Bài đọc: Acts 8:5-8, 14-17; 1 Pet 3:15-18; Jn 14:15-21.
1/ Bài đọc I: 5 Ông Phi-líp-phê xuống một thành miền Sa-ma-ri và rao giảng Đức Ki-tô cho dân cư ở đó.
6 Đám đông một lòng chú ý đến những điều ông Phi-líp-phê giảng, bởi được nghe đồn và được chứng kiến những dấu lạ ông làm.
7 Thật vậy, các thần ô uế vừa kêu lớn tiếng vừa xuất khỏi nhiều người trong số những kẻ bị chúng ám. Nhiều người tê bại và tàn tật được chữa lành.
8 Trong thành, người ta rất vui mừng.
14 Các Tông Đồ ở Giê-ru-sa-lem nghe biết dân miền Sa-ma-ri đã đón nhận lời Thiên Chúa, thì cử ông Phê-rô và ông Gio-an đến với họ.
15 Khi đến nơi, hai ông cầu nguyện cho họ, để họ nhận được Thánh Thần.
16 Vì Thánh Thần chưa ngự xuống một ai trong nhóm họ: họ mới chỉ chịu phép rửa nhân danh Chúa Giê-su. 17 Bấy giờ hai ông đặt tay trên họ, và họ nhận được Thánh Thần.
2/ Bài đọc II: 15 Đức Ki-tô là Đấng Thánh, hãy tôn Người làm Chúa ngự trị trong lòng anh em. Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em.
16 Nhưng phải trả lời cách hiền hoà và với sự kính trọng. Hãy giữ lương tâm ngay thẳng, khiến những kẻ phỉ báng anh em vì anh em ăn ở ngay thẳng trong Đức Ki-tô, thì chính họ phải xấu hổ vì những điều họ vu khống,
17 bởi lẽ thà chịu khổ vì làm việc lành, nếu đó là ý của Thiên Chúa, còn hơn là vì làm điều ác.
18 Chính Đức Ki-tô đã chịu chết một lần vì tội lỗi -Đấng Công Chính đã chết cho kẻ bất lương- hầu dẫn đưa chúng ta đến cùng Thiên Chúa. Thân xác Người đã bị giết chết, nhưng nhờ Thần Khí, Người đã được phục sinh.
3/ Phúc Âm: 15 Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy.
16 Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi.
17 Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em.
18 Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy đến cùng anh em.
19 Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống.
20 Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em.
21 Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy.”
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thánh Thần sẽ ở với anh em luôn mãi.
Để giúp con người thông phần vào sống cuộc thần linh, Thiên Chúa ban tặng con người Thánh Thần của Ngài. Nhưng để con người có thể ý thức được sự hiện diện của Thánh Thần này, và ngôi vị của Ngài trong cung lòng Chúa Ba Ngôi, Thiên Chúa trước tiên đã làm con người trở nên sống động qua điều linh thiêng nhất trong việc tạo dựng: hơi thở của sự hô hấp (Gen 2:7) và sức mạnh của gió (Exo 14:21-22; 15:8-10). Bằng hai yếu tố này, con người dần ý thức được hành động của Thánh Thần của Thiên Chúa trong chính họ và trong muôn người. Sau khi đã dần được linh thiêng hóa, con người ý thức rằng Thánh Thần của Thiên Chúa làm việc trong thế giới không gì khác hơn là chính Thánh Thần, hành động không chỉ qua gió hay hơi thở, nhưng qua các bí-tích khác nhau của Giáo Hội, để mang đời sống thần linh mới cho con người và cho một dân mới.
Chủ Nhật sau cùng của Mùa Phục Sinh chuẩn bị cho việc Hiện Xuống của Chúa Thánh Thần. Các bài đọc hôm nay nhằm nói lên những đặc tính riêng của Chúa Thánh Thần và giúp đỡ chúng ta học hỏi về Ngài. Trong bài đọc I, tác giả Sách CVTĐ phân biệt hai Phép Rửa: Phép Rửa bởi nước của Gioan để được ơn tha tội, và Phép Rửa bởi Thánh Thần bằng việc cầu nguyện và đặt tay để được các ơn thánh giúp thánh hóa các tín hữu. Trong bài đọc II, tác giả nêu lên hai đặc tính của Thánh Thần: Ngài là nguyên ủy của sự thật và sự sống. Chính Thánh Thần đã làm cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu mặc khải cho các môn đệ nhiều điều về Thánh Thần: Ngài là sự thật, Ngài sẽ ở với con người luôn mãi. Ngài là một Paracletos khác bên cạnh Chúa Giêsu để bênh vực cho con người. Ai có Ngài, thì cũng có Chúa Giêsu và Chúa Cha.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Bấy giờ hai ông đặt tay trên họ, và họ nhận được Thánh Thần.
1.1/ Phép Rửa bởi Nước để được ơn tha tội: Người Do-thái chỉ biết tới Phép Rửa bởi nước được làm bởi ông Gioan Tẩy Giả để được tha tội. Chúng ta có thể thấy rõ điều này trong giáo hội sơ khai được tường thuật bởi tác giả sách CVTĐ như sau: “Trong khi ông Apollo ở Côrintô thì ông Phaolô đi qua miền thượng du đến Ephesô. Ông Phaolô gặp một số môn đệ và hỏi họ: “Khi tin theo, anh em đã nhận được Thánh Thần chưa?” Họ trả lời: “Ngay cả việc có Thánh Thần, chúng tôi cũng chưa hề được nghe nói.” Ông hỏi: “Vậy anh em đã được chịu phép rửa nào?” Họ đáp: “Phép rửa của ông Gioan.” Ông Phaolô nói: “Ông Gioan đã làm một phép rửa tỏ lòng sám hối, và ông bảo dân tin vào Đấng đến sau ông, tức là Đức Giêsu.” Nghe nói thế, họ chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu. Và khi ông Phaolô đặt tay trên họ, thì Thánh Thần ngự xuống trên họ, họ nói tiếng lạ và nói tiên tri. Cả nhóm có chừng mười hai người.” (Acts 19:1-7).
1.2/ Phép Rửa bởi Thánh Thần để thánh hóa con người: Để hiểu Phép Rửa bởi Thánh Thần, chúng ta cần trở về với trình thuật của Matthew tường thuật biến cố Chúa Giêsu chịu Phép Rửa tại sông Jordan: “Bấy giờ, Đức Giêsu từ miền Galilee đến sông Jordan, gặp ông Gioan để xin ông làm phép rửa cho mình. Nhưng ông một mực can Người và nói: “Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!” Nhưng Đức Giêsu trả lời: “Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính.” Bấy giờ ông Gioan mới chiều theo ý Người. Khi Đức Giêsu chịu phép rửa xong, vừa ở dưới nước lên, thì các tầng trời mở ra. Người thấy Thánh Thần Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. Và có tiếng từ trời phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3:13-17). Chúa Giêsu không cần chịu Phép Rửa bởi nước để được tha tội, vì Ngài chẳng có tội gì để được tha; nhưng Ngài muốn làm gương cho các tín hữu, và muốn thánh hóa nước sông Jordan và tất cả mọi nước mà Giáo Hội sẽ dùng để rửa tội sau này.
Tin Mừng Nhất Lãm đều bắt đầu sứ vụ công khai rao giảng của Chúa Giêsu sau biến cố Ngài chịu Phép Rửa tại sông Jordan và biến cố Ngài được Thánh thần mang vào trong sa mạc để chịu cám dỗ. Lucas bắt đầu sứ vụ rao giảng của Chúa Giêsu tại Nazareth, khi Ngài vào trong hội đường và đọc những lời tiên tri của Isaiah: “Thánh Thần của Đức Chúa là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của Đức Chúa, một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta; Người sai tôi đi yên ủi mọi kẻ khóc than” (Isa 61:1-2). Vì thế, việc xức dầu tấn phong của Chúa Thánh Thần và sứ vụ công khai rao giảng của Chúa Giêsu liên quan mật thiết với nhau. Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ của Đấng Thiên Sai: tha tội, chữa lành, phóng thích, và thánh hóa con người.
Theo trình thuật CVTĐ hôm nay, khi “Các Tông Đồ ở Jerusalem nghe biết dân miền Samaria đã đón nhận lời Thiên Chúa, thì cử ông Phêrô và ông Gioan đến với họ. Khi đến nơi, hai ông cầu nguyện cho họ, để họ nhận được Thánh Thần. Vì Thánh Thần chưa ngự xuống một ai trong nhóm họ: họ mới chỉ chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu. Bấy giờ hai ông đặt tay trên họ, và họ nhận được Thánh Thần.” Giáo Hội vẫn theo truyền thống này khi ban bí-tích Thêm Sức cho các tín hữu bằng việc xức dầu tấn phong, cầu nguyện, và đặt tay. Tất cả những dấu chỉ này muốn nói người tín hữu đã nhận được Chúa Thánh Thần và tất cả các quà tặng của Ngài, để bắt đầu cuộc sống thần linh và chu toàn sứ vụ rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho Đức Kitô.
2/ Bài đọc II: Nhờ Thần Khí, Người đã được phục sinh.
2.1/ Thánh Thần là yếu tố làm cho con người được sống: Theo truyền thống Do-thái, họ chỉ có một chữ “ruah” để chỉ chung Thánh Thần, gió và hơi thở. Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa “thổi hơi” vào lỗ mũi con người, và họ trở thành một sinh vật. Cũng vậy, khi Thiên Chúa rút hơi thở ra là họ trở về cát bụi (Psa 103:29-30; Eze 37). Vì thế, Thần Khí của Thiên Chúa là yếu tố làm cho muôn vật được sống, con người không phải là chủ nhân của sự sống.
Đức Kitô khi mang trong mình thân xác con người cũng phải chịu chết: “Chính Đức Kitô đã chịu chết một lần vì tội lỗi – Đấng Công Chính đã chết cho kẻ bất lương – hầu dẫn đưa chúng ta đến cùng Thiên Chúa.” Tin Mừng Gioan diễn tả giây phút từ giã cuộc đời của Chúa Giêsu như sau: “Người ta lấy miếng bọt biển có thấm đầy giấm, buộc vào một nhành hương thảo, rồi đưa lên miệng Người. Nhắp xong, Đức Giê-su nói: “Thế là đã hoàn tất!” Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí” (Jn 19:29-30).
Tuy nhiên, “thân xác Người đã bị giết chết, nhưng nhờ Thần Khí, Người đã được phục sinh.” Thánh Thần của Thiên Chúa lại tiếp tục đến với Ngài và làm cho Ngài sống dậy từ cõi chết. Mọi tín hữu trung thành theo Đức Kitô cũng được phục sinh như Ngài. Điều này cũng đã được mô tả chi tiết trong thị kiến “Ruộng Xương Khô” của Ezekiel 37.
2.2/ Thánh Thần giúp con người sống ngay thẳng theo sự thật của Đức Kitô: Thánh Thần là chính sự thật, Ngài giúp con người nhận ra sự thật và hướng dẫn họ tới sự thật toàn vẹn. Trong trình thuật hôm nay, tác giả Thư Phêrô I diễn tả tiến trình biết và sống theo sự thật như sau:
(1) Phải nhìn nhận sự thật: “Hãy tôn Người làm Chúa ngự trị trong lòng anh em.” Sự thật bắt đầu với Đức Kitô. Chính Đức Kitô đã mặc khải sự thật về Thiên Chúa cho con người. Sự thật này đã được ghi chép lại rõ ràng trong Kinh Thánh. Người môn đệ phải nhìn nhận Đức Kitô là sự thật và học hỏi tất cả những lời của Ngài dưới sự chỉ dẫn của Thánh Thần.
(2) Làm chứng cho sự thật: “Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em. Nhưng phải trả lời cách hiền hoà và với sự kính trọng.” Người Kitô hữu làm chứng cho sự thật bằng cuộc sống vui tươi, chân thành và bác ái.
(3) Kiên trì sống theo sự thật: “Hãy giữ lương tâm ngay thẳng, khiến những kẻ phỉ báng anh em vì anh em ăn ở ngay thẳng trong Đức Kitô, thì chính họ phải xấu hổ vì những điều họ vu khống, bởi lẽ thà chịu khổ vì làm việc lành, nếu đó là ý của Thiên Chúa, còn hơn là vì làm điều ác.” Người Kitô hữu được trang bị để kiên trì làm việc lành và chịu đau khổ bằng những ân huệ được ban tặng bởi Chúa Thánh Thần.
3/ Phúc Âm: Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi.
3.1/ Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận: Danh xưng “Paracletos” rất khó dịch sang tiếng Việt-nam. Theo nghĩa đen, có nghĩa là người được gọi đến để trợ giúp trong khi cần: có thể là Trạng Sư để bênh vực trước tòa án, có thể là người an ủi khi sầu khổ, có thể là Cố Vấn khi phải đương đầu với các vấn nạn khó khăn, có thể là người động viên tinh thần để giúp cho khỏi bị chán nản. Để biết ý nghĩa chính xác, chúng ta cần xem xét vai trò của Chúa Giêsu đối với các môn đệ, vì Ngài cũng là một “Paracletos.” Chúa Giêsu là Thầy, là Chúa, là bạn hữu, là Mục Tử Tốt Lành, là người an ủi, là người khích lệ, người bảo vệ… Có lẽ để yên theo tiếng Hy-lạp là hợp lý nhất. Thánh Thần sẽ do Chúa Cha ban theo lời cầu xin của Đức Kitô, và Ngài sẽ ở với các tín hữu luôn mãi. Triều đại chúng ta đang sống là triều đại của Ngài. Chúng ta cần ý thức sự hiện diện của Ngài trong cuộc sống. Điều kiện để được Chúa Giêsu xin Chúa Cha ban Thánh Thần là phải giữ các giới răn của Chúa Giêsu. Thánh Thần là sự thật, thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không biết sự thật. Các môn đệ biết Người, vì các môn đệ biết sự thật đã được mặc khải bởi Chúa Giêsu.
3.2/ Anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em: Chúa Giêsu tuy không còn ở ở với các môn đệ bằng thân xác; nhưng Ngài ở với các môn đệ bằng sự kết hiệp với Thánh Thần. Nơi nào có Thánh Thần thì cũng có Chúa Cha và Chúa Giêsu. Thánh Thần là sự sống, Ngài đã làm cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết, và Ngài ban tặng sự sống thần linh cho các môn đệ qua các bí-tích và những hồng ân của Chúa Thánh Thần.
Thánh thần là tình yêu: “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy.” Tình yêu Chúa Giêsu đề cập đến ở đâu không phải là tình yêu do cảm giác hay cảm xúc; nhưng tình yêu phải được biểu lộ cụ thể qua sự vâng lời là giữ các giới răn của Ngài. Tình yêu thực sự đòi phải luôn làm lành, sẵn sàng hy sinh chịu đau khổ, và kiên trì làm như thế trọn đời. Điều này chắc chắn sẽ khó đối với sức con người, nhưng có thể làm dưới sự hướng dẫn và trợ giúp của Thánh Thần.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta hãy luôn ý thức để nhận ra sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong cuộc sống. Ngài là nguyên ủy của sự sống: thể chất, trí tuệ, cũng như thần linh.
– Ngài là sự thật và sẽ hướng dẫn chúng ta đến toàn sự thật. Ngài là tình yêu liên kết chúng ta với Chúa Cha, Chúa Con, và với nhau. Ngài là Đấng thánh hóa làm chúng ta càng ngày càng trở nên giống Thiên Chúa.
– Thân xác chúng ta là Đền Thờ của Thánh Thần, những ai sống theo lối sống của thế gian và xác thịt là đi ngược lại với lối sống của Thánh Thần. Ngài sẽ không ở trong những ai có một lối sống như thế.
Nguồn: https://loi-nhap-the.com/ch-nht-vi-phc-sinha/
(Trích trong ‘Manna’ – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy Niệm
Marina Picasso là cháu của họa sĩ nổi tiếng Pablo Picasso. Từ năm 73-75, bà phải chịu nhiều cái tang lớn: ông nội mất, anh ruột tự tử, cha đột ngột qua đời. Đây thật là những mất mát không sao bù đắp, dù bà năm trong tay một gia sản khổng lồ.
Năm 1990, bà nhận các em bé Việt Nam làm con nuôi, và giúp cho các trẻ mồ côi được có nơi ăn học. Từ lúc ấy, bà thấy một sự thay đổi nơi nội tâm: “Nhờ giúp đỡ con em của nước này mà tôi đã tìm lại được chính mình. Giờ đây tôi cảm thấy mình như sống lại, và tôi muốn phân phát sự sống đó cho các em.”
Hẳn có những Kitô hữu đã trải qua kinh nghiệm của Marina, kinh nghiệm thấy mình được sống lại nhờ biết ra khỏi nỗi đau của mình để cúi xuống trên nỗi đau của người khác. Kinh nghiệm tìm lại được chính mình trong bình an, khi không còn bận tâm lo cho mình nữa, kinh nghiệm thấy sự sống được nhân lên gấp bội khi được đem chia sẻ tận tình.
Kitô giáo là tôn giáo của Đấng đã sống lại, Đấng đang sống sự sống tràn trề của Thiên Chúa.
Đức Giêsu phục sinh không chỉ hiện ra một đôi lần, Ngài muốn ở mãi bên chúng ta cho đến tận thế. Một sự hiện diện hai chiều, thâm sâu và mới mẻ: “Anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em” (c.20) Một sự hiện diện đem lại sức sống dồi dào: “Vì Thầy sống và anh em cũng sẽ sống” (c.19).
Kitô hữu tự bản chất là người đã được phục sinh, nhờ thông hiệp với Đấng đang sống là Đức Kitô. “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).
Mùa Phục sinh nhắc ta nhìn lại sự sống nơi mình.
Lắm khi tôi sống èo uột, chỉ vì không dám yêu thương. Bắt đầu yêu thương là bắt đầu thấy Chúa tỏ mình, thấy sự sống Chúa bùng lên mạnh mẽ.
Thế giới hôm nay cố làm cho cuộc sống được bảo đảm hơn, tiện nghi hơn và kéo dài hơn. Nhưng thế giới hôm nay vẫn đầy nguy hiểm. Mạng sống bi đe dọa bởi chiến tranh, tội ác, đói nghèo… Cuộc sống bị héo úa vì không tìm thấy ý nghĩa. Thế giới đói khát sự sống đích thực.
Nếu chúng ta thật sự là người đang sống trong Đức Kitô, chúng ta có thể trao cho thế giới sự sống đó qua việc phục vụ trong yêu thương.
Gợi Ý Chia Sẻ
1. Để cảm nghiệm được Thiên Chúa, cần phải can đảm sống theo lời Ngài dạy, dù phải từ bỏ và chịu thua thiệt trước mắt. Có khi nào bạn thấy Chúa thật gần gũi, vì bạn đã dám sống cho tha nhân không?
2. Khi tinh thần bạn sa sút vì những nỗi đau riêng tư, bạn thường làm gì để ra khỏisự sa sút đó?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
Xin ban cho con sự sống của Chúa, sự sống làm đời con mãi mãi xanh tươi.
Xin ban cho con bình an của Chúa, bình an làm con vững tâm giữa sóng gió cuộc đời.
Xin ban cho con niềm vui của Chúa, niềm vui làm khuôn mặt con luôn tươi tắn.
Xin ban cho con hy vọng của Chúa, hy vọng làm con lại hăng hái lên đường.
Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa, Thánh Thần mỗi ngày làm mới lại đời con.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Chuẩn bị mừng lễ Chúa Giêsu lên trời, Phụng vụ hôm nay muốn khẳng định với chúng ta: dù Chúa Giêsu có về trời, thì Người vẫn ở với chúng ta như lời Người đã hứa với các môn đệ: “Này đây, Thày ở cùng các con mọi ngày cho đến ngày tận thế”. Người tin vào Chúa sẽ được ở trong Người và Người ở trong lòng họ. Lời mời gọi: “hãy ở trong Thày”, vừa nêu bật vinh dự lớn lao của người tín hữu, vừa đem cho họ sự an ủi đỡ nâng, giữa biết bao bận rộn lo lắng của cuộc sống trần gian. Ở trong Chúa cũng là một điều kiện thiết yếu để trở nên môn đệ đích thực của Người.
“Nếu các con yêu mến Thày, thì hãy giữ lời Thày”. Tuân giữ lời Thày là bằng chứng của tình yêu đối với Chúa. Ai tuân giữ lời Thày sẽ được Thày hiện diện trong tâm hồn người đó. Và, cùng với sự hiện diện của Chúa Giêsu, người tín hữu còn được Chúa Cha và Chúa Thánh Thần ngự trị. Như thế, ngay khi còn sống ở trần gian, họ đã được nếm hưởng hạnh phúc thiên đàng. Bởi lẽ hạnh phúc thiên đàng là gì nếu không phải là được sống trong tình yêu viên mãn của Ba Ngôi Thiên Chúa?
Những ai ở lại trong Chúa sẽ làm được những điều kỳ diệu, nhờ quyền năng và ân sủng Người thông ban. Chúa nhật thứ sáu của mùa Phục sinh nhấn mạnh tới sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội. Thông thường, khi nói đến cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, chúng ta hay dừng lại ở việc diễn tả một cộng đoàn liên đới, chuyên tâm cầu nguyện và siêng năng tham dự lễ bẻ Bánh. Điều này không sai. Tuy vậy, cũng phải nhấn mạnh tới khía cạnh “động” của cộng đoàn này, tức là khía cạnh truyền giáo. Tác giả sách Công vụ Tông đồ cho chúng ta thấy cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi là một cộng đoàn hăng say truyền giáo. Sau khi Chúa Giêsu về trời, các tông đồ vẫn tin rằng Người hiện diện với họ. Nhờ sự hăng say nhiệt huyết của các tông đồ, và số tín hữu tăng thêm nhanh chóng. Bài đọc thứ nhất trong Phụng vụ hôm nay kể lại nỗ lực truyền giáo của một trong số mười hai tông đồ, đó là Philippê. Ông rời Giêrusalem để đến miền Samaria là miền đất dân ngoại. Ông rao giảng Đức Kitô và làm được nhiều phép lạ. Sự hiện diện của Chúa thể hiện qua quyền năng Chúa ban cho các tông đồ, nhờ đó các ông có thể trừ quỷ và các chứng bệnh, y như Chúa Giêsu đã làm trước đó. Việc có nhiều người trở lại là niềm vui chung của các tông đồ, vì vậy ông Gioan và ông Phêrô được cử tới Samaria để chia sẻ niềm vui và đặt tay trên các tín hữu để ban Thánh Thần. Những kết quả truyền giáo đã đạt được chứng minh Chúa Thánh Thần cùng hoạt động trong cộng đoàn tín hữu, như lời hứa của Chúa Giêsu: “Thày sẽ xin Cha, và Ngài sẽ ban cho các con một Đấng Phù trợ khác, để Ngài ở với các con luôn mãi”. Chính sự hiện diện của Chúa Giêsu, với quyền năng của Chúa Thánh Thần, đã làm nên những kết quả kỳ diệu của sứ vụ truyền giáo.
Ngày hôm nay, những thành quả mà Giáo Hội đạt được khi thi hành sứ vụ Chúa Giêsu trao phó, cũng là nhờ sự hiện diện của Người và nhờ tác động của Đấng Phù trợ, tức là Ngôi Ba Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần là Đấng soi sáng, hướng dẫn mọi hoạt động của Giáo Hội, làm cho những hoạt động ấy sinh hoa kết trái. Ngài là hơi thở và là linh hồn của Giáo Hội, nhờ Ngài mà Giáo Hội sinh động, tươi trẻ và vươn lên không ngừng.
Mùa Phục sinh cùng với bầu khí lễ hội tưng bừng đang dần khép lại. Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta, sự hiện diện của Chúa Phục sinh và lòng nhiệt thành loan báo Lời Chúa không dừng lại khi mùa Phục sinh chấm dứt, nhưng mở ra một giai đoạn mới mà ta gọi là “kỷ nguyên của Chúa Thánh Thần”. Ngài là Ngôi Ba Thiên Chúa, là Đấng ban sự sống cho trần gian. Nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội luôn mang diện mạo tươi trẻ và phù hợp với mọi môi trường xã hội, góp phần thánh hóa trần gian.
Được trang bị bằng sức mạnh của Chúa Thánh Thần, mỗi tín hữu hãy “sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của mình”. Thánh Phêrô khích lệ chúng ta, đồng thời khuyên bảo chúng ta hãy tôn trọng và đối xử hiền hòa với những người đang đi tìm Chân Lý. Sống theo lương tâm trung thực ngay thẳng, hiền hòa nhân ái với mọi người, đó là chứng từ hùng hồn nhất về Đấng Phục sinh. Chứng từ này làm cho những ai đang thành kiến với Giáo Hội cũng cảm thấy được thuyết phục.
“Hãy ở lại trong Thày!” lời mời gọi ấy vang lên mỗi giây mỗi phút trong đời sống chúng ta. Ở trong Chúa, chắc chắc chúng ta sẽ được Ngài che chở đỡ nâng, nhất là khi gặp những gian nan trắc trở trong cuộc đời. Xin Chúa cho mỗi người cảm nhận được sự ngọt ngào khi ở trong Chúa và được Người hiện diện trong tâm hồn.
3.Anh em ở trong Thầy – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Trong đoạn Tin mừng ngắn gọn này chất chứa những lời chỉ hành động: yêu mến, ban cho, đến ở với, ở lại với, ở trong, được sống, được ở trong Thầy, được Cha yêu mến, được thấy, được tỏ cho biết. Những hành động đó diễn tả tâm tình gắn bó khăng khít, liên kết chặt chẽ, hiệp thông thâm sâu, hiệp nhất mật thiết nên một trọn vẹn giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần với các môn đệ, với ai yêu mến Thầy, với ai giữ lời Thầy. Sự gắn bó này loại trừ cảnh mồ côi, cô độc, loại trừ mọi xa cách, chia rẽ, vô tri, bất lực, chết chóc.
Sự gắn bó với nhau là một định luật, một nhu cầu khẩn thiết cho đời sống. Trái đất gắn bó với mặt trời theo một định luật bắt nó phải xoay quanh mặt trời 365 ngày 48 phút 46 giây để hoàn thành một vòng tròn bầu dục, lúc nào cũng như lúc nào, không trệch một li, để cho muôn vật trên trái đất sinh sống. Mỗi vật sinh ra, muốn sống, muốn tồn tại, đều phải gắn bó với bố mẹ nó, với nhau, với môi trường, với thiên nhiên…
Muôn vật chỉ cần sống là đủ, nhưng con người sống thôi chưa đủ. Con người sống còn rất cần phải phát triển sự sống. Tình cảm và hiểu biết là hai yếu tố đặc biệt thiết yếu giúp phát triển sự sống con người. Thiếu tình cảm, con người không còn mong muốn, khát khao, mơ ước cao đẹp. Tình cảm là nguồn động lực thúc đẩy con người hành động, phấn chấn, con người hăng hái, say sưa làm việc. Nó làm cho con người vui mừng phấn khởi. Thiếu tình cảm, con người sống buồn tẻ, chán đời, chán chường, vô vọng và tuyệt vọng.
Yếu tố thứ hai giúp phát triển sự sống con người là hiểu biết. Thiếu hiểu biết, con người không còn biết cái gì là hay, là phải, là tốt, là đúng. Tất nhiên sẽ dẫn đến sai lầm, hư hỏng: “mù dắt mù xuống hố”, “nhân bất học, bất tri lý”. Sự hiểu biết giúp con người biết thông cảm, thương mến, tiến bộ, cởi mở đón nhận muôn vàn chân thiện mỹ, muôn vàn giá trị cao đẹp để phát triển cuộc sống mình phong phú đến vô tận.
Không lạ gì trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu đã trình bầy hết sức tỉ mỉ, cặn kẽ, từng li, từng tí về sự sống vô cùng tuyệt vời của Thiên Chúa. Sự sống tuyệt vời của Thiên Chúa không phải như mặt trời, mặt trăng, trái đất hấp dẫn, lôi cuốn nhau, quay cuồng mù quáng bên ngoài, nhưng là một sự hiệp nhất nội tại, nội tâm, nên một với nhau trọn vẹn trong tình yêu mến thông suốt sinh động tràn lan trên hết thảy vũ trụ vạn vật. Vì thế vũ trụ vạn vật được sống trong nguồn yêu thương sung mãn của Thiên Chúa.
Chúa Con đã thông ban sự sống phong phú đó cho các môn đệ. Các ông đã được sống hiệp thông lạ lùng với Thiên Chúa, ở trong Thiên Chúa, ở lại với Thiên Chúa. Một cuộc sống trong tình thân thiết với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Nhờ đó anh em được Thiên Chúa yêu mến và yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức, hết trí khôn, hết linh hồn. Chỉ có sự sống như vậy mới phát triển sự sống con người đến vô tận.
Bài đọc một cho thấy sự sống của Thiên Chúa, sau bao nhiêu ngàn năm, bị ứ đọng trong dân Do thái, nay đã tràn bờ lan tỏa khắp chư dân. Họ được biết về Chúa Kitô, được thoát khỏi tà thần, được chữa lành tàng tật tê bại. Họ được sức sống mạnh mẽ của Chúa Thánh Thần biến họ thành dân thánh, thành con cái Chúa Cha, chứ không còn dân ngoại ô uế thù địch nữa.
Bài đọc hai còn cho thấy sự sống của Thiên Chúa là sức mạnh hiền hòa, ngay thẳng, khả ái, kính trọng cả những kẻ chất vấn, phỉ báng. Sức sống đó làm cho kẻ vu khống phải xấu hổ, làm cho ta sẵn sàng chịu khổ vì làm việc lành, làm cho ta theo chân Đức Kitô hy sinh chịu chết cứu kẻ tội lỗi, làm cho ta, dù bị chết, cũng được sống lại cùng với Đức Kitô.
Lạy Thầy Kitô chí nhân chí thánh, Thầy chẳng bao giờ để chúng con mồ côi, cô độc, cứng đọng, Thầy đã cho chúng con được sống yêu mến thân mật, gắn bó trọn vẹn trong Thầy và trong Cha Thầy. Xin cho muôn dân được sống trong tình yêu của Thầy để họ khỏi chia rẽ, hận thù, nhưng được sống thương mến nhau, hiệp thông với Thầy như Cha ở trong Thầy và Thầy ở trong Cha, Amen.
Một ít nữa thế gian sẽ không còn thấy Thầy, phần các con, các con thấy Thầy.
Chúng ta cảm thấy dường như có một cái gì mâu thuẫn trong lời tuyên bố của Chúa Giêsu. Cùng một sự hiện diện mà người thì thấy còn kẻ khác lại không thấy. Cùng một Chúa Giêsu, mà có người thì xác tín Người vẫn hiện diện, trong khi kẻ khác lại nói: Người thuộc về dĩ vãng và đã qua rồi. Ngay trong cuộc sống hiện tại, chúng ta cũng có thể bắt gặp những trường hợp tương tự. Chẳng hạn một người đã ra đi hay đã chết, nhưng những kẻ còn lại vẫn cảm thấy người ấy đang còn ở đâu đây, thật gần gũi. Một bà mẹ có thể nhìn thấy đứa con bà mới chôn cất nơi từng sự vật, nơi từng căn phòng, nơi từng lối đi. Vậy thì đâu là nguyên nhân tạo nên cái tình cảm tuy xa mà lại gần như thế?
