trình đời người là về với Thiên Chúa là Cha; và trong cuộc hành trình đó, chính Chúa Giêsu vừa là con đường, vừa là người dẫn đường cho mọi người.
Thật vậy, bước vào cuộc trần nầy là chúng ta bước vào một cuộc hành trình, hành trình hướng về Thiên Chúa là nguồn cội và cùng đích của đời mình. Nhưng con đường đến với Thiên Chúa không phải lúc nào cũng bằng phẳng. Nếu ta tự mình dò dẫm bước đi thì rất dễ lạc mất phương hướng, rất dễ rơi vào trạng thái lo âu chán nản rồi mất cả niềm hy vọng. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã dọn đường dẫn lối cho ta. Đi trên con đường Giêsu, ta không bao giờ sợ lạc lối. Trên con đường Giêsu, ta không đi lẻ loi một mình mà có Chúa Giêsu dẫn bước ta đi, có những anh chị em cùng đồng hành với ta.
Do đó, mỗi người chúng ta hãy hoà cùng cộng đoàn Dân Chúa, vững tâm tiến bước dưới sự dẫn dắt của vị thủ lãnh là Đức Giêsu Kitô. Hãy tin tưởng ta có một mái nhà vĩnh cửu để hướng về, nơi đó ta sẽ có một cuộc sống thật, một cuộc sống hạnh phúc đời đời.
(Trích “Như Thầy Đã Yêu” của Thiên Phúc)
Đức Khổng Tử trong giờ phút lâm chung cho gọi thầy Tăng Tử là môn đệ mà Ngài đặt nhiều tin tưởng, đến bên giường bệnh và nói:
– Này Tăng Tử con ơi! Trước giờ thầy nhắm mắt lìa đời, con có điều gì thắc mắc về nhữnglời ta đã cùng con thảo luận?
Thầy Tăng Tử đáp:
– Bạch Thầy, Thầy quả là bậc chí nhân quân tử. Những lời Thầy đã chỉ dạy làm cho chúng con thấy khó mà thực hiện cho trọn vẹn.
Đức Khổng Tử mới nói:
– Này Tăng tử, trong các điều ta đã giáo huấn có điều đúng, có điều sai. Nhưng có một cái mà ta chắc chắn không bao giờ sai đó là điều ta không biết!
***
Đức Khổng Tử là bậc thánh hiền, học thuyết của ông đã ảnh hưởng đến bao đời, thế mà trước lúc lâm chung, ông phải tự nhận mình không biết gì. Khác với Khổng Tử là người chỉ đường Đức Giêsu chính là đường. Trước khi lìa các môn đệ để về cùng Cha, Người đã khẳng định: “Chính Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua thầy” (Ga 14,6).
Đức Giêsu chính là Đường, dẫn chúng ta đi từ nhịp cầu đau khổ đến bến bờ vinh quang, từ cõi chết trở về cõi sống, từ đời sống tạm bợ tới cuộc sống vĩnh hằng, từ trần gian tục lụy về quê hương Thiên đàng.
Đức Giêsu chính là sự thật. Sự thật tuyệt đối, sự thật về một Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc con người. Sự thật sẽ giải thoát chúng ta (Ga 8,32)
Đức Giêsu chính là Sự Sống. sự sống vĩnh cửu, sự sống từ cung lòng Cha ban cho mọi loài được sống. Sự sống đã giải thoát con người khỏi chết muôn đời.
Người chính là Đấng cứu độ duy nhất. Cũng như “mọi con đường đều dẫn tới Roma”, thì mọi con đường cứu độ đều phải dẫn đến con đường Giêsu. Tất cả loài người đều được cứu độ nhờ danh của Người, kể cả những con người không biết Người, nhưng sống theo lương tâm ngay lành, đều được Người ban ơn cứu độ. Sách công vụ tông đồ viết: “Thiên Chúa không ban một danh nào khác dưới bầu trời, để nhờ danh đó mà chúng ta được ơn cứu độ” (Cv 4,12).
Con đường của Người là đường phục vụ, đường yêu thương. Vì thế những ai muốn đi trên con đường của Người cũng phải dấn thân phục vụ anh chị em, và tận tình yêu thương con người.