Tôi xin thưa chính tình yêu thương đã tạo nên cái điều lạ lùng ấy. Giữa những người thân thiết, cái chết nơi thân xác không phải là điều quyết định tạo nên sự chia cách, sự vắng mặt. Cái thấy mà Chúa Giêsu muốn nói ở đây, không còn là cái thấy bằng cặp mắt của thân xác vốn có những giới hạn của nó, mà là cái thấy bằng con tim, bằng yêu thương, bằng cảm thông. Chính vì thế, mà qua đoạn Tin Mừng ngắn ngủi chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu luôn nhắc đi nhắc lại hai chữ yêu mến. Đồng thời hai chữ yêu mến đã trở thành mối quan hệ giữa môn đệ và Thầy mình, cũng như giữa người môn đệ và Thiên Chúa Cha.
Ngoài ra cũng chính tình yêu mến ấy đã đưa tới sự hoà nhập: Các con ở trong Thầy và Thầy ở trong các con. Chính việc thấy bằng cặp mắt của con tim này sẽ giúp chúng ta thấy được cái ý nghĩa, cái vai trò và mối quan hệ mật thiết giữa sự hiện diện của Chúa Giêsu với cuộc đời của người Kitô hữu, điều mà con mắt của thân xác không thể nào nhìn thấy.
Lòng yêu mến không thể không dẫn tới hành động. Người môn đệ yêu mến Thầy cũng có nghĩa là người môn đệ tuân giữ các giới răn, các lệnh truyền của Thầy. Thế nhưng các giới răn và lệnh truyền của Chúa Giêsu không phải là những giới răn, những lệnh truyền cũ của Cựu Ước, cho dù đã được diễn tả bằng những công thức mới, nhưng là chính con người của Người.
Đúng thế, chính Chúa Giêsu và cuộc sống của Người đã trở thành những khuôn mẫu tuyệt vời nhất cho cuộc sống người tín hữu noi theo và bắt chước. Rất nhiều khi chúng ta chỉ dừng lạ nơi những giới răn và những lệnh truyền. Đồng thời những giới răn và những lệnh truyền cũng thường dừng lại ở những cái tối thiểu. Vì thế, việc sống đạo trở thành một bài toán khô khan và nghèo nàn. Người Kitô hữu đích thực phải sống đạo bằng con tim, bằng tình yêu mến. Bởi vì chính tình yêu mến này sẽ giúp chúng ta nhận ra sự hiện diện thật gần gũi của Chúa Giêsu trong lòng cuộc sống chúng ta.
5.Yêu mến Thầy, thì hãy giữ các giới răn
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Khi đến “giờ Chúa Giêsu qua khỏi thế gian này để về cùng Đức Chúa Cha” (Ga 13, 1). Người đã dành cho các môn đệ những lời tâm huyết đầy tình Thầy trò. “Tối hôm trước ngày chịu khổ hình”. Chúng ta dễ hình dung ra thái độ nội tâm và đoán được sự lo lắng của các môn đệ trước giờ Thầy đi chịu chết.
Thực ra, nguyên những lời của Chúa Giêsu đã thể hiện mối lo sợ rồi. Người nói sẽ không để các môn đệ mồ côi, rõ ràng Người gợi lên nỗi buồn Thầy trò phải chia ly.
Câu hỏi đặt ra: ở trung tâm của mùa Phục sinh thật là vui, sao lại gợi lên những giờ đen tối chất chứa nỗi buồn? Trước ngày lễ Ngũ Tuần, nghĩa là trước khi loan báo Tin Mừng cho Muôn Dân, tại sao lại cho chúng ta chứng kiến sự sợ hãi của các môn đệ? Có lẽ vì bản văn giới thiệu Chúa Thánh Thần cho chúng ta. Vấn nạn vẫn còn đó. Chúng ta hãy cố gắng từng bước theo di ngôn của Chúa Giêsu.
“Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ giới răn Thầy” (Ga 14, 15). Lời di chúc này thật không đơn giản, có ý nói: các con yêu mến Thầy thế là đủ, vì nếu yêu mến tức khắc giới răn của Thầy sẽ được tuân giữ, có nghĩa là: khi yêu mến Chúa Giêsu, người ta sẽ tuân giữ các giới răn Chúa để lại là yêu mến Người. Có thế hiểu cách khác: nếu các con yêu mến Thầy, điều đó chứng tỏ rằng các con tôn trọng các giới răn Thầy truyền. Tôn trọng các giới răn là thể hiện lòng mến nên tuân giữ.
Lời của Chúa Giêsu nêu lên tương quan giữa các giới răn với tình yêu dành cho mình, nên Người kết luận: “Ai nhận các luật Thầy truyền và giữ các luật đó, thì người ấy là kẻ mến Thầy” (Ga 14, 21). Và Người cam kết: “Thầy sẽ xin Cha”. Nói thế là Người chịu trách nhiệp về những việc Người làm. Một cách chắc chắn và bảo đảm là; nếu Chúa Giêsu bênh đỡ chúng ta, chúng ta còn sợ hãi gì?
Chúa Giêsu xin Cha điều gì? Người xin Cha “ban cho các con một Đấng Phù Trợ khác” (Ga 14, 16). Khi nói Đấng Phù Trợ khác, Chúa Giêsu chứng tỏ sự lo lắng bảo vệ các môn đệ, và cho thấy Người là một Đấng Phù Trợ. Đó là lý do tại sao Người nói đến một “Đấng Phù Trợ khác”. Lời cầu xin của Chúa Giêsu còn ngụ ý nói rằng vụ án của Chúa qua đi sẽ tiếp đến một vụ án khác là chính các môn đệ bị kết án vì niềm tin của họ vào Chúa Giêsu bị đóng đinh và sống lại. Chúng ta hãy để ý đến thuật ngữ Đấng Bầu Chữa, Trạng Sư, hay Đấng An Ủi. Trong ngành tư pháp Do thái, vị luật sư hỗ trợ thân chủ của mình và tư vấn, vì khi bào chữa cho thân chủ là lúc luật sư cố gắng bảo vệ chính mình. Điều này ám chỉ về Chúa Thánh Thần. Ngài nâng đỡ các môn đệ trong hành động cũng như lời nói, “Chúa Thánh Thần sẽ dạy các con mọi sự” (Ga 14, 26).
Nhưng làm thế nào để biết được Ngài, đón nhận Ngài hay đơn giản là để thấy được Thần Chân Lý? Khỏi phải lo, vì “thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết được Ngài” (Ga 14, 17). Chúa Giêsu thêm “còn các con, các con biết Ngài” (Ga 14, 17). Vậy là chúng ta an tâm. Nhưng điều đó có giúp chúng ta bám chặt vào Chúa Thánh Thần hơn không? Chưa chắc. Chúng ta biết Ngài là Đấng Phù Trợ và cũng biết rõ Ngài chưa được đón nhận, vì Chúa Giêsu nói về tương lai là sẽ xin Cha: “Người sẽ ban cho các con một Đấng Phù Trợ khác, để Ngài ở với các con luôn mãi” (Ga 14, 16). Tuy nhiên, Chúa Thánh Thần đã được biết đến: “Còn các con, các con biết Ngài, vì Ngài sẽ ở nơi các con và ở trong các con” (Ga 14, 17). Ngài không chỉ được Chúa Cha ban cho chúng ta, mà Ngài còn ở trong chúng ta. Rõ ràng Chúa Giêsu không tự mâu thuẫn và không nói những gì là không thể. Thậm chí còn rất thú vị khi cầu nguyện cùng Cha để xin Cha ban Thánh Thần của Ngài xuống. Ngày Lễ Ngũ Tuần sắp tới sẽ là ngày Chúa Thánh Thần từ Đức Chúa Cha do Chúa Con xin mà đến và chúng ta lãnh nhận qua Chúa Con, lần nữa và một lần nữa.
Các môn đệ sợ bị bỏ rơi, tức là mồ côi. Chúa Giêsu tìm cách giúp các ông an tâm khi nói: “Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi, Thầy sẽ đến với các con”. Chúa Giêsu không đến với họ trong tư cách là Cha, vì Người là Con trong mối quan hệ với Cha. Trước lúc chia tay, nỗi lo sợ bao trùm lên các môn đệ, vì họ không biết sống như những người con; họ biết mình mỏng giòn yếu đuối hay lo sợ về bí ẩn của cuộc đời. Nên Chúa Giêsu hứa ban Thần Chân Lý, Đấng làm cho cho họ trở nên những người con. “Trong ngày đó, các con sẽ hiểu biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, và các con ở trong Thầy, và Thầy ở trong các con” (Ga 14, 18). Trong ngày đó, là ngày Chúa Thánh Thần xuống trên các ông, ở với và trong các ôn mãi mãi, bằng sự hiện diện vô hình, sự sống làm con được phục hồi. Họ sẽ đón nhận hoa quả ơn cứu độ là Chúa Thánh Thần và họ sẽ nếm trước niềm vui cứu rỗi là làm conThiên Chúa.
Chúa Giêsu kết luận: “Ai nhận các luật Thầy truyền và giữ các luật đó, thì người ấy là kẻ mến Thầy. Và ai mến Thầy sẽ được Cha Thầy yêu mến, và Thầy sẽ yêu nó, và sẽ tỏ mình ra cho nó” (Ga 14, 21). Chỉ sợ hãi khi tách mình ra khỏi Chúa con và không nhận biết tình yêu của Chúa Cha. Vậy, khi tuân giữ giới răn và lệnh Chúa truyền, các môn đệ được tham dự vào tình nghĩa tử với Chúa Cha. Chính Chúa Cha đến với con người trong Đức Giêsu và khi sai Thánh Thần xuống. Vai trò của Chúa Thánh Thần là giúp các môn đệ trở nên những chứng nhân cho lời Chúa Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con nài xin Chúa xin Chúa Cha cử Chúa Thánh Thần đến với chúng con, và ở trên chúng con như đã ở với các môn đệ Chúa, những người sống nhờ Thánh Thần Chúa và vui mừng nhận biết chỉ có Chúa là ơn cứu độ chúng con: chúng con hướng về Chúa Cha và thưa rằng “Abba, Lạy Cha”.
Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi. Qua giòng thời gian, chúng ta thấy Thiên Chúa đã thực hiện điều Ngài đã phán hứa là ở cùng nhân loại chúng ta.
Thực vậy, với ông Giôsuê, Ngài phán: Đừng sợ, vì Thiên Chúa ở cùng ngươi. Với Ghiđêon, Ngài bảo: Hỡi người dững cảm, Thiên Chúa ở cùng ngươi. Với Maisen, Ngài nói: Ta luôn ở với ngươi. Với Mẹ Maria, thiên thần loan báo: Thiên Chúa ở cùng bà, bà có phúc lạ hơn mọi phụ nữ và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ. Và ngày hôm nay, với các môn đệ, Ngài đã hứa: Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.
Còn chúng ta thì sao? Có lẽ nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta đã than phiền: Nếu Thiên Chúa thực sự hiện diện, thì Ngài ở đâu bây giờ? Tại sao Ngài lại xa cách và dường như lại còn đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ trước những nhu cầu cần thiết của chúng ta?
Cũng như hai môn đệ trên đường đi Emmaus, Chúa ở bên cạnh chúng ta, nhưng chúng ta lại chẳng nhận ra Ngài. Nhất là trong những giây phút buồn sầu và thất vọng, chúng ta cảm thấy Thiên Chúa dường như vắng bóng và chẳng đoái hoài đến những lời chúng ta kêu xin. Nhưng thật ra, đó lại là những giây phút Ngài ở gần chúng ta hơn bao giờ hết.
Sau khi đã thoát khỏi một cơn cám dỗ nặng nề, và được Chúa hiện ra, thánh nữ Catarina đã thân thưa với Chúa: Lạy Chúa, giữa lúc con đang phải chiến đấu, thì Chúa ở đâu? Và Chúa đã trả lời: Cha ở trong trái tim con, vì nếu cha không ở bên con để giúp đỡ, thì con đã sa ngã, đã vấp phạm từ lâu.
Sở dĩ chúng ta không nhận ra Ngài là vì chúng ta đã không nhớ đến Ngài. Ngài đứng đó, giơ bàn tay nâng đỡ, mà chúng ta lại cho rằng không và chẳng chạy đến xin Ngài phú trợ. Chúng ta nên nhớ rằng: Ngài đã trao ban cho chúng ta sự tự do, nên Ngài sẽ không bao giờ bắt ép chúng ta, ngay cả với ơn cứu độ, nếu như chính bản thân chúng ta lại không muốn. Có lẽ con mắt đức tin của chúng ta đã khép lại, đề rồi chúng ta không còn nhận ra Ngài.
Nhiều lúc chúng ta quá chú trọng đến bản thân và những nhu cầu của mình, nên khi gặp phải khổ đau và thử thách, chúng ta thường than thân trách phận.
Chúng ta hãy nhớ lại những hậu quả kỳ diệu của ơn Chúa trợ giúp. Các tông đồ đánh cá ở biển hồ Tibêriade, suốt đêm vất vả mà chẳng bắt được một con cá nào, nhưng vâng lời Chúa, các ông đã thả lưới và lập tức các ông có được một mẻ cá ngoài sự mong muốn của mình. Khi gặp phải sóng gió, nhưng với uy quyền của Chúa, thì lập tức sóng liền yên và biển liền lặng. Giữa tiệc cưới tại Cana, mọi người đang lúng túng vì thiếu rượu, Chúa Giêsu đã làm phép lại cho nước lã biến thành rượu ngon. Giữa hoang địa cằn cỗi, Ngài đã làm phép lạ cho bánh hóa nhiều, để nuôi sống đám đông dân chúng đang đói mệt. Bà góa thành Naim, cũng như hai chị em Martha và Maria, đang than khóc tuyệt vọng vì người thân yêu của mình không còn nữa, nhưng Chúa đã làm phép lạ cho người đã chết được sống lại, hầu xoa dịu nỗi đớn đau tang tóc.
Chúng ta hôm nay là những người đã bước theo Chúa trên một chặng đường đời, nhưng con đường sắp tới chắc chắn sẽ có những chông gai, những khúc quanh, những triền dốc, chúng ta nên nhớ rằng: Điều đó không quan trọng cho bằng việc ý thức Chúa luôn ở bên cạnh chúng ta. Và một khi đã có Chúa cùng đi, chắc chắn thuyền đời chúng ta sẽ cặp bến hạnh phúc. Có Chúa cùng đi, chúng ta sẽ tìm ra được sức mạnh và ánh sáng, để vượt thắng mọi trở ngại, bởi vì như lời Ngài đã phán: Không có Thầy, các con chẳng làm được gì. Hay như lời Thánh Vịnh: Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cùng là uổng công.
Ai yêu mến Thầy, thì tuân giữ những điều răn của Thầy. Bên cạnh trung tâm huấn luyện của quân đội, có một người giáo dân rất hăng say với việc tông đồ. Anh muốn giới thiệu Tin Mừng Đức Kitô cho hàng ngàn tân binh quân dịch. Thế nhưng các vị chỉ huy lại không cho phép anh được ra vào trung tâm. Bởi đó, anh đã nghĩ ra một sáng kiến truyền giáo thật hay. Anh đặt làm hàng ngàn chiếc gương nhỏ với một giá rẻ. Mặt sau chiếc gương, thay vì hình một cô gái hay một bông hoa, anh cho in những lời Chúa phán trong Phúc Âm. Chẳng hạn: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài, để những ai tin vào Con của Ngài thì sẽ không phải chết”. Bên dưới lời Chúa là hàng chữ chỉ dẫn như sau: “Nếu bạn muốn biết người được Chúa yêu, thì hãy nhìn ở mặt kia”. Thật là tuyệt vời, mỗi quân nhân khi nhìn ngắm mình trong gương, họ sẽ thấy chính bản thân họ là người được Chúa yêu thương.
Mặt sau chiếc gương khác, có in lời Chúa phán quan đoạn Tin Mừng chiều hôm nay: “Ai yêu mến thầy, thì tuân giữ những điều răn của Thầy”. Và khi soi gương, những quân nhân sẽ tự hỏi: “Mình đã tuân giữ những giới răn của Chúa để được Chúa yêu thương hay chưa?”
Thực vậy, chúng ta chứng minh tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa bằng sự tuân giữ những điều răn của Ngài bởi vì lề luật của Ngài là những chỉ dẫn yêu thương tuyệt hảo nhất. Chúng nói cho chúng ta biết những gì Thiên Chúa muốn và không muốn. Nhưng đồng thời cũng chỉ cho chúng ta hay đâu là điều tốt lành nhất cho bản thân, gia đình và xã hội.
Chẳng hạn điều răn thứ I: “Thờ phượng và kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự”, sẽ giúp chúng ta chu toàn những bổn phận đối với Đấng Tối Cao đã đành, mà còn giúp chúng ta tránh đi được những mê tín dị đoan và những sự thờ phượng nhảm nhí làm giảm giá trị con người, như thờ con bò, con rắn, thờ tiền tài, danh vọng, lạc thú.
Chẳng hạn điều răn thứ IV: “Hãy hảo kính cha mẹ”, sẽ giúp chúng ta chu toàn những bổn phận đối với cha mẹ, là những người đã có công sinh thành dưỡng dục chúng ta đã đành, mà còn nhờ đó đem lại cho gia đình chúng ta một bầu khí hoà thuận, cảm thông và hạnh phúc.
Chẳng hạn điều răn thứ V: “Tôn trọng thân xác và mạng sống của mình cũng như của người khác”. Rồi điều răn thứ VII và thứ X: “Tôn trọng đức công bằng, không được lấy hay giữ của người ta một cách trái phép”. Tất cả những điều răn này không phải chỉ đem lại cho cá nhân một sự bảo đảm an toàn, mà hơn thế nữa còn đem lại cho xã hội một sự ổn định và trật tự.
Và như chúng ta đã nói, bên trên những lợi ích cá nhân, gia đình và xã hội, việc tuân giữ những điều răn của Chúa sẽ là một phương thế giúp chúng ta biểu lộ tình yêu mến và gắn bó của chúng ta đối với Chúa, vì tình yêu mà không có việc làm thì chỉ là một tình yêu chết mà thôi. Hơn nữa, chính Chúa Giêsu đã phán dạy chúng ta: Ai yêu mến Thầy thì tuân giữ những điều răn của Thầy.
8.Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Vâng lời Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã xuống thế làm người để cứu độ nhân loại. Sau khi sống cuộc đời ẩn dật ở Nazareth, Ngài bắt đầu cuộc sống công khai. Sứ mạng chính của Ngài là rao giảng Tin mừng. Nhưng Ngài biết thời giờ của Ngài ở thế gian không còn được bao lâu, nên cùng lúc rao giảng Tin Mừng, Ngài đã tuyển chọn một số người mà Kinh thánh gọi là Tông đồ để trao cho họ sứ mạng của Ngài.
Ngài quan tâm số người này một cách đặc biệt. Trước khi chọn họ, Ngài đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa (x. Lc 6,12-16). Sau những giờ rao giảng cho dân chúng, Ngài thường gặp riêng họ để dặn dò, hoặc giải thích thêm những điều mà họ chưa hiểu. Ngài còn dành thời gian để dạy cho họ về những bài học cao quý của người lãnh đạo, nhất là bài học về tinh thần phục vụ. Ngài nói: “Các con biết rằng những người được coi là lãnh tụ các nước, thì sai khiến dân chúng như ông chủ, và những người làm lớn thì lấy uy quyền mà trị dân. Còn các con không như thế. Trái lại, ai trong các con muốn làm lớn, thì hãy tự làm đầy tớ anh em. Và ai muốn thành người cầm đầu trong các con, thì hãy tự làm nô lệ cho mọi người. Vì chính Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người” (Mc 10,42-45).
Đặc biệt, trong bữa tiệc ly, Ngài không những “dạy” mà còn “làm gương” cho các ông bằng cử chỉ rửa chân. Sau khi thực hành điều đó, Ngài nói: “Anh em gọi Thầy là ‘Thầy’, là ‘Chúa’, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.” (Ga 13,13-15).
Tin mừng hôm nay cũng cho chúng ta biết, tuy Ngài sẽ về lại với Chúa Cha, nhưng “Ngài không để cho các ông mồ côi” (Ga 14,18). Thứ nhất, Ngài sẽ ban Đấng Phù Trợ đến. Đấng Phù Trợ đây là Thần Chân Lý, tức là Chúa Thánh Thần, là Thiên Chúa Ngôi Ba sẽ ở với các Tông đồ và Giáo hội. Thứ hai, tuy Ngài sẽ về với Chúa Cha, không còn hiện diện thực sự như Ngài đã từng hiện diện với các ông trong suốt ba năm qua, nhưng Ngài sẽ ở với các ông, với Giáo hội mỗi ngày cho đến tận thế bằng Lời của Ngài, bằng các Bí tích và bằng sự hiện diện một cách thiêng liêng. Điều này đã được chứng minh bằng những lần hiện ra sau khi Ngài phục sinh.
Nhưng Đức Giêsu đòi hỏi các Tông đồ là phải yêu mến Ngài. Cũng như trước khi trao sứ vụ Tông đồ trưởng cho Phêrô, Ngài đã muốn ông xác nhận về lòng yêu mến (x. Ga 21,15-19). Vì thế, lòng yêu mến hết sức quan trọng. Thánh Augustinô cũng đã từng nói: “cứ yêu rồi muốn làm gì thì làm”. Nhưng làm thế nào để chứng minh được lòng yêu mến? Đức Giêsu cho biết, lòng yêu mến được thể hiện qua việc thực hiện những lệnh truyền của Ngài, Ngài nói: “Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ giới răn Thầy”(Ga 14,15); “Ai nhận các luật Thầy truyền và giữ các luật đó, thì người ấy là kẻ yêu mến Thầy”(Ga 14,21).
Như vậy là đã rõ: Yêu mến Đức Giêsu là tuân giữ các luật của Ngài. Hay nói cách khác, kẻ giữ luật Đức Giêsu mới là kẻ yêu mến Ngài. Luật của Ngài là những giáo huấn được ghi lại trong Thánh Kinh và được lưu truyền qua Thánh truyền. Luật của Ngài được tóm lại trong mười điều răn là mến Chúa yêu người.
Các Tông đồ đã yêu mến Đức Giêsu một cách tuyệt đối và vô vị lợi. Bởi vì, các ông đã thực hiện trọn vẹn giới răn của Đức Giêsu. Vì lòng yêu mến Chúa vô vị lợi nên các Ngài đã phục vụ tha nhân hết mình và cuối cùng các Ngài đã lấy cái chết để làm chứng cho lòng yêu mến của các Ngài vào Đức Giêsu. Các bài đọc hôm nay chứng minh cho chúng ta phần nào.
Bài đọc 1, cho chúng ta thấy cách thức các Tông đồ và các thừa tác viên trong hội thánh sơ khai đã thực hiện giới răn của Đức Giêsu, đó là rao giảng, làm phép lạ, trừ quỷ, chữa lành bệnh tật. Sách Công Vụ tường thuật: “Trong những ngày ấy, Philipphê đi xuống một thành thuộc sứ Samaria, rao giảng Ðức Kitô cho họ. Dân chúng chú ý đến những lời Philipphê rao giảng, vì họ cũng nghe biết và xem thấy các phép lạ ngài làm. Quỷ ô uế đã ám nhiều người trong họ, lúc đó kêu lớn tiếng và xuất ra. Nhiều người bất toại và què quặt được chữa lành. Bởi đó cả thành được vui mừng khôn tả”(Cv 8,5-8). Đồng thời, các Tông đồ còn ban Bí tích Thêm sức cho họ: “Khi các Tông đồ ở Giêrusalem nghe tin Samaria đón nhận lời Thiên Chúa, liền gởi Phêrô và Gioan đến với họ. Khi đến nơi, hai ngài cầu nguyện cho họ được nhận lãnh Thánh Thần: vì chưa có ai trong họ được nhận lãnh Thánh Thần, họ mới chỉ được chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu. Bấy giờ các ngài đặt tay trên họ, và họ nhận lãnh Thánh Thần”(Cv 8,14-17).
Bài đọc II cũng cho chúng ta biết, sau khi thấm nhuần giáo huấn của Thầy Chí Thánh, Thánh Phêrô gửi thư dặn dò các kitô hữu hãy sống niềm tin của mình như thế nào? Đối với Thiên Chúa, Ngài dạy: “Anh em hãy tôn thờ Thiên Chúa trong lòng anh em” (x. 1Pr 3,15). Trước mặt những người lương dân: “hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời thoả mãn cho mọi kẻ hỏi lý do của niềm hy vọng nơi anh em, nhưng phải làm cách hiền từ, kính cẩn, hãy có lương tâm ngay chính, để những kẻ lăng mạ đời sống đạo đức của anh em trong Ðức Kitô, phải hổ thẹn về điều họ gièm pha anh em”(1Pr 3, 15-16). Rồi, Ngài còn nhấn mạnh: “Vì nếu Thiên Chúa muốn, thì thà làm việc thiện mà đau khổ còn hơn là làm điều gian ác”(1Pr 3, 17).
Đó là lòng yêu mến một cách vô vị lợi qua tinh thần giữ luật Chúa của các Tông đồ. Còn đối với mỗi người chúng ta thì sao?
Chúng ta có yêu mến Chúa và yêu tha nhân một cách vô vị lợi không? Hay nói cách khác, chúng ta có tuân giữ luật Chúa, một cách vô vị lợi không? Bởi vì, tình yêu vô vị lợi là tình yêu không so đo tính toán. Tình yêu vô vị lợi là tình yêu quảng đại, vị tha, cho đi, luôn muốn cho người mình yêu được hạnh phúc. Tình yêu vô vị lợi là tình yêu chỉ nghĩ đến Chúa đến tha nhân chứ không nghĩ đến mình. Tình yêu vô vị lợi là tình yêu đòi hỏi phải có sự hy sinh. Pierre l’Ermite đã nói: “Nếu biết tình yêu có chân thật hay không, hãy bỏ tình yêu vào máy ép, nếu nó tiết ra chất hy sinh vô vị lợi, đó là tình yêu thật.” Đó chính là tình yêu của Đức Giêsu dành cho nhân loại mà chóp đỉnh của tình yêu này là thí mạng sống cho nhân loại. Chính Ngài đã nói: “Không có tình yêu nào lớn bằng tình yêu của người chết cho người yêu” (Ga 15,13). Đó là tình yêu của Cha Maximiliên Kôlbê, chấp nhận chết thay cho người bạn tù vì anh ta còn vợ trẻ con thơ.
Hay chúng ta đang yêu mến Chúa, yêu thương tha nhân bằng một tình yêu vị lợi? Tức là tình yêu ích kỷ, chỉ nghĩ đến mình, tìm hạnh phúc cho mình chứ không nghĩ đến Chúa, đến tha nhân. Thậm chí có khi coi Chúa, coi tha nhân như là phương tiện để phục vụ cho mình. Thực tế, có rất nhiều người đi đạo nhưng không giữ đạo. Họ chỉ chạy đến với Chúa với Giáo hội khi họ cần cho họ, như khi lãnh nhận bí tích hôn phối, khi đưa xác người thân đến nhà thờ. Có nhiều người nói yêu tha nhân nhưng thực sự chỉ để lợi dụng tha nhân khi cần, vì chưa bao giờ họ muốn cho tha nhân được hạnh phúc.
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa, vì trước khi về trời Chúa đã không để chúng con mồ côi nhưng đã ở lại với chúng con bằng nhiều thể nhiều cách. Xin cho chúng con luôn biết yêu mến Chúa bằng việc tuân giữ giới răn và thực hành lời của Chúa. Amen.
9.Sự sống mới – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Nếu các Tin mừng Matthêu, Marcô và Luca mời gọi ta vào Vương quốc Thiên Chúa, thì Tin Mừng Gioan mời gọi ta vào tình yêu Chúa Giêsu Kitô. Thánh Gioan là người sống sau cùng. Sau khi đã nghiền ngẫm tất cả cuộc đời và những lời giảng dạy của Chúa Giêsu, thánh nhân nghiệm ra cái cốt lõi của cuộc sống người môn đệ là tình yêu chúa Giêsu Kitô, là kết hiệp với Chúa Giêsu Kitô, là sống sự sống của Thiên Chúa.
Tình yêu đó không phải là thứ tình yêu mơ mộng lãng mạn nhưng là một tình yêu sàng suốt của lý trí.Tình yêu đó không phải là chuyện đuổi bướm, hái hoa, rung động, xúc cảm, nhưng là một tình yêu với những việc làm cụ thể. Việc làm cụ thể đó là tuân giữ những điều Chúa Giêsu truyền dạy.
Đó chính là bí quyết Chúa Giêsu truyền lại cho các môn đệ, trước khi người giã từ các ông để đi vào thế giới đức tin. Từ nay để gặp gỡ Người, để yêu mến Người, để sống với Người, cần phải có đức tin và tình yêu.
Tin và Yêu là đôi mắt giúp ta nhìn thấy những sự thực siêu nhiên. Người không tin và không yêu sẽ không nhìn thấy như lời Chúa Giêsu nói trong Tin Mừng hôm nay: “Thầy ban cho anh em Thần chân lý, Đấng mà thế gian không thể đón nhận được vì thế gian không thấy và không biết Người”. Cũng như kiến thức ý khoa là khả năng chuyên môn giúp người bác sĩ nhận dạng được các loại vi trùng, định đúng được bệnh trạng của bệnh nhân; hoặc như kiến thức về thảo mộc củanhà thực vật học giúp họ nhận dạng phân loại và biết rõ đặc tính của những loải cây cỏ, tin và yêu cũng phải là khả năng chuyên môn giúp người môn đệ Chúa nhận ra những sự thực siêu nhiên, nhìn thấy, nhận biết và đón nhận Thiên Chúa.
Tin và Yêu, như vậy, là con đường dẫn đưa ta tới gặp gỡ Thiên Chúa.
Với đức tin và tình yêu, người môn đệ Chúa không còn thấy Thiên Chúa là một Đấng xa vời, mơ hồ, nhưng là một Đấng gần gũi, rất thật. Với đức tin và tình yêu ta sẽ gặp được Đức Chúa Cha, Đấng thương yêu, luôn chăm sóc cho ta, luôn mời gọi ta, luôn muốn ấp ủ ta, luôn muốn tha thứ cho ta.
Với đức tin và tình yêu, ta sẽ gặp được Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, trong Sách Thánh, trong những lời giáo huấn của Giáo hội và trong những anh em sống quanh ta.
Với đức tin và tình yêu, ta sẽ cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Thánh Thần khi Người đốt lên trong tim ta ngọn lửa yêu mến, khi Người thúc đẩy ta dẫn thân phục vụ, khi Người soi sáng cho ta những sáng kiến trong những hoạt động mới.
Nhưng quan trọng nhất là: Tin và Yêu là hai cánh cửa mở vào sự sống thần linh. Tin và Yêu không chỉ cho ta nhìn thấy Chúa, gặp gỡ Chúa mà còn cho ta được tham dự vào sự sống của Chúa. Sự sống đó là hiệp thông, như lời Chúa Giêsu nói: “Ai có và giữ các giới răn của Thầy, người ấy là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến”.
Chúa Cha ở trong Chúa Con và như Chúa Con ở trong Chúa Cha, ta sẽ được ở trong sự sống mầu nhiệm của Thiên Chúa Ba Ngôi và thật kỳ diệu, Ba Ngôi đến ở trong ta. Ở trong người nào tức là được người ấy yêu thương. Hiệp thông trong yêu thương là một thái độ cởi mở: mở tâm hồn ra để cho đi và nhận lãnh sự sống. Nhờ Tin và Yêu, ta mở lòng ra đón nhận Thiên Chúa, sự sống mới, sự sống sung mãn, sự sống vĩnh cửu.
Đúng như lời Chúa Giêsu nói: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi”. Ai nhắm mắt đức tin, sẽ không nhìn thấy Chúa, sẽ trở thành mồ côi. Ai đóng cửa tình yêu, sẽ không gặp được Chúa, sẽ sống trong cô độc. Nhưng người môn đệ Chúa, nhờ có đức tin và tình yêu sẽ gặp được Thiên Chúa Ba Ngôi. Và như thế việc ta đi của Chúa Giêsu không những không thiệt hại mà còn ích lợi cho ta. Sự ra đi của Người dẫn ta đi đến kết hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi trong sự sung mãn, sự sống dồi dào.
Nhưng để đạt tới điều Chúa Giêsu đã hứa, ta hãy nhớ lại một lần nữa lời Người căn dặn: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em hãy giữ các giới răn của Thầy”. Đức tin được thể hiện bằng tình yêu. Tình yêu được chứng minh qua hành động. Đó là chìa khoá của đời sống Kitô hữu.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Theo bạn, tình yêu mến Chúa là những tình cảm bồng bột hay những việc làm cụ thể theo lý trí?
2- Có bao giờ bạn cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời sống không?
3- Bạn có cố gắng làm chứng cho người khác về sự hiện diện của Thiên Chúa qua đời sống cầu nguyện và bác ái của bạn không?
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.)
Lời Chúa hôm nay làm chúng ta tràn trề hy vọng. Chính vì tin vào Thiên Chúa, mà niềm hy vọng bùng lên.
Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy (Ga.14, 15)
“Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà ghét anh em mình, thì đó là kẻ nói dối” (1Ga.4, 20). Tình yêu được cụ thể hoá bằng việc làm! “Tình yêu hệ tại việc làm hơn lời nói” (LT.230). Vi phạm giới răn, đó là dấu chỉ cho thấy không yêu Thiên Chúa!
Có người nói yêu thương, nhưng thực sự họ không yêu thương! Họ chỉ lợi dụng, họ tìm lợi cho họ. Thời gian giúp con người biết sự thật: mình có được yêu thương hay không!
Yêu thương ai, là muốn điều tốt lành cho người đó, là nghĩ tốt cho họ, là giúp đỡ an ủi họ, là trân trọng và tôn trọng tự do của họ, là muốn họ được triển nở và hạnh phúc hơn.
Có nhiều lúc trong đời, ta muốn người nào đó bị tai họa! Ta nguyền rủa họ, muốn khai trừ họ, không muốn nhìn thấy mặt họ! Cũng có những lúc, ta muốn làm hòa, muốn tha thứ, muốn đi bước trước để đến với người mình không ưa, nhưng ta lại không thể! Chúng ta không vượt qua được mình, chúng ta bị “cái tôi” chi phối! Thánh Phaolô cũng cảm nghiệm điều này: “Điều thiện tôi muốn tôi không làm, còn điều dữ tôi không muốn tôi lại làm” (Rm.7, 19), và ngài đã phải kêu lên: “Ai cứu tôi khỏi tình trạng khốn nạn này bây giờ?” (Rm.7, 24).
Thầy sẽ xin Chúa Cha, và Ngài sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi
Đức Yêsu nài xin Chúa Cha ban Đấng Bầu Chữa khác cho chúng ta (Ga.14, 16). Đây phải là điều rất quan trọng nên Đức Yêsu mới nài xin!
Thánh Thần là ai? Ngài là Đấng thế gian không thấy nên không biết! Còn chúng ta biết Ngài, vì chúng ta tin vào Đức Yêsu.
Đức Yêsu đã mặc khải Thánh Thần cho chúng ta (Ga.14, 16.26; 15, 26-27; 16, 12-14; 20, 22). Chính vì tin vào Đức Yêsu, nên chúng ta biết Thánh Thần dù chúng ta không thấy Ngài.
Thánh Thần luôn ở với chúng ta. Ngài ở với từng người, để giúp mỗi người cầu nguyện (Rm.8, 26), để chúng ta có thể gọi Thiên Chúa là Cha (Rm.8, 15-16), để làm chúng ta sống đời sống mới (Rm.8, 11).
Thánh Thần biến đổi các tông đồ, từ một người ít học nhát đảm thành người dám đứng ra rao giảng Tin Mừng Phục Sinh cho nhiều người. Thánh Thần là Đấng giúp chúng ta biết
Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng,
và Thiên Chúa quyền năng sẽ biến đổi con người, làm chúng ta thành người mới, thành người trung tín như Thiên Chúa nếu chúng ta vâng phục Thánh Thần.
Thánh Thần tha thứ tội cho chúng ta, giúp chúng ta đến với người khác, giúp chúng ta làm những điều đẹp ý Thiên Chúa, giúp chúng ta vượt qua chính mình, làm chúng ta nên thánh.
Giữ giới răn, đó là dấu chỉ được Thiên Chúa yêu mến
Ai giữ giới răn của Chúa, đó là người yêu mến Chúa. Những người này được Chúa Cha yêu thương, được Chúa Yêsu yêu mến và tỏ mình cho họ (Ga.14, 21).
Điều làm chúng ta an tâm, đó là:
Thiên Chúa đang ở với chúng ta,
Thiên Chúa đang ở trong chúng ta,
và chúng ta đang ở trong Thiên Chúa.
“Nơi nào có hai hay ba người họp nhau vì danh Thầy, thì Thầy ở giữa họ” (Mt.18, 20).
“Thầy ở trong Cha, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em” (Ga.14, 20).
Tin Mừng hôm nay ghi lại những lời Chúa Giêsu giáo huấn cho các môn đệ trong bữa tiệc ly. Trong những giờ phút sau cùng này, Ngài đã nói với các môn đệ những lời căn bản nhất. Những điều ấy như là những chỉ dẫn thiết yếu cho các môn đệ trong tương lai, và đó cũng chính là những gì Ngài muốn họ sống trong khi không có Ngài hiện diện bên cạnh cách hữu hình. Một trong những điều ấy là: “nếu các con yêu mến Thầy, các con hãy giữ các giới răn của Thầy”.
Chúa không nói với chúng ta đến việc tuân giữ các giới răn một cách lý thuyết mà nói bằng chính cuộc sống của Ngài. Điều gì thật sự có sức ảnh hưởng mạnh mẽ và chứng tỏ chúng ta là Kitô hữu? Không thể gọi chúng ta là môn đệ của Chúa Giêsu cách đúng nghĩa, nếu chúng ta không lắng nghe và cố gắng thực hiện lời của Ngài. Chúng ta càng không là Kitô hữu nếu chúng ta không nỗ lực sống những gì Chúa Giêsu dạy.
Nhưng chúng ta cần phải xác tín một điều. Chúng ta không phải giữ giới răn của Chúa để được Ngài yêu mến, mà chúng ta giữ giới răn Chúa bởi gì Ngài đã yêu mến ta trước. Trong suốt bữa tiệc ly, Chúa Giêsu không ngừng nhắc nhở: “hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương”. Điều đó cho chúng ta thấy, chính Ngài đã yêu thương chúng ta trước, và yêu thương chúng ta cách nhưng không, vô điều kiện.
Một sự thật quan trọng chúng ta cần phải nhận ra là chúng ta đã được yêu thương cách nhưng không. Nhiều khi chính chúng ta cũng không tin rằng tại sao chúng ta lại được Chúa yêu thương như thế. Vì chúng thường nghĩ, hay để ý: Chúa chỉ yêu thương chúng ta khi chúng ta tốt. Nhưng thật ra Chúa không thương yêu chúng ta vì chúng ta tốt lành, thánh thiện nhưng bởi vì Chúa tốt lành, thánh thiện. Vì ngay cả sự hiện hữu của chúng ta trên đời đã là dấu chỉ tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Chính tình yêu nhưng không mà Thiên Chúa dành cho chúng ta là Tin Mừng cho nhân loại. Bổn phận của chúng ta là nỗ lực, cố gắng đáp lại tình yêu ấy.
Chúa Giêsu biết rằng, Chúa Cha đã yêu thương Ngài và Ngài đã đáp lại bằng cách yêu thương Chúa Cha. Và Ngài đã chứng tỏ tình yêu đối với Chúa Cha qua thái độ vâng phục, thậm chí vâng phục đến nỗi dâng hiến cả cuộc sống mình. Cũng chính nhờ sự vâng phục mà chúng ta chứng tỏ tình yêu của mình đối với Chúa Giêsu. Như thế có ý nghĩa là gì? Nghĩa là chúng ta phải biết lắng nghe lời Ngài và mang ra thực hành trong cuộc sống. Yêu thương là vâng phục, và vâng phục là yêu thương.
Có nhiều người chỉ biết tuyên bố yêu Chúa Giêsu trong lời nói, nhưng lại chối bỏ Ngài trong đời sống họ. Tình yêu thật sự phải được minh chứng bằng việc làm cụ thể. Người ta chỉ biết chúng ta qua hành động chứ không phải bằng những lời nói ngoài môi miệng.
Nhưng thật sự không phải dễ sống như người môn đệ của Chúa Giêsu trong thế giới hiện đại hôm nay. Đó cũng chính là lý do mà Chúa Giêsu đã ban Thánh Thần cho chúng ta. Để khi chúng ta yếu đuối, chúng ta cầu nguyện với Ngài. Chính Thánh Thần sẽ an ủi khi ta buồn, soi sáng lúc ta lâm vào tăm tối và làm cho chúng ta trở nên mạnh mẽ, dũng cảm khi chúng ta yếu đuối.
Danh từ mà Chúa Giêsu gọi Thánh Thần là “Đấng An Ủi”, Ngài chính là Đấng nâng đỡ, bào chữa khi chúng ta gặp thử thách gian nan. Chính Ngài đã ban sức mạnh để nâng đỡ các môn đệ trong lúc gặp thử thách. Cũng chính nhờ Người mà các môn đệ Chúa Giêsu có thể đón nhận những đau khổ như thập giá phát sinh ơn cứu độ. Như thánh Phêrô tông đồ nhắc nhỡ trong bài đọc II: “thà chịu đau khổ vì làm những việc lành còn hơn là làm điều dữ”. Chính khi thi hành điều thiện mà gặp đau khổ thì đời sống đức tin chúng ta sẽ lớn lên và mạnh mẽ hơn. Bên cạnh đó, chúng ta còn có một gương mẫu là Đức Kitô, Đấng dù vô tội nhưng vẫn chịu đau khỗ và chết vì tội lỗi chúng ta.
Các tông đồ biết rằng chính Chúa Giêsu yêu thương họ. Và chúng ta biết Ngài cũng yêu thương chúng ta. Không có một tình yêu nào lại mang bóng dáng của sự lầm lỗi, vì đã là tình yêu thì không phải là tội lỗi. Bạn chỉ có thể cảm nhận điều này ngay trong trái tim bạn. Nó như một ngọn lửa sưởi ấm tâm hồn bạn, thêm sức mạnh để bạn có thể vượt qua những giây phút tăm tối trong cuộc đời. Tình yêu làm cho chúng ta gắn bó, hiệp thông mật thiết với Thiên Chúa và nối kết chúng ta lại với nhau. Đời sống người Kitô hữu chỉ có thể lớn lên khi được nuôi dưỡng trong môi trường, bầu khí yêu thương, thánh thiện.
“Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Điều đó đã thâu tóm lại tất cả những gì lề luật dạy.
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Chúng ta đang suy niệm một đoạn của diễn từ trong buổi Tiệc Ly. Tâm sự của Chúa Giêsu chảy ngọt những lời yêu thương sâu đậm, những lời trối trăn ân tình: “Nếu anh em yêu mến Thầy, thì sẽ giữ các điều răn của Thầy”. Yêu mến Thầy không chỉ là nói mà làm. Tình yêu đích thực là làm những gì người mình yêu mong muốn. Những lời nói yêu thương ngọt ngào thế nào chăng nữa mà chẳng đi đôi với việc làm thì chỉ là sáo ngữ, không thuyết phục. Chúa Giêsu đã yêu chúng ta, Ngài đã chứng tỏ tình yêu của Ngài bằng cả cuộc sống. Ngài đã làm mọi sự vì chúng ta mà thôi. Ngài đã yêu Chúa Cha bằng cách vâng phục Chúa Cha một cách trọn hảo. Ngài muốn chúng ta yêu Ngài như Ngài đã yêu Chúa Cha. Ngài không cần những tiếng nói dù ngọt ngào đến đâu. Ngài chỉ muốn chúng ta chứng tỏ tình yêu bằng hành động, bằng thực tế. Chính Ngài đã nói: “Không phải những kẻ nói “lạy Chúa, lạy Chúa” mà vào được Nước Trời, mà những kẻ thi hành ý của Cha Ta trên trời mới vào được”.
Chúng ta đã yêu mến Ngài như thế nào? Hay chúng ta giống như dân Do Thái xưa bị Chúa luôn quở trách là dân cứng cổ, như con ngựa bất kham, như người đàn bà không trung tín, chỉ thờ Chúa bằng môi bằng miệng mà lòng vẫn cách xa? Nói thì nói đạo đức mà lòng thì nham hiểm ác độc, ganh tị, kiêu căng? Chúa đang mỏi mắt tìm kiếm những người tôn thờ Chúa trong Thánh Thần và sự thật, những người yêu mến Chúa hết lòng hết sức… Được mấy người?
Ai yêu mến Chúa thật tình thì Chúa hứa sẽ ban cho họ một Đấng Bảo Trợ khác, ở với anh em luôn mãi.
Đấng Bảo Trợ là Đấng an ủi, bênh vực nâng đỡ chúng ta. Ngài được Chúa Giêsu gọi là Thần Khí sự thật, Ngài ở giữa anh em và ở trong anh em. Đối với các tông đồ đây chỉ là lời hứa, nhưng ngày lễ Ngũ Tuần, lời hứa này đã được thực hiện một cách sung mãn. Đối với chúng ta, lời hứa đó cũng được thực hiện. Chúng ta đang ở trong Thánh Thần. Giáo hội đang sống trong Thánh Thần. Ngài âm thầm hoạt động mặc dù chúng ta không thể thấy rõ những hoạt động của Ngài. Hai mươi thế kỷ, Thánh Thần Chúa vẫn bảo vệ Giáo hội và ngay hôm nay, trong một thế giới đầy hỗn loạn và không tin, Giáo hội vẫn luôn là ngọn đèn cho mọi người, cho thế giới.
Chúng ta không quen lắm với Thánh thần, nhưng Ngài vẫn ở trong chúng ta, soi sáng tâm trí chúng ta và giúp chúng ta tiến sâu vào tình yêu.
Thánh Phaolô luôn nói đến Thánh Thần gần như trong tất cả các thư của ngài. “Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự tronglòng anh em mà kêu lên: “Abba, Cha ơi!” “Anh em không biết rằng anh em là Đền thờ của Chúa Thánh Thần và Thánh Thần đang ngự trong anh em sao?” Thánh Thần đó dạy chúng ta cầu nguyện, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải”… Thế gian không biết Người, nhưng anh em biết Người vì Người ở giữa anh em và ở trong anh em. Chúng ta không thấy Ngài, nhưng Ngài vẫn luôn ở với chúng ta.
Nếu tìm lại trong Kinh Thánh, chúng ta sẽ thấy Ngài gần như luôn có mặt và hoạt động. Ngài hoạt động ngay từ khi tạo dựng vũ trụ. Ngài bay là trên mặt nước trong cảnh hỗn man ban đầu. Ngài làm cho thế giới thành hình với muôn tạo vật trong trật tự. Ngài nói qua miệng của các ngôn sứ, những con người dốt nát hèn yếu như chúng ta, soi sáng cho họ biết nói gì để đánh thức dân cứng đầu cứng cổ là dân Do Thái, dạy họ tuân giữ Giao Ước mà Chúa đã thương ban cho họ. Những lời kinh trong Thánh vịnh phải chăng là những lời được Thánh Thần soi sáng để trở thành lời nguyện cầu của dân Chúa, hôm qua cũng như hôm nay.
Tuyệt tác của Thánh Thần là việc nhập thể của Chúa Giêsu. Chúa Thánh Thần đã hoạt động trong công việc này như là tác giả, Đấng sáng tạo. Ngài đã đến trên Maria, một cô gái quê tầm thường, đã làm cho nàng trở thành Mẹ Thiên Chúa. Thánh Thần Chúa sẽ ngự xuống trên Bà… Ngài đã đến soi sáng cho nàng hiểu công trình của Chúa để nàng cộng tác với tất cả lòng biết ơn. Xin Chúa cứ thực hiện nơi tôi những gì Ngài muốn. Nàng đã đáp lại tiếng gọi của Chúa để mang đến cho chúng ta Ngôi Lời. Nàng đã cưu mang, sinh ra Ngôi Lời của Thiên Chúa. Tất cả đều do Thánh Thần.
Nơi Chúa Giêsu, chúng ta càng thấy rõ hơn hoạt động của Chúa Thánh Thần. Gần như Chúa Giêsu luôn luôn hoạt động cùng với Thánh Thần trong mọi hoàn cảnh. Bởi phép Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng trinh nữ Maria và đã làm người. Ngay khi còn trong lòng mẹ, Chúa Thánh Thần đã soi sáng cho bà Êlisabet nhìn nhận Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa, và Gioan Tẩy Giả nhảy mừng trong lòng mẹ.
Chúng ta thấy rõ nét nhất mối liên hệ của Chúa Thánh Thần với Chúa Giêsu lúc Ngài chịu phép rửa tại sông Giođan: Thánh Thần Chúa ngự xuống trên Ngài dưới hình chim bồ câu. Khi Ngài vào Hội đường Nadaret và đọc lời tiên tri Isaia: Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi… và sau đó Ngài tuyên bố một cách rõ rệt: “Hôm nay ứng nghiệm lời anh em vừa nghe đọc”. Chúng ta không thể kể hết những hoạt động của Chúa Thánh Thần nơi Chúa Giêsu, nhưng chúng ta có thể thấy được sự kết hợp mật thiết giữa Chúa Thánh Thần và Chúa Giêsu.
Nếu chúng ta đọc lại sách Tông Đồ Công Vụ, chúng ta càng thấy rõ vai trò của Chúa Thánh Thần trong Giáo hội sơ khai. Gần như Thánh Thần điều khiển tất cả, hướng dẫn tất cả mọi hoạt động của Giáo hội. Sách Tông Đồ Công vụ được xem như Tin Mừng của Chúa Thánh Thần. Và cho đến hôm nay, Giáo hội luôn được Thánh Thần Chúa yểm trợ trong hành trình về quê trời.
Nhìn sơ lược những hoạt động của Chúa Thánh Thần để thấy rằng, Ngài vẫn yểm trợ chúng ta. Ngài thay thế Chúa Giêsu và tiếp tục công trình cứu độ của Chúa Giêsu cho đến tận thế. Chúa nói: “Thầy không để anh em mồ côi” là như thế. Chúa Thánh Thần sẽ ở với chúng ta thay cho Ngài để giúp chúng ta giữ các điều răn của Ngài. Thánh Phaolô đã nói: “Ai không có Thánh Thần của Đức Kitô, người ấy không thuộc về Chúa Kitô”. Chúng ta thấy tại sao Chúa Giêsu, trong giờ phút từ biệt các môn đệ để đi vào cuộc khổ nạn, Ngài đã nói đến Chúa Thánh Thần như Đấng sẽ thay thế Ngài chăm sóc đoàn chiên nhỏ bé của Ngài.
Chúng ta cần đến Chúa Thánh Thần vì không có Ngài, chúng ta chỉ là những con người yếu đuối, không thể nào giữ các điều răn của Chúa, không thể trở nên con Chúa Cha. Hãy sống trong ánh sáng của Chúa Thánh Thần và như thánh Phaolô căn dặn: đừng dập tắt Thánh Thần, nhưng luôn sống trong Ngài, nghe theo những thúc đẩy của Ngài, chúng ta mới thực sự là đền thờ của Chúa Ba Ngôi như Chúa Giêsu đã nói: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ mình cho Người ấy”.
Chúa Giêsu vẫn ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế, nhưng hơn thế nữa Ngài còn ở với chúng ta nhờ Thánh Thể. Chúng ta luôn được nuôi dưỡng bằng của ăn hằng sống này. Của ăn này từ Thánh Thần mà đến vì chính Thánh Thần biến đổi bánh và rượu thành Mình và Máu Chúa chứ không do linh mục. Sống trong Chúa nhờ Thánh Thể như Chúa đã nói: “Thầy sống thì anh em cũng được sống”. Chỉ khi nào chúng ta kết hiệp mật thiết với Ngài, chúng ta mới đủ can đảm trung thành.
Chúa Giêsu sống lại đã trở thành nguồn phấn khởi và hy vọng cho chúng ta. Và để cho niềm vui đó tồn tại và sung mãn, Ngài chỉ cho chúng ta một con đường là giữ điều răn của Thầy. Và giữ điều răn của Thầy chính là yêu mến Thầy. Con đường tình yêu không chỉ là nói mà làm. Tình yêu đích thực là làm cho người yêu vừa lòng. Yêu mến Chúa cũng thế thôi. Chúa đã từng trách dân Do Thái chỉ yêu ngoài môi ngoài miệng mà lòng trí vẫn xa Ngài. Chúa Giêsu đã yêu chúng ta trước và tình yêu đã khiến Ngài hi sinh tất cả, mang lấy thân phận chúng ta, và chết cho chúng ta: “Không có tình yêu nào cao cả cho bằng dám chết cho bạn hữu”. Ngài đã chứng minh tình yêu của Ngài bằng những hành động cụ thể, không thể chối cãi. Ngài cũng yêu Chúa Cha bằng cách vâng phục ý Cha đến trọn vẹn, cho đến chết và chết trên thập giá. Con đường tình yêu chỉ có một. Chúng ta yêu Ngài cũng theo con đường duy nhất đó.
Khi yêu Ngài, giữ lời Ngài, chúng ta sẽ được gì? Ngài không hứa ban cho chúng ta những lợi lộc trần gian. Ngài cho chúng ta những gì mà thế gian không thể biết và không thể lãnh nhận là Thánh Thần của Ngài, Đấng Bảo Trợ, là Thần Khí sự thật. Đấng bảo trợ là ai? Theo nguyên ngữ Hy Lạp, Đấng Bảo Trợ mang nhiều ý nghĩa: là Đấng an ủi, là người bảo vệ, là trạng sư, là người nâng đỡ… Ở đây, Chúa Thánh Thần bao gồm tất cả những nhiệm vụ đó. Trong Kinh Thánh, chúng ta thấy Ngài hoạt động từ lúc sáng thế cho đến ngày chung thẩm, không có nơi nào mà chúng ta không thấy hoạt động của Ngài. Ngài hiện diện trong mọi biến cố của dân Chúa, trong những người Chúa chọn để dạy dỗ hay cứu vớt dân Chúa. Nhất là nơi các tiên tri, và đặc biệt nhất là nơi Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu xuống thế làm người là do quyền năng Thánh Thần. Có thể nói, Chúa Giêsu hoàn toàn là một với Thánh Thần, trong mọi hoạt động, trong mọi tình huống. Trên thập giá, Chúa Giêsu đã trao phó Thánh Thần cho Giáo Hội và cho chúng ta khi Ngài tắt thở. Đến ngày lễ Ngũ Tuần, Thánh Thần Chúa đã long trọng ngự xuống trên các tông đồ và dưới sự thúc đẩy của Ngài, Giáo Hội bắt đầu chinh phục thế giới.
Nơi bàn tiệc ly, Chúa Giêsu đã hứa trước và Ngài đã thực hiện lời hứa đó. Chúng ta được thanh tẩy trong Thánh Thần và nhận lãnh Thánh Thần một cách sung mãn nơi Bí tích Thêm Sức. Ngài luôn ở giữa anh em và ở trong anh em. Ngài là Thần Khí sự thật, Ngài sẽ dẫn chúng ta đến sự thật vẹn toàn. Ngài sẽ giúp chúng ta hiểu biết Thiên Chúa vì chính Thiên Chúa là sự thật. Biết Thiên Chúa là điều cốt yếu, nếu không, chúng ta dễ biến Ngài thành thần tượng, như dân Do Thái đã biến Thiên Chúa thành con bò vàng. Thiên Chúa vượt xa tất cả những gì chúng ta tưởng về Ngài. Chỉ có Thánh Thần mới giúp chúng ta hiểu biết Thiên Chúa như Chúa muốn. Chỉ có Thánh Thần mới dạy chúng ta cầu nguyện thế nào cho phải và cho chúng ta biết gọi tiếng cha ơi với tất cả tình con thảo. Chỉ có Thánh Thần mới soi sáng cho chúng ta biết Thiên Chúa là Tình Yêu. Chỉ có Thánh Thần mới dạy chúng ta biết yêu mến Chúa hết lòng hết sức. Chúa Giêsu đã hứa là không để chúng ta mồ côi, Ngài sẽ cùng chúng ta nhờ Thánh Thần của Ngài: Ngài ở giữa anh em và ở trong anh em. Hãy lặp đi lặp lại những lời đầy an ủi này, chúng ta sẽ thấy ấm lòng hơn. Chúng ta sẽ không đơn độc giữa thế giới đầy hận thù và gian ác này. Chúng ta sẽ không thất vọng khi mọi sự quanh ta trở thành chướng ngại, và cuộc sống trở nên gánh nặng. Chúng ta sẽ can đảm rao giảng Tin Mừng Chúa bằng cả cuộc sống cam go này.
Nhờ Thánh Thần Tình Yêu, chúng ta sẽ trở nên tình yêu: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Phải can đảm phi thường mới có thể yêu thương như Thầy. Nhưng có thể được vì chúng ta có Chúa Thánh Thần trong ta. Chính Ngài thúc đẩy mọi việc lành, mọi cố gắng của chúng ta.
Chúa Giêsu nhấn mạnh đến sự ở trong: “Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em. Thánh Thần ở giữa và ở trong anh em”. Đó mới là biểu hiện của tình yêu. Chúng ta được ẩn náu trong Chúa, và như thế chúng ta được sống trong Chúa và chính Chúa chọn tâm hồn chúng ta làm nơi cư ngụ của Ngài. Ngài không cần tỏ hiện, Ngài dùng chúng ta để tỏ hiện tình yêu của Ngài cho mọi người. Chúng ta phải sống thế nào? Phải yêu thương nhau. Đó là ước muốn cuối cùng của Chúa Giêsu. Chúng ta là con Chúa, chúng ta chỉ sống bằng tình yêu thôi. Chúng ta không thể làm gì khác. Chúng ta là hình ảnh của Chúa, vì Chúa đã tạo nên chúng ta giống hình ảnh Ngài. Vì thế, Chúa Giêsu đã dùng một phương tiện lạ lùng để sống trong chúng ta một cách cụ thể. Ngài tự hiến cho chúng ta bằng cách trở nên một tấm bánh và bảo chúng ta cầm lấy mà ăn. Như thế, Ngài thực hiện ý định tình yêu của Ngài bằng một hình thức cụ thể nhất và chúng ta sẽ không thể nào tránh né tình yêu Ngài. Phải là một với Ngài, hôm nay và mãi mãi.
Yêu và được yêu là khát vọng thiết yếu của con người. Một ai đó đã từng nói: “không ai có thể sống mà không yêu”. Như thế sống yêu thương là yếu tố hàng đầu và cần thiết của con người. Thầy Giêsu muốn các môn đệ yêu mến Thầy. yêu mến Thầy thì phải giữ Lời Thầy, thực hiện theo ý muốn của Thầy. Mà ý muốn của Thầy là làm theo Đấng đã sai Thầy. Người Kitô hữu được mời gọi giữ Lời Chúa Kitô truyền, thực thi ý muốn của Người.
Thật thế, Thiên Chúa là tình yêu. Đức Giêsu Kitô là hình ảnh hữu hình của tình yêu ấy. Tình yêu đã thúc bách Đức Giêsu Kitô mang thân phận con người, sống như con người và chết tủi nhục vì con người nhăm mang lại cho con người sự sống và tình yêu cứu độ như Thiên Chúa đã dựng nên thuở ban đầu.
Con người được dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa, sống cho và sống vì Thiên Chúa. Con người hiện hữu trong vũ trụ do Thiên Chúa yêu thương và được mời gọi để sống yêu thương cho Thiên Chúa tình yêu. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết sức lực, hết linh hồn và hết trí khôn và cũng yêu tha nhân như chính mình là điều đẹp lòng Thiên Chúa nhất. Đó là giới răn quan trọng nhất. Yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân là bổn phận của con người, đặc biệt nó làm nên yếu tính của người Kitô hữu, những người tin và bước theo Chúa Giêsu trên con đường sống đạo. Giữ lời Chúa Kitô nghĩa là yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân phải là kim chỉ nam cho người Kitô hữu. Đó còn phải là lẽ sống, là linh hồn của mọi hoạt động của con người. Yêu mến Thiên Chúa là tìm được nguồn sống đích thực. Yêu thương tha nhân chính là sống giây phút hạnh phúc ở thì hiện tại. Và như thế, giữ Chúa truyền là thướt đo lòng mến của người môn đệ, là dấu chỉ nhận biết môn đệ đích thực của Thầy Giêsu.
Khi người ta đã hết lòng yêu thương ai thì họ sẽ sống như chính mình đang sống với chính người mình yêu. Dù cho người được yêu vắng mặt nhưng khuôn mặt, lời nói, cử chỉ, ước muốn của người yêu vẫn luôn hiện diện canh cánh bên lòng người yêu. Từng cử chỉ, thái độ và ước muốn của lý trí, ý chí và con tim cũng được thể hiện rõ nét trong người yêu. Như thế, tình yêu không chỉ diễn tả bằng việc thấy, nghe, biết mà còn là hiểu bằng con tim và còn là thể hiện bằng những hành động cụ thể trong đời sống của mình. Do đó, dù có “xa mặt nhưng không thể cách lòng”. Dù có xa cách thể lý nhưng vẫn hiện diện trong sự gần gũi tấm lòng và của toàn diện con người đang yêu bằng việc giữ lời của người yêu muốn.
Con người được hiện hữu vì yêu thương nên tình yêu là động lực, là ánh sáng chỉ đường, là phương thế để con người thực thi sự yêu thương ấy. Con người còn có có bản chỉ đường là tiếng nói lương tâm yêu mến Chân, Thiện, Mỹ hay chính lương tâm làm lành lánh dữ, lương tâm sống bác ái vô vị lợi. Hơn nữa, người Kitô hữu còn có tiếng nói của Lời Chúa, giáo huấn của Giáo Hội, giới răn của Thiên Chúa… để làm tiêu chuẩn, để con người có thể dựa vào đó mà kiểm điểm mỗi khi sai lệch phương hướng và là con đường để tiến bước trong an bình theo Chúa Kitô.
Chính vì muốn thực thi Lời Chúa, giữ Lời Chúa truyền, muốn sống yêu thương mà biết bao người trẻ hiến thân cho nhau để sống gương mẫu trong bậc gia đình, để làm tăng thêm người yêu thương trong Đạo Thánh Chúa. Cũng chính vì muốn giữ lời Chúa truyền mà hằng ngày, hằng giờ có biết bao tâm hồn của người trẻ thiện chí lắng nghe tiếng gọi để đáp lại tình yêu tận hiến cho Chúa Giêsu yêu dấu, họ đã tự nguyện tham gia trong bậc sống tu trì, giáo sĩ và tu sĩ… và còn nhiều tâm hồn thành tâm thiện chí khác đang sống an bình trong yêu thương tuân giữ luật Chúa truyền dù phải vất vả sống cho tình yêu mà mình được mời gọi, sống yêu mến Thiên Chúa và sống yêu thương, tha thứ, chia sẻ bác ái cho than nhân.