Con đường của Người là đường thánh giá, đường đau khổ. Vì thế những ai bước đi trên con đường ấy cũng phải dám hy sinh bản thân, và sẵn lòng chịu khổ vì danh Đức Giêsu.
Hy sinh bao giờ cũng cho tâm hồn đẹp cao thượng. Với tình yêu, những khó khăn kia dường như nhỏ lại, những vất vả như bị xóa nhòa. Lòng chúng ta lại thấy vui hơn, cuộc đời thênh thang rộng mở.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã về với Chúa Cha trong vinh quang sau khi đã sống một đời yêu thương tự hiến. Xin cho chúng con cũng biết đi trên con đường của Chúa, là yêu thương phục vụ anh em, để cuối con đường thập giá và đau khổ chúng con được hợp hoan với Chúa trong vinh quang Nước Trời. Amen.
40.Vững tin vào Thiên Chúa, không xao xuyến
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bước vào Chúa nhật thứ V Phục Sinh, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta đọc và suy niệm về những lời của Chúa Giêsu trước lúc ra đi về Trời. Sắp từ giã Thầy yêu quí, tâm trạng các môn đệ không khỏi ” xuyến xao”, vì họ hiểu rằng con đường Thầy đi qua sẽ là cái chết; và có lẽ họ lo cho sự sống của chính mình. Chúa Giêsu trấn an họ: ” Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy ” (Ga 14, 1). Người mời gọi họ hãy tin vào Thiên Chúa là Chúa của Israel, Đấng đã cứu dân Ngài vượt qua Biển Đỏ, nay hãy tin vào Người, Người cũng sẽ cứu họ vượt qua dòng nước của sự chết. Khi nói thế, Chúa Giêsu không chỉ quả quyết rằng cái chết không thể cầm giữ được Người nữa, Người còn cho các môn đệ biết Người sẽ làm một cuộc xuất hành với các ông là mở lối đi cho dân mới của Thiên Chúa.
“Thầy đi để dọn chỗ cho các con” (Ga 14, 2). Lời nói trên biểu lộ ý nghĩa cứu độ của Chúa Giêsu. Người ra đi để chuẩn bị chỗ cho các ông và xin Chúa Cha ban cho mỗi người một chỗ trong nhà của Chúa Cha. Vì yêu thương, nên Người muốn, Người ở đâu, thì chúng cũng ở đó với Người.
Dường như Chúa Giêsu muốn gợi ý khiến Tôma thắc mắc khi nói: ” Thầy đi đâu, các con đã biết đường rồi ” (Ga 14, 4). Đường nào, và đi đâu các ông nào có hay, khiến Tôma phản ứng: ” Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi? ” (Ga 14, 5). Đó là lý do để Người khẳng định: ” Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống ” (Ga 14, 6). Ai bước đi trên con đường Giêsu, thì sẽ được về cùng Chúa Cha, vì Người chính là đường đi. Không có con đường nào khác để về cùng Chúa Cha, để đạt tới mục đích cuối cùng của đời người, ngoài con đường Giêsu, Người đã tuyên bố: ” Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy ” (Ga 14, 6).
Chúa Giêsu là Sự Thật, là Chân Lý; Người cho chúng ta biết sự thật về Thiên Chúa và sự thật về con người. Nhờ Chúa Giêsu chúng ta biết rõ Thiên Chúa đích thực là ai và con người là ai, sinh ra ơ trần gian để làm gì và chết rồi sẽ đi đâu. Người mặc khải cho chúng ta biết Thiên Chúa là Tình Thương, và ai yêu thương thì sẽ giống như Thiên Chúa.
Chúa Giêsu là Sự Sống; Người đến thế gian trao ban sự sống của Thiên Chúa cho con người, với sứ mạng đến trần gian để cho nhân loại được sống và sống dồi dào (x. Ga 10,10). Người là Đấng cứu tinh, Người đến giải thoát chúng ta khỏi mọi sự dữ, khỏi mọi tội lỗi và khỏi chết đời đời, nay Người trở về nhà Cha sau một hành trình dài. Người cảm thấy hạnh phúc biết bao khi được trở về ” nhà Cha “! Niềm vui ngập tràn trước lúc lên đường, hạnh phúc và niềm vui ấy cần được chia sẻ. Người đi chuẩn bị cho mỗi người một chỗ, đích thân Người sẽ trở lại đón chúng ta đi. Chúa Giêsu đến thế gian ấp ủ trong lòng sự khắc khoải là một ngày nào đó đón được chúng ta về nhà ” Cha của Người và cũng là Cha chúng ta, Thiên Chúa của Người cũng là Thiên Chúa của chúng ta ” (Ga 20 , 17) để chia sẻ sự sống thần linh với Thiên Chúa và sẽ sống với Chúa Giêsu Ktiô trong cung lòng Chúa Cha.