Như thế, giữ Lời Chúa truyền là điều thiết yếu đối với người Kitô hữu chúng ta. Yêu thương giúp người ta nhận biết ta là môn đệ Thầy Giêsu. Yêu thương là cánh cửa dẫn đến sự sống: sống cho, sống vì và sống với, sự sống ấy chính là sự sống Thiên Đàng, là hạnh phúc và an bình mà con người đã, đang và sẽ đạt tới.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết giữ giới răn Chúa truyền là thực thi điều Chúa muốn đó là sống yêu thương như Chúa đã làm gương và mời gọi. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương tha nhân như chính mình. Amen.
Làm bất cứ điều gì nếu ta thực hiện với cả tấm lòng và nhất là khi ta đặt vào đó tình yêu thì cho dù vất vả cách mấy cũng trở nên nhẹ nhàng, thoải mái. Hơn thế, hiệu quả đem lại có giá trị cao và phi thường. Một anh thanh niên và một cô thiếu nữ thật lòng yêu thương nhau sẽ tự cam kết sống với nhau cho đến răng long đầu bạc. Mặc dù trước cam kết đó sẽ là không biết bao nhiêu vất vả, khó khăn. Cha mẹ dầm sương dãi nắng, đổ mồ hôi sôi nước mắt hay bán mặt cho đất bán lưng cho trời chỉ vì yêu thương lo cho con cái mình. Cho dù điều đó không ai buộc họ phải làm. Cũng thế, hôm nay Chúa Giêsu mời gọi ta tuân giữ giới răn của Người vì yêu mến.
Mở đầu đoạn Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu nói: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ tuân giữ các điều răn của Thầy” (Ga, 14, 15). Thông thường khi được kêu gọi tuân giữ điều gì ta hay tự hỏi nó sẽ đem lại lợi ích gì cho tôi. Chẳng hạn khi được kêu gọi đội nón bảo hiểm khi tham gia giao thông thì tôi được an toàn hơn nếu lỡ có xảy ra tai nạn. Tôi được kêu gọi ăn chín uống sôi, ăn sạch uống sạch để bảo vệ khỏi mắc bệnh tiêu chảy cấp nguy hiểm đến tính mạng… Do đó, có lẽ chúng ta cũng sẽ tự hỏi tuân giữ giới răn Chúa tôi sẽ được gì. Chắc chắn có lợi ích nên Người mới mời gọi ta. “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi” (Ga 14, 16); “Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy đến cùng anh em” (Ga 14, 18) và “…sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy.” (Ga 14, 21). Thật là những lợi ích hết sức thiêng liêng quý giá. Chỉ trong cái nhìn đức tin chúng ta mới có thể cảm nhận được những lợi ích đó.
Hơn thế nữa, tuân giữ những giới răn của Chúa vì để đáp đền tình yêu Thiên Chúa sẽ lý do cao cả và quý nhất. Điều răn quan trọng nhất mà Chúa Giêsu đã có lần nói chính là mến Chúa yêu người (Mc 12, 24 – 38)
Làm sao ta có thể mến Chúa yêu người nếu như ta chưa thật sự cảm nhận được tình yêu mà Chúa dành cho mình. Được sinh ra làm người và được làm con Chúa đó là ơn ban nhưng không mà Thiên Chúa đã ban cho ta. Vì thương mà Thiên Chúa đã chẳng tiếc gì kể cả Con Một của Ngài. Bấy nhiêu cũng quá đủ để ta thấy Thiên Chúa yêu thương ta như thế nào. Đặc biệt, những ngày trong mùa Phục sinh này càng làm cho tưởng nhớ tình thương Chúa dành cho ta. Chúa Giêsu đã được phục sinh vinh quang sau khi đi trọn con đường trần thế này. Đó là điều bảo đảm nhất để ta thêm nghị lực mà tuân giữ giới răn của Người.
Xin bình an và tình yêu của Chúa Giêsu phục sinh cho ta tiếp tục cảm nhận được nhiều hơn tình yêu bao la Chúa dành cho mình. Để rồi vì đền đáp tình yêu Chúa mà ta tuân giữ giới răn mà Người truyền dạy.
Kitô giáo là tôn giáo của Đấng đã sống lại, Đấng đang sống sự sống tràn trề của Thiên Chúa. Có lẽ, hơn ai hết, Thánh Phaolô đã cảm nếm hương vị tuyệt vời về biến cố sống lại của Đức Giêsu Kitô. Thánh Phaolô đã bị cuốn hút bởi Đấng Phục sinh sau biến cố lạ lùng xảy ra với ông trên con đường Đamas. Rồi sau khi được Đấng Phục sinh chinh phục, ông cảm thấy được Ngài là tất cả của ông. Không còn gì đáng mơ ước hơn nữa nếu đã có được Ngài ở bên và được thuộc về Ngài. Thánh Phaolô đã dùng bao nhiêu là từ ngữ và lời nói phát xuất từ con tim của Ngài để nói lên hạnh phúc được thuộc về Chúa: “Không có gì có thể tách tôi ra khỏi lòng yêu mến của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô”. Đó là tâm tình và sức sống của một kẻ cảm nghiệm mình được yêu và đang yêu.
Tất cả niềm hạnh phúc và sức mạnh dấn thân của Phaolô được khởi đi từ cảm nghiệm Đức Giêsu Kitô đang sống và đang đồng hành với ông trong cuộc đời này. Thánh Phaolô đã thốt lên: “ Nếu Đức Ki-tô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng… Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Ki-tô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người. Nhưng không phải thế! Đức Ki-tô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu” (1Cr 15,14.19-20), để từ đây, ai thuộc về Đức Giêsu Kitô là thuộc về thế giới của sự sống, của kẻ sống và sống vĩnh cửu.
Trong cuộc đời này, có những khi ta cảm tưởng mình như đang bước đi trong bóng đêm dày đặc, đang rơi xuống vực thẳm đen tối khi bao nhiêu những dự định hay những mối quan hệ tình cảm bỗng nhiên bị đổ vỡ và tan biến. Đó phải chăng là một cuộc chết đi cho những dự tính nông cạn, thiển cận của con người được mời gọi tham dự vào cuộc sống mới, cuộc sống của Đấng Phục sinh.
Marian Picasso là cháu của hoạ sĩ Picasso. Từ năm 1973 đến năm 1975, bà phải chịu nhiều cái tang lớn: ông nội mất, anh ruột tự tử, cha của bà đột ngột qua đời. Đây thật là những mất mát không sao bù đắp được, dù bà nắm trong tay một gia sản khổng lồ. Năm 1990, bà đến Việt Nam và nhận các bé mồ côi hay bị bỏ rơi về làm con nuôi và giúp các trẻ em có hoàn cảnh khó khăn được nơi ăn học. Từ lúc ấy, bà cảm nhận được một sự thay đổi nơi nội tâm “nhờ giúp đỡ những trẻ em này, tôi tìm lại được chính mình. Giờ đây, tôi cảm thấy mình như sống lại, và tôi muốn phân phát sự sống đó cho các em”.
Hẳn đã có những người Kitô hữu đã trải qua kinh nghiệm của Marina, kinh nghiệm thấy mình được sống lại nhờ biết ra khỏi nổi đau của mình để chia sẻ niềm hạnh phúc cho những ai đang cần đến chúng ta. Kinh nghiệm tìm lại được chính mình bình an khi không còn bận tâm lo cho mình nữa. Kinh nghiệm thấy sự sống được nhân lên gấp bội khi biết chia sẻ tận tình.
Thuộc về Chúa Giêsu Kitô là sống theo gương mẫu của Ngài và sống như Ngài đã sống. “hy sinh mạng sống của mình vì người mình yêu”. Sống thật là biết cho đi. Khi biết trao ban tận tình là thuộc về Đấng hằng sống. Đức Giêsu Phục sinh không chỉ hiện ra một vài lần nhưng Ngài muốn ở mãi bên chúng ta cho đến tận thế, một sự hiện diện 2 chiều, mới mẻ và thâm sâu “anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em”, một sự hiện diện tràn đầy sức sống “Thầy sống và anh em cũng sống”. Nhờ qua Bí tích Rửa tội, người Kitô hữu tự bản chất đã được Phục sinh và sự Phục sinh ấy không ngừng lớn mạnh nhờ thông hiệp với Đấng đang sống là Đức Giêsu Kitô.
Mùa Phục sinh là mùa nhắc chúng ta nhìn lại sự sống nơi mình. Lắm khi chúng ta sống èo uột chỉ vì không dám yêu thương, không dám hy sinh và không dám cho đi. Bắt đầu ra khỏi chính mình để sống yêu thương là bắt đầu thấy Chúa tỏ mình, thấy sự sống của Thiên Chúa bùng lên mạnh mẽ nơi chúng ta. Thế giới hôm nay đang cố làm cho cuộc sống được đảm bảo hơn, tiện nghi hơn và kéo dài hơn, nhưng con người vẫn sống trong lo sợ, nguy hiểm và may rủi rất cao do chiến tranh, khủng bố, tội ác, đói nghèo… cuộc sống bị héo úa vì không tìm thấy ý nghĩa. Thế giới đang đói khát sự sống đích thực. Nếu chúng ta thật sự là người đang sống trong Đức Giêsu Kitô, chúng ta có thể trao ban cho thế giới sự sống đó qua việc phục vụ trong tình yêu.
17.Khát khao gặp Chúa – Ioseph, Svd
Tự bản chất, con người luôn hướng lòng về Thiên Chúa và kiếm tìm Ngài. Vì Ngài là chính chân lý và hạnh phúc viên mãn mà con người hằng khao khát. Vì chỉ có Chúa mới có thể lấp đầy những khoảng trống khao khát trong lòng con người. Lời Chúa hôm nay như gợi mở, giải đáp cho những khúc mắc thường gặp, cho những ưu tư và trăn trở khắc khoải trong hành chính tìm Chúa của chúng ta.
“Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy.” Đã biết bao lần chúng ta khát mong gặp gỡ Chúa trong cầu nguyện, biết bao lần chúng ta kêu xin Chúa đến với chúng ta, cho chúng ta được gặp gỡ Ngài một cách thực sự và thâm sâu, nhưng chúng ta vẫn chưa gặp được Chúa, chưa nghe được tiếng Chúa, chưa nhận ra ý Chúa… Có thể nói hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ra lời giải cho nỗi ưu tư của chúng ta. Đó cũng là chìa khóa để chúng ta mở ra cánh cửa cho Chúa đến, kiến tạo cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa cách thực sự thâm sâu. Đó là “yêu mến”. “Nếu ai yêu mến Thầy,… Thầy sẽ tỏ mình ra cho người ấy.” Chúa sẽ tỏ mình, sẽ mạc khải về Ngài cho chúng ta, sẽ thực sự gặp gỡ chúng ta khi và chỉ khi chúng ta biết mến yêu Chúa chân thành, tha thiết, hết linh hồn, hết sức lực và hết trí khôn. Mến yêu Chúa cách thực sự và trọn vẹn. Đó là điều kiện để gặp được Chúa, để những mong mỏi của ta được thành tựu. Vậy tôi phải yêu mến Thầy Giêsu như thế nào cho được…?
“Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy.” Chúa Giêsu đã dạy chúng ta cách yêu mến Chúa rất thiết thực: giữ lời Thầy. Giữ lời Thầy hay nói khác đi là sống lời Thầy dạy, là thực hành Lời Chúa, để cho Lời Chúa triển nở sống động trong cuộc đời chúng ta, nên hơi thở của ta, nên máu thịt của ta… Đó là khi Lời Chúa đã thực sự được “cưu mang”, được nhập thể trong ta. Như thế, từng lời nói, cử chỉ, hành động, suy nghĩ của ta đều mang dáng dấp của Chúa và chính bản thân ta phản chiếu bóng hình Chúa. Vì tất cả được thấm nhuần giáo huấn của Chúa và đời ta thực sự có Chúa hiện diện. Khi người anh em của ta nhận ra Chúa nơi con người chúng ta, thì cũng khi ấy, chúng ta gặp gỡ được Chúa, thấy được Chúa hiện diện cách tỏ tường trong chính đời sống của mình, trong chính bản thân mình. Hơn thế nữa, khi giữ Lời Chúa dạy, Chúa ở lại trong ta và ta ở trong Chúa. Chúng ta được bước vào sự hiệp thông thần linh với Thiên Chúa Ba Ngôi. Vì Chúa sẽ ban Đấng Bảo Trợ đến trong ta. Vì Chúa Cha ở trong thầy và Thầy ở trong Chúa Cha. Đó là cuộc gặp gỡ đích thực, thiêng liêng và cao quý. Khi chúng ta sống được như thế, Thiên Chúa đã tỏ mình và hiện hữu cách sống động và cụ thể trong cuộc đời chúng ta. Quay trở lại những vấn đề chúng ta đặt ra ở trên, chúng ta đã có thể trả lời cho câu hỏi: tại sao chúng ta khát khao, mong ước gặp gỡ Chúa mà chưa gặp được?
Lời Chúa hôm nay vang lên vừa nhắc nhở, vừa tạo cho chúng ta cơ hội nhìn lại mối tương quan của mình đối với Chúa, nhìn lại đời sống thiêng liêng của mình. Chúng ta muốn gặp gỡ Chúa, chúng ta đã yêu Chúa hay chưa? Chúng ta yêu Chúa, chúng ta có giữ lời Chúa hay không? Chúng ta theo đạo, nhưng chúng ta có giữ đạo hay không, có thực sự sống đạo hay không?…
Xin Chúa soi sáng và ban Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ mà Ngài đã hứa cho chúng ta, để Ngài giúp chúng ta nhận ra mình đang ở đâu trong đời sống đức tin, ở đâu trong hành trình tìm kiếm và gặp gỡ Chúa, ở đâu trong cuộc lữ hành tiến về Nhà Cha, nơi có Chúa ngự trị và nơi chúng ta được ngắm nhìn vinh quang Thiên Chúa chẳng khi ngưng.
“Hãy ở lại trong Thầy.” Chúa vẫn hằng mời gọi chúng ta đến với Ngài và gặp gỡ Ngài. Hãy kiên trì cầu nguyện và hết lòng kiếm tìm Chúa trong sự yêu mến chân thành là sống Lời Chúa dạy. Chúa sẽ đến và ở lại trong ta. Chúa sẽ gặp gỡ ta và ở với chúng ta luôn mãi. Ngài sẽ không để chúng ta phải thất vọng bao giờ.
Trước khi bước vào con đường tử nạn và phục sinh vinh quang, Chúa Giêsu đã để lại di huấn cho các tông đồ: Ngài ra đi, nhưng Ngài không bỏ các ông mồ côi (x. Ga 14,18). Ngài cũng đảm bảo với các ông, trước khi về trời, khi sai các ông đi loan báo tin mừng cứu độ cho muôn dân: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Đồng thời, để củng cố niềm tin của các ông, Chúa Giêsu còn hứa ban cho các ông một Đấng Bảo Trợ khác, đó là Chúa Thánh Thần.
Thật ra chính Chúa Giêsu cũng là Đấng Bàu Chữa cho tội nhân bên cạnh Chúa Cha (x.1ga 2,1), nhưng khi Ngài phục sinh vinh quang, không còn hiện diện hữu hình bên cạnh các tông đồ nữa, thì Thánh Thần được Chúa Cha sai đến giúp chúng ta sống tâm tình nghĩa tử, mà chính Chúa Giêsu, qua công cuộc nhập thể của người đã mang lại thân phận ấy cho chúng ta. Là Thần Khí Sự Thật (x.ga 14,17), Chúa Thánh Thần giúp chúng ta hiểu biết sâu sắc hơn về mầu nhiệm Chúa Giêsu, cử chỉ, lời nói, cách sống của ngài, để giúp chúng ta can đảm sống đức tin trong hoàn cảnh hiện tại của mỗi người. như vậy, dù chỉ có một Đấng Trung Gian duy nhất là Chúa Giêsu Kitô (1tm 2,5), nhưng có hai Đấng Bàu Chữa: Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần.
Chúa Giêsu về trời, nhưng không bỏ các tông đồ mồ côi. Ngài đã xa cách các ông về mặt thể lý, khiến các ông không còn sờ đụng, xem thấy hoặc nghe tiếng nói từ chính miệng Ngài nữa, nhưng thực ra Ngài vẫn hiện diện bên các ông, trong các ông. Bởi vì thân xác Chúa phục sinh đã được biến đổi trở nên thiêng liêng, không còn bị lệ thuộc bởi vật chất, không gian và thời gian, nên giờ đây, Ngài hiện diện một cách sâu xa hơn, gần gủi, gắn bó hơn trong Hội Thánh, nơi nhà tạm, trong tâm hồn mọi tín hữu có ơn thánh hoá và ở khắp mọi nơi.
Là Kitô hữu, chúng ta có Chúa Giêsu trong tâm hồn. mà ở đâu có Chúa Giêsu thì ở đó có Chúa Ba Ngôi và chính Chúa Thánh Thần, Đấng Bàu Chữa sẽ chứng thực, soi sáng, làm cho chúng ta nhận ra sự kết hiệp mật thiết nầy. Như vậy, đường đời các tông đồ và chúng ta, những kẻ tin vào Chúa Giêsu Kitô đâu có đơn côi!
Chúa Giêsu vừa là Chúa Cứu Độ, vừa là Thầy, vừa là bạn đồng hành của những kẻ tin vào người. được Chúa yêu thương ban ơn cứu rỗi, được Thầy dẫn dắt trên nẻo đường đời gian nan bất trắc, được có bạn đường chung thủy không bao giờ bỏ rơi chúng ta, ngay cả lúc chết… như thế còn hạnh phúc nào lớn hơn cho chúng ta! đời Kitô hữu chính là sống trong niềm hy vọng, phó thác, buông mình vào tay Thiên Chúa tình thương, không chỉ một lần, mà là sự chọn lựa hằng ngày của mỗi người.
Đâu đó vang lên bài thánh ca: “Đường đi có Chúa gian nguy con có lo chi…”
(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
Chàng trai bày tỏ tình yêu đối với cô bạn gái bằng cách tặng cho nàng một bó hoa hồng tươi thắm; Cha mẹ thể hiện tình yêu đối với con cái bằng cách miệt mài chăm sóc nuôi dưỡng ngày đêm; Thầy cô thể hiện tình yêu đối với học trò bằng ân cần khuyên răn, dạy dỗ…
Còn Chúa Giê-su, Ngài thể hiện tình yêu đối với Chúa Cha bằng cách nào?
Thưa, bằng sự vâng phục tuyệt đối: Ngài vâng theo ý Chúa Cha cho dù phải hiến thân chết thay cho muôn người.
Trước khi nộp mình chịu khổ nạn, Chúa Giê-su cho các môn đệ biết sở dĩ Ngài để cho thủ lãnh thế gian này, là Sa-tan và bè lũ của nó, hành hình và tiêu diệt Ngài là vì Ngài yêu mến Chúa Cha nên đã làm như Chúa Cha truyền dạy.
Ngài nói: “Thủ lãnh thế gian này đang đến. Đã hẳn, nó không làm gì được Thầy” nhưng Thầy chấp nhận chịu khổ nạn dưới tay nó “để thế gian biết rằng Thầy yêu mến Chúa Cha và làm đúng như Chúa Cha đã truyền cho Thầy” (Ga 14, 30-31).
Thế là,
– Để thể hiện lòng yêu mến Chúa Cha, Chúa Giê-su đã vâng lời Chúa Cha tuyệt đối, đến nỗi để cho người ta bắt bớ, vu cáo, phỉ nhổ, tát vào mặt… mà không hề chống đối;
– Để thể hiện lòng yêu mến Chúa Cha, Chúa Giê-su vâng theo ý Chúa Cha, để cho người ta đánh đòn rách nát thịt da, để cho vòng gai nhọn cắm sâu vào đầu, rồi kê vai vác thập giá lên đồi Sọ, chịu đóng đinh vào thập giá và chấp nhận chết quằn quại đau thương tủi nhục để đền tội cho muôn người.
Chúa Giê-su đã vâng lời Chúa Cha đến mức phải chết thảm thương như thế cho thấy tình yêu của Ngài dành cho Chúa Cha là vô biên, vô hạn.
Chúa Giê-su yêu cầu chúng ta thể hiện lòng yêu mến bằng cách nào?
Chúa Giê-su thể hiện lòng yêu mến Chúa Cha bằng cách vâng phục Chúa Cha cách tuyệt đối, thì nay, Ngài cũng yêu cầu những ai yêu mến Ngài cũng hãy vâng giữ huấn lệnh của Ngài như vậy.
Chúa Giê-su nói: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy”(Ga 14,15) và một lát sau, Ngài nhấn mạnh: “Ai giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy” (Ga 14, 21).
Như vậy, nếu chúng ta không vâng giữ điều răn của Chúa Giê-su, là chúng ta không yêu mến Ngài.
Chúa Giê-su muốn chúng ta tuân giữ giới răn nào?
Giới răn số một, giới răn nền tảng và cũng là giới răn trọng nhất được Chúa Giê-su công bố như sau: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Gioan 13, 34).
Như thế, ai yêu mến Chúa thì phải thể hiện tình thương đó bằng việc yêu thương anh chị em chung quanh. Khi sống vô cảm với người chung quanh, khi thờ ơ trước những nỗi đau của người khác, khi không ra tay giúp đỡ kẻ khốn khổ bần cùng… là chúng ta quay lưng lại với Chúa, chẳng có chút tình thương nào dành cho Chúa.
Lạy Chúa Giê-su,
Thể hiện lòng yêu mến Chúa bằng những lời ca khen chúc tụng, bằng những câu kinh lời nguyện thì dễ, nhưng thể hiện lòng mến Chúa bằng cách tuân giữ điều răn mới của Chúa là điều rất khó.
Tuy nhiên, nếu chúng con không thể hiện lòng mến Chúa bằng cách yêu thương tha nhân như Chúa đòi buộc thì chẳng được ích gì.
Xin mở rộng con tim vô cảm và đổ đầy tình thương Chúa vào lòng chúng con, để chúng con hết lòng yêu mến Chúa hiện diện nơi anh chị em chung quanh như Chúa đã truyền.
20.Trở nên hình ảnh Chúa Giêsu
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Ignatiô Trần Ngà)
Nhiều lần Chúa Giêsu nói về Chúa Cha khiến các môn đệ đâm ra tò mò. Chúa Cha là Ai? Ngài ở đâu? Ngài là Đấng thế nào?
Thế nên Philípphê mới đề nghị với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện.”
Dùng ngôn ngữ vốn rất hạn hẹp của con người để diễn tả mầu nhiệm cao vời về Chúa Cha thì khác chi lấy gang tay đo chín tầng trời. Vì vậy, thay vì dùng lời để diễn giải, Chúa Giêsu dùng phương pháp trực quan. Ngài chỉ cho Phi-líp-phê cũng như các môn đệ xem chân dung, xem hình ảnh đích thực của Thiên Chúa Cha. Chân dung đó, hình ảnh đó chính là Ngài: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”.
Tiếp theo, Chúa Giêsu cũng tỏ cho các môn đệ biết giữa Ngài và Chúa Cha có một mối hiệp thông hết sức mật thiết. Những lời Chúa Giêsu nói chính là những lời của Chúa Cha được phát ra qua môi miệng Chúa Giêsu: “Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. (Ga 14,10). Những gì Chúa Giêsu thực hiện trong cuộc đời đều cũng là những hành động của Chúa Cha…
Thế là Chúa Cha tự tỏ mình qua Chúa Giêsu. Nhìn vào Chúa Giêsu, nhân loại sẽ biết được Thiên Chúa Cha.
* * *
Thánh Athanasiô đã diễn tả chân lý nầy như sau: “Chúa Cha được bày tỏ qua Chúa Con và Chúa Con được bày tỏ qua Giáo Hội.” Nói khác đi, Chúa Con là hình ảnh trung thực của Chúa Cha, còn Giáo Hội là hình ảnh trung thực của Chúa Con, và chúng ta, vì là thành phần của Giáo Hội, nên cũng phải là hình ảnh trung thực của Chúa Giêsu.
Theo nhật báo Chứng Nhân kitô hữu (Témoignage Chrétien), vào năm 1941 có một vị linh mục bị Đức Quốc Xã giam trong trại tập trung dành cho người gốc Do thái. Như bao tù nhân khác, ngài cũng bị hành hạ và ngược đãi thậm tệ. Tuy nhiên ngài vẫn vui vẻ và luôn sẵn sàng giúp đỡ anh em đồng cảnh ngộ đang lâm vào tình trạng khủng hoảng và tuyệt vọng.
Trong cảnh tù đày đói khát, một vụn bánh còn quý hơn vàng, vậy mà ngài dám chia sớt phần ăn ít ỏi của mình cho những bạn tù yếu sức hơn.
Những lúc trời rét buốt xương, tấm áo len được xem là kho tàng vô giá, thế mà có lần ngài tặng không chiếc áo len đang mặc cho bạn tù đang lâm trọng bệnh nằm run cầm cập trong xó nhà.
Ngài là nhịp cầu yêu thương giữa những kẻ bất hoà, đem sự khích lệ tinh thần cho những tâm hồn sầu muộn… Ngài đã cứu được mấy bạn tù tuyệt vọng khỏi tự huỷ mình nhờ những khuyên lơn an ủi… Vì thế, các tù nhân trong trại rất yêu quý và xem ngài như người cha thứ hai. Họ đều gọi ngài cách thân thương là… Bố.
Trong trại tù còn có một thanh niên bụi đời, lớn lên nơi đầu đường xó chợ, căm hờn mọi người, không ngần ngại phạm bất kỳ tội ác nào.
Vị linh mục khả ái từng bước tiếp cận, trò chuyện, giúp đỡ, khuyên răn, và cuối cùng đã cảm hoá được chàng thanh niên chai đá và tưởng chừng như vô phương cứu chữa nầy. Ngài cũng mong ước dần dần dẫn dắt cậu về với đạo thánh Chúa.
Thế rồi, một hôm, có lệnh chuyển cha sang trại Ao-sơ-vích (Auschwitz), một trại tập trung mà chỉ mới nghe danh xưng, mọi trại viên đều phải kinh hoàng. Đó là lò hủy diệt con người bằng những hầm hơi ngạt và lò thiêu xác.
Trước khi chia tay với các bạn tù và đặc biệt với cậu thanh niên mới hoàn lương, ngài quyết định phải giới thiệu đôi nét về Chúa Giêsu cho cậu với hy vọng cậu sẽ trở thành người con Chúa.
Ngài vỗ vai cậu và ôn tồn nói “Này, con yêu của Bố, đã từ lâu Bố rất mong con nhận biết và trở thành môn đệ Chúa Giêsu.”
Cậu thanh niên thưa lại: “Nhưng con chưa biết gì về Chúa Giêsu cả. Bố có thể kể sơ lược về Ngài cho con biết được không?”
Biết mình không còn thời gian để giới thiệu dông dài vì giờ chuyển trại sắp đến, vị linh mục già thinh lặng cúi đầu, cầu nguyện giây lát, rồi ngài ngẩng lên khiêm tốn đáp: “Chúa Giêsu mà Bố muốn cho con tin và yêu mến, Ngài giống như Bố đây!”
Bấy giờ cậu thanh niên nhìn thẳng vào mắt ngài cách trìu mến và chân thành đáp lại: “Nếu Chúa Giêsu mà giống Bố thì có thể một ngày nào đó, con sẽ tin và yêu mến Chúa Giêsu!”
Sau thế chiến thứ hai, người ta không còn gặp lại vị linh mục nầy nữa. Còn cậu thanh niên thì được sống sót qua các trại tập trung trở về với gia đình và đã thuật lại câu chuyện trên đây về một mục tử đã thực sự trở thành hình ảnh trung thực của Chúa Cứu Thế. Cũng chính nhờ hình ảnh Chúa Giêsu ngời sáng lên nơi con người và cuộc đời của vị mục tử tốt lành nầy, chàng thanh niên được cảm hoá và trở thành người con Chúa.
Lạy Chúa Giêsu,
Đã bao lần chúng con làm cho khuôn mặt Chúa trở méo mó, biến dạng và có thể là rất khó thương vì đời sống không đẹp của chúng con.
Xin cho chúng con biết nhìn lên Chúa như một khuôn mẫu tuyệt vời để đào tạo bản thân mình thành con người mới, có phẩm chất cao đẹp, có đạo đức và văn hoá để nhờ đó, chúng con trở thành hình ảnh trung thực về Chúa cho thế giới hôm nay.
(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Chuyện cổ tích Việt Nam kể rằng: Có đôi bạn chí thân là Lưu Bình và Dương Lễ. Lưu Bình cùng họ với Lưu Linh. Ham chơi hơn ham học. Dòng dõi giầu sang phú quý nhưng lêu lổng ăn chơi trác táng. Dương Lễ nhà nghèo nhưng ham học. Lấy đèn sách làm thú vui. Nhờ chí thú học hành mà Dương Lễ đã đỗ trạng nguyên làm quan lớn triều đình. Ngược lại, Lưu Bình vì ham chơi nên công không thành và danh thì bại. Thân xác tiều tuỵ và đói khổ bần hàn. Dương Lễ nhìn cảnh bạn sa cơ thất thế nên động lòng trắc ẩn, dầu vậy, bên ngoài ông vẫn làm như không nhìn nhận tình bạn. Ông đã ngầm cho vợ là Châu Long giả dạng là người con gái đến giúp Lưu Bình làm lại cuộc đời. Châu Long đã theo lời chồng đến ở với Lưu Bình để động viên, giúp đỡ Lưu Bình. Nhờ đó mà Lưu Bình đã cố gắng ăn học và sau này cũng thành tài. Về phần Châu Long tuy sống với Lưu Bình nhưng lại không thuộc về Lưu Bình. Nàng vẫn thuộc về Dương Lễ. Nàng vẫn phải trung thành tuyệt đối với Dương Lễ. Cho dù Lưu Bình đã nhiều lần đề nghị nàng kết mối duyên tình, nhưng nàng đã khéo léo từ chối. Nàng khuyên nhủ Lưu Bình hãy chuyên chăm học hành để công thành danh toại mới tính đến chuyện trăm năm. Cho đến khi Lưu Bình thi đỗ mới vỡ lẽ ra: Châu Long chính là vợ của bạn được gởi đến để giúp đỡ mình.
Cuộc đời ky-tô hữu chúng ta cũng giống như nàng Châu Long. Sống giữa thế gian để canh tân đổi mới thế gian nhưng không thuộc về thế gian. Sống giữa thế gian nhưng phải trung thành với thầy Chí Thánh Giêsu. Không để lòng mình buông theo những cám dỗ tội lỗi, những thói đời điêu ngoa, những đam mê thấp hèn. Trong kinh lạy Cha, Chúa Giêsu cũng dạy chúng ta: Hãy xin cùng Chúa Cha gìn giữ chúng ta khỏi sa chước cám dỗ và gìn giữ chúng ta khỏi mọi sự dữ. Chúa không bảo chúng ta xin cùng Chúa Cha cất nhắc chúng ta ra khỏi thế gian, nhưng vẫn ở giữa thế gian, đồng thời vẫn phải trung tín với Chúa. Như Châu Long sống với Lưu Bình để hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Dương Lễ đã trao.
Có thể nói, Châu Long phải có một tình yêu thật cao cả, thật thuỷ chung lắm mới có thể sống với Lưu Bình mà vẫn giữ trọn giao ước với Dương Lễ. Người ky-tô hữu cũng phải có một tình yêu thật thâm sâu với Thiên Chúa mới có thể tuân giữ giới răn Chúa khi sống giữa thế gian đầy mời mọc hấp dẫn luôn lôi kéo con người bất trung, phản bội với Chúa. Vâng, chúng ta đang ở giữa một thế gian đầy gian tà, một thế gian sa đoạ, tội lỗi, người ky-tô hữu phải có một tình yêu sắt son trung kiên mới có thể giữ lòng thanh khiết như đoá sen “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.
Lời Chúa hôm nay cũng căn dặn chúng ta: “Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hãy giữ lời Thầy”. Như thế, tuân giữ giới răn Chúa là dấu chỉ cho lòng yêu mến Chúa. Tuân giữ giới răn Chúa còn là dấu chỉ sự trung tín và chu toàn bổn phận của Chúa giữa thế gian. Không thể nói rằng mình yêu mến Chúa mà lại không dám thực thi lời Chúa. Nếu chúng ta nói yêu mến Chúa mà không dám sống đạo và giữ đạo, đó chỉ là sự giả tạo vì Chúa đã từng trách rằng: “Dân này chỉ thờ Ta bằng môi bằng miệng mà lòng chúng lại xa cách Ta”. Tuân hứa giới răn Chúa không chỉ dừng lại trên môi miệng mà còn là một dấn thân để ý Chúa được thể diện trong cuộc đời chúng ta. Như Chúa Giêsu, ngài đã vâng phục thánh ý Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập tự. Người ky-tô hữu cũng phải vâng phục theo giáo huấn của Chúa, cho dẫu có phải chịu thiệt thòi, mất mát hay phải hy sinh cả tính mạng vì lòng yêu mến Chúa.
Nhìn vào thế gian hôm nay với bao nhiêu cám dỗ mời mọc, bao nhiêu cạm bẫy rình chờ, khiến đức tin của chúng ta đã nhiều lần chao đảo, muốn buông xuôi theo cám dỗ của tiền tài, danh vọng và thú vui thể xác. Giữa một thế giới có quá nhiều cám dỗ hưởng thụ, làm sao chúng ta có thể trung thành với Chúa? Có lẽ vì nguyên nhân đó, mà Chúa Giêsu đã hứa ở cùng chúng ta, đồng thời, ngài còn ban Thần Khí đến cho chúng ta. Ngài sẽ an ủi khi chúng ta gặp u buồn. Ngài sẽ soi sáng khi lòng trí chúng ta gặp hoang mang, lo lắng. Ngài sẽ nâng đỡ khi bước đường chúng ta gặp gian nan. Ngài sẽ ban sức mạnh khi chúng ta cần sức mạnh để vượt qua cám dỗ tội lỗi và làm lại cuộc đời. Ngài sẽ ban cho chúng ta những ơn cần thiết để chúng ta hoàn thành sứ mạng cuộc đời như một tôi tớ trung tín và khôn ngoan, vì Chúa đã hứa hằng: “Ơn Ta đủ cho người và quyền năng Ta hiển trị nơi sự yếu hèn của con”.
Nguyện xin Chúa Kytô Phục sinh luôn đồng hành với chúng ta và chúc lành cho cuộc đời chúng ta luôn bình an để chúng ta mãi trung thành với Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm Bùi Quang Tuấn, CSsR)
Henry Manning vốn là một mục sư Anh giáo, nổi tiếng về giảng thuyết. Ngài xuất bản một cuốn sách về các bài giảng và được dân chúng hưởng ứng nồng nhiệt.
Một hôm, có người bạn thân ghé thăm và bình luận về tác phẩm mới phát hành của Henry. Trong câu chuyện, người bạn đề cập đến việc tác giả đã không có một lời nói nào về Chúa Thánh Thần trong cuốn sách rất “giá trị” của mình.
Đây là một sự thiếu sót ngoài ý muốn của Henry. Ngài cám ơn ý kiến chân tình của người bạn. Thế rồi suốt hai năm tiếp theo, người ta thấy mục sự Henry Manning miệt mài học hỏi về Chúa Thánh Thần. Ngài đọc và nghiên cứu tất cả những cuốn sách liên quan đến đề tài Chúa Thánh Thần. Kết quả của sự học hỏi chân thành này là việc khám phá Ánh Sáng do Thần Chân Lý mang lại. Henry đã trở về với Giáo hội Công giáo vào năm 1851. Hai tháng sau ngài được phong chức Linh mục. Năm 1865, ngài trở thành Tổng giám mục Giáo phận Westminter, Anh quốc.
Tại Công đồng Vaticanô I (1869-1870), Giám mục Henry Manning nổi bật trong vai trò bảo vệ vững chắc tính chất Vô ngộ của Đức giáo hoàng. Năm 1875, ngài được tấn phong Hồng y. Từ khi trở lại Công giáo cho đến lúc qua đời năm 1892, Đức Hồng y Manning luôn có lòng yêu mến Chúa Thánh Thần cách đặc biệt.
“Thầy sẽ xin Cha, và Người sẽ ban cho các con một Đấng Bàu Chữa khác để ở cùng các con luôn mãi. Ngài là Thần Chân Lý mà thế gian không thể đón nhận, vì nó không thấy cũng không biết Ngài; còn các con, các con biết Ngài, vì Ngài sẽ ở mãi nơi các con và trong các con” (Ga 14,16-17).
Đó là lời hứa mà Chúa Giêsu, trước khi bước vào cuộc khổ nạn, đã trao lại cho các môn đệ như một lời an ủi thân tình.
Chúa Thánh Thần là Đấng Bàu Chữa. Ngài là luật sư biện hộ cho những tín hữu khi phải đương đầu với những mưu mẹo ác độc của thế gian. Ngài đem đến tất cả sự thật và làm chứng về Đức Kitô. Dưới ánh sáng và sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, con người sẽ tìm thấy chân lý toàn vẹn trong Chúa Giêsu.
Chúa Thánh Thần là Tình yêu liên kết. Ngài cũng là Thần Chân lý, Đấng dạy người ta yêu thương trong sự thật. Tình yêu trong chân lý mới là tình yêu toàn vẹn, vì được Thiên Chúa Ngôi Ba tác động và dẫn lối.
Thánh Thần mà Chúa Giêsu hứa ban sẽ dẫn đưa con người bước đi trong yêu thương và sự thật. Không phải cứ hễ yêu nhau là cái gì cũng có thể trao ban hay lấy đi. Những quan hệ bất chính, những kiếm tìm bất công, những đam mê bất hợp pháp đều là những nẻo đường đưa đến bất hạnh. Bởi vì thiếu chân lý là thiếu tự do và hạnh phúc: “Chân lý sẽ giải thoát con người,” Đức Giêsu đã nói với Philatô như thế.
Yêu thương phải song hành với sự thật. Để sống yêu thương trong sự thật, lắm khi người ta phải dám chấp nhận hy sinh rất nhiều.
Cha Flor McCarthy, một linh mục Dòng Don Boscô có kể lại rằng:
Steve, cậu bé 12 tuổi, đã bị teo hai chân sau một cơn sốt tê liệt. Steve có đức em 10 tuổi tên Mark. Như bao đức trẻ khác, Steve và Mark cũng hay cãi nhau, đánh nhau, và đôi khi Steve còn cảm thấy ghen tị với đôi chân khỏe mạnh của em mình.
Một đêm kia Steve mơ thấy mình đi lạc vào một khu rừng vắng. Cậu bắt gặp một chiếc hang. Bị thúc đẩy bởi lòng mạo hiểm và tính tò mò, Steve tiến sâu vào bên trong. Bất ngờ một ông già xuất hiện. Ông ta tự xưng là phù thủy, và để thưởng cho ai đầu tiên khám phá ra chiếc hang, ông sẽ ban cho người đó được những gì họ mong ước, nhưng chỉ một lần thôi.
Không cần suy nghĩ, Steve xin ngay cho đôi chân được khỏe mạnh như xưa. Lão phù thủy liền tung chiếc áo choàng lên và trong nháy mắt Steve thấy mình đang nằm trên giường, bên cạnh Mark đang ngủ say như chết.
Lão phù thủy mở tấm mền che đôi chân của Mark ra. Steve thấy vậy thì ngạc nhiên hỏi:
– “Ông làm gì thế?”
– “Ta phải giải phẫu để thay cho ngươi đôi chân tốt.”
– “Thế ông tính thay đôi chân của Mark cho tôi à?” Steve ngạc nhiên hỏi lại.
Ông già đáp:
– “Vậy chứ ngươi tưởng ta lấy nó từ trong không khí ra à? Nhưng không sao đâu. Chẳng ai biết chuyện gì xảy ra đâu. Mọi người sẽ coi như đãxảy ra như từ lúc mới sinh vậy.”
Steve cảm thấy sửng sốt. Nó đâu ngờ là ông già phải lấy đôi chân của Mark để đổi cho nó. Cậu bé nghĩ đến giây phút mình chạy nhảy với đôi chân tốt, trong khi Mark em cậu sẽ lê lết với đôi chân bại liệt. Như thế là không thể được! Rồi Steve hét lớn: “Tôi không muốn như vậy đâu”. Nghe thế lão phù thủy bực mình bỏ đi.
Sáng hôm sau, thức dậy nhìn qua em mình, nhớ lại những gì thấy được trong giấc mơ đêm qua, Steve đã nở một nụ cười rất vui.
Điều tôi đọc được trong nụ cười của Steve là một tình yêu song hành với chân lý. Từ trong tiềm thức, cậu đã không muốn làm điều xấu, dù rằng phần lợi sẽ về mình và dù rằng không ai biết. Nhưng chấp nhận cuộc sống trong một tình yêu chân thành, Steve đã không những không hủy diệt sự sống của người khác, những còn làm phát sinh trong tim mình bình an và niềm vui thẳm sâu.
23.Chúa Giêsu không để các đồ đệ mồ côi
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)
Bài Tin Mừng Chúa Nhật tuần trước (Ga 14, 1-12) nói về cộng đoàn các đồ đệ của Đức Giêsu trong hành trình đi đến cùng Chúa Cha. Bài Tin Mừng hôm nay (Ga 14, 15-21) sẽ nói về sự gắn bó nên một của cộng đoàn và của từng thành viên trong cộng đoàn với Thiên Chúa.
1. Thần Khí sự thật luôn ở giữa cộng đoàn (cc.15-17)
Sự hiện diện thể lý và thế tạm của Đức Giêsu giữa cộng đoàn các đồ đệ sẽ chấm dứt. Nhưng Thần Khí sự thật sẽ được Chúa Cha sai đến, để Người ở mãi với các đồ đệ, ở bên cạnh và ở trong các đồ đệ.
Trước khi nói đến việc Thần Khí sự thật đến, Đức Giêsu nói đến tình yêu của các đồ đệ đối với Người, và về sự cần thiết phải tuân giữ các điều răn của Người: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (c.15). Tình yêu đối với Đức Giêsu là điều kiện để giữ các điều răn của Người (nếu A thì B), và đàng khác, việc thực hiện những lệnh truyền của Đức Giêsu sẽ là bằng chứng của tình yêu đối với Người (c. 21: Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy).
Đây là lần đầu tiên Đức Giêsu nói về tình yêu của các đồ đệ đối với Người. Lòng tin vào Chúa Giêsu đạt đến đỉnh cao trong sự gắn bó thiết thân và đầy tình yêu mến đối với Người. Sự gắn bó ấy được thể hiện trong việc thực hiện những điều răn của Người. Ở 13,34 Đức Giêsu nói về điều răn mới của Người, và bây giờ, Người nói về “các điều răn” của Người (14,15.21; 15,10). Điều răn mới (“Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”) là mẫu gộp tóm tất cả mọi điều răn khác. Và tuân giữ các điều răn là đón nhận trong lòng tin toàn bộ Lời của Đức Giêsu và ký thác bản thân cho Người (x. 14, 23-24).
Với các đồ đệ yêu mến Đức Giêsu như thế, Người hứa: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật” (cc.16-17a). Đức Giêsu thực hiện vai trò trung gian bên Chúa Cha để Chúa Cha ban Thánh Thần cho những kẻ thuộc về Người, và cộng đoàn những kẻ thuộc về Đức Giêsu sẽ lãnh nhận được Thánh Thần nhờ Người.
Thánh Thần được gọi là Đấng Bảo Trợ. Người sẽ thực hiện một vai trò kép: trong cộng đoàn đồ đệ và trong cuộc đối diện của cộng đoàn với thế gian. Bên trong cộng đoàn, Người dạy dỗ các đồ đệ mọi điều và làm cho các đồ đệ nhớ lại mọi điều Đức Giêsu đã truyền dạy (14,26). Người dẫn họ đến sự thật toàn vẹn (16,13). Người làm chứng về Đức Giêsu trước các đồ đệ (15,26). Người tôn vinh Đức Giêsu và loan báo cho các đồ đệ những gì là của Đức Giêsu (16,14). Còn trong cuộc đối diện của cộng đoàn với thế gian, Người soi sáng hướng dẫn các đồ đệ và làm cho các đồ đệ biết rằng thế gian sai lầm (16,9-11).
Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ khác. Khi còn ở với các đồ đệ, Đức Giêsu gìn giữ, bảo vệ và dạy dỗ họ (17,12). Từ nay, Thánh Thần sẽ đảm nhận vai trò đó.
Người là Thần Khí sự thật. Có hai cách hiểu danh ngữ “Thần Khí sự thật” (to pneuma tês alêtheias): (1) Thần Khí là sự thật; và (2) Thần Khí thông ban sự thật. Cũng có thể hiểu theo nghĩa Thần Khí là sự thật, thông ban sự thật và làm cho sống trong sự thật. Trong tư cách là Thần Khí sự thật, Người cũng là Thần Khí giải thoát, vì sự thật đem đến sự giải thoát (8,31-32).
Thế gian không biết Thần Khí sự thật. Người là “Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người” (c.17b). Hạn từ “thế gian” ở đây được sử dụng theo nghĩa xấu, chỉ trật tự bất chính, đối nghịch với Thiên Chúa. Thế gian này tin tưởng vào sự dối trá và kềm hãm con người trong bóng tối của sự dối trá. Nó phục tùng ma quỷ. “Ngay từ đầu, ma quỷ đã là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thật, vì sự thật không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó nói theo bản tính của nó, bởi vì nó là kẻ nói dối, và là cha sự gian dối” (8,44). Vì vậy, thế gian không thể biết Thần Khí sự thật và càng không thể đón nhận Thần Khí sự thật.
“Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em” (c.17c). Các đồ đệ biết Thần Khí sự thật là nhờ sự hiện diện của Đức Giêsu, Đấng ở trong Chúa Cha (14,10). Một khi được Đức Giêsu sai đến (7,39), Thần Khí sẽ luôn ở giữa các đồ đệ và ở trong mỗi đồ đệ.
2. Chúa Giêsu trở lại và cộng đoàn được Chúa Cha yêu mến (cc.18-21)
Đứng trước sự ra đi của Đức Giêsu, các đồ đệ xao xuyến (x. 14,1). Vì thế, khi chuẩn bị cho các đồ đệ đối diện với thực tại là sự vắng mặt của Người, Đức Giêsu muốn giúp các ông tránh khỏi sự xao xuyến ấy. Người tuyên bố: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy đến cùng anh em. Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống” (cc.18-19).
Đức Giêsu sẽ không bỏ các đồ đệ mồ côi. Hạn từ “mồ côi” mang một sắc thái nghĩa khá đặc biệt trong Cựu Ước. Kẻ mồ côi được hình dung như là một dạng điển hình cho những người không có ai bảo vệ và luôn phải đối diện với nguy cơ bị đối xử một cách bất công (x. Is 1,17-23; 10,2; Gr 5,28; 7,6; 22,3; Ed 22,7; Hs 14,4). Đức Giêsu hứa rằng Người sẽ không để các đồ đệ rơi vào tình trạng bi đát đó.
Đức Giêsu đang đi đến cái chết. Nhưng sự vắng mặt của Người sẽ không phải là một tình trạng vĩnh viễn. Người hứa sẽ đến cùng các đồ đệ. Có lẽ nên hiểu cặp đối lập “thấy – không thấy” ở đây trong liên kết với cắp “tỏ mình ra – không tỏ mình ra” trong 14, 21-22. Thế gian sẽ không còn được thấy Đức Giêsu sau khi Người đi vào cõi chết là bởi vì Người không tỏ mình ra cho thế gian. Nhưng các đồ đệ sẽ được thấy Người, vì Người yêu mến họ và tỏ mình cho họ, như lời Người sẽ nói ở cuối bài Tin MỪng: “Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (c.21c).
Thực tại “thấy” Đức Giêsu lại được miêu tả như là sự hiệp thông sự sống với Người. “Anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống” (c.19). “Thấy” ở đây, như thế, là tham dự vào sự sống của chính Đức Giêsu.
“Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha của Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em” (c.20). Đó là kết quả của sự tình các độ đệ được tham dự vào sự sống của Đức Giêsu. Đó cũng chính là hiệu quả của việc Đức Giêsu ban Thần Khí cho các đồ đệ. Thần Khí, Đấng phát xuất từ Chúa Cha và làm chứng về Chúa Giêsu (15,26) sẽ làm cho các đồ đệ biết rằng Đức Giêsu và Chúa Cha là một (10,30), tức là biết rằng “Thầy ở trong Cha của Thầy”. Và các đồ đệ, trong Thần Khí sự thật, sẽ nên một với Đức Giêsu. Khi ấy, “anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em”.
Sự gắn bó nên một như thế với Chúa Giêsu chính là điều kiện để các đồ đệ tuân giữ các điều răn của Người, như đã được khẳng định từ câu đầu tiên của bài Tin Mừng: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (c.15). Và đàng khác, “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy” (c.21a). Tình yêu đối với Đức Giêsu hệ tại ở chỗ người đồ đệ sống chính những giá trị của Đức Giêsu và hành xử như chính Người đã hành xử.
Khi ấy, chính người đồ đệ sẽ được Chúa Cha yêu mến: “Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến” (c.21b). Chúa Cha yêu mến họ bằng chính tình yêu mà Ngài yêu mến Đức Giêsu. Trong lời cầu nguyện ở Ga 17, Đức Giêsu thưa với Chúa Cha như sau về các đồ đệ của Người: “Con ở trong họ và Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một; như vậy, thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu thương con” (17,23).
Gợi ý suy niệm và chia sẻ
1. Tình yêu đích thực đối với Đức Giêsu hệ tại ở sự thi hành ý muốn của Đức Giêsu. Ý muốn ấy được thể hiện trong Lời của Người và trong các điều răn của Người. Ai yêu mến Đức Giêsu thì thực hiện các lệnh truyền của Người (x. c.21). Và đàng khác, chính trong lòng yêu mến đối với Đức Giêsu mà chúng ta mới có thể sống chính những giá trị của Đức Giêsu và hành xử như chính Người đã hành xử (x.c.15). Hai yếu tố “yêu mến Đức Giêsu” và “tuân giữ lời Đức Giêsu” có mối tương quan biện chứng.
2. Thần Khí sự thật được Chúa Cha ban cho các đồ đệ yêu mến Chúa Giêsu. Người là sự thật và Người thông ban sự thật, giúp các đồ đệ sống trong sự thật của Chúa Giêsu. Người là Đấng Bảo Trợ, sẽ dạy dỗ, bảo vệ, hướng dẫn… các đồ đệ của Chúa Giêsu.
3. Chúa Giêsu hứa không để các đồ đệ mồ côi. Ở giữa thế gian, họ có thể sẽ phải hiện diện như là đối tượng của những cách hành xử bất công, bạo tàn. Nhưng Chúa Giêsu luôn đến với họ và cho họ được hiệp thông với chính sự sống thần linh của Người. Chính nhờ đức tin mà các đồ đệ sẽ cảm nghiệm sâu xa sự hiện diện của Chúa Kitô Phục Sinh và sẽ được hưởng sự sống của Người.
(Trích “Như Thầy Đã Yêu” của Thiên Phúc)
Câu lạc bộ “bạn giúp bạn” hình thành tại Sài gòn năm 1996, do bác sĩ Nguyễn Bửu Hiền điều hành với 6 thành viên đều đã nhiễm HIV. Những “người bạn” này tự suy nghĩ: Cuộc đời mình dù đã tới dấu chấm hết, nhưng vẫn còn có thể có ích cho xã hội, họ đã dấn thân phục vụ bằng những việc đơn giản như an ủi, động viên và chăm sóc các bệnh nhân khác để chính họ cũng sẽ tìm thấy ý nghĩa cuộc đời.
Hiện nay, câu lạc bộ “bạn gíup bạn” đã có khoảng 500 thành viên tỏa mạng lưới ở khắp quận huyện. Ban điều hành gồm 12 người, trong đó có 3 người Công giáo, riêng nữ tu Trần Thị Kim Loan, dòng Đa minh Tam Hiệp là phó chủ nhiệm phụ trách hoạt động xã hội và tham vấn cho người nhiễm HIV. Trụ sở đặt tại 43 đường Lam Sơn, quận Bình Thạnh.
Chị Kim Loan kể lại một kỷ niệm về một nhạc sĩ mất vào tháng 8 năm 1998. Trước đó, anh đã xin được chịu Bí tích Thánh Tẩy với một Đức Tin mạnh mẽ: “Mỗi lần cùng với tôi ra vào bệnh viện Nhiệt Đới ở Chợ Quán, khi ngang qua tượng đài Đức Mẹ, anh thường đề nghị dừng lại cầu nguyện. Khi trước, mỗi đêm chơi nhạc, được bao nhiêu tiền anh đều phung phí hết. Bây giờ, anh đưa hết cho tôi vì muốn góp một phần khiêm tốn cho những bệnh nhân nghèo. Chính việc này đã giúp anh tìm thấy ý nghĩa cuộc đời còn lại, và anh đã ra đi bình an trong tình yêu của Chúa”.
***
Đứng trước căn bệnh thế kỷ đầy nghiệt ngã, người nhạc sĩ này vẫn mang một phong thái an nhiên tự tại, chính là vì anh đã biết thoát ra khỏi nỗi đau của mình để hôn lên nỗi đau của kẻ khác. Anh dường như đã chết đi mà nay được sống lại, chỉ vì anh không còn loay hoay với nỗi bận tâm về mình, nhưng lại biết chia sẻ với nỗi đau của những con người bất hạnh hơn anh.
Kitô hữu là người tin vào Đấng đã chết và đã sống lại. Đấng đang sống sự sống tràn đầy sung mãn của Thiên Chúa, và Người mời gọi các tín hữu hãy ở lại trong Người cũng là ở trong Cha: “Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em” (Ga 4,20). Chính khi hiện diện một cách thâm sâu trong cung lòng của Thiên Chúa mà người tín hữu nhận được sự sống mãnh liệt phong phú của Đấng Phục sinh: “Vì Thầy sống và anh em cũng sẽ sống” (Ga 14,19). Thánh Phaolo đã cảm nghiệm rất sâu sắc về sự sống mới này khi Người viết: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).
Sức sống dồi dào ấy chỉ có thể phát huy và tăng trưởng đến mức sung mãn, là khi người tín hữu dám bước ra khỏi cuộc sống co cụm, ích kỷ của mình, để ôm lấy bao nỗi khốn khổ bất hạnh của anh em. Có yêu thương là có Chúa tỏ mình, có Chúa tỏ mình là có sức sống mới sẽ bùng lên, tuôn trào: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (Ga 14,21).
Nếu con người ngày nay muốn kéo dài sự sống, thì người tín hữu phải cho họ thấy đời sống trường thọ chỉ có ý nghĩa khi người ta biết sống đời phục vụ trong yêu thương.
Nếu con người ngày nay thích tiện nghi sung túc, thì người tín hữu hãy chứng minh cho họ rằng cuộc sống càng bớt hưởng thụ thì đời sống càng lành mạnh, thanh thoát.
Nếu con người ngày nay lo bảo đảm cho cuộc sống, thì người tín hữu hãy giới thiệu cho họ cái bảo hiểm an toàn nhất là sự sống Nước Trời.
***
Lạy Chúa xin tỏ mình ra cho chúng con, để chúng con được kiên vững giữa sóng gió cuộc đời. Xin ban sự sống Chúa cho chúng con, để cây đời chúng con mãi xanh tươi. Xin ban Thánh Thần cho chúng con, để cuộc đời chúng con bùng lên sự sống mới. Amen.
25.Tình yêu đong đầy – Sống Lời hằng ngày
(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)
Kính thưa cộng đoàn!
Thông thường, chúng ta cất giữ những gì quý giá trong tâm tưởng sâu kín; nào là kỷ niệm khó quên, thời khắc thay đổi cuộc đời, con người bản thân, biết bao nhiêu lời dạy, câu nói, ….ảnh hưởng và khó phai mờ trong tâm trí của mỗi chúng ta.
Cũng như hai người nam nữ đang yêu nhau, hình bóng của nhau luôn hiện diện đâu đó trong cuộc sống, trong suy nghĩ, trong thời khắc hằng ngày của họ. Có lúc, họ chẳng cần gặp nhau, mà chỉ nói chuyện qua điện hoặc chỉ nhìn nhau qua cuộc gọi video không cần nói chi nhiều, mà họ vẫn thể hiện tình cảm cho người họ yêu, và chẳng thể nào quên nhau dù chỉ một giây!
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho chúng ta đọc lại một lần nữa diễn từ của Chúa Giê-su chia sẻ với các Tông đồ “nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ giới răn Thầy…” (x. Ga 14, 15). Vấn đề đặt ra là: chúng ta chắc hẳn yêu mến Chúa, nhưng sao không sống giới răn của Ngài? Phải chăng, giới răn của Chúa chưa phải điều quý giá mà khiến tôi phải ghi khắc trong tâm hồn, tâm tưởng? Hay tôi có thể không bao giờ quên những câu châm ngôn, những luận điểm hùng biện thú vị này nọ, nhưng Lời Chúa thì chúng ta chẳng thể nhớ? Và một khi không nhớ, một khi Lời Chúa chưa chạm tới con tim thì làm sao chúng ta thực thi trong cuộc sống thường nhật, nhất là trong những thời khắc cam go, khó khăn? Hoặc lòng yêu mến Chúa của chúng ta chưa lớn đủ để khiến chúng ta khắc ghi Lời của Ngài trong tâm tư và sống Lời ấy hằng ngày như việc chúng ta phải hấp thụ không khí, phải thâu nạp dinh dưỡng mỗi ngày?
Những gợi ý trên chỉ là một số điểm mà mỗi chúng ta nên hỏi lòng mình và đi tìm câu trả lời cho bản thân! Câu trả lời có thể chẳng đâu xa, mà có khi nó đang nằm trong vấn đề mà chúng ta đặt ra! Tuy nhiên, trong bài chia sẻ này, chúng ta nên làm sáng tỏ một số điểm: Chúng ta phải yêu mến Chúa thế nào thì mới khiến chúng ta tuân giữ giới răn của Ngài? Và động từ ‘giữ’ ở trong câu ‘…hãy giữ giới răn Thầy’ đối với chúng ta có nghĩa như thế nào?
Trước tiên, khi tình yêu thương của tôi dành cho ai đủ lớn thì chính tình yêu ấy khiến tôi làm mọi việc cho người ấy, và cũng chính tình yêu ấy tạo động lực cho tôi thay đổi tích cực vì người tôi yêu thương. Trong gia đình, lòng yêu thương bố mẹ dành cho con cái, tình thương của con cái dành cho bố mẹ lớn đủ thì bố mẹ sẵn sàng hy sinh cho con cái, và con cái cũng vậy làm hết mọi việc hầu chăm sóc, quan tâm bố mẹ. Trong tình bạn chân chính cũng sẽ diễn ra tương tự, và kể cả trong tình yêu đôi lứa giữa một người nam và một người nữ. Vậy, tình yêu của tôi đối với Thiên Chúa thế nào? Dẫu tôi biết Ngài là Đấng hằng yêu thương tôi, ban cho tôi sự sống, đã hiến thân chết cho tôi, hằng chờ đợi tôi mọi lúc tôi lìa xa Ngài, thương xót tôi, tha thứ, cứu độ tôi…Nếu lòng mến của tôi đối với Chúa đủ mạnh, đủ lớn thì việc tôi dành thời gian cho Ngài, nhớ đến Ngài, dám làm tất cả vì Ngài, thay đổi bản thân, làm mọi việc đẹp lòng Ngài là điều dễ dàng xảy ra!
Tuy nhiên, nhìn vào thực tế thì chúng ta sẽ thấy mức độ yêu thương của mỗi chúng ta đối với Chúa thế nào. Điển hình trong thời đại 4.0 này, chúng ta dành quá nhiều thời giờ cho việc lướt web, và dành rất ít thời gian để nhìn lại ngày sống của bản thân, rất ít thời gian dành cho việc tâm sự, hàn thuyên với Chúa (mà chúng ta thường gọi là cầu nguyện)! Chúng ta dành quá nhiều giờ cho công việc, cho việc mưu sinh cơm áo gạo tiền (vật chất) mà lại quên đi bồi bổ cho đời sống thiêng liêng, cho linh hồn! Chúng ta dành nhiều thời giờ để tạo mối tương quan trong giao tế, trong kinh doanh, trong gia đình, mà quên đi dành thời gian tạo mối liên kết với Chúa trong thinh lặng, trong việc đọc – suy gẫm Kinh Thánh, trong việc cầu nguyện, trong việc tham dự Bàn tiệc Thánh trực tiếp hay trực tuyến (trong thời điểm đại dịch cô-vid)!
“Nếu ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ Lời Thầy” (x. Ga 14, 15) và rõ ràng nếu chúng ta chỉ yêu mến Chúa bằng đôi mắt (= nhìn), bằng đôi môi (= nói) mà không bằng con tim (= ghi nhớ và hành động cụ thể) thì việc ‘giữ’ Lời Ngài khó có thể thành sự; mà nếu thành sự đi chăng nữa thì cũng ở mức độ là ‘cất giữ’ ‘cất giấu’ ‘giữ đạo’ thôi!
Và từ đây, chúng ta cùng nhau tìm hiểu thật sự ý nghĩa của động từ ‘giữ’ ở đây là gì? Nếu chúng ta nghĩ ‘giữ’ ở đây là cất giữ, giữ kín chuyện gì đó, hay vật gì đấy thì vô hình chung chúng ta cũng chỉ yêu mến Chúa bằng đôi mắt, bằng ngôn từ, và như thế chúng ta đang ‘giữ đạo’ chứ chưa ‘sống đạo’. Hơn thế nữa, nếu như vậy, chúng ta chỉ dừng lại việc thờ phượng Chúa trong nhà thờ, trong nhà nguyện; còn khi ra khỏi nhà thờ thì là một con người như bao nhiêu con người ngoài xã hội kia vẫn chưa tin nhận Chúa! “Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ Lời Thầy” (x. Ga 14, 15) nghĩa là nếu tình yêu của chúng ta đối với Chúa đủ lớn, đủ đong đầy thì chính lòng mến này khiến chúng ta thực thi tất cả những gì mà Chúa dạy qua Kinh Thánh, qua Thánh Truyền, và qua Giáo Hội. Một khi chúng ta dành nhiều sức lực, thời gian cho Chúa thì chính tình yêu Chúa biến đổi chúng ta trở nên những người yêu mến Ngài, yêu mến anh chị em xung quanh, và đây là động lực khiến chúng ta không ngừng ghi nhớ – khắc ghi – thực hành tất cả những gì Ngài đã dạy tóm lại trong giới răn yêu thương. Nói một cách đơn giản, một khi chúng ta yêu mến Chúa đủ nhiều, đủ lớn thì chúng ta sẽ làm hai việc song hành: cầu nguyện và làm việc bác ái.