Đối với Philipphê, chỉ cần thầy Chúa Cha là đã đủ rồi, nên ông thưa: “Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha, và như thế là đủ cho chúng con” (Ga 14, 8). Thêm một cơ hội để Chúa Giêsu mạc khải Thiên Chúa Cha, Người nói: “Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư, Philipphê? Ai thấy Thầy là xem thấy Cha, sao con lại nói ‘Xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha’? Con không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy ư? (Ga 14, 8-10).
Đúng theo những lời Đức Kitô đã nói với Philípphê, việc ” thấy Chúa Cha” việc thấy Thiên Chúa trong đức tin – đạt được trong sự gặp gỡ lòng thương xót của Ngài một cấp độ đơn sơ và chân thật nội tâm giống như cấp độ chúng ta nhận ra trong dụ ngôn người con hoang đàng (Lc 15, 11s).
“Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha ” (Ga 14, 9). Tất cả những gì làm thành việc ” thấy ” Đức Kitô trong đức tin sống động và trong lời giảng dạy của Giáo Hội đều đưa chúng ta lại gần việc ” thấy Chúa Cha ” trong sự thánh thiện của lòng Ngài thương xót. Trích Thông điệp ” Thiên Chúa Đấng giầu lòng thương xót số 13 “.
Ở chỗ khác Chúa Giêsu nói, ” Ta ở trong Cha và Cha ở trong Ta, Ta và Cha là Một” (Ga 10 , 30). Thật lôgích để nói rằng ” ai thấy Thầy là xem thấy Cha “; nghĩa là ai đón nhận Lời Chúa Con trong đức tin, thì cũng biết Chúa Cha mà Chúa Giêsu mạc khải rõ khuôn mặt đích thực.
Vượt qua ngưỡng cửa này, những người tin được hứa: ” Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn ” (Ga 14, 12). Mỗi người chúng ta có ơn gọi mạc khải khía cạnh sự dịu dàng vô biên của Chúa Cha, ” Đấng đã gọi anh em ra khỏi tối tăm mà vào ánh sáng kỳ diệu của Người ” (1 Pr 2, 9) đây là cách chúng ta trở nên ” những tảng đá sống động, xây dựng toà nhà thiêng liêng,” được xây dựng trên “nền tảng” là chính Chúa Kitô.
Như các môn đệ sau ngày Lễ Ngũ Tuần, ” đầy đức tin và Chúa Thánh Thần ” họ là ” dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa ” (1 Pr 2, 5), có trách nhiệm loan báo cho mọi người biết Chúa Giêsu là con đường chân chính, Người sẽ dẫn đưa chúng ta sự sống đời đời. Thiên Chúa nhắc lại cho chúng ta và tất cả những người mà chúng ta được sai đến: ” Các điều ấy Ta đã nói với các ngươi rồi, ngõ hầu sự vui mừng của Ta có nơi các ngươi, và sự vui mừng của các ngươi được nên trọn ” (Ga 15 , 11).
Lạy Mẹ Maria, giữa bao nghịch cảnh của cuộc đời, xin giúp con vững tin vào Chúa như Mẹ. Amen.
Tin cùng chuyên mục:
Các bài Suy niệm Lễ Đức Mẹ Mân Côi: Con Thiên Chúa xuống thế để ở với con người
Chúa nhật XXVI thường niên năm A: Đường lối của Thiên Chúa và của con người
Ngày 30/09: Thánh Giêrônimô, Linh mục – Tiến sĩ Hội Thánh
Thứ bảy tuân XXV thường niên: Phải vượt gian khổ mới hy vọng đạt được vinh quang