Giờ đây, chúng ta cùng nhau dành ít phút thinh lặng chẳng phải để xin, mà để cảm tạ Chúa luôn đồng hành với chúng ta trong mọi thời khắc cuộc đời:
Lạy Chúa, con đã từng nghe:
“Sau cơn mưa trời lại sáng
Bình minh ló rạng ngập tràn ánh dương”.
Giây phút này xin tựa nương
Kề bên lòng Chúa yêu thương chan hoà.
Đời con như một đoá hoa
Tình yêu đủ lớn mọi nhà ngát hương
Thanh tao trong cõi vô thường
Đơn sơ sống giữa nẻo đường trần gian
Thực thi bác ái toả lan
Truyền loan ơn Chúa bình an tâm hồn. Amen!
(Suy niệm của Daniel J. Harrington – Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Nếu anh em yêu mến Thầy, hãy giữ các giới răn của Thầy” (Ga 14,15).
Lưu giữ những kỷ niệm về Đức Giêsu thật sống động và tiếp nối những công việc Ngài đã khởi sự, là hai công việc chủ yếu đối với mọi Kitô hữu. Các bài đọc Lời Chúa của phụng vụ hôm nay, Chủ nhật 6 Phục sinh, mô tả cách thế giúp chúng ta, cá nhân cũng như cả Hội Thánh, thực hiện những bổn phận quan hệ và cao quý này. Bài diễn từ biệt ly của Chúa Giêsu được thánh Gioan ghi lại (Ga,14) mà chúng ta nghe trong phụng vụ, đề cập đến cả 2 công việc đó. Việc thứ nhất liên quan đến tình yêu, và việc thứ hai đề cập đến Thánh Thần, đồng thời cũng liên đới với tình yêu. Cả hai phạm trù này gắn kết chặt chẽ với nhau và không thể tách rời nhau.
Những ai yêu mến Đức Giêsu sẽ tuân giữ giới răn Ngài. Các giới răn của đức Giêsu dường như không phải là 613 điều luật của cựu ước được tóm kết trong thập giới. Nhưng những giới lệnh Đức Giêsu đã ban bố thì giản đơn hơn, đồng thời mang tính thách đố cao hơn. Tất cả mọi điều răn Ngài gửi trao cho các môn đệ, xoay quanh việc tin vào Thiên Chúa và tin vào Đức Giêsu, đấng khải thị về Chúa Cha, đồng thời cũng nói về việc yêu mến Thiên Chúa, yêu mến Đức Giêsu và yêu thương nhau. Nếu chúng ta tin và yêu mến, chúng ta sẽ đắc thủ được các nhân đức khác, và các việc lành thánh sẽ nảy sinh. Vì vậy, chúng ta phải đặt mình vào trong chuỗi dây tình yêu liên hoàn, trải rộng từ Chúa Cha đến Chúa Con và đến những kẻ tin. Cũng tương tự, những ai biết yêu thương nhau, họ cũng sẽ yêu mến Chúa Cha và Chúa Con.
Cộng đoàn đức tin do Chúa Giêsu hình thành đã xác tín rằng sức mạnh của tình yêu sẽ luôn trổi vượt và phá đổ sức mạnh của hận thù. Họ hiến thân cho lý tưởng của tình yêu, như một năng động lực vĩ đại, vươn tới cả những kẻ thù của mình. Họ phục vụ cho lý tưởng tự hiến, yêu thương, với một trái tim vị tha, bởi lẽ đây chính là mô thức căn bản của tình yêu mà Đức Giêsu đã vạch dẫn, mời gọi thực hiện. Trong thơ thứ nhất gửi giáo đoàn Côrintô (1 Cor 13), Thánh Phaolô đã mô tả tình yêu đó như sau:“Đức ái thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tuông, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả”.
Những lý tưởng cao cả này vượt xa khả năng giới hạn nơi con người mỏng dòn chúng ta. Vì vậy, Đức Giêsu trước lúc ra đi, đã hứa gửi ban sự trợ giúp linh thánh cho các học trò mình qua dạng thức “ một Đấng Bào Chữa” khác. Đó chính là Thánh Thần. Hạn từ Hy Lạp Parakletos (Đấng Bào Chữa) hàm ngậm ý nghĩa về một người nào đó sẽ nâng đỡ và ủi an những ai cần trợ giúp. Từ ngữ này cũng ám chỉ về một vị luật sư nơi tòa án, sẽ đứng ra bảo vệ thân chủ và đấu tranh cho quyền lợi của họ, là chính chúng ta. Khi nói Chúa Thánh Thần là Đấng Bầu Chữa, Đức Giêsu muốn minh định rằng Thánh Thần sẽ thực hiện phần vụ của Ngài giống như Đức Giêsu đã thi hành khi Người còn tại thế.
Tình yêu và hoạt động của Thánh Thần là hai phương cách giúp cho những kỷ niệm về Đức Giêsu được lưu giữ cách sống động, và để những hoạt động mà Người đã khởi sự được tiếp nối. Chúng ta cần phải luôn gợi nhớ rằng Thiên Chúa là đấng khởi xướng, Thiên Chúa là đấng đã tuôn đổ tình yêu của Ngài xuống trên chúng ta qua Đức Giêsu, và qua những giáo huấn cũng như gương mẫu của Người, chúng ta sẽ học được cách yêu thương lẫn nhau. Thánh Thần của Thiên Chúa được trao ban cho ta qua phép rửa, chúng ta cần phải cộng tác với Ngài, mở lòng cho những sức mạnh thần thiêng đang tác động trong chúng ta và giữa chúng ta.
Sách Công Vụ Tông Đồ đã mô tả sức mạnh Thần khí được tỏ hiện thế nào qua việc trải rộng đức tin Kitô giáo xuyên suốt thế giới địa trung hải thời cổ đại. Những vị tông đồ kiệt xuất như Phêrô và Phaolô và những vị khác, chẳng hạn Philiphê, cũng góp phần lớn lao trong sứ vụ truyền giáo của Hội Thánh đến với muôn dân. Bài đọc trong sách Công vụ chương 8 hôm nay cho thấy, sứ điệp Tin Mừng đã được truyền tải, khởi đầu từ Giêsusalem, đến Juđêa và đến cả địa hạt Samaria. Ở đó Philip đã làm những công việc mà Đức Giêsu khi còn tại thế đã làm. Vị tông đồ cũng đã dạy dỗ dân chúng, cũng thực hiện những phép lạ để chữa lành. Sự thành công đó được tiếp nối với những tông đồ ở Giêsusalem, tức Phêrô và Gioan. Hai ông đã đến vùng Samaria, cử hành phép rửa ban Thần khí cho dân chúng vùng này.
Trong khi hai vị tông đồ lớn đã đảm nhận vai trò quan trọng trong việc lưu giữ những kỷ niệm về đức Giêsu được sống động và trải rộng những công việc đi khắp nơi, thì những tín hữu khác, những con người rất bình thường, mà ngày nay chúng ta gọi là những tín hữu buổi sơ khai, cũng có nhiều đóng góp đáng kể. Thơ thứ nhất của Thánh Phêrô nói về họ. Họ là những Kitô hữu gốc dân ngoại, có lẽ là những lao động di dân, và có thể là những khách lạ hay người ngoại quốc trong bối cảnh văn hóa xã hội bấy giờ. Họ tìm đường đến với Giáo hội qua gương sáng của các anh em Kitô hữu khác. Bài đọc hôm nay, trong 1P 3, Thánh Phêrô khuyên mời họ hãy chia sẻ những công việc tốt lành và hãy có một nhãn quan thần học dựa trên khuôn mẫu của Đức Giêsu. Ngài khởi xướng cho họ một kế hoạch truyền giáo, quảng diễn đức tin bằng việc sẵn sàng chia sẻ, bằng thái độ ân cần và kính phục đối với nhau, tôn trọng lẫn nhau, can đảm chấp nhận những chống đối, ngay cả có thể bị hành quyết, tất cả để theo gương Đức Giêsu. Phương sách truyền giáo như thế, luôn luôn là cách thế hữu hiệu nhất để lưu giữ những kỷ niệm về Đức Giêsu được sống động, và để những công việc Đức Giêsu đã khởi sự được tiếp nối thực hiện.
(Suy niệm của Br John Hoàng Hiệp Nghĩa, CRM)
Trước khi rời bỏ thế gian, Chúa Giêsu đã gọi các môn đệ lại, và thầy trò thỏ thẻ những lời tâm huyết trong một căn phòng bé nhỏ. Ngài đã loan báo và hứa xin với Chúa Cha cho các môn đệ một “Đấng Bảo Trợ” khác mà Ngài gọi là “Thần Chân Lý”. Thần Chân Lý theo tiếng Hy Lạp, Parakletos, có nghĩa là Đấng Trạng Sư, Biện Hộ, Cố Vấn, Cầu Bầu, Bảo Trợ, và là Đấng Chuyển Cầu. Những danh từ này chỉ tìm thấy trong Phúc âm thánh Gioan, và có năm đoạn trong lời đàm thoại chia tay liên quan tới – Đấng Bảo Trợ – Chúa Thánh Thần.
Lần thứ nhất ở Jn14, 16-17, Chúa Giêsu hứa “Đấng Phù Trợ” khác sẽ đến và ở với các môn đệ luôn mãi.Lần thứ hai ở Jn 14, 26, “Đấng Phù Trợ” là Thánh Thần, chính Người sẽ dạy các môn đệ mọi điều và sẽ nhắc nhở cho các ông tất cả những gì Chúa đã nói với các ông. “Đấng Phù Trợ” được nhắc đến lần thứ ba trong Jn 15, 26-27, “Đấng Phù Trợ” sẽ đến; Người là Thần Chân Lý, sẽ làm chứng về Chúa. Lần thứ tư ở Jn 16, 7-11, “… vì nếu Thầy không đi, Đấng Phù Trợ “sẽ không đến với các con.”Lần sau cùng ở Jn 16, 13-15, “Thần Chân Lý” đến và sẽ dạy các môn đệ tất cả sự thật.
Nhìn thấy nét mặt của các môn đệ không vui, Chúa đã hứa không để các ông mồ côi, “Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi: Thầy sẽ đến với các con” (Jn 14,18), và Chúa còn hứa xin với Chúa Cha ban Đấng Phù Trợ khác cho các ông. Chúng ta thử hỏi tại sao Chúa Giêsu lại hứa xin Chúa Cha ban Đấng Bảo Trợ khác cho các môn đệ? Phải chăng các ông bối rối vì sự ra đi của Chúa? Hay có phải các ông đau buồn vì cảnh thầy trò phân ly? Cũng vì lòng thương yêu mà Chúa đã trấn an các môn đệ bằng những lời êm dịu, “Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Gn 14,1-2). Vì không muốn thấy các môn đệ bơ vơ, hoảng sợ, nên Chúa đã hứa xin “Đấng Bảo Trợ” khác cho các ông.
Đấng Bảo Trợ Chúa Giêsu hứa ban chính là Chúa Thánh Thần; Ngài sẽ đến để giúp đỡ các môn đệ như lúc Chúa Giêsu còn sinh thời. Chúa Thánh Thần sẽ dạy các môn đệ mọi điều và sẽ làm cho các ông nhớ lại tất cả những gì mà Chúa Giêsu đã nói với các ông. Ngài sẽ làm cho thành sự thật những gì mà các môn đệ đã “mắt thấy tai nghe” tồn tại mãi trong Giáo Hội. Chúa Thánh Thần đến sau Chúa Giêsu để tiếp tục chương trình cứu chuộc mà Chúa Cha đã an bài.
Quả thật, lời hứa của Chúa Giêsu đã thành sự thật. Trong ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh thần đã hiện xuống để khai mạc những trang sử đầu của Giáo hội. Ngài chính là nguồn sinh lực của Giáo hội và của mỗi người chúng ta; chính Ngài thánh hóa và ban mọi ơn cho chúng ta. Chúa Thánh Thần còn là nguyên lý cho mọi sinh hoạt của Giáo hội và mỗi người chúng ta; hay nói cách khác, Ngài ban sự sống cho tất cả ngay từ tạo thiên lập địa cho đến ngày sau hết. Ngài hiện diện cách vô hình, và Ngài vẫn còn tiếp tục phù giúp, ban ơn, và thánh hóa mỗi người chúng ta.
Thường thường ta hay cầu nguyện và tập trung mọi chú ý tới Chúa Giêsu, và công trình cứu chuộc của Ngài, mà quên rằng Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu, và Chúa Cha gắn liền mật thiết với nhau. Chính Chúa Thánh Thần là tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con. Thật đáng tiếc và đáng trách biết bao khi chúng ta lãng quên, chưa biết, hoặc biết rất ít về Ngài.
Chúng ta hãy xét lại đâu là căn nguyên làm cho chúng ta quên “Đấng Bảo Trợ” của mình? Đâu là nguyên nhân làm cho chúng ta ít nhớ tới hoặc ít cầu nguyện với Chúa Thánh Thần? Có thể trong đời sống của chúng ta vì bận bịu mà ta quên Ngài? Phải chăng vì sống giữa một thế giới xô bồ, đầy nhộn nhịp, đầy vật chất làm chúng ta quên Ngài? Hãy nhớ lại Chúa Giêsu đã hứa gì cho các môn đệ và cũng là cho mỗi người chúng ta.
Trong Mùa Phục Sinh này, chúng ta hãy năng nhớ tới Đấng Bảo Trợ và van xin Ngài ban cho chúng ta được ơn yêu mến Chúa. Hãy xin Ngài ơn khôn ngoan và ơn can đảm để chúng ta dám loan truyền và làm nhân chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh. Hãy xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta chu toàn sứ điệp mà Chúa đã trao cho mỗi người trong nhiệm vụ làm cha mẹ, hoặc con cái trong gia đình. Và nhất là chúng ta hãy xin cho có một tâm tình yêu mến và trái tim luôn luôn mở rộng để đón mừng lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống sắp tới.
28.Yêu mến Thầy thì giữ giới răn Thầy
(Suy niệm của Lm Raymond Châu Diên, CRM)
Hội Y học Mỹ có mở một cuộc thăm dò hàng ngàn bác sĩ chuyên môn. Họ hỏi các bác sĩ: “Trong một tuần lễ, có bao nhiêu phần trăm bệnh nhân mà y khoa đã chữa được?” Các câu trả lời khiến chúng ta sửng sốt. Các bác sĩ cho rằng dùng thuốc men, họ chỉ điều trị được 10 phần trăm, 90 phần trăm còn lại, các bác sĩ cho rằng những bệnh nhân này thực sự có đau đớn, nhưng vấn đề của họ không thuộc lãnh vực hóa học hay vật lý mà tâm lý. Nói cách khác, đó là vấn đề cuộc sống. Những nguyên nhân thực sự của nỗi đau nơi họ là những cảm xúc tiêu cực như lo sợ, cô đơn. Buồn chán, lo sợ, cô đơn là cơn bệnh nổi tiếng của thời đại chúng ta.
Sau khi Chúa nói với các môn đệ, Chúa sắp xa các ông, các ông lo buồn. Chúa thông cảm yên ủi họ. Chúa nói với các môn đệ: “Các con đừng bối rối cũng đừng sợ hãi” (Ga 14,27). Hơn nữa, Chúa đã chỉ dạy các ông một cách sống, đã đưa các ông đến một chiều kích mới, cao cả hơn. Chúa dạy: “Nếu các con yêu mến Thầy, hãy giữ giới răn Thầy. Thầy sẽ xin Cha sai Đấng phù trợ đến với các con.”
Trước tiên, Chúa Giêsu đưa các môn đệ tới chiều kích thiêng liêng. Chúa Thánh Thần là Đấng phù trợ sẽ đến với các môn đệ, ngự nơi tâm hồn họ để họ có thể gặp Chúa mọi lúc. Chúa Thánh Thần là bằng chứng tình Chúa yêu họ, Ngài sẽ yên ủi, giúp đỡ họ trong mọi sự.
Henry Drummond suy luận như sau: Giả sử Chúa Giêsu không rời các môn đệ; giả sử Ngài còn ở thế gian bây giờ. Giả sử Ngài còn ở Thánh Địa, ở Giêrusalem. Mọi chuyến tàu, mọi chuyến bay đổ dồn về Trung Đông để gặp Chúa Giêsu. Mọi kiện thơ gồm toàn những lá thư của những người gặp khó khăn, thử thách. Giả sử anh hay chị đáp chuyến bay có ý đến gặp Chúa Giêsu. Xuống phi trường, anh hay chị nhập vào đám đông triệu triệu người chờ đến lượt mình. Vì quá đông nên anh hay chị chờ hoài mà chẳng bao giờ thấy bóng Chúa Giêsu.
Đời chúng ta nhiều lúc gặp đau khổ, lo buồn, nhưng chúng ta tin chúng ta luôn luôn có Chúa ở với chúng ta, yêu thương nâng đỡ chúng ta. Chúa biết mỗi người chúng ta đều có nhu cầu căn bản là ban phát và nhận lãnh tình yêu. Chúng ta luôn yêu và đón nhận tình yêu từ tha nhân, nhất là từ Thiên Chúa, nguồn mọi tình yêu. Yêu Chúa và Chúa yêu chúng ta hết lo buồn cô đơn.
Sau nữa, Chúa Giêsu dạy các môn đệ cuộc sông thực tế. Ngài nói: “Nếu các con yêu mến Thầy, hãy giữ giới răn Thầy. Thầy sẽ xin Cha sai Đấng phù trợ đến với các con” (Ga 14,15.21).
Giới răn của Chúa là gì? Chính Chúa Giêsu nhắc lại Cựu Ước: “Ngươi hãy yêu Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết linh hồn, hết sức ngươi; và yêu tha nhân như chính ngươi” (Mc 12,30-31). Chúa còn nói rõ hơn: “Thầy ban cho các con điều răn mới là các con hãy yêu nhau như Thầy yêu các con.” Chúa muốn chúng ta, để chứng tỏ chúng ta yêu Chúa, chúng ta hãy yêu tha nhân. Chúng ta không phải làm gì lẫy lừng nhưng hãy yêu thương những người chung quanh.
Khi chúng ta yêu thương giúp đỡ người khác, Chúa sẽ làm chúng ta hết lo buồn và sẽ ban ơn cho chúng ta. Mục sư King Duncun nói với những người buồn khổ là họ hãy tìm giúp đỡ những người đang buồn khổ thì tự nhiên mình sẽ thấy tươi vui. Ông thường nói: “Có 10 cách để thoát khỏi buồn khổ. Thứ nhất là giúp người khác, và tiếp tục làm như vậy chín lần.” Mẹ Têrêsa Calcuta đã chứng kiến nhiều về lòng người của những người đau khổ. Một lần Mẹ đem cho một gia đình đã nhịn đói mấy ngày 5 ký gạo. Vừa nhận được gạo, người đàn bà đó chia làm đôi và mang đi khỏi nhà và một lát sau trở lại tay không. Mẹ Têrêsa hỏi thì bà trả lời: “Gia đình bên cạnh đây cũng không có gì ăn mấy hôm nay, nên con chia cho họ một nửa.” Chúng ta hãy yêu thương, quan tâm đến tha nhân vì Chúa muốn chúng ta làm vậy. Chúa dạy chúng ta yêu tha nhân như Chúa đã yêu chúng ta.
Chúng ta hãy xem huấn lệnh của Chúa Giêsu như lời mời gọi yêu thương. Để chứng tỏ chúng ta yêu Chúa, chúng ta hãy yêu thương anh chị em chúng ta. Nếu chúng ta yêu Chúa và chu toàn giới răn yêu thương, Chúa Thánh Thần sẽ luôn ở với chúng ta, chúng ta không còn mồ côi, buồn khổ.
Tình yêu nam nữ là đề tài tốn nhiều giấy mực lẫn thời gian nhất trong các đề tài. Từ cổ chí kim, từ người ít học đến bậc vĩ nhân, từ làng quê heo hút đến phố thị rộn ràng… không nơi đâu hay người nào lại không biết đến hay một lần nói về tình yêu, một thứ tình cảm tuyệt hảo nhưng không kém những hệ lụy. Euripide từng thốt lên: “Tình yêu là cái gì êm đẹp nhất và cay đắng nhất”. Thế nhưng, hầu như ít ai chịu đứng ngoài cuộc của những hệ lụy đó, như ai đó đã nói đùa: “Yêu thì khổ, không yêu thì lỗ; thà chịu khổ chứ không chịu lỗ”. Nhưng theo chủ quan của tôi, sở dĩ yêu thì khổ là do chưa yêu thật lòng và không nắm bắt được quy luật của tình yêu. Bởi vì “yêu không phải là nhìn nhau, nhưng cùng nhau nhìn về một hướng” (Saint – Exupéry).
Từ tình yêu nam nữ tôi nghĩ về tình yêu của tôi với Thiên Chúa. Thần học Kitô giáo cũng đã không ngại hao tốn giấy mực để cố gắng diễn đạt mẫu tình yêu rất thiêng liêng này. Nhưng cũng có nhiều người ngày nay cảm thấy mệt mỏi, chán chường bởi đã “lỡ giữ” Đạo Chúa; hay nói khác hơn, họ không muốn giữ đạo nữa, bởi giữ đạo cực quá, Giáo Hội có nhiều luật lệ quá.
Không phải như vậy đâu bạn ơi! Việc bạn chẳng còn thấy Chúa hấp dẫn với bạn hay bạn thấy luật lệ trở thành gánh nặng cho bạn vì bạn đã không yêu Chúa và muốn Chúa đến với bạn nữa. “Khi yêu trái ấu cũng tròn” phải không? Ở đây, tôi nhấn mạnh đến một lý do khác, đó là bạn muốn biến Thiên Chúa theo cách thế của riêng bạn, và lúc đó bạn mới chịu đến với Ngài. Bạn đặt ra những tiêu chuẩn cho Thiên Chúa và Giáo Hội của Ngài. Tất nhiên, những tiêu chuẩn nầy hợp “gu” với bạn; nhưng thực tế, Thiên Chúa không là một thỏi vàng cho bạn đúc lên một chiếc nhẫn vừa tay bạn. Vậy bạn yêu Chúa hay yêu bản thân mình?
Tình yêu Thiên Chúa đi đôi với việc chu toàn lề luật của Ngài, “yêu thương là chu toàn lề luật” (Rm 13,8-10), “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (Gn 14,15). Mà điều răn của Chúa là gì? Là “hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương” (Gn 15,12). Cũng đâu có gì vượt xa cái tự nhiên của con người đâu. Chẳng phải là mọi người đang rầm rộ kêu gọi hãy sống trong hòa bình, hợp tác, chia sẻ, yêu thương đó sao? Có khác là người Kitô hữu thương yêu tha nhân trong tình yêu của Đức Kitô, nhân danh tình yêu Ngài để hành động.
Ngày nay, người ta thường có khuynh hướng nhận lãnh tình yêu mà không nghĩ đến việc cho đi tình yêu, muốn được yêu nhưng ngại hy sinh cho tình yêu, muốn nhận Thiên Chúa là Chủ đời mình nhưng từ chối vâng phục Ngài. Thực ra, nếu chúng ta có hay không giữ các giới răn của Chúa, cũng không đem lại lợi ích gì cho Ngài (kinh Nguyện Thánh Thể), nhưng chắc chắn là có lợi cho chúng ta. “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy; mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (Ga 14,21).
Nói yêu thì dễ, nhưng hành động vì yêu thì không dễ. Bạn tuyên xưng mình là Kitô hữu, vậy bạn đã có hành động thiết thực nào để minh chứng cho niềm tin của mình chưa?
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)
Cuốn phim có tựa đề: “Đời Vẫn Đẹp” do Roberto đạo diễn và thủ diễn. Cuốn phim đã nêu lên câu truyện của người Do Thái cùng với vợ và đứa con trai nhỏ bị Đức Quốc Xã đưa vào trại. Nhờ tài khôi hài, ông đã giữ vững được tinh thần của đứa con khi quân đội đồng minh đến giải thoát.
Cuốn phim hẳn gợi lại kinh nghiệm của bác sĩ Victo Rey, ba năm lưu đày tại Ba-Lan và nhiều trại tập trung khác của Đức Quốc Xã, đã giúp cho vị bác sĩ chuyên gia tâm lý này khám phá được một chân lý quan trọng trong cuộc sống của con người, chân lý đó là, trong những hoàn cảnh nghiệt ngã đau thương nhất con người vẫn có thể tồn tại nếu họ có niềm tin và tìm được ý nghĩa của cuộc sống.
Bác sĩ Brand đã quan sát những phản ứng khác nhau của các bạn tù của ông, có những người trước khi vào tù thì được mọi người trọng vọng, ngưỡng mộ, thế nhưng bỗng chốc lộ nguyên hình của những kẻ hèn hạ có thể bán đứng anh em vì một chút lợi lộc nhỏ mọn. Một số khác thoạt tiên thể hiện bản lĩnh của những nhà lãnh đạo, thế nhưng liền sau đó thất vọng và ngã gục chỉ trong vài ngày. Trái lại, cũng không thiếu những người rất ít được mọi người chú ý đến, họ đã âm thầm chịu đựng cho đến cùng và được sống còn.
Tìm hiểu sự khác biệt giữa những hạng người trên đây, bác sĩ Brand khám phá ra rằng, chính mục đích và ý nghĩa của cuộc sống là sức mạnh làm cho con người tồn tại trong những điều kiện tột cùng khốn khổ của cuộc sống. Trong kinh nghiệm bản thân, bác sĩ Brand cho biết, chính tình yêu đối với vợ ông đã giúp cho ông tiếp tục tìm thấy ý nghĩa và lẽ sống trong tận đáy của hỏa ngục. Mặc dù không biết vợ mình bị giam giữ ở đâu, còn sống hay đã chết, bác sĩ Brand đã chia sẻ kinh nghiệm như sau:
Không có gì có thể tách tôi ra khỏi tình yêu, những ý nghĩ và hình ảnh người vợ yêu dấu của tôi, cho dẫu người ta có báo tin rằng vợ tôi đã chết thì tôi sẽ không bao giờ ngưng chiêm ngắm hình ảnh của nàng và thôi không chuyện vãn với nàng nữa. Càng lúc tôi càng cảm nghiệm được hình ảnh của vợ tôi; vợ tôi vẫn luôn ở bên cạnh tôi. Chính tình yêu đối với vợ đã mang lại hy vọng và sức mạnh giúp cho bác sĩ Brand chịu đựng mọi nghịch cảnh và tồn tại cho đến ngày được giải cứu khỏi các trại tập trung. Khám phá được ý nghĩa của cuộc sống, đây hẳn không phải là một điều xa xỉ hay phụ thuộc trong cuộc sống con người, mà là một nhu cầu hiện sinh còn quan trọng hơn cả các ăn thức uống của con người.
Ý nghĩa lẽ sống của người Kitô chúng ta chính là Chúa Giêsu Kitô, đây là điều một lần nữa hôm nay Giáo Hội muốn nhắc nhở chúng ta. Kitô giáo chúng ta không phải là một ý thức hệ; cũng không phải là một hệ thống luân lý chỉ gồm những điều luật phải tuân giữ; lại càng không phải là một xã hội theo thể chế chính trị nào đó. Kitô giáo thiết yếu là một con Người, con Người đó hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một, Ngài đã hiện diện trong giáo hội và trong cuộc sống của mỗi người chúng ta, Ngài là sức sống của mỗi người Kitô chúng ta. Thường thì một vị thánh hiền, một bậc vĩ nhân đi qua trong lịch sử nhân loại và để lại sự nghiệp của mình, nhưng với Chúa Kitô lại khác, Ngài không hiện diện như một xác chết được tẩm liệm, Ngài cũng chẳng hiện diện qua những di tích Ngài để lại, Ngài cũng chẳng để lại sự nghiệp nào, Ngài đã chết và Ngài đã sống lại, chính vì đã sống lại cho nên Ngài vẫn có đó, Ngài hiện diện một cách sống động nơi đây, trong giây phút này đây, đó là niềm tin, là sức sống, là lịch sử của Giáo Hội từ hơn 2,000 năm qua, đó cũng là lẽ sống của không biết bao nhiêu người tín hữu đã đi trước chúng ta, trong Ngài họ đã tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống và để có thể vui sống, nhất là kiên trì cho đến cùng giữa những thử thách và bách hại, tất cả đều sống niềm xác tín của thánh Phaolô như ngài đã viết trong thư gởi cho giáo đoàn Rôma: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Chúa Kitô, phải chăng là gian truân, khắc khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?”
Đây là niềm xác tín mà Giáo Hội mời gọi chúng ta hâm nóng lại khi cho chúng ta lắng nghe Tin Mừng hôm nay. Trong bài diễn văn tự thuật với các môn đệ trước khi đi vào cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu, họ được mời gọi để chuẩn bị tinh thần đón nhận cách thế hiện diện mới của Ngài, Ngài nói với các ông: “Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi, Thầy sẽ đến với các con.” Quả thật, sau khi đón nhận Chúa Thánh Thần, các môn đệ đã cảm nhận được sự hiện diện của Chúa Giêsu, từ những con người quê mùa, dốt nát và nhát đảm, các môn đệ đã được Chúa Thánh Thần biến thành những nhà rao giảng không biết mỏi mệt và nhất là dùng chính cái chết của mình để làm chứng cho sự hiện diện ấy của Chúa Giêsu.
Hơn hai ngàn năm qua, sức sống được Chúa Thánh Thần thông ban cho các môn đệ đã tràn ngập thế giới, đã trở thành lẽ sống của không biết bao nhiêu người. Chính nhờ sức sống ấy mà các tín hữu Kitô tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống và sống đúng ơn gọi làm người của mình. Sống công bình, sống bác ái, sống phục vụ, sống quên mình không phải là độc quyền của người Kitô giáo. Tôn giáo nào cũng đề cao những giá trị ấy; giới răn yêu thương cũng không phải là giới răn riêng của các tín hữu Kitô chúng ta. Thế nhưng Chúa Giêsu đã ban bố giới răn ấy như một giới răn mới mẻ và là riêng của Ngài, bởi vì Ngài ban chính sức sống và tình yêu của Ngài cho các tín hữu để họ yêu thương bằng chính tình yêu của Ngài.
Chúa Giêsu chính là tình yêu, Chúa Giêsu chính là sức sống của các tín hữu. Chúng ta họp nhau cử hành thánh lễ của mỗi ngày Chúa Nhật để xin Chúa Kitô bổ sức cho chúng ta, để chúng ta tiếp tục sống, để cho mọi người thấy rằng, Ngài thật sự là Đấng đang hiện diện và tác động trong chúng ta, Ngài chính là lẽ sống mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của chúng ta, Ngài là sức mạnh để chúng ta tiếp tục chiến đấu, Ngài là niềm hy vọng để chúng ta tiếp tục tiến bước.
(Suy niệm của JB Lê Ngọc Dũng)
Thỉnh thoảng chúng ta nghe người ta nói: “Đạo nào cũng tốt”. Thử hỏi: Có đúng là đạo nào cũng tốt không?
Thực ra, chỉ trong một số trường hợp người nói câu này là để biện minh cho một hành vi, hay một quyết định của mình. Ví dụ, một anh chàng yêu cô gái Công giáo. Bên nhà nữ Công giáo đòi anh phải theo đạo mới cho kết hôn. Anh tuy không thích đạo Công Giáo nhưng vì muốn kết hôn nên đành phải theo đạo. Anh tự nhủ “Thôi thì, đạo nào cũng tốt, ta theo đạo có sao đâu”. Anh cũng thuyết phục cha mẹ anh: “Cho con theo đạo đi, vì đạo nào cũng tốt, cũng dạy ăn ngay ở lành”.
Sau khi học giáo lý và được Rửa tội anh chàng người lương đó có đức tin và sống đức tin hay không thì ta không biết. Nhưng rõ ràng là người nói “Đạo nào cũng tốt”, nhiều khi cũng là nói để biện minh cho một hành vi hay một quyết định của mình. Thực ra, mỗi người theo một đạo nào đó, đều cho rằng đạo mình là tốt nhất. Họ có thể nói rằng đạo khác cũng tốt, không xấu, nhưng đạo mình theo vẫn là tốt nhất.
Tôi cũng như vậy, chúng ta cũng vậy, vẫn tin rằng đạo Công Giáo là tốt nhất, vì không ai lại đi theo đạo tốt thứ nhì, thứ ba; vì chọn đạo là phải chọn đạo nào tốt nhất để mình sống cả đời.
Có nhiều lý do khiến chúng ta tin rằng đạo của mình là tốt nhất.
Riêng bài Tin Mừng hôm nay giúp tôi xác tín thêm rằng đạo Công Giáo là tốt nhất. Vì sao vậy?
Vì Lời Chúa dạy: “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì được Cha Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (Ga 14,21).
Lời dạy của Chúa Giêsu này cho thấy tình “yêu mến” là quan trọng, được nhắc đi nhắc lại nhiều lần: “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì được Cha Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (Ga 14,21).
Chữ “yêu mến” này cũng thường được nói trong các tôn giáo bằng những ngôn từ khác như: bác ái, từ bi hỷ xả, yêu thương, thương xót… Trong các tôn giáo nói chung, thường dạy về yêu mến tha nhân. Sự yêu mến này thể hiện qua việc ăn ngay ở lành. Yêu mến, ăn ngay ở lành đối với tha nhân, như với cha mẹ anh em, bạn hữu, hàng xóm láng giềng; giúp đở người nghèo đói, bệnh tật, người sa cơ thất thế…
Tuy nhiên Lời Chúa Giêsu ở đây không nói trực tiếp đến yêu mến tha nhân mà nói yêu mến Thiên Chúa.
“Ai yêu mến Thầy, thì được Cha Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (Ga 14,21).
Ngài nhấn mạnh đến mối liên hệ tình yêu giữa con người với Thiên Chúa. Ngài muốn mối liên hệ tình yêu này phải được thể hiện một cách mạnh mẽ. Và hạnh phúc mà ta gọi là “thiên đàng” của con người chính là được sống trong tình yêu với Thiên Chúa, được Thiên Chúa tỏ mình ra. Niềm hạnh phúc này có thể nói là niềm hạnh phúc tuyệt diệu, vô biên; một niềm hạnh phúc thần thánh, linh thiêng. Nó không đơn giản như kiểu nói phần thưởng thiên đàng cho kẻ ăn ngay ở lành, hay ngược lại, kẻ dữ bị phạt ở địa ngục, như kiểu nói hứa hẹn hay ngăm đe, vẫn thường nghe.
Đạo Công Giáo không nhấn mạnh đến sự “tôn thờ” Đấng Thần Linh Cao Cả, như thường thấy trong các tôn giáo khác, nhưng nhấn mạnh đến “yêu mến” Đấng Thần Linh Cao Cả. Ngay từ thời Cựu Ước Thiên Chúa đã truyền dạy trong sách Đệ Nhị Luật: “ Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em” (Đnl 6,4-5).
Thiên Chúa đòi chúng ta “yêu mến” Ngài “hết lòng hết dạ, hết sức”, chứ không đòi chúng ta “tôn thờ” Ngài hết lòng hết dạ, hết sức. Ngài không đòi chúng ta “tôn thờ” bằng những hành vi quỳ lạy, với những khấn vái: “Lạy Chúa, lạy Chúa” mà không có tình yêu mến Ngài.
Đến đây, ta có thể hỏi: “Vậy thì Đạo Công Giáo có vẻ duy Thiên?”. Câu hỏi có ý phê bình rằng Đạo Công Giáo chỉ đặt nặng lòng trí mình về Thiên Chúa, một vị Thần Cao cả xa xôi tận trời cao mà không lưu tâm đến con người, đến xã hội trần thế mà mình đang sống. Đã có những phê bình như vậy, như nói rằng: “Người Kitô hữu sống cam chịu để được hưởng thiên đàng mai sau”.
Nói như vậy là chưa đi sâu vào giáo huấn của Kitô giáo. Ngay trong bài Tin Mừng hôm nay, chưa kể đến nhiều giáo huấn khác tương tự, sự “yêu mến” Thiên Chúa phải được thể hiện qua việc thực hiện các giới răn, như Chúa Giêsu dạy: “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy” (Ga 14,21).
Mà giữ các “Giới răn” của Thiên Chúa, cũng chính là giữ luật bác ái yêu thương. Nghĩa là, khi sống bác ái yêu thương tha nhân thì chính lúc ấy ta yên mến Thiên Chúa. Thánh Gioan Tông đồ có viết: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4:20). Như thế, tình yêu tha nhân chứng minh tình yêu của mình đối với Thiên Chúa.
Chính Đức Giêsu đã “yêu mến” loài người chúng ta hết lòng hết dạ, hết sức đến nỗi đã chịu đóng đinh trên thập gía cho đến chết. Ngài đã chết vì yêu nhân loại tội lỗi và đồng thời cũng tỏ lộ tình yêu đối với Thiên Chúa Cha, là hết lòng hết dạ, hết sức.
Đạo nào cũng tốt, nhưng không có đạo nào lại thể hiện và giúp con người thể hiện được tình yêu hay cái tốt đến mức tuyệt hảo như đạo Công Giáo, vì tình yêu này được chứng thực nơi thập giá của Đức Kitô; vì không có đạo nào lại liên kết mật thiết giữa tình yêu giữa tình yêu đồng loại và tình yêu đối với Đấng Thần Linh Cao cả. Và, chính tình yêu này phát sinh ra hạnh phúc chân thật, vĩnh viễn muôn đời.
Trong bữa tiệc ly Chúa Giêsu tuyên bố Ngài sẽ ra đi, nhưng Ngài sẽ cho anh em một “Đấng Bảo Trợ” và “không để anh em mồ côi” và “Ngài ở trong các con”. Hơn nữa là sẽ được “Cha Ta yêu mến”. Để được điều đó đòi hỏi phải có hai điều kiện cần là “yêu mến” và “tuân giữ” các điều răn của Thầy. Hôm nay ta lại thấy rõ đặc điểm trong Tin Mừng Gioan mời gọi con người đi vào tình yêu của Chúa Kitô, tình yêu trọn hảo làm phát sinh hiệu quả:
1. Nhờ tình yêu mà con người được Đấng Bào Chữa.
Danh từ “Đấng Bầu Chữa”, do tiếng Hy Lạp là “Paracletos” chỉ người được mời đến bên cạnh bị cáo, để giúp đỡ và bênh vực cho đương sự, giống như trạng sư được mời đến để bầu chữa. Khi Chúa Giêsu nói đến “Đấng Bầu Chữa khác”, nghĩa là sẽ có hai Đấng Phù Trợ luôn nâng đỡ và không bao giờ để cho chúng ta mồ côi. Nhất là khi gặp những người buồn phiền lo sợ thử thách trong cuộc sống, chúng ta không bao giờ cô đơn, vì có Chúa Thánh Thần hằng hướng dẫn và ban sức mạnh cho ta.
2. Nhờ tình yêu con người không bị mồ côi.
Đức Giêsu đã quả quyết với các tông đồ trước khi ra đi “Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi”. Câu nói đó ngầm hiểu sẽ có Ngài ở bên khi không có Ngài. Nghĩa là người sẽ trở lại không phải trong thân xác này, nhưng là thân xác sau khi Phục Sinh. Chắc chắc lúc đó các tông đồ không thể hiểu được lời Đức Giêsu, chỉ khi được ánh sáng Phục Sinh chiếu soi thì họ mới hiểu rõ: Thầy mình đã đi thật, thế gian không còn thấy Người nữa, vì Người đã chết theo xác thịt; nhưng Người đã trở lại với các môn đệ trong những lần tỏ mình ra. Và nhất là sau khi được lãnh nhận Thần Khí, họ cảm thấy như Người đang ở gần họ, Hơn thế, ta thấy thời Giáo Hội sơ khai đã trải qua bao bắt bớ thử thách, phải sống trong gông cùm xiềng xích, sống trong cảnh đầu rơi máu chảy dưới tay bạo chúa. Nhưng “Thân thể Chúa Kitô” vẫn sống và phát triển mạnh mẽ, vì luôn có “Đầu” là Đức Kitô bên cạnh. Điều này giúp ta luôn xác tín Ngài luôn ở với ta, và trong ta cả khi ta không thấy Ngài.
3. Nhờ tình yêu con người được tình yêu.
Chúng ta có thể định nghĩa hạnh phúc của một người là biết yêu và được yêu. Qua câu nói của Đức Giêsu như kết quả của tình yêu cao cả “Ai mến Thầy sẽ được Cha Thầy yêu mến,và Thầy sẽ yêu nó và sẽ tỏ mình ra cho nó”. Nhưng một sai lầm thường gặp của con người là cứ ngỡ mình được Chúa yêu đó là công trạng của mình, nhưng thực ra không phải. Vì khi ta chưa yêu Ngài hay thậm chí khi còn mang tội thì Ngài đã đã yêu ta và yêu từ ngàn xưa rồi. Chúng ta biết yêu chính là nhờ ơn ban như không của Ngài. Một tình yêu có sự liên đới hiệp thông như Chúa Cha đã yêu Chúa Con thế nào thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau như vậy, vì tình yêu Chúa Ban Ngôi hiện diện trong ta, trong gia đình và trong cộng đoàn của ta, lòng ta sẽ cảm thấy hoan lạc và bình an can đảm dấn thân mang tình yêu Ba Ngôi ấy mà trao tặng cho nhau. Chỉ khi nào mang có tình yêu Ba Ngôi, khi ấy lòng ta mới không còn nổi loạn, không còn nghi nan, không còn ích kỷ, không còn để bụng giận hờn ghen ghét… Chỉ khi nào tất cả mọi người đều được lãnh nhận tình yêu Ba Ngôi khi đó cộng đoàn, gia đình mới có tình yêu Chúa Kitô, chỉ khi nào cộng đoàn gia đình có tình yêu Chúa Kitô thì cộng đoàn gia đình mới là cộng đoàn đúng nghĩa; sinh động đầy sức sống và hiệp thông, vì cộng đoàn đó biết yêu như chính Chúa đã yêu.
Lạy Chúa, chỉ có tình yêu mới giúp cho con người xoá bỏ được hận thù, chỉ có tình yêu mới làm cho đất nước được hoà bình, con người được ấm no, và có tình yêu đó mới làm cho con người được hiệp thông với Chúa Ba Ngôi, vì Chúa là tình yêu. Amen.
33.Một cuộc đàm thoại liên hệ đến chúng ta
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Bài đọc này được trích từ một đoạn dài Phúc Âm theo thánh Gioan, chương 13 đến 17, được gọi là diễn từ trong bữa Tiệc Ly. Thánh Gioan thuật lại cuộc đàm thoại của Chúa Giêsu với các môn đệ trong khoảng một vài giờ trước khi chịu nạn. Một không khí thân ái mật thiết ở cường độ phi thường đã khiến đoạn Phúc Âm này thành 1 trong những bài văn tuyệt mỹ. Điều khiến chúng ta lưu ý hơn hết là giá trị, một sứ điệp liên quan đến chúng ta, vì chúng ta quả hiện diện trong tâm tưởng Chúa Giêsu khi Ngài nói chuyện với các môn đồ. Những điều Ngài nói về sự liên kết giữa họ với nhau, về việc gặp gỡ Chúa Cha, về việc Chúa Thánh Thần đến, tất cả trực tiếp liên hệ đến chúng ta và bắt chúng ta tỏ thái độ. Mỗi câu đều đáng dừng lại suy niệm. Hãy để mỗi người tìm ra câu đáp ứng, nguyện vọng và ơn nhận được. Ở đây, người ta ghi nhận các ý sau:
1) Nếu các con yêu mến Ta, các con sẽ giữ các giới răn Ta.
Mạch văn toàn thể Phúc Âm thánh Gioan cho chúng ta biết hai giới răn (mà thực chỉ là một) là kính mến Thiên Chúa như cha và yêu mến mọi người như anh em. Chính cho các môn đệ của tình yêu ấy mà Chúa Giêsu cầu xin Chúa Cha để họ được nhận lãnh Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần được gọi là Đấng bầu chữa, vị trạng sư, Đấng trợ lực. Chúa Giêsu đã báo cho các môn đệ hay Ngài sẽ không còn hiện diện với các ông trong hình thể khả giác và vật lý như những ngày chung sống. Nhưng Ngài sẽ không bỏ các ông, Ngài sẽ hiện diện bằng một cách sâu kín hơn trước đặc biệt bằng Thần Khí của Ngài. Thần Khí sẽ bảo vệ, trợ lực, gìn giữ họ. Cả với chúng ta là những khi không được biết Chúa Giêsu trong lịch sử. Hôm nay chúng ta cũng được nghe dạy rằng, Chúa Thánh Thần trợ lực và gìn giữ chúng ta. Chúng ta có nghĩ rằng Lời Chúa phán ở một thời nhất định có giá trị sống động hiện thời đối với chúng ta hay không?
2) Thánh Thần… mà thế gian không thể lãnh nhận.
Chữ “thế gian” ở đây phải hiểu theo nghĩa chung các quyền lực phản nghịch Thiên Chúa và Đấng Kitô của Ngài. Tinh thần thế gian này chính yếu là một tâm trạng bất ổn; một không khí nhiễm độc vì sai lầm và ngu dại vì kiêu ngạo thâm căn và tự mãn ngây ngô, một khuynh hướng tâm lý và tinh thần khép kín con người tại chính mình. Thế gian ấy không tin được cả đến việc có thể có thần tính của Đức Kitô, và do đó có thể có việc Chúa Thánh Thần đến. Đàng khác, Chúa Giêsu Ngài cầu xin Cha Ngài gìn giữ các môn đệ khỏi thế gian, nghĩa là gìn giữ chúng ta hôm nay đây.
3) Ai yêu mến Ta sẽ được Cha Ta yêu mến.
Chúng ta gặp lại ở đây một trong những chân lý căn bản thường được diễn tả trong Tân Ước nhất, trình bày một cách dễ lưu ý. Tương quan của chúng ta với Chúa Giêsu, cấu tạo tương quan của chúng ta với Chúa Cha. Tuân theo các giới răn của Chúa Giêsu, tức là tuân theo Chúa Cha, cầu khấn với Chúa Giêsu là cầu khấn với Chúa Cha; ca tụng tôn vinh Chúa Giêsu, nhìn nhận trong thán phục và vui mừng địa vị của Ngài tức là ca tụng tôn vinh Thiên Chúa; tin tưởng nơi Chúa Giêsu là tin tưởng nơi Chúa Cha. Các con sẽ chịu gian nan, nhưng hãy vững lòng, Ta đã thắng thế gian (Ga 16,33).
34.Suy niệm của Lm. Antôn Pađua Trần Liên Sơn
Nếu các Tin mừng Matthêu, Marcô và Luca mời gọi ta vào Vương quốc Thiên Chúa, thì Tin Mừng Gioan mời gọi ta vào tình yêu Đức Giêsu Kitô. Thánh Gioan là người sống sau cùng. Sau khi đã nghiền ngẫm tất cả cuộc đời và những lời giảng dạy của Đức Giêsu, thánh nhân nghiệm ra cái cốt lõi của cuộc sống người môn đệ là tình yêu Đức Giêsu Kitô, là kết hiệp với Đức Giêsu Kitô, là sống sự sống của Thiên Chúa.
Tình yêu đó không phải là thứ tình yêu mơ mộng lãng mạn nhưng là một tình yêu sáng suốt của lý trí. Tình yêu đó không phải là chuyện đuổi bướm, hái hoa, rung động, xúc cảm, nhưng là một tình yêu với những việc làm cụ thể. Việc làm cụ thể đó là tuân giữ những điều Đức Giêsu truyền dạy, là vâng lời.
Đó chính là bí quyết Đức Giêsu truyền lại cho các môn đệ, trước khi người giã từ các ông để đi vào thế giới đức tin. Từ nay để gặp gỡ Người, để yêu mến Người, để sống với Người, cần phải có đức tin và tình yêu.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta thử hình dung cảnh tượng chia ly vĩnh biệt giữa những người thân trong gia đình, kẻ đi người ở: nếu người phải ra đi là người có trách nhiệm trong gia đình đó, thì họ sẽ làm gì, nói gì để có thể an tâm ra đi trước những lo lắng xao xuyến của những người thân còn ở lại?
Toàn bộ Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đặt ta trong một khung cảnh tương tự. Với khung cảnh chuẩn bị cho sự ra đi gần kề của Chúa Giêsu trong Lễ Thăng Thiên, Giáo Hội cho ta nghe bài Tin Mừng của Thánh Gioan, nói đến lời hứa của Chúa Giêsu ban Thánh Thần cho các tông đồ một khi Ngài từ giã các ông, để chính Chúa Thánh Thần tiếp tục nâng đỡ các ông và Giáo Hội trong hành trình giữa thế gian, và biến đổi họ nên những chứng nhân của Đức Kitô, Đấng đã phục Sinh (bài đọc 1&2).
Đặt mình vào tâm trạng của các tông đồ trong bữa tiệc ly, khi phải đối diện với sự ra đi gần kề của Chúa Giêsu, có lẽ ta gặp được ở đó nỗi hoang mang, lo lắng trước một tương lai xem ra vô định, nỗi băn khoăn xao xuyến vì khoảng trống vắng sự hiện diện thường xuyên của vị Thầy. Thấy được tất cả tâm trạng đó của họ, Chúa Giêsu đã an ủi và trăn trối với họ:”Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều của Thầy. Thầy sẽ xin Chúa Cha, và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần khí sự thật,…” (Ga 14, 15-17a).
Đấng Bầu Chữa khác, Đấng là Thần khí sự thật, đó chính là Chúa Thánh Thần ngôi Ba. Người được hứa ban và gửi đến cho các tông đồ ngay liền với sự ra đi của Chúa Giêsu. Và từ đó, một giai đoạn mới trong lịch sử cứu độ của Thiên Chúa được mở ra, để khai mở một sự hiện diện mới của Thiên Chúa. Sự thật, Thiên Chúa không ngừng hiện diện giữa nhân loại. Trong Cựu ước, Người đã hiện diện bằng lời quyền năng của Người. Đến thời Tân ước, Người đã hiện diện bằng chính Ngôi Lời trở thành xác phàm, và bây giờ Người tiếp tục hiện diện bằng Chúa Thánh Thần.
Chúa Thánh Thần được Chúa Giêsu giới thiệu là Đấng Bàu chữa khác, là Thánh Thần Chân lý.
Trước hết, Chúa Thánh Thần được giới thiệu là Đấng Bàu chữa khác. KHÁC, vì chính Chúa Giêsu đã là Đấng bầu chữa, và hôm nay Ngài vẫn tiếp tục chức năng đó bên Tòa Thiên Chúa Cha. Trước khi từ biệt các tông đồ ra đi, Chúa Giêsu đã hứa gửi đến cho họ một Đấng bầu chữa khác để nâng đỡ, trợ giúp và biện hộ cho họ giữa lòng thế gian, và để biến họ thành chứng nhân của Tin Mừng Phục Sinh.
Chẳng phải vô tình mà Phụng vụ Lời Chúa hôm nay chọn bài đọc 1 trong sách CVTĐ, vốn là bài tường thuật việc dân Samari trở lại đón nhận niềm tin vào Chúa Giêsu. Lúc ấy, Hội thánh ở Giêrusalem đã phải trải qua những cơn bách hại nặng nề, các kitô hữu phải tản mác về các vùng quê. Trong một hoàn cảnh tương tự, lẽ ra người ta chỉ còn biết than van và khóc lóc. Ấy thế mà chính những bước đi phiêu bạt đó lại đã trở thành những bước đi gieo rắc Tin Mừng, chính cảnh ly tán ấy lại là thời cơ thuận tiện để thu họp muôn dân. Và cũng chính nhờ cơ hội đó, dân Samari ngoại đạo đã được nghe nói về Chúa Giêsu và tin vào Người. Được như thế là vì ẩn khuất trong những bước đi phiêu bạt mà thế gian áp đặt bằng quyền lực của nó, lại vẫn luôn hiện diện bước đi linh diệu của Chúa Thánh Thần với vai trò nâng đỡ, trợ giúp, bàu chữa những người môn đệ của Đức Kitô.
Chúa Thánh Thần còn được gọi là Thánh Thần CHÂN LÝ. Thánh Gioan là tác giả Tin Mừng duy nhất đã gọi Thánh Thần là Chân lý. Đấng an ủi, Đấng Bầu chữa liên kết với Chân Lý. Gọi là Thánh Thần Chân Lý vì chính Ngài là Đấng dẫn đưa các môn đệ vào tất cả sự thật, nghiã là đưa các ông đi sâu vào mầu nhiệm Chúa Giêsu, vì sự Thật ấy chính là Chúa Giêsu, như chính Người đã nói trước mặt Philatô:”Sự Thật chính là Ta”. Mầu nhiệm ấy, thế gian đã không đón nhận, vì đối với họ, tất cả cũng chỉ là điên rồ và khờ dại (x. 1Co 1,23). Và ngay cả các tông đồ cũng không hoàn toàn lĩnh hội mầu nhiệm ấy. Chính vì thế, trước biến cố khổ nạn thập giá, các ông chỉ nghĩ đến chuyện chạy trốn, hoang mang và thất vọng. Nhưng một khi Chúa Thánh Thần đã được gửi đến cho các ông, lúc đó các ông mới nắm bắt được tất cả sự thật, và hiểu được tất cả vinh quang của Thập giá Đức Kitô, để rồi từ đó, dám gắn bó hơn với sự thật đó, dám hiến cả cuộc đời mình để làm chứng cho Đấng đã chết và sống lại.
Anh chị em thân mến,
Ngày hôm nay chúng ta đang sống chính tâm trạng của các tông đồ lúc Chúa Giêsu sắp từ biệt họ. Cũng như các tông đồ xưa, tự sức chúng ta, chúng ta cũng không hiểu được tất cả mầu nhiệm của thập giá Đức kitô. Tâm trí chúng ta vẫn còn bị đóng khung trong những cái nhìn rất hạn hẹp: chúng ta khó lòng tin nhận mầu nhiệm Chúa Giêsu, chúng ta không xác tín vinh quang của Thập giá trong chính cuộc sống của chúng ta. Và như thế một cuộc xét xử mà các môn đệ đích thực của Chúa Giêsu vẫn phải luôn ra hầu toà là cuộc xét xử chân lý, và thực sự đó là cuộc xét xử chính Thiên Chúa, với nhiều hình thức tố cáo khác nhau: đó có thể là những phiền nhiễu đủ loại, những cảnh bắt bớ, cấm cách, đó cũng có thể là những tuyên truyền vô tín hay những dửng dưng thanh thản, những chế nhạo tinh tế, mà đó cũng có thể là những hình thức lôi kéo, cuốn hút người môn đệ của Đức Kitô vào trong những gì là hưởng thụ, vật chất và tục hóa.
Thì cũng ngày hôm nay, chúng ta phải luôn xác tín rằng cũng một Chúa Thánh Thần đang tác động trong ta, đang tiếp tục nâng đỡ, bầu chữa và hướng dẫn ta vào tất cả sự thật của Mầu nhiệm Chúa Giêsu.
Chính Chúa Thánh Thần đang dẫn đưa tâm hồn mỗi người chúng ta vào mầu nhiệm Chúa Giêsu, để rồi càng thấm nhuần, chúng ta càng có khả năng làm chứng về Người, sẵn sàng đáp trả cho bất cứ ai tra vấn về niềm tin và niềm hi vọng chúng ta đang ấp ủ, qua chính cuộc sống tin tưởng, lạc quan, phó thác phục vụ của chúng ta.
Sứ mạng ấy quả là cao cả, nhưng cũng không thiếu khó khăn và trở ngại khi chúng ta phải làm chứng cho Chúa Kitô giữa một thế gian được xem là thù nghịch với mầu nhiệm thập giá của Đức Kitô, nhưng nhất là khi toà án tra tấn Đức Kitô lại được dựng nên ngay trong chính cuộc sống và trong lòng của mỗi người chúng ta, mà ở đó người kết án buộc tội chết cho Đức Kitô không ai khác hơn lại là chính chúng ta. Đó là những khi chúng ta đã để cho những ích kỷ của chúng ta giết chết tình yêu, những khi chúng ta chọn những tiện nghi nho nhỏ của chúng ta thay vì chọn phục vụ Thiên Chúa, đó cũng là những lúc chúng ta đã để cho những ươn hèn lười biếng nơi chúng ta bóp chết tất cả mọi nhuệ khí của yêu thương và phục vụ, khi chúng ta an tâm với một cuộc sống hưởng thụ, khi chúng ta thờ ơ với những khao khát sự thật nơi các tâm hồn.
Hãy tin tưởng vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần và sự hiện diện mới mẻ của Đức Kitô. Điều quan trọng là mỗi người trong chúng ta luôn biết sẵn sàng lắng nghe những lời chỉ bảo hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, để từ đó, với việc tuân giữ những điều Chúa truyền dạy, chúng ta luôn khám phá và tìm thấy sự hiện diện của Đấng Phục Sinh, như một ngọn lửa đang soi sáng và sưởi ấm cuộc sống đều đặn và tầm thường của chúng ta, như một sức sống không hề cạn giữa những mệt mỏi và nghi nan của cuộc đời chứng tá của chúng ta.
Trong Mùa Phục Sinh này, chúng ta hãy năng nhớ tới Đấng Bảo Trợ và van xin Ngài ban cho chúng ta được ơn đức tin và yêu mến Chúa. Hãy xin Ngài ơn khôn ngoan và ơn can đảm để chúng ta dám loan truyền và làm nhân chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh. Hãy xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta chu toàn sứ điệp mà Chúa đã trao cho mỗi người trong nhiệm vụ làm cha mẹ, hoặc con cái trong gia đình. Và nhất là chúng ta hãy xin cho có một tâm tình yêu mến và trái tim luôn luôn mở rộng để đón mừng lễ Chúa Thánh Thần. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu cho biết mối liên hệ giữa lòng yêu mến Chúa và việc tuân giữ các điều răn của Chúa: “Nếu anh em yêu mến Thầy anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy”, “Ai giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy”. Như vậy, yêu mến Chúa thì giữ các điều răn, và ngược lại, giữ các điều răn là yêu mến Chúa.
Các điều răn Chúa nói là gì? và giữ các điều răn thế nào để chứng tỏ chúng ta yêu mến Chúa? Hiểu theo nghĩa chặt, đó là bản Giao Ước được ghi vào bia đá. Bản Giao Ước đó chính là Mười Điều Răn, mà dân Do Thái gọi là “Những lời của Giao Ước” hoặc “Mười Lời”. Hiểu theo nghĩa rộng là tất cả những điều Thiên Chúa truyền dạy. Ngày nay, đạo của chúng ta cũng dạy rất nhiều điều: nào là Tin Mừng, nào là mười điều răn Đức Chúa Trời, sáu điều răn Hội Thánh, nào là luật Giáo Hội. Trong tất cả những luật ấy, chúng ta không biết điều nào là chính điều nào là phụ, sự phân vân thắc mắc đó, ngay từ xưa chính Chúa Giêsu đã giải đáp: điều chính, điều quan trọng nhất, tóm tắt tất cả những gì mọi Kitô hữu phải giữ và thực hành, đó là điều răn yêu mến: mến Chúa yêu người. Ai giữ hai điều này thì kể là giữ tất cả những điều khác, trái lại, ai giữ tất cả những điều khác mà không thực hành lòng mến Chúa yêu người thì kể như không giữ gì cả.
Tóm lại, người Kitô có nhiều cách để biểu lộ lòng yêu mến của mình đối với Chúa, nhưng cụ thể nhất là giữ các điều răn Chúa dạy, cách riêng là điều răn mến Chúa yêu người. Hơn nữa, chỉ cần xét xem chúng ta có yêu người không là đủ. Nghĩa là muốn biết chúng ta yêu Chúa thế nào thì chỉ cần xét xem chúng ta đã yêu người ra sao. Và tình yêu đó phải được thể hiện bằng những việc làm, những hành động cụ thể.
Truyện cổ tích Ả Rập kể rằng: có một người bán thịt nướng rất keo kiệt và khó tính, vì tính khí khó chịu của anh ta nên cửa hàng luôn bị ế ẩm, anh đã làm đủ mọi cách để câu khách nhưng chẳng ai thèm mua. Có một người ăn xin ngồi bên lề đường, thèm thuồng nhìn những miếng thịt nướng treo lủng lẳng, rồi ông móc trong bị ra một khúc bánh mì, lẳng lặng đem hơ nóng trên khói, hy vọng khói thịt sẽ ướp vào miếng bánh. Sau đó, ông ngồi ăn miếng bánh cách ngon lành. Anh chàng bán thịt nhìn thấy, chạy ra túm lấy áo người ăn xin đòi tiền. Người ăn xin phân trần: “Tôi đâu có mua thịt của anh, khói thịt đâu có phải là thịt”. Anh bán thịt quát lên: “Khói thịt cũng thuộc về miếng thịt, ông phải trả tiền cho tôi”. Hai người cãi nhau, không ai chịu ai và đưa nhau đến quan tòa xét xử. Vị quan toà truyền cho người ăn xin móc ra một đồng tiền cắc và ném xuống nền nhà phát ra tiếng kêu, ông nói: “Đây là giải pháp công bằng nhất, người ăn xin hưởng khói thịt của anh, và anh thì hưởng âm thanh đồng tiền của ông ta. Thế là công bằng nhé”.
Nghe qua câu chuyện trên, có thể chúng ta sẽ cười chê thái độ ích kỷ, keo kiệt, vớ vẫn của người bán thịt, thế nhưng rất nhiều khi trong cuộc sống chúng ta đã cư xử với tha nhân như thế. Việt Nam chúng ta có câu chuyện về một người cha tham ăn đang nướng mấy con cá, người mẹ dỗ dành vỗ về đứa con nhỏ khóc đòi ăn: “Nín đi, để xem có con nào nhỏ rồi ba cho”. Anh chồng quát lên: “Cho cái gì? không có con nào nhỏ cả, con nào cũng bằng nhau”.
Tình thương không chia sẻ, không liên đời là tình thương không mạnh đủ hay là tình thương không có thật. Trước những nhu cầu bức thiết của người anh em, nhiều người đã tránh né, chạy trốn bằng những câu trả lời: “Chừng nào tôi đủ ăn, dư mặc tôi sẽ cho”, hay “Để lúc khác, bây giờ tôi không có thời giờ”. Và cái lúc khác sẽ không bao giờ đến, vì người ta có trăm ngàn lý do để biện minh cho thái độ thiếu lòng thông cảm, thiếu tình thương của mình.
Người Kitô hữu có nhiều cách để biểu lộ lòng yêu mến của mình đối với Chúa, nhưng cụ thể nhất là giữ các điều răn Chúa dạy, cách riêng là điều răn yêu người, nghĩa là muốn biết chúng ta yêu Chúa thế nào thì chỉ cần xét xem chúng ta đã yêu người ra sao. Như vậy, qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta biết một bằng chứng, một dấu hiệu để chứng tỏ chúng ta yêu mến Chúa là tuân giữ các điều răn của Chúa, nhất là điều răn yêu người. Chúng ta hãy sống thế nào để tỏ lòng yêu mến Chúa không chỉ giới hạn trong việc thờ phượng hay trong những sinh hoạt tôn giáo, mà phải được thể hiện bằng cả cuộc sống yêu thương của chúng ta. Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta luôn xác tín rằng: chỉ bằng cuộc sống yêu thương chúng ta mới thực sự làm chứng cho Thiên Chúa tình yêu.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Thánh Phanxicô Assisi có lòng mến Chúa và yêu người rất sâu xa. Một hôm ngài gặp một người bạn, người này nói với thánh nhân rằng ông ta không thể nào yêu mến Thiên Chúa được. Đang khi hai người đi đường thì gặp một người hành khất vừa mù vừa què. Thánh nhân hỏi người hành khất:
– Nếu tôi chữa cho anh thấy và đi được thì anh có yêu mến tôi không?
Người hành khất trả lời:
– Dạ thưa ngài, không những tôi yêu mến ngài mà tôi xin dâng hiến trọn phần còn lại của đời tôi để phục vụ ngài.
Nghe câu trả lời của người hành khất xong, thánh nhân quay sang người bạn đang đứng bên ngài nói:
– Đấy anh thấy không, người hành khất này chỉ thấy được, đi được, thế mà còn hứa với tôi như thế, huống hồ là anh, anh không những được Chúa dựng nên với chân tay mắt mũi lành lặn. Ngài lại còn chịu chết để cứu chuộc anh nữa, đang khi đáng lý ra anh phải chết vì tội của anh. Vậy mà anh lại không yêu mến Chúa sao?
Thưa anh chị em, yêu mến Chúa là bổn phận của mỗi người chúng ta. Nhưng thế nào là yêu mến Chúa? trong Tin Mừng hôm nay, chính Chúa Giêsu đã trả lời cho chúng ta câu hỏi này. Trước hết, yêu là thấy. Chúa Giêsu đã nói: “Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống”. Thực thì ngay trong cuộc sống của xã hội con người, chúng ta cũng có thể gặp những trường hợp một người đã ra đi một chuyến đi xa, nhưng những người còn ở lại vẫn cảm thấy người đó như đang hiện diện ở đâu đây, thật gần gũi, nơi từng sự vật, trong từng căn phòng, nơi mỗi lối đi. Chính tình yêu, sự quen thuộc, sự cảm thông đã tạo nên cái điều lạ lùng này. Giữa những người thân yêu, sự vắng mặt không tạo nên sự xa cách: “Xa mặt mà không cách lòng”. Vì vậy, Đức Giêsu đã nói: “Thế gian sẽ không thấy Thầy, còn anh em, anh em sẽ được thấy Thầy”. “Cái thấy” Chúa Giêsu muốn nói ở đây không còn là cái thấy ngang qua cặp mắt của thân xác; cái thấy ấy có những giới hạn nhất định, ở ngoài tầm nhìn thì không thấy được nữa. Còn “cái thấy” ở đây là cái thấy bằng con tim, bằng sự cảm nhận, bằng sự hoà nhập. Tình yêu làm cho người xa cách trở nên gần gũi. Vì yêu mến Thầy, các môn đệ vẫn cảm thấy Thầy hiện diện ở khắp nơi.
Nguyên trong đoạn Tin Mừng này, chúng ta đã thấy Chúa Giêsu lặp lại đến năm lần từ “yêu mến”. Yêu mến trở thành mối quan hệ giữa môn đệ và Thầy, giữa môn đệ và Thiên Chúa Cha. Yêu mến đưa đến sự hoà nhập: “Anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em” và “Thầy sẽ tỏ mình ra cho anh em thấy Thầy”.
Thì ra, trái tim cũng có “cặp mắt” của nó. Cặp mắt của trái tim thấy được những cái mà cặp mắt thể xác không thể thấy được. Chính cái thấy bằng cặp mắt của trái tim sẽ giúp chúng ta thấy được mối quan hệ mật thiết giữa sự hiện diện của Chúa Giêsu với cuộc đời của một người Kitô hữu và của cộng đoàn. Có yêu mến Chúa, chúng ta mới thấy được sự hiện diện thân thiết của Chúa ở giữa chúng ta.
Yêu còn là tuân giữ: Tình yêu không dừng lại ở cái nhìn thấy. Tình yêu sẽ dẫn tới hành động. Không có hành động, tình yêu chỉ là giả dối. Hành động mới là bằng chứng của tình yêu đích thực. Chúa Giêsu đã nói: “Ai yêu mến Thầy thì tuân giữ các giới răn của Thầy. Ai giữ các giới răn của Thầy mới là người yêu mến Thầy”. Nói rằng: “Tôi yêu mến Chúa” thì ai cũng có thể nói được. Nhưng nếu không tuân giữ các giới răn của Chúa thì những lời nói đó chỉ là những lời nói dối.
Tất cả chúng ta đều có kinh nghiệm rằng: Khi yêu ai, chúng ta cảm thấy được những gì làm vui lòng người chúng ta yêu và không có gì cưỡng bức chúng ta tự nhiên làm tất cả để người yêu được vui, được hạnh phúc. Yêu mến Chúa cũng vậy. Yêu mến Chúa là sống theo ý Chúa muốn, là giữ các giới răn của Chúa, là thực thi ý Chúa muốn, là giữ các giới răn của Chúa, là thực thi ý muốn của Chúa trên cuộc sống chúng ta và trên cuộc sống của xã hội loài người.
Nhưng các giới răn của Chúa là gì, thưa anh chị em?
Các giới răn của Chúa là chính Chúa Giêsu với các giáo huấn, với những chọn lựa của Ngài. Tất cả cuộc sống của Chúa Giêsu trở thành mẫu mực cho cuộc sống của người Kitô hữu. Giữ các giới răn ở đây là biến đổi chính con người của mình để có thể trung tín với Chúa trong cuộc sống. Như thế, giữ các giới răn là sống trong tình yêu của Chúa.
Chúa Giêsu đã xác định: “Ai giữ các giới răn của Thầy sẽ được Cha Thầy yêu mến. Cha và Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ đến và ở trong người ấy”. Giữ các giới răn là ta ở với Chúa và Chúa ở với ta, là lưu lại trong tình yêu của Chúa. Kitô giáo là đạo của tình yêu: yêu Chúa và yêu người. Tình yêu sẽ chắp cho chúng ta đôi cánh để bay lên cao. Vậy mà có nhiều người lại coi Kitô giáo như những giới răn cấm kỵ và trừng phạt, như những gông cùm tròng vào cổ hay những gánh nặng đèn lên vai. Vì vậy cuộc sống đạo của họ trở thành một bài toán khô khan và nghèo nạn, nhiều khi quá máy móc. Họ bóp méo đạo yêu thương thành đạo sợ hãi. Đạo sợ hãi làm người ta mất nhiệt tình và cởi mở, mất nét vui tươi trên khuôn mặt của những người con cái Thiên Chúa.
Anh chị em thân mến, người Kitô hữu đích thực phải sống đạo bằng con tim. Tình yêu làm cho cuộc sống đầy sức sáng tạo và năng động. Chính cuộc sống tích cực và đầy sức sáng tạo này mới thực sự là một bằng chứng về sự hiện diện của Chúa Giêsu, Đấng đã chết nhưng đã sống lại và đang tiếp tục hoạt động nơi những kẻ tin ở Ngài, và là bằng chứng của lòng tin nơi sự hiện diện sống động của Ngài. Chính đời sống yêu thương nhau chân thành, hy sinh phục vụ nhau theo mẫu mực của tình yêu Chúa yêu thương chúng ta sẽ biểu lộ cho mọi người nhận thấy sự hiện diện sống động của Chúa, Ngài đang sống và đang có mặt sống động trên trái đất chúng ta, như Ngài đã nói khi từ biệt các môn đệ: “Thầy không bỏ anh em cô độc. Thầy sẽ đến với anh em. Anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống”.
37.Hãy vì Chúa mà yêu mến tha nhân
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
Người mẹ đang thoi thóp nhìn năm đứa con khóc thút thít quanh giường, mắt bà nhoà lệ. Cha của chúng đã lìa thế từ lâu, để lại cho bà gánh nặng một mình tần tảo nuôi năm đứa con thơ. Giờ đây lại đến lượt bà nối gót chồng ra đi, vĩnh viễn xa lìa đàn con nheo nhóc. Bà không an tâm chút nào khi thấy lâu nay các con hay kình cãi, tranh chấp nhau từ chuyện nhỏ cho đến chuyện lớn, từ việc chia cá, chia cơm trong mỗi bữa ăn cho đến việc tranh nhau tấm áo manh quần. Đứa nào cũng ích kỷ chỉ nghĩ đến mình mà quên tình anh em ruột thịt. Đứa nào cũng mong chiếm cho được phần hơn mà không màng gì đến quyền lợi các em. Mai đây bà ra đi, ai sẽ là nhịp cầu nối kết chúng lại với nhau trong tình huynh đệ? Ai sẽ là trọng tài phân xử những tranh chấp bất hoà thường xuyên nổ ra giữa chúng?
Tuy nhiên, điều an ủi lớn lao cho bà là mặc dù chúng không thương nhau, nhưng đứa nào cũng thương mẹ; tuy chúng không hề biết hy sinh cho nhau, nhưng nếu vì mẹ thì chúng sẵn sàng hy sinh và làm cho mẹ bất cứ chuyện gì.
Thế nên, cậy dựa vào tình thương chúng dành cho mình, bà lấy chút hơi tàn thều thào mấy lời trăn trối: “Các con yêu của mẹ, mẹ rất buồn, rất khổ tâm khi thấy các con bất hoà bất thuận với nhau. Chốc lát nữa, mẹ sẽ vĩnh viễn xa lìa các con. Nếu mỗi người trong các con còn thương mẹ thì hãy vì mẹ mà thương yêu các anh em mình!”
Nói xong, bà ra hiệu cho từng đứa cúi xuống cho bà hôn lên trán rồi lịm vào giấc ngủ ngàn thu.
Chính Chúa Giêsu cũng có cùng tâm trạng đó. Ngài đến thế gian để nhen lửa yêu thương trên mặt đất và Ngài mong mỏi ngày đêm cho lửa ấy cháy lên. Ngài đã truyền cho các môn đệ điều răn mới là hãy yêu thương nhau như Ngài đã hết lòng yêu mến họ. Nhưng ngọn lửa yêu thương Ngài đã nhọc công nhen lên lại hắt hiu như đèn trước gió, dễ dàng bị lòng tham lam ích kỷ hận thù dập tắt đi.
Thế nên, khi sắp lìa bỏ thế gian và các môn đệ là đoàn con thân tín để về cùng Chúa Cha, Ngài nhắn nhủ họ những lời tâm huyết: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở lại với anh em một ít lâu nữa thôi…. Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm nầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Gioan 13, 33-35)
Biết rằng xây dựng, vun đắp tình thương giữa người với người là điều rất khó; anh em ruột thịt trong nhà chưa dễ thương nhau, huống là yêu thương người ngoài hay thù địch. May ra vì lòng yêu mến Thiên Chúa là Đấng đã tạo dựng, yêu thương và hiến mình chết thay cho họ, họ mới có thể đền đáp tình thương cao vời của Chúa bằng cách vâng lời Chúa và vì Chúa mà yêu mến tha nhân. Cần phải nại đến lòng yêu mến Thiên Chúa của con người để khuyến dụ con người vì Chúa mà yêu thương nhau.
Trong tâm tình đó, Ngài tiếp: Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ điều răn Thầy truyền… là hãy thương yêu nhau như Thầy đã yêu thương anh em.
Kế đó, sợ các môn đệ chưa chú tâm đến những lời tâm huyết của mình, Chúa Giêsu lặp lại nội dung trên theo hình thức đảo ngữ: “Ai giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy.”
Qua những lời trên, Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh với chúng ta rằng nếu chúng ta thực tình yêu mến Chúa thì hãy giữ điều Chúa truyền dạy là yêu mến tha nhân; chỉ những ai giữ luật yêu thương tha nhân mới thực sự là kẻ yêu mến Ngài. Cho dù chúng ta không thể yêu mến người khác vì họ khó thương, thì chúng ta cũng hãy vì lòng yêu thương Chúa mà đón nhận tha nhân như lệnh Chúa truyền.
Đó cũng là tâm tình mà chúng ta thường bày tỏ với Thiên Chúa qua kinh kính mến, xin hãy cùng khấn nguyện với nhau:
“Lạy Chúa, con kính mến Chúa hết lòng hết sức trên hết mọi sự, vì Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành vô cùng; lại vì Chúa thì con thương yêu người ta như mình con vậy. Amen.
(Suy niệm của Lm. Antôn Hà Văn Minh)
Tin mừng Ga 14:15-21 Tình yêu Thiên Chúa đang ra sức chiếu toả để kiến tạo một cộng đoàn yêu thương và công bằng, xoá bỏ bất công…
SUY NIỆM
Mỗi buổi sáng cầm tờ báo có lẽ người đọc nhận được nhiều nỗi muộn phiền hơn là niềm vui và hy vọng, bởi trang báo ngập tràn những tin tức về mối hiểm hoạ chiến tranh hạt nhân, tai nạn giao thông, cướp bóc, bất công, lừa lọc, ức hiếp, buôn lậu, tham nhũng, về các tệ nạn xã hội , nạn ấu dâm…. Có nghĩa là một xã hội in đậm hình ảnh của bóng tối, nơi đó vắng bóng ánh sáng được thắp lên bởi tình yêu Thiên Chúa, điều mà thế gian không thể đón nhận bởi thế gian không nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô.
Qủa thật, khi tình yêu Thiên Chúa nhập thể đi vào đời, thì thế gian đã tìm cách tiêu diệt. Hêrôđê đã ra sức loại trừ khi ra “giết tất cả các con trẻ ở Bê-lem và toàn vùng lân cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo ngày tháng ông đã hỏi cặn kẽ các nhà chiêm tinh” (Mt 2, 16); Và khi Tình yêu Thiên Chúa đang ra sức chiếu toả để kiến tạo một cộng đoàn yêu thương và công bằng, xoá bỏ bất công, đón nhận người bất hạnh, đem tin yêu đến cho những người nghèo khó, thì thế gian lại tỏ ra phẫn nộ cương quyết loại trừ, các thượng tế và thủ lãnh của dân Do Thái không chấp nhận sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô, họ đã bắt nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá (x. Lc 24, 20). Và khi loại trừ Tình yêu, thì đương nhiên hận thù xuất hiện, loại trừ Đấng ban sự sống, thì thế lực của sự chết sẽ hiện diện.
Càng ngày con người càng đối diện với bao nỗi sợ hãi giết chóc, đó là hậu quả của việc thế gian không đón nhận Đức Kitô, Lời yêu thương của Thiên Chúa. Lời đã đi vào trần gian bằng quyền năng sáng tạo của Thần Khí Thiên Chúa, chính Ngài là tác nhân của sự sống và an bìn, bởi Ngài là nguồn mạch của Tình yêu Thiên Chúa. Vì thế gian khước từ Đức Kitô, nên thế gian cũng không thể nhận ra Thần Khí của Thiên Chúa, và vì vậy thế gian không thể lãnh hội được sự sống mà Chúa Kitô mang đến.
Chúng ta, những Kitô hữu đã được Chúa trao ban sự sống qua Bí tích Rửa tội, cho nên chúng ta cũng đã nhận được Thần Khí của Ngài, nhờ vậy chúng ta được dẫn đưa vào miền đất của sự sống và hạnh phúc. Thế nhưng, để được ở lại trong vùng đất này, từng người Kitô hữu được đòi hỏi phải thể hiện tình yêu đối với Chúa qua việc tuân giữ các giới răn của Người. Những giới răn đó không là ách nặng nề sơ cứng, nhưng đó là chất xúc tác làm cho những người thuộc về Chúa Kitô liên kết với nhau thành một Thân Thể sống động. Bởi giới răn Chúa không được viết bằng chữ nhưng bằng Thần Khí được tỏ lộ nơi Đức Giêsu Kitô. Do đó đã là Kitô hữu, cũng phải được hiểu đó là những con người có Thần Khí Thiên Chúa, tức là những con người luôn loại trừ bóng tối của hận thù, ghanh ghét, tham lam và tiếp tục tỏ bày tình yêu của Thiên Chúa đến với mọi người như Chúa Kitô đã tỏ bày.
Lạy Chúa, Chúa đã đặt để Thần Khí Chúa trong chúng con, xin cho chúng con luôn ngoan ngoãn bước theo sự chỉ vẽ của Thần Khí Chúa, để chúng con đạt tới sự sống đời đời. Amen.
39.Thần Khí hướng dẫn – Lm. Jos. Quốc Phong
“Người đã chết theo thể xác, nhưng đã nhờ Thần Linh mà sống lại”
Tất cả mọi người chúng ta hẳn đã có kinh nghiệm ít nhiều về cuộc sống, và mỗi người trong chúng ta đều có kinh nghiệm và sự đau khổ và mất mát. Sự đau khổ có thể đến từ nhiều con đường khác nhau: có thể từ gia đình, trường học, sở làm việc, và có thể đến từ chính nội tâm chúng ta. Tất cả những sự đau khổ và cùng cực đó làm cho trái tim chúng ta đau đớn, làm cho cuộc sống chúng ta cảm thấy bất hạnh, làm cho tương lai của chúng ta mù mịt, khiến những bước đi trong hiện tại trở nên nặng nề, và đôi khi trái tim đau đến nghẹn thở… nó làm chúng ta cảm thấy sợ hãi và căng thẳng, lo lắng và bất an…
Có một anh chàng cử nhân nọ, sau khi tốt nghiệp và cầm trên tay một mảnh bằng ngon lành với một chút tự hào và hạnh phúc. Anh càng tự hào hơn khi anh nghĩ rằng mình từ bỏ danh vọng để dấn thân đi theo Chúa trên con đường thánh hiến. Cuộc sống ơn gọi của anh trong những năm đầu rất thuận lợi, tất cả dường như đi theo đúng kế hoạch và chỉ tiêu do anh ta suy nghĩ và phác thảo, như thể sự vận hành của một cỗ máy cho ra sản phẩm đúng như bản vẽ. Nhưng một ngày nào đó, một số vấn đề đã xảy ra, những kế hoạch bị đảo lộn, và không còn vận hành theo ý của anh được nữa, thậm chí anh đã thất bại, và thất bại rất thảm hại. Và đã có lúc anh đã muốn bỏ cuộc vì không thể chấp nhận nổi chính mình. Tất cả các chương trình và kế hoạch của anh ta dường như tan tành theo mây khói, không có chi cứu nổi. Anh tự suy nghĩ phương pháp để sửa chữa thì nó càng sai lầm và bế tắc. Anh đã vô cùng đau khổ và khủng hoảng…
Sau đó anh cầu nguyện và cầu nguyện thật nhiều, ngày này sang ngày kia, tháng này qua tháng nọ, ròng rã trong suốt 2 năm trời … anh mới nhận ra được một chút ánh sáng. Một trong những sai lầm của anh là đã dựa vào mình quá nhiều, đã tin tưởng vào khả năng của mình, vào những kế hoạch do ý muốn của riêng mình. Đời sống cầu nguyện của anh đó là gần gũi với Chúa để xin Chúa chúc lành và giúp đỡ để kế hoạch của anh ta được toại nguyện, “kế hoạch nên thánh” của anh. Sau khi bị khủng hoảng, anh mới hiểu ra rằng, anh phải thay đổi lại cách thế suy nghĩ, và nhất là thay đổi lại tương quan với Thiên Chúa. Anh phải lắng nghe và nhận ra được kế hoạch mà Chúa muốn mời gọi anh, và việc anh phải làm là dấn thân vào kế hoạch của Ngài: “Xin cho Ý của Cha được nên trọn”. Sau khi đã chết đi cho chính mình, chết đi cho một tinh thần cũ, anh đã được phục sinh, bắt đầu lại một cuộc sống mới, một bước đường mới với một ánh sáng mới “xin cho Ý của Cha được thể hiện”.
Lương thực thật sự làm cho chúng ta sống và sống dồi dào, không phải là một đời sống vật chất sung túc, cũng không phải là một đầu óc thông minh sáng tạo có khả năng chế tạo hay phát minh ra những điều mới mẻ, cũng không phải là một sự tổ chức, quản lý chặt chẽ, …lương thực thật sự có khả năng làm cho chúng ta sống hạnh phúc, mang lại cho chúng ta một đại dương của sự bình an đó chính là được đụng chạm đến “Thiên Chúa”, được ở lại trong Ngài và Ngài ở lại trong chúng ta.
Hôm nay Chúa Giêsu đã phán rằng: “Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ giới răn của Thầy. Và thầy sẽ xin Cha, và Người sẽ ban cho các con một Đấng Phù Trợ khác, để Ngài ở với các con luôn mãi”. Điều kiện mà Chúa Gesu đã đưa ra là “hãy giữ giới răn của Thầy” thì Thầy sẽ ở người ấy, Thầy sẽ yêu người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy. Giới răn của Thầy chính là “các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”. Hãy sống yêu thương trong sự thật, sống trong Thần Khí của Thiên Chúa chúng ta sẽ đụng chạm và ở lại trong tình thương của Ngài. Trích sách tông đồ công vụ, thánh Philipphê đầy tràn Thánh Thần đi xuống sứ Samaria để rao giảng Đức Kitô và làm nhiều phép lạ. Có Thần Khí ở cùng, thánh Phipipphê đã thực sự sống và sống sung mãn. Chính sức sống mãnh liệt đó làm cho ngài có khả năng lướt thắng hết mọi thách đố và khó khăn, để rao giảng một niềm vui to lớn đến nỗi không thể nào không loan truyền cho mọi người. Trong bài đọc hai, Đức Kitô đã chết một lần cho tội lỗi của chúng ta, Ngài đã chết theo thể xác, nhưng đã nhờ Thần Linh mà sống lại. Thần Khí của Thiên Chúa là nguồn mạnh của sự sống, Đấng làm cho chúng ta sống và sống dồi dào.
Thiên Chúa chính là nguồn mạch của sự sống và sự sống đời đời. Chỉ có ở trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở trong chúng ta, thì chúng ta mới có được sự sống thật sự. Những gì thế gian chào mời chúng ta bằng những sự quảng cáo đủ màu sắc và nhiều lời hứa ngon ngọt, không có khả năng đem lại cho chúng ta một sự sống thật sự trong chân lý và trong an bình. Những gì của thế gian chỉ có thể đáp ứng để thỏa mãn những cơn đói bên ngoài. Hãy xin Thiên Chúa ban cho chúng ta sự can đảm để chúng ta có đủ sức mạnh lột bỏ hết các tất cả các mặt nạ, các bức tường đã ngăn cản và che đi “khuôn mặt thật” của chúng ta, đó là khuôn mặt giống Thiên Chúa. Chỉ có Thiên Chúa là Chân Lý Vĩnh Cửu mới có khả năng thỏa mãn cơn đói tinh thần, cơn đói linh hồn vĩnh cửu của chúng ta, vì Ngài chính là Đấng Tạo Hóa, là Nguồn Mạch Bình An vĩnh cửu.
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Khi xa nhau, người ta thường quyến luyến, bịn rịn. Con cái phải xa nhà đi học đi làm, vợ chồng xa nhau vì công việc. Lời nhắn nhủ của cha mẹ thường là: con hãy ngoan ngoãn, giữ lời cha mẹ chỉ bảo, cố gắng học hành, nổ lực làm việc để có một tương lai tốt đẹp, đừng làm mất mặt, chớ phụ lòng hy vọng của cha mẹ nghe con. Vợ chồng sẽ có những lời dặn dò tâm huyết: hãy trung thành và nhớ tới nhau luôn…
Chúa Giêsu cũng vậy, trước khi đi thật xa về cùng Chúa Cha, Ngài đã chuẩn bị tinh thần cho các môn đệ. Ngài đã dặn dò, khuyên nhủ các môn đệ nhiều lần. Ngài đã nói với các môn đệ với hết tâm tình, hết con tim của mình: “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15, 12); “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy“ (Ga 14, 15); “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (Ga 14, 21).
1. “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy”
Người Kitô hữu là người có Đức Kitô nhờ theo Ngài và yêu mến Ngài. Ai không yêu mến Ngài, không theo Ngài, thì không có Ngài, nên họ không phải là Kitô hữu đích thực. Khi yêu mến Ngài, ta sống trong Ngài: “Anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em”. Người ta chỉ sống trong nhau vì nhau cho nhau khi người ta yêu thương nhau thật sự. Vì thế, chúng ta chỉ sống trong Đức Kitô và được Đức Kitô sống trong ta khi ta yêu mến Ngài. Yêu mến là giữ lời Ngài ” Nếu các con giữ lệnh truyền của Ta thì các con sẽ lưu lại trong lòng mến của Ta” (Ga 15,10).
Nhưng làm sao yêu mến Ngài được khi mà ta không hề thấy Ngài cách hữu hình, không nghe Ngài nói trực tiếp, không động chạm đến Ngài? Chúa cho chúng ta một tiêu chuẩn để dựa vào đó mà biết mình có yêu Ngài hay không: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy”. Điều răn của Chúa là gì? Chúa xác định rõ ràng điều răn cốt yếu: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau” (Ga 12,34). Chúa cũng xác định luôn cả mức độ yêu: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Như vậy, câu nói “nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” có nghĩa là “nếu anh em yêu mến Thầy, thì anh em phải yêu thương nhau”. Ai yêu thương những người lân cận hay những người chung quanh mình mới là người thật sự yêu mến Thiên Chúa. Nói cách khác, ai không yêu những người gần gũi mình, những người mình gặp gỡ hằng ngày, người ấy không thật sự yêu mến Thiên Chúa. Thánh Gioan đã diễn giải điều này: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (Ga 4,20).
2. “Anh em có lòng yêu thương nhau”
Chúa Giêsu còn đưa ra một tiêu chuẩn để nhận ra ai là môn đệ đích thật của Ngài: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 12,35). Tiêu chuẩn này dựa trên tình yêu của người ấy đối với đồng loại, cụ thể là những người gần gũi sống chung quanh họ. Tình yêu cụ thể đối với đồng loại là tính chất đặc trưng nhất của những người theo Chúa Giêsu. Hễ thấy ai có đặc trưng ấy, ta biết người ấy là môn đệ Chúa Giêsu. Ai không có đặc trưng ấy, thì dù có mang danh là môn đệ Ngài, họ cũng chỉ là thứ môn đệ “hữu danh vô thực”, giả hiệu mà thôi.
Thánh Gioan sau khi nghiền ngẫm tất cả cuộc đời và những lời giảng dạy của Thầy Chí Thánh đã nghiệm ra cái cốt lõi của cuộc sống người môn đệ là tình yêu Chúa Giêsu Kitô, là kết hiệp với Ngài, là sống sự sống của Ngài.Tình yêu đó là một tình yêu sáng suốt của lý trí. Tình yêu đó là một tình yêu với những việc làm cụ thể. Việc làm cụ thể đó là tuân giữ những điều Chúa Giêsu truyền dạy, là yêu thương nhau.
Từ nay để gặp gỡ Chúa, để yêu mến Chúa, để sống với Chúa, cần phải có đức tin và tình yêu. Tin và Yêu là hai cánh cửa mở vào sự sống thần linh. Tin và Yêu không chỉ cho ta nhìn thấy Chúa, gặp gỡ Chúa mà còn cho ta được tham dự vào sự sống của Chúa. Sự sống đó là hiệp thông, như Chúa Cha ở trong Chúa Con và như Chúa Con ở trong Chúa Cha, ta sẽ được ở trong sự sống mầu nhiệm của Thiên Chúa Ba Ngôi và thật kỳ diệu, Ba Ngôi đến ở trong ta như lời Chúa Giêsu nói: “Ngày đó, anh em sẽ biết Thầy ở trong Cha Thầy, Thầy ở trong anh em và anh em ở trong Thầy. Ai có và giữ các giới răn của Thầy, người ấy là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ cho người ấy biết Thầy”.
Những người yêu mến Chúa là những người biết lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành. Trong truyện thánh Tử đạo Martinô Thọ có chép:”Ông Thọ là người rất đạo đức. Vì được tín nhiệm, ông làm việc thu thuế trong một thời gian rồi xin nghỉ vì thấy có nhiều cheo leo khó công minh luôn mãi được. Ông khuyên các con cứ đúng luật Chúa mà làm chứ đừng phạm tội vì muốn đẹp lòng người khác…. Ông làm việc rất siêng năng và cũng rất rộng rãi với người nghèo khó: không bao giờ ông để họ ra về mà không cho của gì ăn. Nếu con cái đi vắng, ông mời người ăn xin cùng ngồi ăn cơm chung, nếu con cái ở nhà, ông bắt chúng xẻ cơm cho họ”. Thánh Martinô Thọ đã tuân giữ giới răn Chúa dạy là mến Chúa yêu người, sống công bằng bác ái. Thánh nhân là người yêu mến Chúa thật và xứng đáng được Chúa trọng thưởng hạnh phúc đời đời. Chỉ tình yêu biết trao đi mới đem lại niềm vui chân thật và lâu bền. Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy! Hãy tuân giữ các lệnh truyền của Thầy! Lệnh truyền lớn nhất là yêu thương như Thầy đã yêu. Chúng ta sẽ nếm được thứ niềm vui khôn tả của thiên quốc ngay trong cuộc sống ở đời này.
Lạy Chúa, con nhận ra một cách rất hữu hiệu để được Chúa yêu mến là con tuân giữ giới răn yêu thương của Chúa. Xin cho con xác tín rằng tình yêu của con đối với Chúa phải được thể hiện ra bằng việc yêu thương tha nhân, cụ thể là yêu những người trong gia đình con, những người cùng làm việc với con trong xí nghiệp công ty, những người hàng xóm, những bạn bè con gặp gỡ hằng ngày. Xin giúp con yêu họ cụ thể bằng sự quan tâm đến những niềm vui hay nỗi đau khổ của họ, đồng thời sẵn sàng hy sinh để giúp họ hạnh phúc hơn. Amen.
Tin cùng chuyên mục:
Các bài Suy niệm Lễ Đức Mẹ Mân Côi: Con Thiên Chúa xuống thế để ở với con người
Chúa nhật XXVI thường niên năm A: Đường lối của Thiên Chúa và của con người
Ngày 30/09: Thánh Giêrônimô, Linh mục – Tiến sĩ Hội Thánh
Thứ bảy tuân XXV thường niên: Phải vượt gian khổ mới hy vọng đạt được vinh quang